Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

đánh giá tác động của tín dụng nông nghiệp–nông thôn tới hoạt động sản xuất của người dân, xã đức bồng-vũ quang- hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.1 KB, 77 trang )


Phần 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. 1. Tính cấp thiết của đề tài
Xóa đói giảm nghèo là một trong những chính sách mà Đảng và nhà nước
ta đang thực hiện nhằm nâng cao đời sống của người dân. Đặc biệt là ở những
vùng nông thôn, miền núi hoạt động sản xuất chủ yếu là nông nghiệp, tỷ lệ hộ
nghèo vẫn còn cao. Phát triển nông nghiệp, nông thôn, cải thiện đời sống người
dân là mục tiêu hàng đầu trong chính sách xóa đói giảm nghèo. Để đạt được mục
tiêu đó nhà nước cần có những hỗ trợ để người dân mở rộng sản xuất và phát
triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Muốn vậy, người dân cần
có vốn để phát triển sản xuất. Vậy nên, thời gian qua nhằm đáp ứng nhu cầu vay
vốn của người dân các ngân hàng nhà nước, các tổ chức tín dụng, các tổ chức xã
hội…đã có những ưu đãi trong vay vốn. Những ưu đãi về lãi suất, điều kiện vay,
mức vay… đa dạng hình thức thanh toán đang đưa lại hiệu quả thiết thực. Hiện
nay, mạng lưới tín dụng đã có mặt hầu hết ở các vùng nông thôn, miền núi, góp
phần giải quyết nhu cầu vay vốn ngày càng lớn của người dân. Tuy nhiên, nguồn
vốn vay vẫn chưa được người dân sử dụng hiệu quả, cần có những đánh giá
khách quan về hoạt động tín dụng ở khu vực nông thôn, miền núi, từ đó làm cơ
sở thực tiễn để đề xuất nhưng giải pháp nhằm huy động và sử dụng nguồn vốn
vay hiệu quả.
Đức Bồng là một xã thuần nông thuộc huyện miền núi Vũ Quang, tỉnh Hà
Tĩnh. Thu nhập của người dân chủ yếu từ hoạt động sản xuất nông nghiệp theo
hướng truyền thống. Vấn đề đặt ra là phải đa dạng hóa hoạt động thu nhập, phát
triển nông nghiệp phù hợp với thời kỳ CNH-HĐH của đất nước, nâng cao năng
suất sản xuất, cải thiện đời sống người dân. Chính vì vậy, sự phát triển của hệ
thống tín dụng tại địa phương sẽ là “chìa khóa” giải quyết vấn đề. Những năm
qua, nhờ được tiếp cận với nguồn vốn từ các chương trình, dự án lãi suất thấp mà
bộ mặt nông thôn của xã có nhiều thay đổi tích cực. Hệ thống điện, đường,
trường, trạm…được đầu tư khá đồng bộ phát huy hiệu quả cải thiện đời sống của
1


người dân. Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng trên địa bàn xã vẫn còn những hạn
chế, kết quả hoạt động của một số chương trình, dự án tín dụng vẫn chưa đạt kết
quả như mục tiêu ban đầu đã đề ra.
Hiện nay, vẫn chưa có một đánh giá nào về tác động của hoạt động tín
dụng tới phát triển sản xuất của người dân trên địa bàn xã. Những đánh giá này
chỉ dựa vào báo cáo kinh tế-xã hội của xã, báo cáo về hoạt động của tín dụng tại
địa phương. Yêu cầu đặt ra là phải có những đánh giá khách quan để đưa ra
những kết quả đạt được, những hạn chế, yếu kém, từ đó đưa ra chính sách tín
dụng phù hợp hơn với thực tiễn của địa phương nhằm năng cao hiệu quả sử dụng
nguồn vốn. Từ những nguyên nhân đó tôi lựa chọn đề tài: 'Đánh giá tác động
của tín dụng nông nghiệp–nông thôn tới hoạt động sản xuất của người dân,
xã Đức Bồng-Vũ Quang- Hà Tĩnh.'
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
● Tìm hiểu hệ thống tín dụng nông nghiệp-nông thôn và hoạt động của các
tổ chức tín dụng trên địa bàn xã.
● Đánh giá tác động của tín dụng nông nghiệp-nông thôn tới hoạt động
sản xuất của người dân.
2
Phần 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Một số khái niệm
2.1.1. Khái niệm tín dụng
Tín dụng là hoạt động cho vay (phản ánh mối quan hệ giữa người cho vay
và người đi vay), có bảo đảm, có hoàn trả cả nợ gốc và lãi sau một thời gian nhất
định. Một cách tiếp cận đầy đủ hơn, tín dụng là một phạm trù kinh tế của nền
kinh tế hàng hóa, nó phản ánh quan hệ kinh tế giữa người sở hữu với người sử
dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế theo nguyên tắc hoàn trả
vốn và lợi tức khi đến hạn [2].
Theo Lê Văn Tề (2006), tín dụng được hiểu là một giao dịch về tài sản
(tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay và bên đi vay, trong đó bên cho vay

chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo
thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho ên
cho vay khi đến hạn thanh toán [5].
2.1.2. Khái niệm hộ nông dân
Hộ nông dân trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam được hiểu là một gia
đình có tên trong một bản kê khai hộ khẩu riêng, gồm có một người làm chủ hộ
và các người cùng sống trong hộ gia đình ấy. Về mặt kinh tế, hộ gia đình có một
mối quan hệ gắn bó không phân biệt về mặt tài sản, những người sống chung
trong một hộ gia đình có nghĩa vụ và trách nhiệm đối với sự phát triển kinh tế.
Nghĩa là mỗi thành viên đều phải có nghĩa vụ góp công sức vào quá trình xây
dựng và phát triển kinh tế của hộ và có trách nhiệm đối với kết quả sản xuất đạt
được. Nếu sản xuất có hiệu quả cao sản phẩm thu được, người chủ hộ phân phối
trước hết nhằm bù đắp các chi phí đã bỏ ra, đóng góp nghĩa vụ với nhà nước
theo quy định, phần thu nhập còn lại được sử dụng để trang trải cho các mục tiêu
sinh hoạt thường xuyên của gia đình và phát triển sản xuất.
Ở Việt Nam hiện nay, các quan điểm đều thừa nhận vai trò to lớn của kinh
tế hộ trong quá trình phát triển kinh tế, đặc biệt vai trò của kinh tế hộ nông dân
3
trong nông nghiệp và phát triển nông thôn: “ Nông hộ là tế bào kinh tế xã hội, là
hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nông nghiệp, nông thôn. Các thành viên
trong nông hộ gắn bó với nhau chặt chẽ trước tiền bằng quan hệ hôn nhân và
dòng máu, dựa trên cơ sở huyết thống, ngoài ra còn do truyền thống qua nhiều
đời, do phong tục tập quán tâm lý đạo đức, gia đình, dòng họ. Về kinh tế, cá
thành viên trong nông hộ gắn bó với nhau trên các mặt quan hệ sở hữu, quan hệ
quản lý và quan hệ phân phối, mà cốt lõi của nó là quan hệ lợi ích kinh tế”[16].
2.2. Vai trò, chức năng và cơ chế của tín dụng
2.2.1. Vai trò của tín dụng
- Tăng cường tính linh hoạt của nền kinh tế.
- Tiết kiệm chi phí lưu thông và tăng tốc độ chu chuyển vốn.
- Với tư cách là công cụ tập trung vốn và tích luỹ, tín dụng góp phần giảm

hệ số tiền nhàn rỗi, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, góp phần tăng vòng quay của
vốn, tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông và góp phần khắc phục lạm phát tiền tệ.
- Tín dụng góp phần cung cấp khối lượng vốn cho các doanh nghiệp, từ đó
tăng quy mô sản xuất kinh doanh, đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật và công nghệ mới, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm,
tạo khả năng và khuyến khích đầu tư vào các công trình lớn, các ngành, các lĩnh
vực, có ý nghĩa quan trọng đối với quốc tế dân sinh, thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển.
- Tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ giao lưu tiền
tệ giữa nước ta với các nước khác trên thế giới và trong khu vực.
- Tín dụng góp phần vào việc hình thành, điều chỉnh và chuyển dịch cơ
câu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo hướng xã hội chủ
nghĩa.
- Tín dụng tạm thời hỗ trợ vốn tiêu dùng cho cư dân cải thiện đời sống
[15].
4
2.2.2. Chức năng của tín dụng
- Tập trung và phân phối lại các nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền
kinh tế thông qua hai quá trình huy động và cho vay nhằm sử dụng vốn có hiệu
quả để giúp tăng trưởng kinh tế-xã hội [6].
- Tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông xã hội: Khi sử dụng tín dụng
người ta có thể vay tiền mặt bằng các phương tiện tín dụng. Từ đó làm giảm
lượng tiền mặt trong lưu thông nên tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt.
- Phản ánh và kiểm soát hoạt động kinh tế: Chức năng này phát triển của
hai chức năng trên, cụ thể là: Thông qua kế hoạch huy động và cho vay của ngân
hàng, sẽ phản ánh được mức độ phát triển của nền kinh tế về các mặt, đồng thời
qua nghiệp vụ cho vay, ngân hàng có điều kiện nhìn tổng quát và cấu trúc tài
chính của từng đơn vị cho vay. Từ đó phát hiện kịp thời những trường hợp vi
phạm chế độ quản lý kinh tế của nhà nước.
2.2.3. Cơ chế của tín dụng

