PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Tỉnh Thừa Thiên Huế có bờ biển dài 126 km và đầm phá Tam Giang – Cầu
Hai,… rất thuận lợi cho việc khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản. Hệ
thống đầm phá Tam Giang – Cầu Hai rộng trên 22.000 ha mặt nước, trải dài qua
5 huyện, tiếp xúc với 78 thôn, và được xem có ý nghĩa quan trọng đối với tỉnh
Thừa Thiên Huế [08]. Trong đó đầm Cầu Hai là đầm có diện tích lớn nhất
khoảng 10.000ha, đầm nằm về phía Nam của tỉnh, thuộc địa bàn huyện Phú Lộc
và thông với cửa biển Tư Hiền, có sự trao đổi giữa môi trường nước lợ và nước
mặn nên hệ động thực vật ở đây khá phong phú. Lộc Bình và Vinh Hiền là 2 xã
thuộc huyện Phú Lộc, chiều dài hai xã hợp với cửa biển Tư Hiền tạo thành một
vòng cung bao bọc lấy đầm Cầu Hai về phía Đông Bắc. Đây là nơi có nguồn tài
nguyên thủy sản dồi dào nhất vùng, sản lượng thủy sản đánh bắt mỗi năm của
người dân ở đây rất lớn, hàng năm đều có các luồng di cư của tôm cá từ biển vào
trong đầm.
Theo sự phát triển của xã hội, số lượng người sống mưu sinh dựa vào đầm
ngày càng tăng, không những thế mà cường độ đánh bắt ngày một lớn. Sự phát
tiển không kiểm soát của ngư cụ cố định mà chủ yếu là sáo đã gây cản trở giao
thông thủy, cản trở dòng chảy, sự di cư của các loài thủy sản, gây nên hiện tượng
bồi lắng, khiến môi trường nước trong đầm ngày càng ô nhiễm và làm cho ngư
trường khai thác tự nhiên giảm dần. Bên cạnh đó, một số loại ngư cụ đánh bắt
mang tính hủy diệt như rà điện, xiếc điện vẫn còn tồn tại, đặc biệt trong thời gian
gần đây xuất hiện một loại ngư cụ mới là Lừ. Với khả năng đánh bắt được nhiều
loại thủy sản nên trong thời gian ngắn lừ đã phát triển rất nhanh về số lượng
cũng như số hộ tham gia. Việc gia tăng nhanh chóng số lượng lừ làm gia tăng áp
lực khai thác lên tài nguyên vùng đầm. Những mâu thuẫn xung đột giữa các đối
tượng khai thác trên đầm cũng thường xuyên xảy ra hơn.
Trước tình hình đó, thì phương thức quản lý Nhà nước theo kiểu tập trung,
chủ yếu dựa vào các đơn vị hành chính cấp xã, huyện tỏ ra không hiệu quả.
Nhằm khắc phục vấn đề này, trong những năm qua UBND tỉnh đã có nhiều
chính sách, chương trình, dự án hướng đến quản lý và khai thác bền vững tài
nguyên đầm phá. Trong số những chương trình dự án đó, nổi bậc lên là mô hình
Đồng quản lý (ĐQL) thủy sản dựa vào cộng đồng. ĐQL được xem như là
phương thức quản lý hữu hiệu đối với các vùng KTTS nội địa và ven bờ, các
vùng nước có chung nhiều mục đích khai thác và sử dụng khác nhau. Phương
thức ĐQL với lợi thế là có thể huy động sức mạnh tổng hợp của các bên liên
quan, đặc biệt là sự tham gia của người dân trong việc quản lý khai thác sử dụng
và bảo vệ môi trường, tiềm năng nguồn lợi thủy sản tại những vùng nước đã xác
định. Do đó phương thức này đang tỏ ra sẽ mang lại hiệu quả tốt trong quản lý
khai thác sử dụng và bảo vệ môi trường, tiềm năng nguồn lợi thủy sản nhờ việc
chia sẻ quyền và trách nhiệm giữa chính quyền địa phương và các tổ chức cộng
đồng, cơ chế phân phối lợi ích bình đẳng dựa trên sự đồng thuận.
Thông qua việc phát triển hệ thống quản lý nghề cá dựa vào cộng đồng sẽ
giảm nhẹ được chi phí quản lý cho nhà nước, phát huy tính dân chủ cơ sở, tính
công bằng trong việc quản lý ngư trường, nguồn lợi thủy sản. Các cộng đồng
ngư dân mà đại diện là các CHNC sẽ là đối tác chính của chính quyền các cấp
trong việc phối hợp quản lý khai thác thủy sản trên đầm phá.Với phương thức
quản lý này, người dân sẽ ý thức được tài nguyên đầm phá là của chính họ, từ đó
họ sẽ có ý thức hơn trong việc khai thác và bảo vệ tài nguyên thủy sản vùng
đầm.
Nhằm đáp ứng mục tiêu quản lý nghề cá tại địa phương, vào năm 2003, 2006
Chi hội Nghề cá Lộc Bình I và Chi hội Nghề cá đầm phá Vinh Hiền lần lượt
được thành lập và tiến hành các hoạt động ĐQL với sự phối hợp của nhiều cơ
quan, ban ngành, chính quyền địa phương cũng như cộng đồng ngư dân. Và để
xem xét các tác động của ĐQL đến quản lý tài nguyên thủy sản và cải thiện sinh
kế của người dân, tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Đánh giá mô hình Đồng quản lý
thủy sản đầm phá tại xã Lộc Bình và Vinh Hiền, tỉnh Thừa Thiên Huế”.
1.2. Mục tiêu của đề tài
- Tìm hiểu tiến trình xây dựng mô hình Đồng quản lý thủy sản tại 2 xã Lộc
Bình và Vinh Hiền.
- Tìm hiểu và đánh giá các hoạt động quản lý và hỗ trợ sản xuất thủy sản do
chi hội Nghề cá thực hiện tại xã.
- Đánh giá kết quả thực hiện Đồng quản lý đối với chất lượng tài nguyên môi
trường đầm phá và cải thiện sinh kế người dân.
PHẦN 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Đồng quản lý và các loại hình Đồng quản lý
2.1.1. Khái niệm
Theo Hà Xuân Thông (2001), Đồng quản lý được hiểu như là cách thức chia
sẻ hoặc phân định quyền lực và trách nhiệm giữa chính quyền và những người
sử dụng nguồn lợi nhằm quản lý một đối tượng nguồn lợi nào đó như nguồn lợi
cá, vùng rạn san hô, vùng nuôi thủy sản hoặc hồ chứa, một cánh rừng… phạm vi
và cách thức chia sẻ quyền lực và trách nhiệm không giống nhau ở các nước
khác nhau và các địa phương khác nhau, do những điều kiện và nền văn hóa
khác nhau [01].
Theo Sen và Nielsen (1996) định nghĩa Đồng quản lý là một sự sắp xếp có sự
chia sẻ về mặt sức mạnh cũng như quyền lực nhằm quản lý nguồn lợi thủy sản
giữa các nhóm người sử dụng nguồn lợi và chính quyền [09].
Theo Pomeroy và Viswanathan (2003) thì các bên liên quan trong Đồng quản
lý bao gồm các tổ chức phi Chính phủ, nhóm người sử dụng nguồn lợi và chính
quyền. Đồng quản lý bao gồm quyền tham gia trong việc đưa ra các quyết định
quan trọng quy định cách thức, khi nào, ở đâu, bao nhiêu, và đối tượng nào được
khai thác.
Theo Jentoft và cộng sự (1998) đã cụ thể hóa thêm khi giải thích: “Đồng
quản lý là quá trình phối hợp và hợp tác trong việc đưa ra các quyết định quản
lý giữa đại diện các nhóm sử dụng nguồn lợi, Chính phủ, tổ chức nghiên cứu.
Theo nghĩa ai là người ra quyết định có hai thái cực: quyền lực của nhà nước và
quyền lực của ngư dân. Hình thức quản lý trên xuống, nhà nước đưa ra các
quyết định đơn độc còn người dân thụ động thực hiện. Ngược lại ĐQL tạo cho
người sử dụng nguồn lợi có quyền hành, tổ chức và thực hiện hệ thống quản lý
của riêng họ”.
