Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

hương hướng hoàn thiện hệ thống quản lý và kinh doanh phân bón vô cơ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.82 KB, 74 trang )

Lời nói đầu
1-/ Tính cấp thiết của đề tài.
Trong nền kinh tế thị trờng, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự chi
phối nghiệt ngã của các quy luật kinh tế (quy luật giá trị, quy luật cung, cầu,
quy luật cạnh tranh ) tất yếu dẫn đến sự phát triển, tăng trởng của doanh
nghiệp này, phá sản của doanh nghiệp khác, Sức mạnh của nền kinh tế thị
trờng là sự tăng trởng cao, song nó cũng chứa đựng nhiều khuyết tật cố hữu
hình thành những mâu thuẫn không tự điều hoà nổi.
ở nớc ta từ sau Đại hội Đảng VI (1986) Nhà nớc chủ trơng chuyển nền
kinh tế hiện vật theo cơ chế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo định hớng XHCN vận hành theo cơ chế thị trờng. Trong
cơ chế đó các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh (hợp pháp) vừa hợp tác phát
triển. Sự thay đổi này làm thay đổi mọi mặt hoạt động kinh doanh của ngành
thơng mại Việt Nam.
Sự giao lu hàng hoá trên thị trờng cả nớc đợc thông suốt không ràng
buộc nhiều bởi các mệnh lệnh hành chính. Thị trờng trong nớc từng bớc phát
triển và ngày càng hoà nhập vào thị trờng khu vực và thế giới.
Hàng hoá trên thị trờng phong phú, nhu cầu tiêu dùng tuỳ theo khả năng
thanh toán của mình. Điều đó kích thích các nhà sản xuất tích cực đổi mới
công nghệ, mặt hàng, nâng cao chất lợng và hạ giá thành hàng hoá.
Sự chuyển đổi nền kinh tế theo hớng thị trờng hàng hoá đã khơi dậy
nhiều tiềm năng kinh tế, làm cho kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, nó xoá
dần tính chất tự cung tự cấp trong sản xuất và lu thông hàng hoá trên nhiều
vùng kinh tế xã hội của Việt Nam.
Nhà nớc thông qua các công cụ quản lý vĩ mô tác động vào thị trờng để
điều tiết cung cầu. Hàng hoá đợc tự do lu thông giữa các vùng trong cả nớc thị
trờng sôi động tạo khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp dẫn đến hiệu
quả kinh doanh trong thơng mại.
Phân bón là một trong những mặt hàng vật t quan trọng phục vụ chủ
yếu cho sản xuất Nhà nớc. Tuy nhiên trong tổng khối lợng nhiều triệu tấn
phân hoá học tiêu dùng hàng năm, thì sản xuất trong nớc mới đáp ứng đợc


khoảng 65% nhu cầu về lân, cha tới 10% nhu cầu về đạm, còn nhiều loại khác
1
thì trong nớc vẫn cha sản xuất đợc. Từ nhiều năm nay Nhà nớc đã áp dụng
nhiều biện pháp quản lý khác nhau: quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch, chỉ
định các đơn vị đầu mối kinh doanh nhập khẩu; hỗ trợ giá cớc vận chuyển
phân bón Bắc - Nam lên miền núi, cho vay vốn sản xuất, dự trữ thời vụ phân
bón với lãi suất u đãi Tuy nhiên, thị trờng phân bón hoá học nớc ta trong
những năm qua có nhiều biến động bất thờng, có nhiều cơn sốt nóng, lạnh thất
thờng. Và điều này đã làm ảnh hởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón ở Việt Nam thời gian
qua.Trớc tình hình đó việc nghiên cứu tổ chức quản lý hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón ở Việt Nam, nhằm tìm
ra các phơng hớng và biện pháp tổ chức hoạt động có hiệu quả của việc điều
khiển lu thông phân bón vô cơ ở Việt Nam trong tơng lai là việc hết sức quan
trọng và cần thiết.
2-/ Mục đích nghiên cứu của đề tài.
-Đánh giá một cách đúng đắn thực trạng hệ thống tổ chức,quản lý lu
thông và tình hình hoạt động kinh doanh phân bón vô cơ của các doanh
nghiệp nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ ở Việt nam hiện nay.
-Đề xuất phơng hớng hoàn thiện hệ thống quản lý và kinh doanh phân
bón vô cơ nhằm giải quyết một cách căn bản vấn đề phân bón và oỏn định thị
trờng phân bón ở việt nam trong thời gian tới.
3-/ Nội dung của đề tài
Để đạt đựơc mục tiêu trên, đề tài sẽ tập trung giải quyết những vấn đề sau:
-Đánh giá và phân tích hệ thống tổ chức quản lý lu thông phân bón vô
cơ ở Việt nam.
-Đánh giá và phân tích hệ thống tổ chức kinh doanh phân bón vô cơ ở
Việt nam bao gồm, các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất phân bón vô cơ
trong nớc và các doanh nghiệp kinh doanh buôn bán phân bón vô cơ khác.
-Đề ra các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý

và kinh doanh phân bón vô cơ ở Việt nam, từ đó đề xuất một số kiến nghị với
Chính phủ và Nhà nớc về vấn đề điều hành phân bón trong thời gian tới.
2
phần I
Hệ thống tổ chức quản lý lu thông phân bón
vô cơ ở Việt nam
1-/ Nhà nớc và vai trò tổ chức, quản lý lu thông
phân bón vô cơ trên thị trờng.
1.1-/ Nhà nớc và vai trò điều tiết nền kinh tế.
Kinh tế thị trờng là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trờng, ở đó sản
xuất cái gì, nh thế nào, cho ai đều đợc quyết định thông qua thị trờng.
Trong nền kinh tế thị trờng, các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh
nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trờng. Thái độ c
xử của các thành viên tham gia thị tròng là hớng vào tìm kiếm lợi ích của
mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trờng.
Kinh tế thị trờng vận hành theo cơ chế thị trờng, đến lợt nó, cơ chế thị
trờng tác động dới sự chi phối của các quy luật thị trờng trong môi trờng cạnh
tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Nhân tố cơ bản của thị trờng, cơ chế thị trờng là hàng hoá tiền tệ, ngời
bán, ngời mua, từ đó hình thành mối quan hệ cơ bản của cơ chế thị trờng là
quan hệ cung cầu. Về bản chất, cơ chế thị trờng là cơ chế giá cả tự do. Cơ chế
này có một số đặc trng sau:
-Các vấn đề liên quan đến phân bổ, sử dụng các nguồn tài nguyên, lao
động, vốn đợc quyết định một cách khách quan thông qua hoạt động của các
quy luật kinh tế.
-Hầu nh tất cả các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế đều đợc
tiền tệ hoá.
-Lợi nhuận là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng trởng
kinh tế và lợi ích kinh tế. Cơ chế thị trờng dùng lỗ lãi để quyết định các vấn đề
kinh tế cơ bản.

-Cạnh tranh là môi trờng hoạt động của cơ chế thị trờng, là yếu tố thúc
đẩy tiến bộ kỹ thuật, tăng năng suất lao động và hiệu quả của sản xuất.
-Cơ chế thị trờng không phải là một mớ hỗn độn mà là một trật tự kinh
tế, trật tự này đợc hình thành bởi sự tác động của hệ thống quy luật của thị tr-
ờng.Thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế, sự linh hoạt của hệ
thống giá cả, nền kinh tế thị trờng có khả năng duy trì đợc sự cân bằng của sức
3
cung và sức cầu về hàng hoá, dịch vụ, ít khi gây ra sự khan hiếm và thiếu thốn
hàng hoá.
Ưu điểm của cơ chế thị trờng:
+ Cơ chế thị trờng có khả năng tự động điều tiết nền sản xuất xã hội, tự
động phân bổ các nguồn tài nguyên vào các khu vực,các ngành kinh tế mà
không cần bất cứ sự điều khiển từ trung tâm nào.
+ Cơ chế thị trờng, với sự dẫn dắt của động lực lợi nhuận có thể phát
huy cao nhất tính năng động, tài năng của mỗi ngời. Kích thích áp dụng kỹ
thuật mới, giảm chi phí sản xuất, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn
lực thúc đẩy LLSX phát triển, tăng trởng kinh tế cả theo chiều rộng và chiều
sâu.
+ Cơ chế thị trờng có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng, phong phú của con
ngời và xã hội. Cơ chế thị trờng buộc ngời sản xuất phải không ngừng cải tiến
kỹ thuật, mẫu mã sản phẩm để phù hợp với sở thích và lợi ích của ngời tiêu
dùng, trên cơ sở thoả mãn nhu cầu của ngời tiêu dùng mà tối đa hoá lợi nhuận,
từ đó làm cho chất lợng cuộc sống không ngừng đợc nâng cao.
+ Nhờ những u thế của mình, cơ chế thị trờng có khả năng đảm bảo tốc
độ tăng trởng và phát triển nhanh chóng về kinh tế, thúc đẩy tiền bộ xã hội mà
không một cơ chế nào trớc đây có thể sánh đợc. Paul A.samuelson nhận xét
rằng:Một nền kinh tế thị trờng là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách
không tự giác nhân dân và doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả và thị tr-
ờng. Nó là một phơng tiện để giao tiếp, để tập hợp tri thức của hàng triệu cá
nhân khác nhau, không có bộ óc trung tâm, nó vẫn giải đợc bài toán mà máy