- Lãi suất: Là giá cả của khoản cho vay, được biểu hiện bằng tỷ lệ % giữa
giá trị lãi của khoản vay và khoản vay trong một thời gian nhất định [17].
- Thủ tục cho vay: Là một tập hợp các bước, các công việc cần thiết nhất
định phải tiến hành giữa người đi vay và người cho vay để thực hiện hoàn thành
theo một trình tự một nghiệp vụ tín dụng.
- Thời hạn cho vay: Là một khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng
bắt đầu nhận tiền vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi tiền vay đã được
thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Thời
hạn cho vay bao gồm:
+ Cho vay ngắn hạn: Đối với khách hàng cho vay vốn ngắn hạn nhằm đáp ứng
nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống, được xác định phù hợp
với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng tối đa đến 12
tháng.
+ Cho vay trung hạn, dài hạn: Đối với khách hàng vay vốn trung, dài hạn nhằm
thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống.
Thời hạn cho vay xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư,
5
khả năng trả nợ của khách hàng và tín chất nguồn vốn cho vay của tổ chức tín
dụng (> 12 tháng).
- Mức cho vay:
+ Đối với hình thức cho vay có thế chấp, giá trị món vay luôn được xác định trên
cơ sở giá trị tài sản thế chấp.
+ Đối với hình thức cho vay tín chấp, mức cho vay là số tiền tối đa mà các tổ
chức tín dụng có thể cho người cần vốn vay.
- Thời hạn thu hồi vốn vay: Là thời gian bắt đầu từ khi người vay nhận
được khoản vay đến khi thực hiện trả lần đầu tiên về lãi hoặc nợ gốc [17].
2.3. Hoạt động tín dụng nông nghiệp-nông thôn hiện nay ở một số nước trên
thế giới và tỉnh Việt Nam
2.3.1. Tín dụng nông nghiệp-nông thôn ở một số nước trên thế giới
Hoạt động Tín dụng nông thôn ở Trung Quốc: Với diện tích rộng lớn cùng với

dân số đông ( 1,3 tỷ dân), trong đó có hơn 70% số dân sống trong khu vực nông
thôn là những điều kiện thuận lợi để Trung Quốc phát triển ngành nông nghiệp
với quy mô lớn. Do đó, hoạt động nông nghiệp đóng một vai trò hết sức quan
trọng và đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Trung Quốc. Khi
nông nghiệp phát triển theo hướng hiện đại hóa kéo theo đó là tình trạng leo
thang giá lương thực trong nước, khoảng cách giàu nghèo giữa khu cự thành thị
và nông thôn tăng lên buộc nhà nước phải tìm cách cung cấp vốn cho nông dân
tiến hành các hoạt động sản xuất. Mặt khác, việc Trung Quốc chuyển bốn ngân
hàng quốc doanh lớn thành ngân hàng thương mại trong những năm gần đây đã
buộc các ngân hàng này phải tập trung cắt giảm chi phí, tăng lợi nhuận và giảm
bớt sự hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn. Do vậy, người dân
lại càng trở nên khó khăn hơn trong việc tiếp cận với nguồn vốn sản xuất. Trước
thực trạng đó, sự ra đời và hoạt động của các tổ chức tín dụng nông thôn là rất
quan trọng để giúp người dân thoát khỏi khó khăn trên. Càng ngày người dân
càng lệ thuộc vào vốn vay từ các hoạt động này. Hiện tại, tổng số tiền gửi từ các
tổ chức này hiện đang chiếm khoảng 10% trong tổng số tiền gửi trong các ngân
hàng và các định chế tài chính ở Trung Quốc. Mặc dù chỉ cung cấp các khoản
6
vay nhỏ với số tiền từ 500 – 20.000 nhân dân tệ cho các hộ dân trên một đợt vay
nhưng giải này giúp khoảng 700 triệu nông dân Trung Quốc có thể tiếpcận các
nguồn vốn vay dễ dàng hơn, từ đó đẩy mạnh sản xuất, gia tăng sản lượng nông
nghiệp và tạo thêm động lực cho nền kinh tế vốn đang tăng trưởng nhanh của
nước này.
Bắt đầu từ năm 2006, Trung Quốc đã bắt đầu cho phép các công ty nước
ngoài và các nhà đầu tư trong nước được thành lập ngân hàng và công ty cho vay
ở nông thôn. Hình thức hoạt động chủ yếu của các công ty này là thông qua các
công ty con được đăng ký pháp nhân ở Trung Quốc. Điều này sẽ giúp các ngân
hàng nước ngoài cắt giảm chi phí và giải quyết khó khăn trong việc tìm kiếm đội
ngũ các giám đốc quản lý chi nhánh có kinh nghiệm. Cũng trong năm này, Chính
phủ Trung Quốc cũng đã mở rộng một kế hoạch thử nghiệm thành lập 7 công ty