ĐQL có thể được xem là quá trình trung gian giữa mối quan tâm của chính
quyền về tính hiệu quả, bình đẳng xã hội và mối quan tâm của địa phương đối
với việc tham gia tích cực và tự điều tiết. ĐQL bao gồm một thỏa thuận chính
thức hoặc không chính thức giữa các bên tham gia để chia sẽ quyền lực và trách
nhiệm. ĐQL có thể đóng vai trò như một cơ chế không chỉ đối với quản lý nghề
cá mà còn đối với cộng đồng và phát triển kinh tế xã hội nhằm tăng cường sự
tham gia của cộng đồng và ngư dân trong việc giải quyết các vấn đề và nhắm tới
các nhu cầu. Trong một số trường hợp, ĐQL chỉ có thể đơn thuần là công nhận
mang tính hình thức của một hệ thống quản lý nghề cá đang tồn tại, một số chiến
lược quản lý dựa vào cộng đồng theo phong tục và không chính thức vẫn tồn tại,
đang hoạt động song song với các chiến lược quản lý cấp Nhà nước [09].
ĐQL phù hợp trong bối cảnh có một cộng đồng mạnh, có sự cam kết hỗ trợ
của các bên liên quan. ĐQL cần sự thay đổi trong cách nhìn của các nhà quản lý
tài nguyên thiên nhiên về cộng đồng và cơ sở tài nguyên của họ và cần có một
khuôn khổ chính sách hỗ trợ cho nó. Cùng quản lý, cùng đưa ra quyết định là
một giải pháp công bằng và hữu hiệu đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên
và các khu bảo tồn bao gồm: rừng đặc dụng, tài nguyên mặt nước, các hệ sinh
thái khác,… ĐQL thực sự là một giải pháp hữu hiệu cho việc quản lý các tài
nguyên dùng chung.
2.1.2. Quá trình phát triển
- Khái niệm quản lý nghề cá dựa vào cộng đồng có từ thế kỷ 19 trên thế giới,
được qui định trong Luật nghề cá Lofoten năm 1897 của Nauy. Sau đó là Nhật
Bản từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đã hình thành việc quản lý nghề cá dựa vào
cộng đồng; năm 1992 FAO có tổ chức hội thảo về phát triển hệ thống quản lý
nghề cá ven bờ dựa vào cộng đồng ở các nước Châu Á tại Kobe, Nhật Bản [04].
Đến nay, hầu hết các nước trên thế giới từ những nước nghèo, đang phát triển
như châu Phi, châu Á đến các nước mới nổi ở như Hàn Quốc, Ấn độ, Trung
Quốc đến các nước phát triển như châu Âu như Anh, Đan Mạch, Na uy, Úc, Mỹ
cũng đã và đang áp dụng phương thức quản lý này vào nghề cá của họ.
Trước những thành công của phương thức ĐQL nguồn lợi ven biển nói
chung, quản lý nghề cá thế giới nói riêng, Bộ NN & PTNT (Bộ Thuỷ sản cũ) đã
rất quan tâm đến phương thức quản lý này và ngay từ những năm đầu của thập
kỷ 90 (1991), Bộ Thuỷ sản đã cho phép Viện Kinh tế và Quy hoạch thuỷ sản
hợp tác với các tổ chức quốc tế tiến hành nghiên cứu vấn đề này. Từ đó đến nay,
đã có một số hợp tác nghiên cứu, hội thảo, tham quan nước ngoài nhằm phát
triển phương thức ĐQL trong quản lý nghề cá ở Việt Nam.
Bằng nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế và trong nước, của các địa
phương, đến nay đã có 34 mô hình ĐQL đã được triển khai và áp dụng tại Việt
Nam bao gồm cả nuôi trồng và khai thác thuỷ sản tại 18 tỉnh, thành phố ở 7
Vùng sinh thái [04].
Năm 2005, Bộ NN & PT đã chỉ đạo hình thành nhóm công tác nghiên cứu
áp dụng phương thức ĐQL trong quản lý nghề cá và giao cho Viện Kinh tế và
Quy hoạch thuỷ sản chịu trách nhiệm điều phối hoạt động của Nhóm. Từ năm
2007 đến nay, với sự hỗ trợ của Dự án SCAFI có rất nhiều hoạt động về đồng
quản lý đã và đang được triển khai ở Trung ương và tiến hành xây dựng 9 mô
hình ĐQL tại 9 tỉnh điểm gồm: Sơn La, Quảng Ninh, Nghệ An, Thừa Thiên
Huế, Bình Định, Đắc Lắc, Bến Tre, An Giang và Cà Mau [04].
2.1.3. Các loại hình đồng quản lý
Theo Sen và Nielsen (1996), có các loại Đồng quản lý sau [09]:
- Truyền đạt kiến thức: Chỉ có sự trao đổi thông tin tối thiểu giữa chính
quyền và ngư dân. Chính quyền ủy nhiệm thẩm quyền cho các cộng đồng ngư
dân ra những quyết định, và cộng đồn ngư dân chịu trách nhiệm thông báo cho
chính quyền những quyết định này. Trên thực tế, nó có thể không phải là một sự
sắp xếp Đồng quản lý chính thức nhưng nó là hình thức truyền thống của Đồng
quản lý thủy sản được Nhà nước công nhận. Hình thức Đồng quản lý truyền đạt
kiến thức có thể là sự ủy nhiệm thẩm quyền chính thức hoặc là thừa nhận tập
quán truyền thống cũng như quyền lực truyền thống.
- Chỉ thị: hình thức Đồng quản lý này ít có sự chia sẻ thông tin giữa chính
quyền và người dân. Kiểu đồng quản lý theo chỉ thị khác với hình thức quản lý
tập trung ở điểm là ở đây vẫn có cơ chế đối thoại với ngư dân, nhưng cuối cùng
chính quyền vẫn quyết định những kế hoạch quản lý, và ngư dân sẽ được thông
báo về những kế hoạch này.
- Tư vấn: có nghĩa là tham khảo ý kiến giữa các bên đối tác, tuy nhiên Nhà
nước lại đưa ra kết luận cuối cùng. Hình thức Đồng quản lý tư vấn đòi hỏi chính
quyền phải tư vấn một cách tích cực cho cộng đồng, tuy nhiên Chính phủ mới là
bên có trách nhiệm đưa ra những kết quả cuối cùng.
- Hợp tác: trong hình thức quản lý này, chính quyền và ngư dân hợp tác với
nhau, với tư cách là những đối tác ngang nhau. Có quyền như nhau trong việc
đưa ra các quyết định. Như vây, cả chính quyền và người dân có trách nhiệm và
quyền hạn như nhau.
- Tham vấn: chính là việc người dân tư vấn cho chính quyền và tìm kiếm sự
ủng hộ từ phía chính quyền khi họ tự đưa ra quyết định của mình. Đối với hình
thức tham vấn, ngư dân tham vấn cho chính quyền trong việc đưa ra các quyết
định. Chính quyền lúc đó sẽ được yêu cầu đưa ra quyết định.
2.2. Các quyền, cơ chế quyền đối với tài nguyên:
2.2.1. Phân loại quyền:
Quyền đối với tài nguyên thể hiện sự làm chủ của chủ thể đối với loại tài
nguyên đó. Diện tích mặt nước thuộc sở hữu toàn dân nên mọi đối tượng đều có
quyền tiếp cận, khai thác. Các hộ tự do chiếm dụng mặt nước để khai thác và
được cộng đồng thừa nhận về quyền sở hữu. Từ đó, các hộ dân có quyền khai
thác, quyền ngăn cấm người khác khai thác và quyền chuyển nhượng. Các quyền
đối với tài nguyên mặt nước không giống nhau đối với các loại hình khai thác.
Đối với KTCĐ thì quyền đối với tài nguyên được thể hiện trên một khu vực nhất
định, cụ thể là vị trí trộ sáo hay miệng đáy. Đối với KTDĐ thì các quyền thể
hiện ở vị trí đánh bắt, việc khai thác tuân theo nguyên tắc “người đến trước khai
thác trước”. Thực trạng quyền hiện nay đã có sự thay đổi khi số hộ khai thác
cũng như số ngư cụ tăng nhanh làm xuất hiện các xung đột quyền giữa các đối
tượng khai thác, sự can thiệp của các chính sách nhà nước cũng làm thay đổi các
quyền.
Các quyền đối với tài nguyên (Ostrom, 1994 and Pomeroy, 1994) và khung
phân tích do Barry và Meizen-Dick (2008) đề xuất bao gồm các quyền: quyền
tiếp cận, quyền khai thác/thu hoạch, quyền quản lý, quyền dành riêng hay loại
trừ, và quyền chuyển nhượng trao đổi. Việc thực hiện các quyền tài sản đối với
tài nguyên không tách rời nhau mà có liên hệ chặt chẽ, ví như thực hiện tiếp cận
gắn liền với thu hoạch theo các quy chế quản lý nhất định. Vì vậy, để phân tích,
xem xét việc thực hiện các quyền đối với tài nguyên, các quyền này được xem
xét trong tập hợp quyền.