tính lớn nhất ngày nay không thể giải đợc. Không ai thiết kế ra nó, nó tự xuất
hiện và cũng nh xã hội của loài ngời nó đang thay đổi.
Những nhợc điểm của cơ chế thị trờng:
+ Cơ chế thị trờng có thể gây ra những mât ổn định và thờng xuyên phá
vỡ cân đối trong nền sản xuất xã hội. Thực tế phát triển kinh tế thị trờng chỉ rõ
những vấn đề lạm phát và thất nghiệp, chu kỳ kinh doanh luôn là những căn
bệnh kinh niên không thể khắc phục đợc nếu không có sự can thiệp của nhà n-
ớc.
+ Cơ chế thị trờng bao hàm cả những thất bại thị trờng, nó là môi trờng
đẻ ra các tệ nạn kinh tế nh buôn lậu, hàng giả, lừa đảo, cạnh tranh không lành
mạnh làm giảm hiệu quả của nền kinh tế.
4
+ Cơ chế thị trờng có xu hớng làm cho sự phân hoá thu nhập ngày càng
tăng giữa các tầng lớp dân c, gây ra những bất bình đẳng về kinh tế trong xã
hội.
+ Trong cơ chế thị trờng, vì mục tiêu lợi ích cá nhân, một số hoạt động
kinh tế có khả năng là tăng mức ô nhiễm môi trờng, tâm lý chạy theo đồng
tiền làm xuất hiện lối sống ích kỷ, thực dụng, có thể gây ra những hậu quả xấu
về mặt xã hội.
+ Hơn nữa, các lĩnh vực hoạt động rất cần cho sự ổn định và tăng trởng
kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội nh có mức sinh lợi thấp, thời gian thu hồi
vốn chậm thờng không đợc giới kinh doanh chú ý đầu t phát triển,
Qua sự phân tích trên cho thấy, nền kinh tế thị trờng không phải là một
hệ thống đợc tổ chức hài hoà mà bản thân hệ thống đó chứa đựng rất nhiều nh-
ợc điểm. Những khuyết tật của cơ chế thị trờng cần phải đợc khắc phục hạn
chế. Song bản thân thị trờng không thể tự giải quyết những vấn đề đó. Vì vậy,
kinh tế thị trờng ngày nay không thể thiếu đợc vai trò quản lý của nhà nớc.
Kinh tế thị trờng không phải là gậy thần, liều thuốc vạn năng. Thành công của
mỗi quốc gia khi chuyển sang kinh tế thị trờng chủ yếu phụ thuộc vào sự kết
hợp giữa khả năng điều tiết của thị trờng (bàn tay vô hình) và sự quản lý điều

tiết của nhà nớc (bàn tay hữu hình). Đến nay vai trò của nhà nớc trong kinh tế
thị trờng đã đợc khẳng định cả về mặt lý luận và thực tiễn. Vấn đề chỉ còn là
sự vận dụng trong từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể nh thế nào để đảm bảo
có hiệu và thành công. Vai trò của nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng đợc thể
hiện ở những mặt sau đây:
- Thứ nhất: Nhà nớc tạo môi trờng diều kiện cho kinh tế thị trờng phát
triển. Nhà nớc bảo đảm sự ổn định về mặt kinh tế, chính trị xã hội. Nhà nớc
tập trung xây dựng cơ sở vật chất, tài chính, giáo dục và luật pháp. Đối với
những nớc mới chuyển sang cơ chế thị trờng nh nớc ta thì phải chú ý nhiều
đến kết cấu hạ tầng, luật pháp và giáo dục.
-Thứ hai: Nhà nớc định hớng sự phát triển nền kinh tế thông qua việc
xây dựng và tổ chức thực hện các chiến lợc kinh tế xã hội, các chơng trình
mục tiêu, các kế hoạch ngắn và dài hạn.
-Thứ ba: Nhà nớc bảo đảm dân chủ, công bằng xã hội. Xây dựng một
xã hội văn minh, dân chủ rộng rãi, tôn trọng nhân cách của con ngời là điều
kiện cho sự phát triển của xã hội. Trong kinh tế thị trờng, sự phân hoá giàu
nghèo và giai tầng rất lớn. Nhà nớc cần phải có các chính sách xã hội hợp lý
để bảo đảm cuộc sống của những ngời nghèo và các đối tợng chính sách xã
5
hội; bảo đảm cho mọi ngời đợc tự do hành nghề, bình đẳng trớc pháp luật; bảo
đảm môi trờng vật chất tinh thần cho mọi công dân.
-Thứ t: Nhà nớc trực tiếp quản lý các doanh nghiệp nhà nớc. Các doanh
nghiệp này ra đời do kết quả của quốc hữu hoá các doanh nghiệp t nhân, xây
dựng mới các doanh nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Đây là
những doanh nghiệp mà nhà nớc dựa vào để điều tiết và điều chỉnh nền kinh tế,
bảo đảm cho sự phát triển cân đối cho nền kinh té quốc dân và có thu nhập để
trang trải một phần các chi phí hoạt động của bộ máy nhà nớc.
1.2-/ Phân bón vô cơ- đối tợng quản lý và điều tiết lu thông của nhà nớc.
Phân bón là một trong những yếu tố quan trọng trong sản xuất nông
nghiệp, nó giúp cho nhiều nớc đông dân trên thế giới tự túc đợc lơng thực,

thoát khỏi đói nghèo. Đồng thời phân bón cũng là mặt hàng kinh doanh có
nhiều rủi ro cả cho những nhà sản xuất lẫn doanh nghiệp lu thông.
ở nớc ta, có tới 80% dân số làm nông nghiệp, trong những năm tiến
hành công cuộc đổi mới gần đây, nền nông nghiệp nớc nhà có những bớc phát
triển tơng đối ổn định, đã góp phần tăng trởng kinh tế chung của đất nớc, sản
lợng lơng thực mỗi năm một tăng, từ chỗ hàng năm thiếu ăn về lơng thực, tới
nay chúng ta không những đủ ăn, có dự trữ mà còn xuất khẩu gạo đứng thứ hai
trên thế giới. Có đợc kết đó là do Chính phủ có những chủ chơng, chính sách
phù hợp với yêu cầu thực tiễn, phù với bối cảnh sản xuất hàng hoá trong cơ
chế thị trờng và đã làm tăng đáng kể năng suất cây trồng mỗi năm. Theo tính
toán của IFRT năm 1996 thì việc tăng năng suất đóng góp trên 80% tăng sản
lợng lơng thực và trong tơng lai việc tăng sản lợng đó sẽ còn dựa vào việc tăng
năng suất.Vì vậy để đảm bảo an ninh lơng thực quốc gia ,thâm canh và giống
mới có thể đợc coi nh là giải pháp duy nhất đối với Việt nam. Trong thâm
canh và trong việc sử dụng giống mới thì phân bón vô cơ vô cùng quan trọng
và ngày càng quan trọng. Nó góp phần tăng năng suất cây trồng qua nhiều cơ
chế tác động khác nhau. Song quan trọng là phân bón cung cấp cho cây trồng
những dinh dỡng cần thiết mà đất không đủ khả cung cấp, góp phần duy trì độ
phì nhiêu của đất trong quá trình canh tác. Mặt khác cùng với năng suất kinh
tế, phân bón góp phần tăng lợng sinh khối và nhờ đó tăng hữu cơ trả lại cho
đất-yếu tố cực kỳ quan trọng với đất nhiệt đới. Tuy nhiên, để đa phân bón vô
cơ vào sử dụng trong nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu sử dụng cho ngời nông
dân, nhằm tăng năng suất cây trồng, tăng sản lợng thì không thể không kể đến
vai trò của các nhà sản suất-kinh doanh-cung ứng phân bón vô cơ thên thị tr-
ờng, đó là các nhà doanh nghiệp kinh doanh phân bón chuyên ngành, các
6
doanh nghiệp nhà nớc, các doanh nghiệp và đại lý t nhân. Theo con số thống
kê của các nhà chuyên môn thì khả năng đáp ứng bằng sản xuất phân bón
công nghiệp trong nớc còn thấp, mới khoảng 65 75% về phân lân,8-9% về
phân đạm, còn lại đều phải nhập khẩu. Do vậy với nhu cầu phân bón sử dụng