cho vay nhỏ ở một số tỉnh nông nghiệp như Sơn Tây, Tứ Xuyên. Đến nay, số
công ty cho vay nhỏ ở các tỉnh này đã tăng lên đến khoảng 300. Ủy ban Pháp chế
ngân hàng của Trung Quốc (CBRC) và Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc
(PBoC) đã ban hành một số hướng dẫn nhằm bỏ bớt một số rào cản xung quanh
việc xác định loại hình công ty cho vay ở nông thôn, các nguồn vốn huy động
của các tổ chức này và các vấn đề khác như quy trình xử lý tình trạng phá sản
chẳng hạn. Theo các hướng dẫn mới này, các công ty cho vay nhỏ có thể huy
động vốn từ hai ngân hàng trở ên bên cạnh các kênh huy động truyền thống như
cổ đông và các nguồn viện trợ. Để khuyến khích các công ty cho vay nhỏ ấn
định lãi suất cho vay phù hợp với rủi ro tín dụng, Chính phủ Trung Quốc cũng
cho phép các công ty này có thể thu lãi cho vay cao hơn chi phí huy động đến
bốn lần và tối thiểu bằng 0,9 lần mức lãi suất cho vay thời hạn một năm do
PBoC ấn định (hiện nay là 7,47%, mức cao nhất trong chín năm trở lại đây). Nhờ
đó, UA Easy Lenders, một trong những công ty cho vay nhỏ thử nghiệm đầu
tiên ở Trung Quốc, hiện đang cho vay với lãi suất 27,6 %/năm [4].
Ngân hàng Grameen ở Bangladesh: Ngân hàng Grameen (GB) là định
chế tài chính nổi tiếng nhất thế giới về tín dụng nông thôn. GB có mạng lưới chi
nhánh rộng khắp đến tận cấp cơ sở, mỗi chi nhánh phục vụ từ 15 đến 22 làng.
7
Đối tượng phục vụ là các gia đình có quy mô nhỏ về đất đai (chưa đến 0,2 ha
đất). Để vay được tín dụng, người trong những gia đình đủ tiêu chuẩn sẽ lập
nhóm gồm năm người có hoàn cảnh kinh tế và xã hội gần giống nhau Mỗi
nhóm bầu một trưởng nhóm và một thư ký để chủ trì cuộc họp hàng tuần. Sau
khi nhóm được thành lập, một nhân viên ngân hàng sẽ đến thăm gia đình và
kiểm tra tư cách của mỗi thành viên để lấy thông tin về tài sản, thu nhập, v.v…
Các nhóm sau khi thành lập sẽ tập hợp lại với nhau, khoảng 5 hoặc 6
nhóm sẽ lập nên một trung tâm trong cùng địa phương. Từ các trưởng nhóm sẽ
bầu ra trưởng trung tâm, là người chịu trách nhiệm giúp các thành viên tìm hiểu
về kỷ cương của ngân hàng và chủ trì cuộc họp hàng tuần. Tất cả các thành viên
sẽ dự một khóa hướng dẫn kéo dài một tuần, mỗi ngày hai giờ. Nội dung chủ yếu