- Quyền tiếp cận có thể coi là quyền tham gia vào các hoạt động quản lý, sử
dụng tài nguyên. Quyền tiếp cận xác định chủ thể tiếp cận, đối tượng tiếp cận,
mức độ tiếp cận theo các tiêu chí không gian, thời gian, phương thức tiếp
cận[12].
- Quyền thu hoạch xác định loại và lượng tài nguyên được chủ thể tiếp cận
lấy ra khỏi hệ tài nguyên theo các tiêu chí cụ thể về không gian và thời gian,
phương thức tiếp cận…
- Quyền quản lý là các quyết định về thể thức hoạt động, xây dựng các cơ
chế về quyền tài sản, phân vùng quy hoạch, xây dựng quy chế hoạt động quản lý
và sử dụng tài nguyên, tổ chức giám sát/kiểm soát thực hiện quy chế và giải
quyết xung đột.
- Quyền dành riêng hay quyền loại trừ là quyền ngăn cản tiếp cận tài nguyên
của người khác hoặc không cho phép ai đó tiếp tục tham gia vào hoạt động quản
lý và khai thác một loại tài nguyên nào đó.
- Quyền chuyển nhượng là quyền được trao đổi, mua bán, thay đổi chủ thể
quyền, hoặc sử dụng các quyền tài sản đối với tài nguyên cho các mục đích khác
nhau [12].
2.2.2 Cơ chế quyền đối với tài sản [12]
Cơ chế quyền tiếp cận mở: cơ chế quyền tiếp cận mở đối với tài nguyên đầm
phá là cơ chế tiếp cận rất phổ biến đã tồn tại từ lâu đời. Người xưa có câu “điền
tư, ngư chung”, nghĩa là đất nông nghiệp là tài sản riêng, còn tài nguyên thủy sản
là tài sản chung. Tất cả các hộ có quyền tiếp cận mặt nước cho mục đích khai
thác thủy sản. Đối với khai thác thủy sản di động, các hộ tự do lựa chọn vị trí,
hình thức, quy mô khai thác với quy ước chung là người đến trước sẽ được làm
trước. Đối với khai thác thủy sản cố định, cơ chế tiếp cận mở đã bị thay đổi khi
diện tích đầm phá cho nò sáo không còn. Để duy trì vị trí nò sáo của mình, các
chủ sáo đã hình thành tổ chức của họ và thông qua chính quyền xã thiết lập cơ
chế dành riêng. Nhóm này cùng nhau chia sẻ quyền tiếp cận mặt nước trong một
khu vực nhất định. Như thế họ đã ngăn sự gia tăng số lượng trộ nò vì lợi ích của
nhóm.
Cơ chế quyền tài sản công cộng: cơ chế quyền tài sản công cộng được hiểu
một cách nôm na là tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Với cơ chế này, thì tất cả tài
nguyên chưa giao cho các đối tượng khác đều là sở hữu công cộng. Cơ chế
quyền tài sản công cộng được thiết lập trong một số hoạt động cụ thể như giao
thông thủy. Chủ thể trong cơ chế quyền tài sản công cộng là các cơ quan và
doanh nghiệp nhà nước. Chính quyền xã được coi là chủ thể trực tiếp đối với tài
sản công cộng. Chính quyền xã tổ chức đấu thầu và hợp đồng ngắn hạn với các
hộ hay nhóm hộ ngư dân sử dụng để tăng ngân sách địa phương.
Cơ chế quyền tài sản cộng đồng hay tập thể: là để chỉ cơ chế quyền đối với
tài nguyên cộng đồng hay cục bộ. Trong cơ chế này, một nhóm người nhất định
cùng nhau quản lý và chia sẻ lợi ích chung từ việc quản lý và sử dụng nguồn lợi.
Cơ chế này được áp dụng khá phổ biến trong hoạt động khai thác thủy sản ở
đầm Cầu Hai, tuy nhiên tính pháp lý chưa cao. Cơ chế này được thiết lập và duy
trì dựa vào tập tục cùng với hỗ trợ của chính quyền xã. Các hộ nò sáo có được vị
trí mặt nước do tự chiếm dụng hoặc chuyển nhượng, họ liên kết với nhau để
kiểm soát số lượng trộ nò, đăng kí danh sách và nộp lệ phí cho xã. Thực hành
này đã hỗ trợ pháp lý cho cơ chế quyền tài sản tập thể đối với hoạt động nò sáo.
Cơ chế quyền tài sản tập thể ở hệ đầm phá Cầu Hai cũng được thiết lập trong
một số các hoạt động khác nhằm mang lại lợi ích chung cho một bộ phận cộng
đồng. Các hình thức bảo vệ nguồn lợi đầm phá dựa vào cộng đồng là một hình
thức thuộc cơ chế này. Nó được thiết lập dựa vào truyền thống, cộng đồng tự tổ
chức tuần tra, ngăn chặn và vận động cấm khai thác hủy diệt. Chính quyền xử lý
các hộ vi phạm đã củng cố quyền tập thể đối với lãnh thổ mặt nước đầm phá của
họ. Chủ thể quyền trong cơ chế này bao gồm các tổ chức cộng đồng như các
nhóm nghề nghiệp, thôn, HTX, các nhóm tự quản và các chi hội Nghề cá.
Cơ chế quyền tài sản cá nhân: là quyền dành riêng cho hộ hay cá nhân đối
với tài nguyên. Ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, một số quyền dành riêng cho
cá nhân trong khai thác thủy sản đã được hình thành trong quá khứ. Các quyền
này không được thừa nhận về pháp lý mà chỉ hình thành theo luật tục và được
cộng đồng thừa nhận. Cụ thể như: các khu vực gần trộ nò và trước miệng các trộ
đáy có thể coi là vùng dành riêng cho các chủ trộ nò hay trộ đáy vì các hộ khác
không thể hành nghề ở vị trí này.
2.3. Tổ chức cộng đồng trong xây dựng đồng quản lý
2.3.1. Vai trò tổ chức cộng đồng
Vai trò chính quyền cấp xã: Chính quyền cấp xã là cầu nối quan trọng giữa
các cơ quan chức năng và cộng đồng địa phương trong việc quản lý tài nguyên
đầm phá. Chính quyền có vai trò hỗ trợ về mặt pháp lý và hỗ trợ xúc tiến các
hoạt động ĐQL. Truyền đạt, thực hiện các ý kiến chỉ đạo của cấp huyện, cấp
tỉnh, đồng thời đề đạt các ý kiến của cộng đồng người dân lên các cấp có thẩm
quyền. Xử lý các vụ việc xung đột mâu thuẫn liên quan đến đầm phá và lợi ích
của các hộ dân.
Vai trò của các tổ chức đoàn thể: Hiện nay, các tổ chức đoàn thể như Hội
Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, và một số tổ
chức hội khác đang dần phát huy hiệu quả trong công tác bảo vệ và phát triển tài
nguyên đầm phá ở Thừa Thiên Huế. Các đoàn thể thông qua sự tư vấn, hỗ trợ
của các cơ quan chức năng đã từng bước thể hiện mình như một tổ chức chuyên
sâu trong lĩnh vực bảo tồn tài nguyên thủy sản đầm phá. Đoàn Thanh niên đã
lồng ghép các hoạt động bảo tồn thiên nhiên vào chương trình hoạt động chính
như phát động phong trào vệ sinh môi trường đầm phá, tuyên truyền nâng cao ý
thức giữ gìn vệ sinh môi trường của người dân.
Vai trò của cộng đồng dân cư địa phương: Cộng đồng người dân địa phương
tham gia nhiều lĩnh vực trong hoạt động bảo tồn và phát triển tài nguyên thủy
sản, vai trò của họ là không nhỏ trong kết quả đạt được. Họ chính là những
người sống ở gần nguồn tài nguyên nhất, có điều kiện theo dõi, kế thừa thông tin
lịch sử diễn biến, có kiến thức bản địa truyền thống. Lợi ích của nguồn tài
nguyên đầm phá thật sự gắn bó trực tiếp, thường xuyên đối với cộng đồng người
dân địa phương nên chính họ sẽ là lực lượng thường xuyên tham gia bảo vệ, giữ
gìn và phát huy nó. Cộng đồng địa phương là tai mắt, là lực lượng nòng cốt
chính trong tất cả các hoạt động nhằm ngăn chặn các hành vi khai thác tài
nguyên trái phép cũng như góp phần phát triển bền vững nguồn tài nguyên này.