hàng năm cho nông nghiệp nớc ta, ớc tính năm 2000 là 2,95 triệu tấn thì số l-
ợng phân bón các loại cần nhập khẩu hàng năm là rất lớn và phải bỏ hàng trăm
triệu USD để nhập phân bón.Vì vậy, làm thế nào để nhập đủ phân bón, cung
ứng đúng thời vụ nhng lại không để tồn kho gây ứ đọng, gây hiệu quả kinh
doanh thấp-đó là bài toán thật khó giải đối với mỗi doanh nghiệp kinh doanh
phân bón trên thị trờng và các cơ quan quản lý vĩ mô của Nhà nớc.
Nhìn lại, quá trình kinh doanh phân bón vô cơ từ năm 1991 trở về trớc,
việc nhập khẩu phân bón vô cơ (chủ yếu là URê) nằm trong quỹ đạo của kế
hoạch hoá tập trung.Theo phơng thức này, mặc nhiên Uỷ ban Kế hoạch Nhà n-
ớc (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu t) và Bộ Tài chính thay mặt Chính phủ nhận nợ
và thanh toán với phía nớc bạn bằng nông sản và các loại hàng hoá khác.Tổng
công tyVTNN tiếp nhận phân nhập khẩu song, tổ chức tiêu thụ đợc đến đâu
thì nộp tiền cho Bộ Tài chính đến đó. Nh vậyKinh doanh theo cơ chế này
chẳng mấy khó khăn, phức tạp và Tổng công ty VTNN luôn an toàn, bởi vì đ-
ợc bao cấp trong giá nhập khẩu và tỷ giá ngoại tệ, đồng thời đợc hởng chiết
khấu lu thông theo tỷ lệ ấn định doanh số. Từ tháng 8-1991, tình trạng bắt đầu
biến đổi khác hẳn,Tổng công ty chỉ đợc tiếp nhận nốt 100.000 tấn URE theo
nghị định th bằng 10% số nhập khẩu theo kế hoặch hàng năm trớc đó (do liên
xô cắt viện trợ),còn lại chuyển hớng khai thác nguồn hàng này ở khu vực
II.Cùng thời gian đó, chúng ta thiếu ngoại tệ, với Tổng công ty VTNN, toàn
bộ vốn kinh doanh chỉ có114 tỷ đông, giá ngoại tệ tăng liên tục tới
7000Đ/USD và giá URE quốc tế cũng tăng từ 190-210USD/tấn. Nh vậy Tổng
công ty chỉ nhập thêm đợc 184.000 tấn URE từ thị trờng mới, nâng tổng khả
năng cung ứng lên hơn 284.000 tấn, bằng khoảng 25% nhu cầu phân bón cả n-
ớc lúc bấy giờ. Do sự mất cân đối cung-cầu này, lập tức dẫn tới cơn sốt phân
bón vô cơ, tỷ giá cánh kéo bất hợp lý đến mức 1kgURE=2,5-2,6 kg thóc. Đến
năm 1992&1993, việc kinh doanh nhập khẩu phân bón gần nh đợc thả nổi
toàn bộ theo cơ chế thị trờng; Năm 1992 có tới trên 100 đầu mối nhập khẩu
phân bón, năm 1993 các doanh nghiệp có chức năng hay không có đều đi
buôn phân bón (khi đó cha có hạn ngạch), nhiều doanh nghiệp vốn lu động

tuy ít nhng do nhà nớc có chủ trơng cho vay Đôla với điều kiện là phải nhập
khẩu hàng hoá (đồng thời có chủ trơng cấm nhập khẩu 17 mặt hàng) nên đã cố
7
tình vay Ngân hàng, và vay vốn này dồn đi buôn phân bón về nhiều. Trong
thời gian ngắn có tới gần 100 đơn vị đi buôn, phân bón về nhiều, ứ đọng, phát
sinh tăng thêm các loại chi phí lu kho,lu bãi,hao hụt, hao hụt, lãi suất ngân
hàng Do vậy buộc phải bán giá thấp; giá lúc bấy giờ rẻ hơn nhiều vùng,
nhiều nớc trong khu vực. Đồng thời lúc này do do chênh lệch mức lãi suất
giữa vay tiền đồng và tiền đô la càng khích lệ các doanh nghiệp nhẩy vào lãnh
vực nhập khẩu phân bón. Cụ thể vay đô la thì mức lãi suất 0,5% tháng (=6%
năm) trong khi tỷ giá ít thay đổi, nếu vay tiền đồng 2,1% tháng (=25,2% năm)
nh vậy chênh lệch lãi suất giữa vay đô la và tiền đồng trong 6 tháng là 9,6%,
bán lỗ phân bón 5%(trong 6 tháng) nẫn còn lãi 4,6%. vì thế nên có nhiều
doanh nghiệp làm ngơ chuyện lỗ lãi. Theo ớc tính của các nhà kinh tế thì quý
IV/1992 và cả năm 1993 cả nớc lỗ khoảng 200-300 tỷ đồng, số lỗ này nhà nớc
gánh chịu chủ yếu vì vốn kinh doanh của các doanh nghiệp quốc doanh phần
lớn là vốn ngân sách cấp.Bớc sang năm 1994, do năm 1993 phân bón ứ đọng,
thua lỗ nên Chính phủ đã cấm nhập khẩu phân bón tràn lan, gom lại chỉ có 17
đầu mối, trong đó có 16 đầu mối nhập khẩu 40% còn 01 đầu mối đảm nhận
60%. Sự thay đổi về nhập khẩu phân bón theo chiều hớng thu gọn lại đầu mối
và các đơn vị đợc giao hạn ngạch nhập cha đủ điều kiện đảm nhận đã đẩy đến
sự hững hụt trong nhập khẩu phân bón, thị trờng trong nớc bị thiếu trầm trọng,
con sốt phân bón thịnh hành. Để duy trì mặt hàng cung cấp liên tục phân bón
cho hệ thống đại lý có phân bón phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh không có hạn ngạch phải đi kiếm hạn ngạch của các
doanh nghiệp quốc doanh để nhập khẩu phân bón. Sang đầu năm 1995 do ảnh
hởng giá phân bón của thị trờng thế giới liên tục tăng và tăng cao ở mức Urê
khoảng 260-265 USD/T, lúc này cũng là thời điểm chuẩn bị phải sử dụng phân
bón, các doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận lại lại đua nhau nhập khẩu phân
bón và tình trạng mua bán hạn ngạch giữa các doanh nghiệp quốc doanh và

ngoài quốc doanh càng trở nên phức tạp và tiêu cực hơn. Cho đến tháng
4/1995 giá phân bón thế giới đột biến hạ Urê còn 215-220 USD/T và tồn kho
vẫn nhiều , lập tức ban vật giá Chính phủ đã có quyết định cho phụ thu phân
bón nhập khẩu với mức 7% trên gáa nhập thực tế và sau hơn 1 tháng hạ xuống
còn 4%. Khi đó Tạp chí phân bón thị trờng quốc tế ngày 8/5/1995 nhận xét:
Việc Chính phủ Việt nam cho ra phụ thu 7% thực tế là thuế nhập khẩu, mức
thuế này nhằm mục đích là cứu lấy các doanh nghiệp kinh doanh cá mập ,
và kèm theo đó là trợ giá cớc phí vận chuyuển phân bón cho nông dân ở các
tỉnh miền núi để nông dân ở các vùng này đợc hởng giá tơng ứng với giá ở các
8
tỉnh miền xuôi. Nh vậy, những giải pháp can thiệp của Nhà nớc trong thời gian
này nhằm bảo vệ lợi cho ngời đã nhập khaảu phân bón, tuy nhiên vẫn chỉ là
các giải pháp tình thế, chắp vá bởi lẽ nó chỉ là các giải pháp cụ thể xảy ra từng
năm. Khi đó nhiều ý kiến cho rằng, để doanh nghiệp kinh doanh phân bốn tự
xử lý tìm ra sự an toàn về tài chính, lấylãi lúc này bù lỗ lúc khác, tự giữ vốn
tiếp tục hoạt động thì các doanh nghiệp phải tự vơn lên trở thành nghề kinh
doanh, chấm dứt tình trạng kinh doanh theo kiểu chụp dật, đánh quả, có lời
thì nhập khó khăn thì bỏ. Nhận thức này đã đợc dần sáng tỏ nên năm 1996-
1997 cơ chế nhập khẩu và cơ chế quản lý giá phân bón đã có chặt chẽ hơn.
Chính phủ trực tiếp quy định đầu mối nhập khẩu phân bón và thành lập tổ điều
hành để chỉ đaọ, đôn đốc, kiểm tra việc nhập khẩu làm sao khớp với thời điểm
mùa vụ, đảm bảo nhu cầu cho sản xuất nông nghiệp; cơ chế vay ngân hàng và
bảo lãnh cũng đợc quy định chặt chẽ hơn, không bảo lãnh nhập trả chậm tràn
lan nh trớc đây, vì thế đã hạn chế đợc việc mua bán hạn ngạch, hạn chế đợc
phần rủi ro và hạn chế đợc việc gây rối loạn thị trờng. Tuy vậy việc can thiệp
của Nhà nớc vào việc nhập khẩu phân bón nh trên cũng hết sức khó khăn, bởi
lẽ giá cả phân bón biến động phức tạp, giá URÊ trên thị trờng thế giới có lúc
giảm rất nhanh và chỉ còn 98-102 USD /tấn, gần đây giá DAP chỉ trong vòng
hai tháng đã giảm tới 50-60 USD / tấn( từ 230USD/tấn còn 175USD/tấn).
Thực sự cho tới quyết định 140TTg (7/3/1997) của Thủ tớng chính phủ cho tới

nay thì tình hình kinh doanh phân bón mới có nhiều tiến bộ và hiệu quả. Đó là
việc lập kế hoạch nhập khẩu phân bón đợc tính toán khá sát với yêu cầu thực
tế, đã có quyết định giao kế hoạch nhập khẩu ngay từ đầu năm, tạo điều kiện
chủ động giao dịch, ký kết hợp đồng nhập khẩu và cung ứng kinh doanh trên
thị trờng.
Từ những phân tích trên mục đích chứng minh rằng xây dựng cơ chế thị
trờng là bớc đi tất yếu khách quan, nghĩa là chấp nhận trên thực tế sự tham gia
kinh doanh phân bón vô cơ của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế khác, một khi các doanh nghiệp này có thực lực về kinh tế. Nhng không có
nghĩa là phó mặc cho thị trờng tất cả, mà các cơ quan chức năng của Nhà n-
ớc cần giám sát chặt chẽ, tổ chức theo dõi thờng xuyên việc thực thi nhiệm vụ
kinh doanh phân bón, đặc biệt là nhập khẩu, để từng bớc ổn định đội ngũ th-
ơng nhân chuyên kinh doanh phân bón có thực lực kinh tế, có kinh nghiệm
kinh doanh.
2-/ Hệ thống cơ quan quản lý và điều tiết lu thông
phân bón vô cơ của nền kinh tế.
9
2.1-/ Về Tổ chức cơ quan quản lý và điều tiết phân bón vô cơ
Nh trên đã phân tích, trong tổng khối lợng nhiều triệu tấn phân hoá học
tiêu dùng hàng năm thì sản xuất trong nớc mới chỉ đáp ứng đợc khoảng 65%
nhu cầu về lân, cha tới 10% nhu cầu về đạm, còn nhiều loại khác thì trong nớc
vẫn cha sản xuất đợc. Do vậy hàng năm nớc ta vẫn phải bỏ ra hàng triệu USD
để nhập khẩu phân bón. Từ nhiều năm nay nhà nớc đã áp dụng nhiều biện
pháp quản lý khác nhau, quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch, chỉ định các đơn
vị đầu mối đợc kinh doanh nhập khẩu; hỗ trợ giá cớc vận chuyển phân bón
Bắc-Nam lên Miền núi, cho vay vốn sản xuất, dự trữ thời vụ phân bón với lãi
suất u đãi .Tuy nhiên, những năm gần đây, hệ thống cung ứng phân bón phải
đối mặt với những thử thách to lớn và trải qua mấy nấc thăng trầm tơng ứng
với những phơng sách quản lý khác nhau của nhà nớc. Từ giữa năm 1991 trở
về trớc việc nhập khẩu phân bón hoá học (chủ yếu là ure) nằm trong quy đạo

của cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Mỗi năm, Tổng công ty vật t nông nghiệp
thực hiện nhập khẩu từ 800.000-1.000.000 tấn ure theo nghị định th giữa hai
nhà nớc Việt Nam và Liên Xô, sau đó tiến hành phân phối theo kế hoạch đã
định cho các đơn vị ở các địa phơng trong cả nớc. Theo phơng thức này Uỷ
ban kế hoạch Nhà nớc và Bộ tài chính thay mặt chính phủ nhận nợ và thanh
toán với phía Liên Xô. Tổng công ty vật t nông nghiệp tiếp nhận phân nhập
khẩu xong, tổ chức tiêu thụ sau đó nộp tiền cho Bộ tài chính.
-Từ tháng 8/1991, tình huống bắt đầu biến đổi khác hẳn, Tổng công ty
Vật t nông nghiệp đợc tiếp nhận nốt 100.000 tấn ure theo nghị định th, bằng
10% số nhập khẩu theo kế hoạch hàng năm trớc đó, do Liên Xô cắt viện trợ.
-Đến năm 1992- 1993, việc kinh doanh phân bón vô cơ đợc thả nổi toàn
bộ theo cơ chế thị trờng.
-Bớc sang năm 1994 đã đánh dấu một bớc đổi mới quan trọng về cơ
chế quản lý của nhà nớc đối với lĩnh vực lu thông, nhập khẩu phân bón. Với
việc chỉ định các đầu mối nhập khẩu phân bón, tuy nhiên các đầu mối nhập
khẩu đợc sàng lọc, giảm bớt số lợng, coi trọng tiêu chuẩn chất lợng và năng
lực thực sự về tài chính, tiếp thị.
Từ năm 1995 đến nay: Nhà nớc tiếp tục quản lý chặt chẽ nhập khẩu
phân bón.
10
Sơ đồ 1 - Các cơ quan quản lý và điều tiết phân bón
vô cơ thời kỳ đổi mới cơ chế kinh tế.
Nh vậy, có thể khẳng định trong cơ chế thị trờng, không thể thiếu vai trò
quản lý vĩ mô, kế hoạch định hớng của nhà nớc và sự phối hợp đồng bộ của
các cấp, các ngành với vấn đề quản lý và điều tiết phân bón vô cơ ở nớc ta.
Công tác quản lý Nhà nớc trong lĩnh vực nhập khẩu và kinh doanh phân bón
vô cơ phải nhằm mục tiêu đa việc nhập khẩu và kinh doanh phân bón vào nề
nếp, nhằm cung ứng đủ và kịp thời phân bón vô cơ trực tiếp đến hộ nông dân
phục vụ sản xuất với giá cả hợp lý, gắn việc cung ứng vật t, dịch vụ (trớc hết là
phân bón ) với việc thu mua lúa hàng hoá của nông dân thành một hệ thống

bảo đảm sự quản lý và điều hành của Nhà nớc. Cụ thể là:
* Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm xây dựng
kế hoạch cân đối Cung- cầu phân bón trong từng vụ, của từng miền trong cả n-
ớc, cùng Bộ thơng mại theo dõi và kiểm tra tiến độ hàng về, tình hình Cung
ứng và giá cả phân bón trong cả nớc, đề xuất ý kiến điều chuyển kịp thời lợng
phân bón cần nhập khẩu hàng năm phục vụ sản xuất nông nghiệp trình Chính
phủ quyết định.
* Bộ Công nghiệp thông báo việc sản xuất phân bón vô cơ trong nớc hàng
năm và quy hoạch tổng thể chiến lợc phát triển ngành sản xuất phân bón đến
11
N ớc bán phân bón
trên thế giới
Các đầu mối nhập
khẩu đ ợc chỉ định
Cửa hàng đại lý
bán lẻ
Tổ chức trung gian
phân bón
Nông dân
Bộ công nghiệp
Bộ Nông nghiệp &
PTNT, Bộ Th ơng
mại
Bộ Tài
chính
Ngân
hàng
Tỉnh
TP
Hải

quan
Vật
giá
Bộ
KHĐT
Bộ
KHCN
-MT
năm 2000 và 2010 theo hớng tăng nhanh sản xuất trong nớc thay thế dần nhập
khẩu với hình thức tự vay vốn hoặc liên doanh để sản xuất phân bón.
* Bộ Thơng mại chịu trách nhiệm, điều hành nhập khẩu phân bón theo
kế hoạch chung và cân đối của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chỉ
định doanh nghiệp nhập khẩu phân bón, thông báo chỉ tiêu nhập khẩu cho
từng doanh nghiệp. Từ đó Chủ tịch UBND tỉnh thành phố thông báo doanh
nghiệp cho Bộ Thơng mại, Cục Hải quan, Bộ Tài chính, Bộ kế hoạch đầu t, các
doanh nghiệp đợc thông báo làm thủ tục nhập khẩu tại cơ quan Hải Quan.
* Ngân hàng Nhà nớc Việt nam cùng Bộ Tài chính, Bộ Thơng mại, Bộ
nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định việc quản lý, sử dụng tiền bán
hàng của các doanh nghiệp nhập khẩu để đảm bảo thanh toán với nớc ngoài
khi đến hạn. Khi đợc Chính phủ phê duyệt hạn ngạch nhập khẩu phân bón,
Ngân hàng Nhà nớc Việt nam chỉ đạo các ngân hàng Thơng mại bảo lãnh cho
các doanh nghiệp đợc chỉ định nhập khẩu phân bón vay trả chậm nớc ngoài và
đợc lấy giá trị hàng hoá phân bón nhập khẩu làm bảo đảm và ký quỹ với mức
thấp nhất theo quy định của Ngân hàng nhà nớc Việt nam. Đối với một số
doanh nghiệp đợc giao nhập khẩu số lợng phân bón lớn để điều hoà cung cầu,
bình ổn giá trong nớc, ngoài quy định chung, Ngân hàng cho vay và bảo lãnh
theo số lợng phân bón nhập cụ thể của từng doanh nghiệp để các doanh
nghiệp thực hiện đợc chỉ tiêu đã giao. Trờng hợp có khó khăn về vốn, Bộ kế
hoạch đẩu t, Bộ Tài chính cân đối trình Thủ tớng chính phủ cho phép sử dụng
từ nguồn quỹ dự trữ ngoại tập trung của Nhà nớc để cho vay nhập phân bón.

*Ban vật giá Chính phủ, tuỳ từng trờng hợp là cơ quan xác định mức trọ
giá cho từng mặt hàng, từng địa phơng, xác định mức giá bán tối đa giá trần
cho từng mặt hàng.
*Tổng công ty Vật t nông nghiệp chịu trách nhiệm: ngoài việc thực hiện
đầy đủ trách nhiệm nh các doanh nghiệp khác còn phải từng bớc tổ chức lại
mạng lới bán buôn, đại lý bán phân bón trực tiếp đến nông dân, quản lý chặt
chẽ quỹ dự trữ lu thông phân bón đợc nhà nớc giao, chịu trách nhiệm đảm bảo
dự trữ lu thông bằng ngoại tệ và bằng hiện vật cho 3 miền Bắc, Trung, Nam,
theo quy định; khi xảy ra đột biến giá và mất cân đối quan hệ Cung- cầu phải
kịp thời đa lực lợng dự trữ lu thông can thiệp thị trờng theo chỉ đạo của Bộ
nông nghiệp và phát triển nông thôn và Bộ Thơng mại nhằm ổn định Cung-
cầu và giá phân bón trong cả nớc.
*Đối với các loại phân hoá học là nguyên liệu sản xuất phân bón tổng
hợp, Bộ Thơng mại thống nhất với Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ
12
công nghiệp, cho phép một số doanh nghiệp bảo đảm nhập đủ nguồn nguyên
liệu cung ứng cho các cơ sở sản xuất phân bón trong nớc đã đợc Bộ công
nghiệp cấp giấy phép sản xuất và Bộ khoa học công nghệ và môi trờng cấp
giấy chứng nhận chất lợng hàng hoá. Bộ công nghiệp rà soát, chấn chỉnh lại
các doanh nghiệp sản xuất phân bón tổng hợp, nhằm mục đích bảo đảm chất l-
ợng hàng hoá và cân đối Cung- cầu về phân bón tổng hợp.
*Ban chỉ đạo để điều hành hoạt động xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân
bón do một thứ trởng Bộ Thơng mại làm trởng ban, bao gồm đại diện của Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ tài chính, Ngân hàng nhà nớc, Tổng
cục Hải quan, một số tỉnh có sản lợng lúa hàng hoá lớn và hiệp hội XNK lơng
thực Việt Nam.
2.1-/ Về cung ứng phân bón vô cơ trong nớc:
Từ năm 1991 trở về trớc: hệ thống cung ứng phân bón do Quốc doanh
độc quyền đợc tổ chức thành 2 cấp: cấp I (Tổng công ty vật t nông nghiệp
Trung Ương,) cung ứng đến kho cấp II (Tỉnh), Cấp II cung ứng cho cấp III