của khóa học này là ngân hàng giới thiệu một số quy định về điều kiện vay vốn
cũng như giải đáp các thắc mắc của nguuwowif dân.
Tại mỗi cuộc họp hàng tuần, mỗi thành viên đóng góp một taka (Đơn vị
tiền tệ của Bangladesh) vào quỹ nhóm. Ban đầu chỉ có hai thành viên được vay
tiền. Thêm hai người nữa được vay nếu hai người vay đầu tiên trả nợ đúng hạn
trong hai tháng đầu tiên. Người cuối cùng (thường là trưởng nhóm) phải đợi
thêm hai tháng nữa cho đến khi những người vay tiền trước mình chứng tỏ là
đáng tin cậy. Mỗi khoản vay phải được trả dần hàng tuần trong vòng một năm.
Nếu một người vỡ nợ, những người khác trong nhóm sẽ không được vay. Do đó,
áp lực của các thành viên trong nhóm là một yếu tố quan trọng bảo đảm mỗi
thành viên sẽ trả nợ đầy đủ. Ngoài việc đóng góp 1 taka mỗi tuần, mỗi thành
viên khi vay được tiền phải đóng góp 5% tiền vay vào quỹ nhóm. Các thành viên
có thể vay mượn từ quỹ này với bất cứ mục đích gì, kể cả trả nợ ngân hàng hay
tiêu dùng. Nhờ đó, họ có thể hỗ trợ nhau trả nợ ngay cả lúc gặp hoàn cảnh khó
khăn, và tránh dùng khoản vay ban đầu để tiêu dùng. Tiền vay từ quỹ nhóm cũng
phải được trả hàng tuần. Mỗi nhóm còn lập quỹ khẩn cấp với mức đóng góp
bằng 4% tiền vay ngân hàng. Quỹ này chỉ dùng để giúp thành viên trả nợ trong
trường hợp cấp bách như có tử vong, bị mất cắp hay thiên tai; do vậy, quỹ này
giống như một khoản bảo hiểm. Bằng các dịch vụ tiết kiệm-tín dụng linh hoạt,
8
Ngân hàng Grameen đã rất thành công trong việc tiếp cận được tầng lớp nghèo
nhất (đặc biệt là phụ nữ nông thôn không có tài sản), đạt tỉ lệ thu hồi nợ gần
100% và nâng cao vị thế kinh tế xã hội của khách hàng. Grameen đặc biệt nhấn
mạnh những khía cạnh xã hội và con người trong quá trình phát triển của người
nghèo, chứ không chỉ dừng lại ở chương trình tiết kiệm- tín dụng thông thường
[18].
Hệ thống ngân hàng làng xã của Bank Rakyat Indonesia: Được thành lập
vào năm 1984 theo hình thức chuyển ngân hàng quốc doanh chuyên về phát triển
nông nghiệp Bank Rakyat Indonesia (BRI) thành hệ thống Unit Desa (UD), tức
là ngân hàng làng xã. Là một dơn vị trực thuộc BRI, UD là đơn vị hạch toán độc