2.3.2. Cơ sở pháp lý cho việc thành lập Hội nghề cá
Các quy phạm pháp luật quốc tế mà Việt Nam tham gia [03]
- Bộ quy tắc ứng xử Nghề cá có trách nhiệm 1995 của Tổ chức Lương nông
thế giới mà Việt Nam đã tham gia. Trong đó quy định đánh bắt cá phải có trách
nhiệm với xã hội cũng như thế hệ tương lai.
- Nghị quyết về Nghề cá bền vững vì an ninh lương thực trong khu vực
ASEAN, năm 2001 do Bộ trưởng Thủy sản các nước ASEAN đã kí. Điều 6
trong nghị quyết nêu rõ: Nghề cá ven bờ đã khai thác quá mức.
- Kế hoạch hành động vì Nghề cá bền vững, vì an ninh lương thực trong khu
vực ASEAN, do các quan chức cấp cao các nước soạn thảo 2001 và thông qua.
Các quy phạm pháp luật Nghề cá đang hiện hành ở Việt Nam [04]
- Pháp lệnh bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản 1989 của Hội đồng Nhà
nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
- Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng về việc thi hành pháp lệnh bảo vệ và
phát triển nguồn lợi thủy sản 1990 của Hội đồng Bộ trưởng.
- Thông tư hướng dẫn pháp lệnh ngày 25/04/1989 của HĐNN và nghị định
số 195-HĐBT ngày 02/06/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về bảo vệ và phát triển
nguồn lợi thủy sản.
- Quy hoạch tổng thể ngành thủy sản đến năm 2010: các chính sách và chiến
lược hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển.
- Quy hoạch tổng thể ngành thủy sản đến năm 2010: “Chương trình phát
triển chiến lược hợp lý hóa khai thác thủy sản”. Bộ thủy sản – Bộ Kế hoạch và
Đầu tư.
- Luật Thủy sản ngày 26/11/2003. Khoản 1 điều 5: “Nhà nước có chính
sách bảo đảm phát triển thủy sản bền vững; khuyến khích, tạo điều kiện thuận
lợi cho tổ chức, cá nhân khai thác và sử dụng hợp lý nguồn lợi thủy sản; bảo
đảm tái tạo nguồn lợi thủy sản và phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển, sông,
hồ, đầm, phá và các vùng nước tự nhiên khác ”.
- Quyết định số 131/2004/QĐ-TTg ngày 16/7/2004 về phê duyệt Chương
trình bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản đến năm 2010. Nội dung chương
trình: “Xây dựng các mô hình tổ chức quản lý vùng biển ven bờ phù hợp với tập
quán, truyền thống của ngư dân địa phương. Đồng thời phát huy và nâng cao
vai trò của cộng đồng ngư dân trong hoạt động quản lý, bảo vệ nguồn lợi và
môi trường sống của các loài thủy sản…”
- Nghị định số123/2006/NĐ-CP ngày 27/10/2006 Về quản lý hoạt động khai
thác thuỷ sản của tổ chức, cá nhân Việt Nam trên các vùng biển. Khoản 6 Điều
10: “Trách nhiệm của Bộ Thuỷ sản là hướng dẫn UBND cấp tỉnh xây dựng cơ
chế, chính sách hỗ trợ cho ngư dân chuyển đổi nghề nghiệp khai thác ven bờ
sang các nghề khác; quản lý dựa vào cộng đồng đối với vùng biển ven bờ; nội
dung pháp luật liên quan đến hoạt động khai thác thủy sản phục vụ công tác
tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở địa phương". Khoản 4 điều 12: Trách nhiệm
của UBND các tỉnh: “…Phân cấp quản lý tuyến bờ cho UBND cấp huyện, cấp
xã; phát triển các mô hình quản lý có sự tham gia của cộng đồng đối với việc
quản lý nguồn lợi thuỷ sản ở tuyến bờ”.
- Chỉ thị số 03/2006/CT-BTS ngày 27.03.2006. Tăng cường quản lý khai
thác các họat động thủy sản trên các vùng biển Việt Nam. “….tổ chức lại quản
lý vùng biển ven bờ theo hình thức dựa vào cộng đồng, nghiên cứu xây dựng các
mô hình tổ chức phù hợp với từng vùng biển; đề xuất chính sách giao quyền cho
cộng đồng quản lý vùng biển ven bờ để Bộ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét,
phê duyệt”.
- Chỉ thị số 02/2007/CT-BTS ngày 15.06.2007. Tăng cường quản lý nghề cá
nội địa: “….Quản lý nghề cá nội địa với sự tham gia của cộng đồng; phải gắn
trách nhiệm cuả người dân trong việc khai thác, bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản và
bảo vệ môi trường. Hướng dẫn người dân thành lập Hợp tác xã, tổ nhóm, hội và
giao phối hợp với chính quyền địa phương quản lý việc khai thác, nuôi trồng
thuỷ sản trên sông, hồ, đầm, phá…”
- Công văn số 1700/BNN-KTBVNL ngày 16.06.2009. Về việc thực hiện
Đồng quản lý nghề cá quy mô nhỏ. Thúc đẩy các hoạt động triển khai thực hiện
mô hình Đồng quản lý Nghề cá quy mô nhỏ tại Việt Nam
Các quy phạm pháp luật Nghề cá do UBND tỉnh TTH ban hành
- Quyết định số 3677/QĐ-UB ngày 25/10/2004 của UBND tỉnh Thừa Thiên
Huế, phê duyệt quy hoạch tổng thể quản lý khai thác thủy sản vùng đầm phá đến
năm 2010. Điểm 8 trong điều 1 quy định: “Phát triển hệ thống Nghề cá dựa vào
cộng đồng để giảm nhẹ chi phí quản lý Nhà nước, đồng thời phát huy tính dân
chủ cơ sở của các tổ chức ngư dân trong việc tự quản ngư trường, nguồn lợi
thủy sản, môi trường thủy sinh và các lĩnh vực liên quan như: giao thông thủy,
phòng chống lụt bão, cứu hộ cứu nạn… tổ chức ngư dân các cấp nằm trong hệ
thống nghề cá Việt Nam là đối tác chính để chính quyền phối hợp quản lý khai
thác thủy sản nói riêng và quản lý Nghề cá nói chung trên đầm phá Thừa Thiên
Huế”.
- Quy chế quản lý khai thác thủy sản đầm phá Thừa Thiên Huế ban hành
cùng quyết định số 4260/2005/QĐ-UB, ngày 19/12/2005 của UBND tỉnh Thừa
Thiên Huế [07]. Trong quy chế, tổ chức ngư dân cấp cơ sở được chỉ định là tổ
chức xã hội nghề nghiệp, cụ thể chi hội Nghề cá trực thuộc hệ thống Hội Nghề
cá Việt Nam. Quy chế quy định cơ chế phân quyền cho ngư dân: “ Chi hội nghề
cá cấp cơ sở được Nhà nước ủy quyền quản lý nguồn lợi, thủy sản trên một thủy
vực nhất định. Trên cơ sở đó, Chi hội Nghề cá tự chủ điều phối các hoạt động
khai thác thủy sản của các thành viên một cách sáng tạo, phù hợp, đảm bảo lợi
ích hài hòa cho từng thành viên trong lợi ích chung của tổ chức và toàn xã hội”.
- Kế hoạch quản lý nghề cá của tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay là giao vùng
mặt nước cho các chi hội Nghề cá cấp cơ sở khai thác, nuôi trồng trong thủy vực
để cộng đồng chủ động cùng nhau quản lý. UBND tỉnh sẽ ủy quyền cho UBND
các huyện có vùng đầm phá được cấp quyền khai thác thủy sản cho các tổ chức
ngư dân cấp thôn, xã trong vùng mặt nước cụ thể thuộc địa bàn quản lý trên cơ
sở số lượng ngư cụ mùa vụ và đối tượng đánh bắt. Quyền khai thác thủy sản trên
vùng đầm phá điều 14 quy định: “các quyền hạn và trách nhiệm ngăn chặn kịp
thời hành vi vi phạm pháp luật thủy sản, trách nhiệm bảo vệ ngư trường, phát
triển nguồn lợi thủy sản, trách nhiệm bảo đảm luồng tuyến giao thông, trách
nhiệm phòng chống suy thoái môi trường vùng nước và nghĩa vụ thuế cho nhà
nước”.