(Cấp III thuộc cấp II quản lý); Quốc doanh địa phơng thực hiện cung ứng 90%
nhu cầu phân bón trên địa bàn. Sơ đồ 2
Mô hình cung ứng phân bón vô cơ thời kỳ kế hoạch
hóa tập trung
Nhập khẩu
Giao chỉ tiêu nhập khẩu
Từ năm 1992 cùng với sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cơ chế kinh doanh
phân bón mang tính độc quyền, nhiều tầng nấc, giá cả áp đặt đợc xoá bỏ. Hệ
thống phân phối theo ngành dọc từ cấp I tới cấp III đã mất tác dụng. Thay vào
đó là nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia kinh doanh phân bón trên thị tr-
ờng nội địa để cung ứng cho ngời sản xuất. Quốc doanh địa phơng chỉ cung
ứng 20-30%. Có thể nói hệ thống cung ứng đợc mở rộng, t nhân tham gia
13
N ớc bán phân
hoá học trên thế
giới
Quốc doanh cấp I
Nhà n ớc Việt
Nam xây dựng kế
hoạch
Quốc
doanh
Việt
Nam
Cấp II
Quốc
doanh
Vật t
Việt
Nam

Cấp III
Hợp
tác xã,
tập
đoàn
sản
xuất
cung øng ph©n bãn ngµy cµng nhiÒu, ph©n bãn kh«ng cßn “ch¹y” vßng vÌo
nh tríc ®©y míi tíi ®îc tay ngêi s¶n xuÊt. S¬ ®å 3
14
Mô hình cung ứng phân bón hoá học thời kỳ đổi mới
cơ chế kinh tế.
Đi đôi với hệ thống cung ứng phân bón theo hớng tự do lu thông. Nhà
nớc cũng thực hiện tự do hoá giá cả- có nghĩa là về cơ bản giá phân bón do thị
trờng quyết định. Tuy vậy, nhng để nông dân đợc hởng mức giá bình ổn nhất
là khi thời vụ cần có phân bón chăm sóc cây trồng Nhà nớc đang sử dụng quỹ
bình ổn giá để hỗ trợ cho kinh doanh phân bón dự trữ lu thông một số lợng
phân ure nhất định để chủ động bán ra ở thời điểm bình thờng cũng khi thời
vụ hoặc ở thời điểm giá cả tăng cao, bảo đảm để nông dân mua đợc đạm ure
xoay quanh định hớng 1 ure tơng đơng 2 lúa mà nông dân đồng bằng Sông
Cửu Long và khoảng 1,5 lúa ở đồng bằng sông Hồng đã chấp nhận.
3-/ Các công cụ quản lý và điều tiết lu thông phân
bón vô cơ của nhà nớc ở Việt nam .
Quản lý và điều tiết vĩ mô thị trờng và lu thông nói chung và phân bón
vô cơ nói riêng là vấn đề phức tạp, khó khăn. Sự quản lý và điều tiết của các
cơ quan nhà nớc ở tầm vĩ mô phải hết sức mềm dẻo, linh hoạt, phải xuất phát
từ mục tiêu định hớng, tôn trọng sự vận động khách quan của thực tiễn.Trong
giai đoạn đầu chuyển sang kinh tế thị trờng, xây dựng cơ chế quản lý kinh tế
với rất nhiều mục tiêu và các giải pháp khác nhau. Các vấn đề kinh tế xã hội
cấp bách đang đan xen vào nhau, vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau đòi

hỏi phải giải quyết đồng bộ không đợc biệt lập, riêng rẽ. Những vấn đề cơ bản
của nền kinh tế có những mục tiêu và giải pháp khác nhau, có khi mâu thuẫn
15
N ớc bán phân hoá
học trên thế giới
Các đầu mối nhập
khẩu
Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông
thôn
Các tổ chức trung
gian cung ứng
phân
Cửa hàng đại lý
bán lẻ
Nông dân
nhau. Bởi vậy, phải đặt trong tổng thể của nền kinh tế quốc dân để giải quyết
vấn đề. Mục tiêu điều tiết thị trờng, lu thông phân bón vô của nhà nớc nằm
trong hệ thống mục tiêu kinh tế xã hội, đáp ứng mục tiêu cao nhất là ổn định
và nâng cao đời sống nhân dân phát triển toàn diện con ngời, xây dựng xã hội
lành mạnh, văn minh trên cơ sở một nền sản xuất hàng hoá phát triển cao. Nhà
nớc điều tiết lu thông hàng hoá và phân bón vô cơ nhằm làm cho nó ngày càng
phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, phát huy mặt tích cực, hạn chế những
tiêu cực phát sinh. Hớng lu thông hàng hoá và phân bón vào các mục tiêu kinh
tế xã hội của đất nớc. Để đạt đợc hiệu quả cao, nhà nớc cần linh hoạt sử dụng
hệ thống công cụ điều tiết và quản lý vĩ mô:
3.1-/ Chơng trình có mục tiêu phát triển thơng mại của nhà nớc.
Tính cân đối của nền kinh tế quốc dân là yêu cầu khách quan cho sự
phát triển của nó. Nền kinh tế quốc dân là một thể thống nhất bao gồm nhiều
bộ phận hợp thành có quan hệ hữu cơ với nhau. Trong đó có những khâu,

những bộ phận quan trọng có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của nền kinh
tế. Thông qua sự tác động tới các yếu tố then chốt đó sẽ đảm bảo sự phát triển
tối u của nền kinh tế. Kế hoạch hoá vĩ mô là kế hoạch định hớng, thực hiện
những cân đối lớn nhằm đảm bảo tốc độ phát triển hợp lý và hiệu quả cao.
Kế hoạch định hớng ở tầm vĩ mô cũng phải đợc thay đổi linh hoạt phù
hợp với sự vận động khách quan của nền kinh tế. Cùng với các chơng trình
mục tiêu, kế hoạch kinh tế quốc dân đợc xây dựng đúng đắn sẽ là một công cụ
quan trọng. ở các nớc T bản phát triển, các nớc công nghiệp mới đã sử dụng
thành công Kế hoạch kinh tế quốc dân nh một công cụ trọng tâm, tác động
vào nền kinh tế .
3.1.1.Mô hình kế hoạch hoá định hớng
+ Mục tiêu của KHHĐH:Là nhằm giữ một số cân đối lớn trong nền
kinh tế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc.
+ Chủ thể của KHHĐH:Trong mô hình kế hoạch hoá cũ (Kế hoạch hoá
tập trung), chủ thể của kế hoạch hoá là nhà nớc, ở đây kế hoạch là cơng lĩnh
thứ 2 của Đảng, là pháp lệnh của cơ quan quyền lực nhà nớc tối cao (Quốc
hội, Hội đồng nhân dân). Chính phủ chỉ giữ vai trò tổ chức thực hiện kế hoạch.
Trong mô hình KHHĐH hiện nay, Đảng lãnh đạo làm chiến lợc (không
làm kế hoạch), Quốc hội làm Hiến pháp (không làm kế hoạch). Chủ thể của
KHHĐH là Chính phủ. Chính phủ làm KHHĐH trong khuôn khổ chiến lợc do
Đảng quyết nghị và tuân thủ hệ thống pháp luật do Quốc hội quyết định. Sự
16
phân định nh vậy một mặt, đề cao đúng mức vai trò của Chính phủ, mặt khác
không hạ thấp vai trò của Đảng, Quốc hội khi phải quyết định những dự án kế
hoạch. Đồng thời làm cho mối quan hệ giữa chiến lợc với luật pháp đợc thể
hiện nhất quán trong kế hoạch mà sự nhất quán đó đợc quy tụ vào một nơi
chịu trách nhiệm là Chính phủ.
+ Đối tợng của KHHĐH: Trong mô hình kế hoạch hoá tập trung trớc
đây, đối tợng của kế hoạch là các quá trình kinh tế diễn ra trong khu vực sở hữu
công cộng, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp quốc doanh do quan niệm rất hẹp