Như vậy, chi hội Nghề cá cấp cơ sở đã được giao đầy đủ quyền hạn, cũng như
trách nhiệm trong việc khai thác, quản lý bảo vệ nguồn lợi thủy sản đầm phá.
Quản lý khai thác thủy sản đầm phá là nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan
quản lý nhà nước về thủy sản, của UBND các cấp và các cộng đồng sử dụng
nguồn lợi thủy sản đầm phá. Tổ chức ngư dân được giao quyền sử dụng vùng
mặt nước để khai thác thủy sản có trách nhiệm xây dựng kế hoạch, thực hiện các
biện pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, chủ động sản xuất tái tạo
nguồn lợi thủy sản. Do vậy, các cộng đồng sử dụng nguồn lợi thủy sản mà đại
diện là các tổ chức ngư dân được xem như là đối tác của nhà nước trong quản lý
Nghề cá đầm phá Thừa Thiên Huế.
2.3.3. Phát triển hệ thống hội Nghề cá Thừa Thiên Huế [13]
Hội Nghề cá Thừa Thiên Huế (HUEFIS) được thành lập năm 2003 là tổ chức
xã hội - nghề nghiệp tự nguyện của những cá nhân, tổ chức hoạt động trong các
lĩnh vực nghề cá. HUEFIS là thành viên của Hội Nghề cá Việt Nam (VINAFIS)
có phạm vi hoạt động trên toàn quốc.
Mục đích của Hội là tập hợp những cá nhân và tổ chức hoạt động trong các
lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến, tiêu thụ và hậu cần dịch vụ nghề cá
nhằm hợp tác, hỗ trợ nhau về kinh tế - kỹ thuật sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; để
nâng cao giá trị sản phẩm hàng hoá; phòng tránh thiên tai, ngăn ngừa dịch bệnh;
bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản, bảo vệ môi trường; đại diện và bảo vệ
lợi ích hợp pháp của hội viên; góp phần phát triển nghề cá bền vững, từng bước
hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người làm
nghề cá và cộng đồng nghề cá.
Đến cuối năm 2009 HUEFIS đã phát triển được mạng lưới chi hội rộng lớn
với 54 chi hội nghề cá cơ sở hoạt động tại cộng đồng thu hút khoảng 4.500 hội
viên là ngư dân và hộ sản xuất thủy sản. Mạng lưới các chi hội nghề cá vùng
đầm phá Tam Giang – Cầu Hai được củng cố và phát triển đã giúp nâng cao hiệu
quả quản lý tài nguyên, phát triển sản xuất và cải thiện sinh kế cho cộng đồng.
Hội đã có vai trò quan trọng trong việc tăng cường sự phối hợp và hợp tác giữa
cộng đồng với các chương trình, dự án hoạt động trên địa bàn và các phòng ban
chức năng ở địa phương. Kết quả nổi bật là việc thực hiện thành công mô hình
đồng quản lý tài nguyên và vận động cấp quyền khai thác thuỷ sản cho chi hội
nghề cá cơ sở.
2.3.4 Tổng quan quản lý nghề cá trên thế giới và ở Việt Nam
2.3.4.1. Quản lý nghề cá trên thế giới [03]
Các trường phái về quản lý nghề cá trên thế giới
Thế giới hiện nay có 2 trường phái quản lý nghề cá khác biệt rất rõ ràng. Đại
diện tiêu biểu một bên là các nước phương Tây và bên kia là Nhật Bản.
- Các nước phương Tây tuân thủ theo cơ chế tiếp cận mở. Cơ chế này được
hiểu rằng nguồn lợi thủy sản là của tất cả mọi người. Theo cơ chế này thì Chính
phủ sẽ quản lý nguồn lợi thủy sản từ trên xuống.
- Ở Nhật Bản thì lại tuân thủ theo cơ chế tiếp cận giới hạn. Chính phủ sẽ là
cơ quan có quyền ban cấp ngư trường đánh cá, nguồn lợi thủy sản đến ngư dân
thông qua việc cấp quyền đánh cá mà cụ thể là giấy phép đánh cá. Nó được xem
như là một quyền sử dụng lãnh thổ trong nghề cá. Như thế, với một quyền sử
dụng lãnh thổ đã được nhà nước cấp, ngư dân nhận thấy rằng nguồn lợi thủy sản
là của chính họ, từ đó họ sẽ có ý thức hơn trong việc khai thác và bảo vệ nguồn
lợi thủy sản của mình. Nhằm thực hiện việc này, hệ thống quản lý nghề cá dựa
vào cộng đồng đã ra đời và được xem như là một công cụ hữu hiệu trong việc
quản lý nguồn lợi thủy sản.
Quản lý nghề cá nội địa ở Campuchia: Việc quản lý khai thác thủy sản sẽ
do Cục nghề cá đảm trách. Cục nghề cá quản lý theo lô đánh cá cấp cho các làng
ven hồ và gần đây cấp cho các tổ chức cộng đồng ngư dân đánh cá quản lý.
Chính quyền cấp Tỉnh sẽ quản lý phần còn lại trong tỉnh bằng hệ thống giấy
phép.
Ở Campuchia, các bên liên quan cấp huyện, tỉnh, xã và thôn tham gia vào
quản lý nguồn lợi thuỷ sản ít khi làm việc với nhau. Người dân thì quen nhận
văn bản thông tin vào phút cuối còn các cơ quan chức năng thì tự ý thiết kế các
chương trình. Khi Nghị định về Thuỷ sản Cộng đồng được thực thi, tất cả các
bên liên quan phải làm việc cùng nhau nhưng hình như không ai biết bắt đầu từ
đâu. Cũng có một số xung đột tiềm ẩn trong cộng đồng thuỷ sản và các bên liên
quan khác nhau thường không tin tưởng nhau.
Một tổ chức phi chính phủ trong nước ở tỉnh Stung Treng ở Campuchia đã
nghĩ về việc hỗ trợ một cơ chế đơn giản - họ hỗ trợ một cuộc họp liên kết hàng
tháng về thuỷ sản giữa tỉnh và xã. Cuộc họp liên kết có 4 hạng mục định kỳ
trong chương trình nghị sự đó là: (1) giải thích luật cho người dân, (2) báo cáo
các trường hợp đánh bắt sai quy định, (3) thống nhất các giải pháp đối với các
vấn đề chính, và (4) kết nối thôn với các cơ quan nhà nước. Hiện nay, đã có
415.200 hecta vùng mặt nước nội địa của Campuchia đã cấp quyền đánh cá theo
lãnh thổ dưới hệ thống lô đánh cá (fishing lots).
Quản lý nghề cá ven bờ của Nhật Bản: Ở Nhật Bản, giấy phép đánh cá và
quyền đánh cá là những biện pháp quản lý hợp pháp. Hệ thống quản lý nghề cá
Nhật Bản được hình thành và phát triển cũng dựa trên nền tảng này.
Ngư dân Nhật Bản được tổ chức đến các Hiệp hội nghề cá theo luật hợp tác
nghề cá Nhật Bản. Điều này làm tăng cơ hội cho ngư dân trao đổi với nhau về
việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Ban đầu chính phủ Nhật Bản không khuyến
khích ngư dân tạo ra hệ thống quản lý Nghề cá dựa vào cộng đồng, nhưng nhờ
việc trao quyền khai thác cho một nhóm ngư dân nhất định mà đại diện là Hiệp
hội nghề cá đã làm cho họ bắt đầu nhận thấy nguồn lợi thủy sản trong vùng là sở
hữu của chính họ, đó chính là động lực cho ngư dân sáng tạo ra hệ thống quản lý
nghề cá dựa vào cộng đồng.
Hiện nay, số hộ ngư dân Nhật Bản vùng ven bờ tham gia vào các Hiệp hội
Nghề cá là 69.985 người, bao gồm hầu hết ngư dân ven bờ. Có 1.524 tổ chức
quản lý Nghề cá dựa vào cộng đồng có sự tự quản lý nhau, và cùng nhà nước
quản lý nguồn lợi thủy sản.
2.3.4.1. Quản lý nghề cá ở một số vùng trong nước
Quản lý nghề cá nội địa ở một số tỉnh phía Bắc [03]: Nghề cá nội địa, đặc
biệt là nghề cá hồ chứa ở các tỉnh miền Bắc XHCN trước đây là điển hình tiên
tiến về tính liên hợp trong quản lý khai thác tổng hợp kinh tế nghề cá. Khi đó,
các hồ chứa thường được một đơn vị Nhà nước quản lý, khai thác sử dụng
nguồn lợi thủy sản. Các hồ chứa thường được thả bổ sung các giống loài thủy
sản để tăng nguồn lợi, hợp nhất việc khai thác và NTTS trên mặt nước lớn,
không ranh giới, be bờ, đắp đập. Khai thác, thu hoạch là khâu cuối cùng của quá
trình liên hợp hóa này. Hiện nay, việc quản lý nghề cá nội địa ở các tỉnh miền
Bắc đang rơi vào tình trạng vô tổ chức. Các đơn vị nhà nước đã giải tán và mỗi
địa phương có hồ, hồ chứa thì việc quản lý nghề cá tùy thuộc vào mối quan tâm
và năng lực của địa phương.