về hàng hoá- tiền tệ, nên ngay trong khu vực sở hữu công cộng, nhiều quá trình
kinh doanh đã nằm ngoài đối tợng của kế hoạch. Đặc biệt, khu vực kinh tế dịch
vụ đã có một bộ phận lớn không nằm trong đối tợng của kế hoạch do có sự
phân biệt giữa sản xuất vật chất (hệ thống phân ngành kinh tế MPS).
Trong mô hình KHHĐH, đối tợng của kế hoạch là toàn bộ quá trình
vận động của nền kinh tế hàng hoá (kể cả những bộ phận cha phải là hàng hoá
trong thời kỳ chuyển đổi hiện nay). Trong đó tiền tệ sắm vai trò vĩ mô cực kỳ
quan trọng.
+ Phơng pháp KHHĐH:Trong mô hình kế hoạch hoá tập trung, kế
hoạch đợc tiến hành theo phơng pháp của hệ thống sản phẩm vật chất MPS
( Materal Product System). Phơng pháp này không tính đến các dịch vụ, đợc
quan niệm là không liên quan trực tiếp tới sản xuất vật chất nh các dịch vụ
giáo dục, y tế, thể thao, hành chính, ngân hàng. Phơng pháp này cũng bỏ qua
hạch toán khấu hao trong nền kinh tế (theo UNDP) phơng pháp này bỏ qua
20- 30% tổng sản phẩm xã hội. Kế hoạch hoá định hớng đòi hỏi phải thể hiện
đầy đủ mọi cục diện của nền kinh tế trong mỗi tác động qua lại giữa các nhân
tố cấu thành của nó. Bởi vậy, KHHĐH buộc phải chuyển từ phơng pháp cũ
(MPS) sang phơng pháp mới là phơng pháp hạch toán quốc gia theo hệ thống
tài khoá quốc gia SNA (System of Natinal Acount).
Trong mô hình kế hoạch hoá tập trung, kế hoạch không coi trọng phơng
pháp giá trị. Một loại chỉ tiêu giá trị quan trọng đã bị bỏ qua trong các kế
hoạch nh tổng tiêu dùng, tổng tiết kiệm, tổng thu thuế, chỉ số hàng tiêu dùng,
tỷ giá, tỷ lệ lạm phát, chỉ số tăng tiền lơng danh nghĩa, tổng sản phẩm xã hội
tính theo trợt giá Trái lại trong mô hình KHHĐH, các chỉ tiêu giá trị trên
đây trở thành các chỉ tiêu hệ trọng nhất trong khi đánh giá thực trạng nền kinh
tế cũng nh khi nêu ra các đinh hớng phát triển và ổn định. Việc chuyển từ ph-
ơng pháp hiện vật (là chính) sang phơng pháp giá trị (là chính) là sự chuyển
biến về chất của phơng pháp KHHĐH so với phơng pháp kế hoạch trớc đây.
17
Nó không tuỳ thuộc ở các cơ quan định hớng hoạch định kế hoạch mà chủ yếu

tuỳ thuộc ở thớc giá trị trong nền kinh tế, ở mức độ phạm vi tiền tệ hoá các
quá trình kinh tế. Trong mô hình kế hoạch cũ, các cân đối hiện vật giữ vai trò
trọng yếu (lơng thực, xăng dầu, phân bón ). nhng dù mở rộng danh mục đến
đâu cũng không thể nào thể hiện nổi tổng cân đối (về hiện vật ) của nền kinh
tế. Trái lại phơng pháp cân đối của mô hình KHHĐH đòi hỏi phải chuyển
sang những cân đối vĩ mô đợc đo bằng các tiêu chuẩn tài chính, tiền tệ trong
đó chủ yếu nh: Cân đối tiết kiệm và tiêu dùng, cân đối cán cân thơng mại, cân
đối cán cân thanh toán quốc tế, cân đối thu chi ngân sách những cân đối
này phải dựa trên sự vận động thực tế của hệ thống tài chính, tiền tệ, giá cả
của nền kinh tế.
+ Nội dung chủ yếu của KHHĐH: Xác định các chỉ tiêu tổng hợp của
nền Kinh tế quốc dân, các chỉ tiêu định hớng cân đối đầu t và tiêu dùng các
chỉ tiêu cân đối ngân sách, các chủ tiêu cân đối tiền tệ, các chỉ tiêu định hớng
điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong tác động của định hớng cán cân thơng mại và
định hớng cán cân thanh toán quốc tế, các chỉ tiêu định hớng cân đối lao động
xã hội.
3.1.2.Mô hình kế hoạch hoá định hớng phát triển thơng mại trong nền
kinh tế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc
+ Mục tiêu của KHHĐH phát triển thơng mại: ổn định thị trờng, phát
triển lu thông thị trờng hàng hoá phát triển xuất nhập khẩu và lợi nhuận.
+ Chủ thể của KHHĐH phát triển thơng mại: Là Bộ Thơng mại- cơ
quan nhà nớc Trung ơng của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nớc
đối với ngành thơng mại trong phạm vi cả nớc. Trong đó Bộ trởng Bộ Thơng
mại với t cách vừa là thành viên Chính phủ vừa là Thủ trởng của Bộ chịu trách
nhiệm trình Chính phủ chiến lợc, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành thơng
mại, phơng hớng mục tiêu và các cân đối lớn của kế hoạch dài hạn, trung hạn
và ngắn hạn, bao gồm tất cả các thành phần kinh tế thuộc ngành Thơng mại để
định hớng cho toàn ngành, các địa phơng (các Sở thơng mại) các đơn vị cơ sở
thuộc Bộ trong việc xây dựng kế hoạch của mình, trên cơ sở đó Bộ tổng hợp
và phân tích hoạt động kinh tế- kỹ thuật toàn ngành thơng mại. Bộ trởng Bộ

thơng mại có trách nhiệm tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát triển thơng
mại trong phạm vi cả nớc(Điều 116 hiến pháp năm 1992, luật tổ chức Chính
phủ, nghị định 15 CP ngày 3/2/1993 của chính phủ). Luật thơng mại (điều
145) cũng quy định: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nớc về Thơng mại, Bộ
Thơng mại chịu trách nhiệm trớc Chính phủ thực hiện việc quản lý nhà nớc về
18
thơng mại, Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm
vị nhiệm vụ quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lý nhà nớc về thơng mại
đối với lĩnh vực đợc phân công phụ trách.
Nh vậy Bộ thơng mại là chủ thể của kế hoạch hoá phát triển Thơng mại
trong phạm vi cả nớc, trong quá trình xây dựng kế hoạch, Bộ thơng mại vừa
phải tổng hợp, phân tích tình hình kinh tế-kỹ thuật của toàn ngành, từ t liệu
của các địa phơng trong cả nớc, các đơn vị trực thuộc Bộ, ngành hữu quan. Kế
hoạch hoá phát triển thơng mại phải do Bộ trởng Bộ thơng mại trình Chính
phủ phê duyệt mới có hiệu lực quản lý.
+ Đối tợng của kế hoạch hoá phát triển thơng mại: Trong nền kinh tế
thị trờng có sự quản lý của nhà nớc, nhà nớc bao quát toàn bộ các quá trình
kinh tế trong ngành Thơng mại, các hoạt động thơng mại, hàng hoá trong nớc
và với nớc ngoài của tất cả các thành phần kinh tế, mà trọng tâm là các quan
hệ thị trờng hàng hoá nh quan hệ Tổng cung- Tổng cầu, quan hệ tiền- hàng,
quan hệ Cung- cầu từng mặt hàng thiết yếu; các cơ cấu thơng mại chủ yếu nh
cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu ngành hàng, mặt hàng lu thông trên thị tr-
ờng nội địa và xuất khẩu, nhập khẩu. Cơ cấu thị trờng trong nớc theo vùng
lãnh thổ, cơ cấu các khu vực thị trờng ngoài nớc (Cơ cấu thị trờng xuất khẩu
và cơ cấu thị trờng nhập khẩu), cơ cấu nguồn nhân lực của ngành thơng mại,
quan hệ thơng mại giữa Việt Nam với các khu vực nớc bạn hàng với các tổ
chức thơng mại khu vực và thế giới.
+ Phơng pháp kế hoạch hoá phát triển thơng mại trong nền kinh tế thị
trờng: Trong mô hình kế hoạch hoá cũ (kế hoạch Thơng nghiệp, kế hoạch hoá
cung ứng vật t, kế hoạch hoá ngoại thơng) do sử dụng phơng pháp hiện vật là

chính, nên đã không coi trọng các chỉ tiêu giá trị, các chỉ tiêu về nhu cầu thị
trờng mà chỉ chú trọng đến các chỉ tiêu về tổng lợng hàng hoá của khu vực
quốc doanh; định lợng nguồn cung ứng của nhà nớc; các chỉ tiêu định mức
cung ứng và những địa chỉ cấp phát chính thuộc khu vực kinh tế nhà nớc. Vì
thế một mặt không bao quát đợc tổng lợng hàng hoá cung ứng của toàn xã hội
và tổng nhu cầu hàng hoá của toàn xã hội. Mặt kế hoạch hoặc không tính đến
giá trị giá trị thực tế của hàng hoá do sự chi phối của gía trị đồng tiền nội tệ bị
trợt giá và các yếu tố lạm phát. Nay chuyển sang sử dụng phơng pháp giá trị là
chính, nên các chỉ tiêu về nhu cầu thị trờng cần đợc đặc biệt coi trọng nh:
Tổng quỹ mua, sức mua thực tế của toàn xã hội. Tổng giá trị kim ngạch xuất
khẩu và nhập khẩu; giá trị đồng Việt Nam trong quan hệ thanh toán thơng
mại; nhu cầu của các khu vực nớc bạn hàng xuất khẩu; các chỉ tiêu về thuế,
19
đặc biệt là thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu; chỉ giá cả trong nớc và giá xuất
khẩu; các chỉ tiêu hiệu quả thơng mại nh tổng doanh số (mua vào và bán ra),
lợi nhuận; các chỉ tiêu về ổn định thị trờng nội địa, các chỉ tiêu cân đối thị tr-
ờng các mặt hàng thiết yếu trong đánh giá thực trạng cũng nh nêu ra các
định hớng phát triển Thơng mại Việt Nam.
Theo đó, để xây dựng các phơng án kế hoạch Thơng mại có chất lợng
Bộ Thơng mại phải tổ chức điều tra cơ bản (nhất về năng lực sản xuất và điều
tra về sức mua), nghiên cứu dự báo về xu hớng và động thái của thị trờng đặc
biệt là thị trờng xuất khẩu. Trớc hết là các khu vực thị trờng trọng điểm và thị
trờng các mặt hàng thiết yếu liên quan đến những cân đối lớn của nền kinh tế
+ Nội dung chủ yếu của kế hoạch hoá định hớng phát triển thơng mại
trong nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của nhà : Nghi quyết số 12 NQ/TW
của Bộ Chính trị đã xác định kế hoạch hoá Thơng mại trong nền kinh tế thị tr-
ờng phải thể hiện các nội dung: xây dựng chiến lợc thị trờng và quy hoạch
phát triển thơng mại đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế hàng hoá, tạo điều kiện
thúc đẩy sản xuất phát triển. Xác định các cân đối lớn (Cân đối Tổng cung-
Tổng cầu, cân đối tiền- hàng cân đối Cung- cầu từng mặt hàng thiết yếu ).

Về mặt phơng pháp luận, có thể phác hoạ và xác định một số nội dung
chủ yếu của kế hoạch thơng mại nh sau:
- Tạo dựng bức tranh toàn cảnh của nền thơng mại( thực trạng và định
lợng phát triển ) thông qua các chỉ tiêu tổng hợp nh:
+Tổng mức lu chuyển hàng hoá bán lẻ xã hội ( theo giá hiện hành và có
tính đến yếu tố trợt giá trong tơng lai) phân theo thành phần kinh tế và cơ cấu
vùng; cơ cấu thị trờng trọng điểm; chỉ số trợt giá chung của thị trờng
+ Giá trị lu chuyển các ngành hàng, mặt hàng thiết yếu, chỉ số giá cả thị
trờng các mặt hàng thiết yếu.
+Tổng quỹ mua và tổng sức mua thực tế của toàn xã hội, phân theo cơ
cấu khu vực/ vùng, các thị trờng trọng điểm các khu vực tập chung sức mua
lớn, nhu cầu sản xuất và nhu cầu của dân c, các khu công nghiệp trung trung
và các vùng sản xuất tập trung, sức mua của thị trờng nông thôn và thị trờng
thành thị của miền núi.
+Giá trị kim ngạch xuất khẩu, phân theo cơ cấu các khu vực thị trờng
xuất khẩu các nớc bạn hàng chính, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, các mặt hàng
xuất khẩu chủ lực trong đó chú ý đến các nhân tố mới nh các thị trờng mới có
sức mua lớn, các mặt hàng nhóm hàng chế biến sau.
20
+Giá trị kim ngạch nhập khẩu, phân theo cơ cấu nhóm hàng(phân loại
chuẩn của quốc tế), cơ cấu thị trờng nhập khẩu theo khu vực địa lý và theo
trình độ phát triển(nhấn mạnh thị trờng có công nghệ nguồn),các thị trờng
nhập khẩu chính.
+Giá xuất khẩu và giá nhập khẩu, hiệu số giữa giá xuất và giá nhập
khẩu.
-Định hớng cân đối Cung- cầu các mặt hàng thiết yếu là một trong
những nội dung trọng tâm của kế hoạch hoá thơng mại. Danh mục các mặt
hàng thiết yếu cần đợc điều chỉnh trong các kỳ kế hoạch dài hạn, trung hạn và
ngắn hạn phù hợp với yêu cầu và trình độ phát triển của nền kinh tế trong từng
thời kỳ cụ thể. ở đây cần đợc đặc biệt chú ý đến yếu tố công nghiệp hoá và

các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài sẽ tác động mạnh đến cả hai phía
Cung- cầu các mặt hàng thiết yếu.
Tóm lại: Kế hoạch hoá thơng mại trong nền kinh tế thị trờng có sự
quản lý của nhà nớc do Bộ Thơng mại xác lập. Chính phủ phê duyệt, đó là loại
kế hoạch gián tiếp hớng dẫn thị trờng và các hoạt động thơng mại của các th-
ơng nhân, kế hoạch đó có đối tợng là toàn bộ của các quá trình lu thông hàng
hoá các hoạt đông thơng mại hàng hoá trong nớc và với nớc ngoài của tất cả
các thành phần kinh tế kế hoạch, từ đó định ra những cân đối chủ yếu nhất của
nền thơng mại nh cân đối Tổng cung- Tổng cầu, cân đối tiền- hàng, cân đối
Cung- cầu các mặt hàng thiết yếu nhằm mục tiêu giữ một số cân đối của thị
trờng và thơng mại, ổn định, phát triển lu thông hàng hoá, phát triển xuất nhập
khẩu và lợi nhuận. Đồng thời, hớng thị trờng và các quá trình thơng mại trong
nớc và với nớc ngoài tiến tới một thế cân bằng mới theo yêu cầu của phát triển
kinh tế- xã hội trong từng thời kỳ phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế- xã
hội của quốc gia.
Với tính chất và vai trò đó, kế hoạch hoá thơng mại kế hoạch hoá không
chỉ là một phơng pháp quan trọng để nhà nớc thực hiện vai trò hớng dẫn của
mình đối với sự phát triển thị trờng và thơng mại mà còn là một công cụ trong
yếu của nhà nớc sử dụng để điều tiết các hoạt động thơng mại, thị trờng trớc
hết là thị trờng các mặt hàng thiết yếu các mặt hàng nhạy cảm.
Trong hệ thống các công cụ, biện pháp kinh tế đợc nhà nớc sử dụng để
quản lý điều tiết hoạt động thơng mại, thị trờng thì kế hoạch giữ địa vị trung
tâm phát tín hiệu định hớng.
3.2-/ Một số công cụ, biện pháp chủ yếu đợc nhà nớc sử dụng để quản lý
và điều tiết lu thông hàng hoá và phân bón vô cơ.
21
3.2.1 Thuế quan:
Thuế quan hay thuế xuất nhập khẩu là loại thuế gián thu đánh vào hàng
hoá xuất nhập khẩu khi qua lĩnh vực thuế quan của một nớc. Nhà nớc sử dụng
công cụ thuế quan nhằm 2 mục tiêu: Một là,Quản lý xuất nhập khẩu nâng cao

hiệu quả hoạt động ngoại thơng, góp phần bảo vệ sản xuất trong nớc và hớng
dẫn tiêu dùng. Hai là,Tăng thu cho ngân sách nhà nớc
3.2.1.1. Thuế nhập khẩu :
Hình thức hạn chế thơng mại- là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị
hàng nhập khẩu. Theo đó ngời nhập khẩu hàng hoá phải trả tỷ lệ % cụ thể theo
giá cả quốc tế cho nhà nớc, còn ngời mua trong nớc phải trả cho những hàng
hoá nhập khẩu một khoản lớn hơn mức mà ngời xuất khẩu ngoại quốc nhận đ-
ợc. Việc thực hiện thuế nhập khẩu dẫn đến xu hớng tăng giá hàng nhập khẩu,
giảm số lợng tiêu thụ, số lợng hàng nhập khẩu và tăng sản lợng sản xuất trong
nớc. Kết quả thực tế đánh thuế nhập khẩu là: các nhà sản xuất trong nớc nhờ
có thuế nhập khẩu mà có thể mở rộng sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm,
tăng cờng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nớc, ngời tiêu
dùng giảm số lợng tiêu dùng hàng nhập khẩu bởi giá lên cao. Nhà nớc thu đợc
thuế nhập khẩu, các nhà sản xuất trong nớc thu đợc lợi nhuận cao; gánh nặng
thuế quan do ngời tiêu dùng chịu. Xu hớng chung của thế giới là thờng sửa đổi
biểu thức nhập khẩu theo hớng hạ thấp mức thuế, đơn giản hoá cơ cấu thuế
quan, ít thuế suất và các thuế suất chênh lệch nhau không lớn .
Thực hiện cam kết giữa Chính phủ Việt Nam với IMF trong chơng trình
SAP về việc giảm thuế nhập khẩu, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá IX đã thông
qua biểu thuế nhập khẩu áp dụng từ 1/1/1996 với 6 thuế suất, thuế suất tối đa
chỉ còn 60%. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam đang nghiên cứu áp dụng kinh
nghiệm thành công của một số nớc trên thế giới về sửa đổi biểu thuế nhập
khẩu theo phơng án khác nhằm nâng cao tính linh hoạt- mềm dẻo của công cụ
này, phục vụ kịp thời và hiệu quả mục tiêu điều tiết vĩ mô hoạt động của nền
kinh tế thị trờng. Đó là biểu thuế nhập khẩu có 3 loại thuế suất: Thuế suất
tiêu chuẩn, thuế suất tạm thời và thuế suất u đãi trong đó:
+ Thuế suất tiêu chuẩn là mức thuế phổ thông để áp dụng đối với hàng
nhập khẩu của các nớc thoả thuận song phơng hoặc đa phơng về thuế quan với
Việt Nam.
+ Thuế suất tạm thời là thuế suất do Chính phủ quy định để áp dụng