Quản lý nghề cá nội địa ở một số tỉnh miền Trung: Ở khu vực miền Trung
có rất nhiều đầm phá như: Tam Giang – Cầu Hai, Lăng Cô, Thị Nại, Trà Ô, Ô
Loan,… với tổng diện tích lên đến 41.436 ha [03]. Trong số đó hệ thống đầm
Tam Giang – Cầu Hai chiếm đến 21.126 ha, chiếm 51% tổng diện tích các đầm
phá toàn miền Trung. Các đầm còn lại trong khu vực đều nhỏ về diện tích, sản
lượng khai thác tự nhiên so với hệ đầm phá Thừa Thiên Huế. Hiện nay, ở đầm
phá Tam Giang – Cầu Hai tỉnh TTH và đầm Thị Nại, đầm Trà Ô, xã Nhơn Hải,
phường Gềnh Ráng tỉnh Bình Định đã xây dựng thành công mô hình ĐQL nghề
cá và hoạt động có hiệu quả.
Quản lý nghề cá nội địa ở các tỉnh Tây Nguyên: Quản lý nghề cá nội địa ở
các tỉnh Tây Nguyên được chú ý từ khi triển khai dự án Quản lý Nghề cá nội địa
do Ủy hội sông Mekong tài trợ từ năm 1998. Dự án đã triển khai một số mô hình
Đồng quản lý tại các hồ tự nhiên và hồ chứa như: hồ Lak, hồ Easoup, thuộc tỉnh
Daklak [05]. Ở đây đã thực hiện việc quản lý Nghề cá dựa vào tổ chức ngư dân,
thông qua tổ chức ngư dân: Hội nghề cá. Ưu điểm trong mô hình này đó là việc
quản lý thuế khai thác thủy sản đã được ủy quyền cho Hội nghề cá hồ Lak thu và
chỉ nộp 25% số thuế thu được, phần kinh phí còn lại để lại cho ban chấp hành
chi hội chi phí tổ chức bộ máy, những hoạt động bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
2.4. Chuyển biến quản lý tài nguyên ở Phá Tam Giang
Những thách thức trong quản lý hệ sinh thái ven biển đặc biệt phức tạp vì
những vấn đề liên quan đến lợi ích mà đầm phá mang lại trong phát triển NTTS,
những thách thức về kiểm soát dịch bệnh tại các vùng nuôi trồng, và sự phức tạp
về các quy chế quản lý của Nhà nước trong NTTS, sự phát triển không kiểm soát
của các loại ngư cụ đặc biệt là sự tăng nhanh chóng của sáo và lừ khiến nảy sinh
nhiều mâu thuẫn giữa các đối tượng khai thác. Việc thiếu năng lực và sử dụng
phương pháp tiếp cận một chiều từ trên xuống đã góp phần đưa lại sự không
hiệu quả trong công tác quản lý và thực hiện các quy định của chính quyền nhà
nước.
Theo đó, các công cụ đánh bắt và vùng nuôi trồng không hợp lý đã được loại
bỏ để mở rộng đường thủy đạo và cải thiện chất lượng nước, và để gia tăng cơ
hội tiếp cận sử dụng tài nguyên của các đối tượng KTDĐ. Chiến lược này đã tạo
ra các mâu thuẫn giữa các nhóm sử dụng nguồn lợi khác nhau. Thêm vào đó,
chính quyền tỉnh còn đề nghị mở rộng các hoạt động loại bỏ chướng ngại theo
cách trên cho tất cả các vùng để mở rộng đường thủy đạo (bất chấp hậu quả sinh
kế thay đổi đối với nhiều ngư dân) năm 2010. Chính quyền tỉnh thực hiện công
việc này mà ít có sự tham khảo ý kiến các bên liên quan và chuyên gia về
phương pháp thực hiện [02].
Theo hướng dẫn trực tiếp của chính quyền cấp tỉnh, chính quyền xã và các
lãnh đạo thôn đã tổ chức họp để thông báo cho người sử dụng tài nguyên về
những gì sẽ xảy ra và các hoạt động bắt buộc sẽ được thực hiện để đảm bảo sinh
kế khi hoạt động đánh bắt bị loại bỏ. Phần lớn các hộ dân đều không tự nguyện
làm theo những thay đổi này hoặc họ sẽ lập lại các hoạt động như củ mỗi khi các
nhà chức trách không có mặt tại hiện trường. Kết quả của hoạt động này có thể
biết trước được: nếu không có sự hổ trợ và hợp tác của người dân địa phương,
phương pháp này sẽ không thực thi.
Sự đổi mới cơ chế quản lý của nhà nước cùng những thay đổi của hệ thống
pháp luật từ những năm 80 đã tạo ra các đường hướng chính sách ban đầu cho
các hình thức quản lý mới. Những thay đổi về luật đất đai năm 2003 đã tạo điều
kiện cho cá nhân và các cải biến về quyền sở hữu, và cho người dân địa phương
tự tổ chức các hoạt động quản lý thủy sản. Luật thủy sản cũng đã tạo điều kiện
tăng cường sự hợp tác giữa nhà nước và các tổ chức quản lý thủy sản tại địa
phương trong việc quản lý tài nguyên NTTS.
Luật này đã hỗ trợ việc phân quyền trong quản lý tài nguyên và thiết lập các
hội đoàn thủy sản với việc duy trì và nắm giữ quyền sở hữu tài nguyên. Về mặt
pháp lý, các hội đoàn thủy sản được xem như các tổ chức xã hội nghề nghiệp.
Các tổ chức này có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc kết nối các nhà
chức trách ở huyện và tỉnh với người dân địa phương.
Quyết định số 4260/2005 ( UBND tỉnh Thừa Thiên Huế) đã giúp xây dựng
vai trò các hội đoàn thủy sản trong việc quản lý thủy sản đầm phá tại địa
phương, và công nhận cở sở pháp lý của các hội đoàn này khi nhận sự phân bổ
quyền đánh bắt tại đầm phá như đã nêu trong luật thủy sản bổ sung sữa đổi năm
2003. Quyết định 942/2009 của UBND huyện Phú Lộc (tháng 3 năm 2009) bao
gồm sự phân bổ quyền quản lý đánh bắt cho các tổ chức cơ quan thủy sản, thành
lập quyền sở hữu tập thể chính thức trên các vùng đánh bắt thủy sản, và phân bổ
993 ha vùng mặt nước tại đầm phá cho hội đoàn thủy sản Vinh Giang. Sự phân
bổ này đã giúp thành lập quyền sở hữu tài sản và đưa ra sự sắp xếp đồng quản lý
thủy sản mới giữa các nhà chức trách xã và huyện, và chi hội Nghề cá.
Chính quyền tỉnh đã công nhận các chi hội nghề cá như một đối tác trong
đồng quản lý và giúp chính quyền huyện chỉ rõ sự phân bổ quyền đánh bắt thủy
sản. Sự xuất hiện mạng lưới thể chế này tạo ra một bối cảnh rộng hơn cho sự
biến đổi và cung cấp điều kiện cần thiết cho các nhân tố khác nhau tại đầm phá,
chẳng hạn như sự chuyển dịch phương pháp tiếp cận lịch sử đối với quản lý tài
nguyên ven biển [02].
PHẦN 3
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Nội dung nghiên cứu
Đặc điểm kinh tế xã hội vùng nghiên cứu:
- Đặc điểm nhân khẩu và phân loại hộ của cộng đồng thủy sản.
- Đặc điểm hộ khảo sát
Thực trạng quản lý và khai thác thủy sản tại các vùng đầm phá nghiên cứu:
- Thực trạng quản lý trước khi có chi hội Nghề cá
- Thực trạng khai thác thủy sản tại vùng nghiên cứu:
Tiến trình thành lập cơ chế đồng quản lý ở CHNC Lộc Bình I và CHNC
đầm phá Vinh Hiền .