trong một thời gian nhất định nhằm bảo vệ sản xuất trong nớc trong những tr-
22
ờng hợp sản xuất trong nớc bị thiệt hại do tác động của hàng nhập khẩu. Đó là
các trờng hợp hàng của nớc ngoài cố tình bán phá giá để đẩy vào thị trờng
Việt Nam; nhằm phá giá thị trờng Việt Nam; hàng nớc ngoài áp dụng chính
sách trợ giá nhập khẩu vào Việt Nam; hàng mà nớc ngoài đang hạn chế sản
xuất nhng Việt Nam lại đang rất cần nhập khẩu; những hàng hoá đang tăng
giá trên thị trờng thế giới, còn thị trờng nội địa đang mất cân đối với quan hệ
Cung- cầu, giá cả đang tăng lên (sốt). Thuế suất tạm thời có thể cao hơn hoặc
thấp hơn thuế suất tiêu chuẩn của từng loại hàng hoá và từng thời điểm.
+ Thuế suất u đãi là loại thuế suất thấp để áp dụng đối với từng nớc mà
Việt Nam cần u đãi trong quan hệ thơng mại theo nguyên tắc thoả thuận
chung (đối với đa phơng ) hoặc trên cơ sở bình đẳng (đối với song phơng ).
3.2.1.2. Thuế xuất khẩu
Là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu. Thuế xuất
khẩu làm cho giá cả quốc tế của hàng hoá bị đánh thuế vợt quá giá cả trong n-
ớc; nó làm hạ thấp tơng đối mức giá cả trong nớc của hàng hoá có thể xuất
khẩu xuống so với mức giá cả quốc tế. Thuế quan xuất khẩu cũng làm tăng
nguồn thu cho ngân sách, nhng nó lại làm cho giá cả quốc tế của hàng hoá bị
đánh giá cao hơn mức giá cả trong nớc. Tuy nhiên tác động của thuế quan
xuất khẩu nhiều khi lại trực tiếp đa đến bất lợi cho khả năng xuất khẩu. Do qui
mô xuất khẩu của một nớc thờng là nhỏ so với dung lợng thị trờng thế giới nên
thuế xuất khẩu sẽ làm hạ thấp tơng đối mức giá trong nớc của hàng có thể
xuất khẩu xuống so với mức giá cả quốc tế; điều đó làm cho sản lợng trong n-
ớc của mặt hàng có thể xuất khẩu sẽ giảm đi và sản xuất trong nớc sẽ thay đổi
bất lợi cho những mặt hàng này. Một mức thuế xuất khẩu cao và duy trì quá
lâu có thể làm lợi cho các địch thủ cạnh tranh, vì vậy mà các nớc công nghiệp
phát triển hiện nay hầu nh không áp dụng thuế xuất khẩu.
Đối với Việt Nam mặc dù biểu thuế xuất khẩu đã đợc điều chỉnh nhiều
lần nhng đến nay diện thu thuế xuất khẩu vẫn còn rộng với 58 nhóm mặt hàng

và với 10 mức thuế suất từ 1%- 45% đợc áp dụng chủ yếu cho các sản phẩm sơ
cấp và các mặt hàng chiến lợc nh gạo, phân bón vô cơ, cà phê, hạt điều phế liệu
thép và sản phẩm gỗ. Hiện nay Việt Nam đang nghiên cứu lập phơng án điều
chỉnh biểu thuế xuất khẩu với 3 loại thuế suất : Thuế suất bằng 0 (đối với những
mặt hàng khuyến khích xuất khẩu; thuế suất thấp dới 10% đối với hàng Nông-
Lâm- Hải sản và hàng công nghiệp tiêu dùng thuế suất trên 10% đối với
khoáng sản, nguyên liệu ) đồng thời biểu thuế xuất khẩu đang đợc điều chỉnh
23
đối với các loại hàng hoá xuất sang các nớc ASEAN theo mục tiêu tiến độ ch-
ơng trình căt giảm thuế quan (CEPT) của AFTA.
3.2.2. Hạn ngạch (Quota)
Hạn ngạch là một công cụ phổ biến của hàng rào phi thuế quan, phục
vụ cho công tác quản lý, điều tiết của nhà nớc về xuất nhập khẩu vừa nhằm
bảo hộ sản xuất trong nớc bảo vệ tài nguyên , vừa cải thiện cán cân thanh
toán. Tính chất chung của hạn ngạch là qui định số lợng hoặc giá trị nhập
khẩu hay xuất khẩu đối với từng nớc bạn hàng và cho từng mặt hàng. Vì thế,
hạn ngạch đợc hiểu là qui định của nhà nớc về số lợng (hoặc giá trị) cao nhất
một mặt hàng hay một nhóm hàng đợc phép xuất hoặc nhập khẩu từ một thị
trờng trong một thời gian nhất định, thông qua hình thức cấp giấy phép (Quota
xuất nhập khẩu ). Quota nhập khẩu là hình thức phổ biến hơn còn Quota xuất
khẩu đợc sử dụng vào nó cũng tơng đơng với biện pháp hạn chế xuất khẩu tự
nguyện,
Hạn ngạch nhập khẩu đa tới hạn chế số lợng nhập khẩu đồng thời gây
ảnh hởng đến giá cả nội địa. Do mức cung thấp giá cân bằng sẽ cao hơn so với
giá trong điều kiện thơng mại tự do. Nh vậy hạn ngạch nhập khẩu tác động t-
ơng đối giống với thuế nhập khẩu. Do hạn ngạch nhập nên giá hàng địa sẽ
tăng lên và nó cho phép các nhà sản xuất trong nớc thực hiện một quy mô sản
xuất với hiệu quả thấp hơn so với điều kiện thơng mại tự do. Nh thế, hạn
ngạch nhập khẩu cũng dẫn tới lãng phí nguồn lực của xã hội giống nh đối với
thuế nhập khẩu và là công cụ quan trọng để thực hiện chiến lợc sản xuất thay

thế nhập khẩu, bảo tiêu sản xuất nội địa.
Đối với Chính phủ và các nhà doanh nghiệp, hạn ngạch cho biết trớc số
lợng hàng nhập khẩu (điều này khác với thuế quan nhập khẩu vì nó phụ thuộc
vào quan hệ Cung- cầu). Do tính chắc chắn hơn thuế nhập khẩu nên các hàng
hoá sản xuất nội địa nó hơn, nhng ngời tiêu dùng lại bị thiệp thòi nhiều hơn
mà ngời đợc hởng lợi nhiều nhất là nhà nhập khẩu.
Hạn ngạch có thể đa lại sự độc quyền đối với những doanh nghiệp đợc
sử dụng hạn ngạch, họ có thể đạt mức giá bán cao để thu lợi nhuận tối đa. Do
đó, làm nảy sinh hiện tợng tiêu cực chạy xin hạn ngạch và mua bán vòng vèo
hạn ngạch. Với đặc tính nêu trên của công cụ hạn ngạch mà trên thế giới hiện
nay, các nớc ít sử dụng công cụ hạn ngạch, đồng thời thờng áp dụng cơ chế
đấu giá hạn ngạch thay cho cơ chế, phân bổ hạn ngạch dễ gây hiện tợng
tiêu cực chạy xin hạn ngạch và mua bán hạn ngạch vòng vèo.
ở Việt Nam trong quá trình tự do hội thơng mại từ năm 1990 đến nay.
Nhà nớc đã từng bớc giảm tối đa các mặt hàng xuất nhập khẩu đợc quản lý
bằng hạn ngạch đơn giản hoá sử dụng công cụ này thông qua thực hiện chế độ
24
hạn ngạch theo định hớng và chuyền sang chế độ quản lý hàng hoá xuất nhập
khẩu theo kế hoạch định hớng (nhà nớc chỉ định một số doanh nghiệp làm đầu
mối kinh doanh 50-70% tổng mức hàng hoá xuất khẩu hoặc nhập khẩu những
mặt hàng xuất nhập khẩu quan trọng có liên quan đến những cân đối lớn của
nền kinh tế nh dầu thô, gạo, xăng dầu, phân bón , sắt thép, vật liệu mỏ); tỷ lệ
còn lại từ 30% đến 60% cho các doanh nghiệp khác đợc phép xuất khẩu hoặc
nhập khẩu các mặt hàng đó; những tỷ lệ này đợc hiểu là kế hoạch định hớng
, không coi là hạn ngạch hoặc chỉ tiêu cố định mà đợc điều chỉnh tuỳ thuộc
vào khả năng của doanh nghiệp (Thông t 04/ TM-XNK ngày 04/4/1994 của
Bộ Thơng mại).
Theo phơng hớng trên danh mục mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu bằng
hạn ngạch liên tục giảm từ năm 1990 đến nay. Hiện nay không có mặt hàng
nhập khẩu nào có quản lý bằng hạn ngạch hàng xuất khẩu chỉ còn mặt hàng

may mặc suất sang EU và mặt hàng gạo đợc quản lý bằng hạn ngạch.
Biểu số 1: Số lợng mặt hàng xuất nhập khẩu quản lý
bằng hạn ngạch từ năm 1990 đến nay của Việt Nam.
Số mặt hàng quản lý
bằng hạn ngạch
1990 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
1. Mặt hàng xuất khẩu 7 4 3 2 1 2 2 2
2.Mặt hàng nhập khẩu 12 4 1 0 0 0 0 0
(Dựa vào các văn bản điều hành xuất nhập khẩu hàng năm của nhà nớc của
Bộ Thơng mại ).
Để khắc phục những khả năng phát sinh tiêu cực và những bất bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế, bất bình đẳng giữ các doanh nghiệp đợc cấp hạn
ngạch với các doanh nghiệp không đợc cấp hạn ngạch. Nghị quyết hội nghị
lần thứ IV BCH TW Đảng khoá VIII đã đề ra chủ trơng biện pháp khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu, trong đó khẳng định thu hẹp
diện mặt hàng quy định hạn ngạch Quota xuất khẩu, nhập khẩu thay bằng
chính sách thuế áp dụng phơng thức đấu thầu công khai đối với mặt hàng cha
bỏ đợc hạn ngạch (Văn kiện hội nghị lần thứ IV BCH TW Đảng khoá VIII
của Đảng cộng sản Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 1998 trang 58).
3.2.3. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện .
Đây là một hình thức của hàng rào mậu dịch phi quan thuế. Hạn chế
xuất khẩu tự nguyện (Voluntary Export Restraids- VER) là một biện pháp
hạn chế xuất khẩu mà theo đó một quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc gia xuất
khẩu phải hạn chế bớt lợng hàng xuất khẩu sang nớc mình một cách tự
25

×