Tiến trình gồm có các bước:
Nghiên cứu thực trạng khai thác và quản lý tại
cộng đồng, xác định các vấn đề tồn tại cần giải quyết; Hội thảo ở cấp xã và
cấp cộng đồng, thành lập chi hội nghề cá; Các hoạt động kiện toàn cơ cấu tổ
chức và xây dựng năng lực chi hội; Quy hoạch chi tiết quản lý tài nguyên
trong vùng quản lý của chi hội; Xây dựng quy chế quản lý của chi hội; Xây
dựng kế hoạch quản lý phát triển sinh kế, hoạt động hội; Thành lập Ban ĐQL
cấp xã và xây dựng cơ chế phối hợp quản lý giữa Ban ĐQL với chi hội; Trao
quyền khai thác và chức năng quản lý cho chi hội; Thực hiện ĐQL, giám sát,
đánh giá.
Các hoạt động đồng quản lý do chi hội tiến hành
- Hoạt động đồng quản lý trước khi được cấp quyền bao gồm các hoạt động
như: quy hoạch chi tiết các tiểu vùng; xây dựng quy chế quản lý; tuần tra bảo vệ
sản xuất và kiểm soát khai thác hủy diệt; tổ chức các hoạt động quản lý nâng cao
năng lực cho BCH và hội viên; giải quyết các xung đột tranh chấp về tài nguyên;
tuyên truyền vận động người dân tham gia vào chi hội.
- Hoạt động đồng quản lý sau khi được cấp quyền KTTS. Sau khi được trao
quyền quản lý khai thác, chi hội tiếp tục thực hiện các hoạt động: tuần tra bảo vệ
sản xuất và kiểm soát khai thác hủy diệt; tiến hành đăng kí và thu phí bảo vệ tài
nguyên; tổ chức các hoạt động nâng cao năng lực cho BCH, hội viên; giải quyết
các xung đột tranh chấp về tài nguyên; tiếp tục tuyên truyền vận động; hỗ trợ cải
thiện kỉ thuật, chuyển đổi nghề nghiệp, tiếp cận vốn sản xuất, cải thiện sinh kế
cho người dân.
- Đánh giá các hoạt động đồng quản lý tại vùng nghiên cứu: dựa trên sự so
sánh giữa thực tế đạt được so với mong muốn.
Đánh giá kết quả cải tiến quản lý đồng quản lý
- Kiểm soát khai thác hủy diệt và cường lực khai thác (số hộ, số ngư
cụ/hộ, kết quả sắp xếp nò sáo)
- Kết quả hoạt động bảo tồn
- Kết quả cải tiến tài nguyên môi trường
- Kết quả hoạt động khai thác thủy sản qua các năm
- Kết quả nuôi trồng thủy sản qua các năm :
- Sự thay đổi các hoạt động tạo thu nhập của người dân
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Phương pháp chọn điểm và chọn mẫu nghiên cứu
- Chọn điểm: đề tài được thực hiện tại 2 xã Vinh Hiền và Lộc Bình. Ở mỗi xã
đã tiến hành tiếp cận nghiên cứu một CHNC.
Điểm được chọn đáp ứng các tiêu chí: (1) điểm được chọn thuộc khu vực
đầm phá và có diện tích mặt nước lớn, (2) cộng đồng ngư dân có tham gia hoạt
động đánh bắt hoặc nuôi trồng thủy sản, (3) đã thành lập chi hội nghề cá.
- Chọn hộ: đề tài chọn khảo sát 30 hộ đối với mỗi chi hội, hộ là thành viên
của chi hội nghề cá địa phương. Dựa vào danh sách hội viên chọn ngẫu nhiên
đơn thuần 30 hộ trong mỗi chi hội.
3.2.2. Phương pháp thu thập thông tin
- Thu thập thông tin thứ cấp:
Tình hình kinh tế xã hội điểm nghiên cứu; hoạt động khai thác tự nhiên của
xã; báo cáo hoạt động của chi hội qua các năm; số liệu thống kê của chi hội về
khai thác và nuôi trồng; phương án cấp quyền khai thác mặt nước chi hội; kế
hoạch sắp xếp và chuyển đổi nò sáo trên đầm Cầu Hai.
- Phỏng vấn người am hiểu:
Đề tài cũng đã tiến hành phỏng vấn một số cán bộ địa phương và cán bộ của
CHNC: chủ tịch và phó chủ tịch CHNC, phó chủ tịch xã, cán bộ địa chính và
công an xã, trưởng thôn, cán bộ phụ trách thủy sản Phòng nông nghiệp huyện.
Các thông tin phỏng vấn: thực trạng quản lý và khai thác thủy sản trước và sau
khi CHNC thành lập, các hoạt động quản lý của chi hội, công tác phối hợp trong
ĐQL, kế hoạch và kết quả của hoạt động sắp xếp nò sáo, trao quyền,…
- Phỏng vấn nhóm hỗn hợp: bao gồm BCH chi hội và một số hộ ngư dân
trong vùng. Đặc điểm của nhóm là những người có am hiểu về các hoạt động
quản lý của chi hội, am hiểu về các loài thủy sản trong vùng mặt nước của chi
hội. Nội dung phỏng vấn: tìm hiểu thực trạng các hoạt động ĐQL mà chi hội
đang tiến hành và so sánh giữa thực trạng với mong muốn nhằm đánh giá các
hoạt động quản lý; thống kê các loài thủy sản mà người dân biết đến và có khai
thác, thảo luận các vấn đề liên quan đến sự tăng giảm của các loài thủy sản đó.
- Phỏng vấn hộ: sử dụng Bảng hỏi bán cấu trúc đã chuẩn bị sẵn kết hợp với
phương pháp quan sát. Các thông tin thu thập: thông tin chung về hộ; các hoạt
động tạo thu nhập và chi tiêu của hộ; sự thay đổi trong hoạt động tạo thu nhập
của hộ; đánh giá của hộ về hoạt động quản lý khai thác của CHNC; đánh giá của
hộ về kết quả thực hiện ĐQL đối với nguồn tài nguyên và thu nhập của hộ.
3.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu thu thập được xử lý, phân tích bằng phương pháp thống kê thông
thường qua phần mềm Excel.
PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Đặc điểm kinh tế xã hội vùng nghiên cứu
4.1.1. Đặc điểm nhân khẩu và phân loại hộ của cộng đồng thủy sản
Lộc Bình là xã nằm dọc theo chân núi Bạch Mã đâm ra biển, 6 thôn trong xã
đều tham gia hoạt động khai thác thủy sản, trong đó Mai Gia Phường là thôn có
số hộ tham gia hoạt động sản xuất thủy sản nhiều nhất. Chi hội nghề cá Lộc
Bình I được thành lập trên địa bàn thôn.
Vinh Hiền là xã bãi ngang ven biển, ba mặt của xã tiếp giáp với biển và đầm
Cầu Hai nên hoạt động nuôi trồng và khai thác thủy sản ở đây đã phát triển từ
lâu. Những hộ dân làm nghề khai thác đều sống dọc theo đầm phá và gần biển.
Trong đó, thôn Hiền Vân I là thôn có số lượng hộ KTCĐ đông nhất, và số hộ
KTDĐ tập trung nhiều ở thôn Hiền Hòa II. Năm 2006 CHNC đầm phá Vinh
Hiền được thành lập với nhiệm vụ quản lý hoạt động khai thác trên địa bàn toàn
xã. Hiền Vân I và Hiền Hòa II là hai cộng đồng có quy mô dân số lớn, dân cư
tập trung đông. Đặc điểm về dân số và phân loại hộ thể hiện ở bảng 1.
Bảng 1: Tình hình dân số và phân loại hộ của hai cộng đồng thủy sản
Chỉ tiêu ĐVT Mai Gia
Phường, xã
Lộc Bình
Hiền Vân I,
Hiền Hòa II, xã
Vinh Hiền
Tổng số hộ Hộ 107 545
Hộ tham gia nông nghiệp Hộ 104 0
Hộ tham gia khai thác thủy sản Hộ 64 485
Hộ nuôi trồng thủy sản Hộ 25 80
Hộ ngành nghề dịch vụ Hộ 8 24
Hộ khác Hộ 5 32
Tổng số nhân khẩu Khẩu 622 2779
Tổng số lao động Lao động 297 1926
Tỷ lệ hộ trên nghèo % 78,66 83,32
Tỷ lệ hộ nghèo % 21,34 16,68
(Nguồn: Số liệu thống kê của UBND xã, 2010)
(*): một hộ có thể làm nhiều nghề: vừa nông nghiệp vừa ngư nghiệp
Dân số luôn là vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của địa
phương, đó có thể là nguồn lao động dồi dào để phát triển sản xuất, nâng cao thu
nhập cho hộ. Nhưng dân số phát triển quá nhanh thì những vấn đề như: dư thừa
lao động, vấn đề giải quyết công ăn việc làm, đào tạo nghề là gánh nặng của
người dân và xã hội.
Quy mô dân số và lao động của cộng đồng ngư dân Hiền Vần I – Hiền Hòa II
là 545 hộ với 2779 nhân khẩu, cao hơn nhiều so với cộng đồng ngư dân thôn
Mai Gia Phường là 107 hộ với 622 khẩu. Tuy nhiên, quy mô khẩu/hộ và lao
động/hộ ở Mai Gia Phường lại cao hơn so với cộng đồng ngư dân Hiền Vân I và
Hiền Hòa II.
Phân loại hộ theo ngành nghề giữa hai địa phương cũng có sự khác nhau.
Cộng đồng các hộ dân ở Hiền Vân I – Hiền Hòa II chủ yếu tham gia khai thác và
NTTS, không có hộ nào làm nông nghiệp. Ngược lại, cộng đồng người dân ở
Mai Gia Phường hầu hết đều tham gia hoạt động trồng lúa và chăn nuôi. Trồng
lúa để cung cấp lương thực cho hộ và chăn nuôi là nhằm tận dụng những phụ
phế phẩm từ trồng lúa và lượng cá dư thừa từ KTTS. Bên cạnh đó, hoạt động
KTTS cũng thu hút rất nhiều hộ tham gia.
Tỷ lệ hộ nghèo ở Hiền Vân I - Hiền Hòa II là 16,68% thấp hơn so với Mai
Gia Phường 21,34%. Qua đó chứng tỏ điều kiện kinh tế và đời sống người dân ở
Hiền Vân I, Hiền Hòa II cao hơn, ổn định hơn. Hộ nghèo chủ yếu là những hộ
già, những hộ thuần nông nghiệp, có ít lao động trong gia đình.
4.1.2. Đặc điểm hộ khảo sát
Để phục vụ mục tiêu nghiên cứu, đề tài đã tiến hành khảo sát 60 mẫu. Trong
đó 30 mẫu khảo sát tại Lộc Bình I tập trung chủ yếu và các hộ ở thôn Mai Gia
Phường và một số hộ ở thôn Hòa An, đây là những thành viên của Chi hội Nghề
cá Lộc Bình I. 30 mẫu ở Vinh Hiền tập trung chủ yếu vào 2 thôn: thôn Hiền Vân
I - nơi tập trung phần lớn các hộ làm nghề sáo và thôn Hiền Hòa II - thôn có
phần lớn số hộ dân làm lưới và lừ. Đặc điểm của các hộ được khảo sát được thể
hiện qua Bảng 2.
Qua bảng 2 có thể thấy cộng đồng ở hai điểm nghiên cứu có đặc điểm: có số
nhân khẩu lớn, bình quân nhân khẩu/hộ ở cả hai cộng đồng đều lớn hơn 5 và
bình quân là 3 lao động/hộ. Điều này cho thấy nguồn lao động ở đây khá dồi
dào, và có cơ cấu dân số trẻ. Tuy nhiên, thực tế số lao động trẻ ở lại quê không
lớn, chủ yếu là đi làm ăn xa. Qua phỏng vấn hộ cho thấy, các lao động trẻ có
trình độ học vấn thấp, sau khi hoàn thành xong cấp 2, các lao động đều vào Sài
Gòn kiếm công việc, cụ thể là may gia công. Lao động chính trong gia đình còn
lại là hai vợ chồng. Những hộ có nhiều lao động họ có thể làm nhiều nghề, mang
lại thu nhập cao hơn.
Bảng 2: Đặc điểm của hộ sản xuất thủy sản
Chỉ tiêu ĐVT Lộc Bình I Vinh Hiền
Tỷ lệ chủ hộ biết chữ % 66,5 53,3
Nhân khẩu/hộ Lao động/hộ 5,97 5,1
Lao động/hộ Lao động/hộ 3,74 3,64
Lao động ngư nghiệp/hộ Lao động/hộ 2,25 2,32
Lao động nông nghiệp/hộ Lao động/hộ 1,3 0
Tuổi của chủ hộ Tuổi 44,62 46,06
Nooc máy Chiếc/hộ 0,76 0,8
Lưới Tay/hộ 0 35,5
Số cheo lừ Cheo/hộ 102 93,3
Số trộ sáo Trộ/hộ 0,81 0,54
(Nguồn: phỏng vấn hộ và phỏng vấn BCH chi hội, 2011)
Cơ cấu ngành nghề của các hộ ở hai cộng đồng có sự khác nhau rõ rệt. Ở
CHNC Lộc Bình I có cơ cấu ngành nghề đa dạng hơn, ngoài hoạt động khai thác
và NTTS những hộ dân nơi đây còn có hoạt động nông nghiệp là trồng lúa và
hoạt động lâm nghiệp là trồng rừng nên về mặt sinh kế có thể nói là cộng đồng
các hộ dân ở Lộc Bình I ổn định và bền vững hơn. Ngược lại, các hộ khảo sát ở
Vinh Hiền có sinh kế gắn liền với sông đầm hơn, chủ yếu là các nghề: sáo, lừ,
lưới, nuôi cá lồng, không có hộ nào trong thôn làm nông nghiệp. Sở dĩ như vậy
là do đặc thù địa hình nơi đây không thể trồng lúa hay các cây công nghiệp khác.
Hoạt động chăn nuôi cũng chỉ có ở những hộ trong chi hội Lộc Bình I. Số hộ
làm dịch vụ ở cả hai địa điểm nghiên cứu là rất ít.
Tuổi bình quân của chủ hộ ở Lộc Bình I là 44, và ở Vinh Hiền là 46. Điều
này cho thấy hầu hết chủ hộ đều ở tuổi trung niên, có thời gian tham gia khai
thác thủy sản lâu đời. Nó cũng cho thấy một xu hướng đó là những người trẻ
không muốn sống dựa vào đầm phá ngày càng lớn, họ muốn đi nơi khác để làm
ăn sinh sống hoặc làm nghề khác không phụ thuộc vào sông đầm. Mặc dù độ
tuổi trung bình cao nhưng trình độ văn hóa của người dân rất thấp, rất nhiều
người cho biết họ không được đi học, nên hiện tượng mù chữ khá phổ biến. Đây
là nguyên nhân hạn chế khả năng nhận thức của người dân trong việc bảo vệ và
phát triển tài nguyên đầm phá. Mặc khác, nó còn ảnh hưởng đến khả năng áp
dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất, khả năng nuôi dạy và giáo dục con cái.
Là những cộng đồng có sinh kế dựa vào KTTS, nên việc đầu tư để mua sắm
mới hay sửa chữa thay thế ngư lưới cụ và phương tiện đánh bắt là điều tất nhiên.
Các hộ làm nghề sáo đều sở hữu một chiếc nooc máy có thể làm bằng gỗ hoặc
nhôm trị giá trung bình mỗi chiếc nooc là 20 triệu đồng, và thêm một chiếc
xuồng có thể là xuồng nan hoặc xuồng nhôm tùy vào từng hộ. Các hộ KTDĐ thì
có thể dùng nooc (hộ làm hai nghề sáo và lừ) hoặc có thể dùng xuồng. Xuồng là
phương tiện chính của các hộ làm nghề lưới. Đối với nghề lừ, ngư cụ chủ yếu là
mua với giá vào khoảng 150.000 – 200.000 đ/cheo lừ. Trung bình một hộ có làm
lừ đều sở hữu từ 80-100 cheo. Như vậy, số tiền đầu tư ban đầu để mua sắm ngư
lưới cụ là khá lớn.
4.2. Thực trạng quản lý và khai thác thủy sản tại các vùng đầm phá
nghiên cứu
4.2.1. Thực trạng quản lý trước khi có chi hội Nghề cá
Xã Vinh Hiền
Trước 1975: khi diện tích mặt nước đầm phá thuộc quyền quản lý của chế độ
miền Nam, các hộ làm sáo phải đấu thầu và bốc xăm vị trí đặt trộ nò. Diện tích
mặt nước được chia làm các dãy, dãy nào thuận lợi, khai thác được nhiều tôm cá
sẽ phải nộp thuế cao hơn. Diện tích mặt nước được chia làm các dãy sau:
1. Dãy Tiên Lăng là dãy gần cửa biển, gần luồng lạch, có thể khai thác được
nhiều tôm cá nhất nên có mức thuế cao nhất.