lập có lãi, và toàn quyền quyết định chủ trương hoạt động kinh doanh. Đặc điểm
nổi bật của ngân hàng này khi cho vay là không yêu cầu thế chấp tài sản, dựa vào
uy tín của những người chủ địa phương đối với các đối tượng vay mà ngân hàng
có thể tiến hành cho vay. Hay nói cách khác chỉ cần có người đại diện của cộng
đồng giới thiệu thì lúc đó ngân hàng sẽ tiến hành cho vay mà không sợ vỡ nợ.
Bên cạnh đó ngân hàng cũng áp dụng nhiều hình thức khuyến mãi cho những đối
tượng đi vay như: người đi vay trả nợ đúng hạn hì sẽ được hoàn trả một phần lãi.
Ngoài các chương trình cho vay hiệu quả, UD cũng có nhiều dịch vụ tài chính
khác. Nổi bật nhất làdịch vụ tiết kiệm linh hoạt, với giờ giấc hoạt động thuận tiện
cho khách, môitrường thân thiện, cho rút tiền không hạn chế, và nhiều biện pháp
khuyến mãi như tiền thưởng và rút thăm.
Kết quả là hệ thống UD đã tự lực được về tài chính, và bắt đầu có lãi lớn
chỉ vài năm sau khi ra đời. Ngay cả trong giai đoạn khủng hoảng tài chính 1997-
1998, UD vẫn đứng vững, tăng số tiền gởi tiết kiệm trong khi tỉ lệ vỡ nợ hầu như
không tăng. Đến năm 1999, UD có 2,5 triệu khách vay tiền, và khoảng 20 triệu
tài khoản tiết kiệm. Hiện nay, UD có mặt trên toàn quốc với khoảng 3.700 ngân
hàng làng xã [3].
2.3.2. Tín dụng nông nghiệp-nông thôn ở Việt Nam
Chiếm hơn 70% dân số và hơn 72% lực lượng lao động, nhưng đến nay
khu vực nông nghiệp, nông thôn Việt Nam cũng chỉ chiếm dưới 25% tổng dư nợ
9
cho vay nền kinh tế của hệ thống tổ chức tín dụng. Là khu vực sinh lời thấp, chi
phí cao, nhiều rủi ro khách quan (thiên tai, dịch bệnh, khả năng trả nợ của khách
hàng thấp…) nên luồng vốn đầu tư, đặc biệt là vốn thương mại đổ vào không
nhiều.
Trong 5 năm 2003-2007, Việt Nam đầu tư cho phát triển nông nghiệp đạt
113.000 tỷ đồng, chiếm 8,7% vốn đầu tư Nhà nước và mới chỉ đáp ứng 17% nhu
cầu của khu vực này (tính đến ngày 31/5/2010, dư nợ đối với lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn đã đạt trên 315.000 tỷ đồng). Đầu tư cho khuyến nông chỉ là
0,13% GDP (trong khi các nước khác là 4%).

Dư nợ cho vay tập trung chủ yếu tại khu vực Đông Nam Bộ và đồng bằng sông
Cửu Long, chiếm khoảng 49% tổng dư nợ cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp
nông thôn. Phần còn lại tập trung cho khu vực Duyên hải Miền Trung, chiếm
khoảng 14,43%, đồng bằng Bắc Bộ 17,21%, Miền núi phía Bắc 9,86%, Tây
Nguyên 9,4% [11].
Mặc dù hiện tại thị trường tài chính nông thôn Việt Nam đang được tiếp
nhận nhiều nguồn vốn đầu tư đa dạng như: vốn ngân sách nhà nước; vốn tín
dụng nông nghiệp lãi suất ưu đãi đầu tư các dự án; vốn tín dụng lãi suất ưu đãi
cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách… Tuy nhiên, các sản phẩm, dịch
vụ ngân hàng tại khu vực này còn nghèo nàn. Trong đó chủ yếu là tín dụng
truyền thống, các dịch vụ thanh toán, bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm tín dụng
nông nghiệp còn rất hạn chế, gần như mới phát triển ở mức thử nghiệm, sản
phẩm tín dụng của ngân hàng chưa bao gồm các dịch vụ hỗ trợ đi kèm, các công
cụ đầu tư tài chính chuyên nghiệp hầu như chưa có. Quy trình cung cấp tín dụng
còn phức tạp, chưa phù hợp với trình độ của người dân, đặc biệt là các thủ tục
liên quan đến tài sản thế chấp là đất đai; không đáp ứng kịp thời vốn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh và lãi suất các khoản cho vay thương mại đối với nông
nghiệp – nông thôn còn ở mức rất cao. Hơn nữa, các nguồn tín dụng đầu tư còn
mất cân đối, khả năng huy động vốn tại chỗ chưa cao; sử dụng vốn tín dụng và
đầu tư còn tình trạng bị động, bất hợp lý, dàn trải, chồng chéo, nhiều chương
trình, dự án kinh tế không được đầu tư đúng hướng, đúng tiến độ gây thất thoát
10
tài sản…Thậm chí, đến nay chưa có một thống kê đầy đủ, chính xác nào về tổng
nguồn vốn đầu tư cho khu vực nông nghiệp, thực trạng và nhu cầu vốn đầu tư
cho từng địa bàn, từng đối tượng cụ thể trong nông nghiệp [11].
2.4. Vai trò và đặc điểm của kinh tế hộ
2.4.1. Vai trò của kinh tế hộ
Kinh tế gia đình là loại hình kinh tế tương đối phổ biến và được phát triển
ở nhiều nước trên thế giới. Sự trường tồn của hình thức sản xuất này đang tự
chuyển mình để trở thành một thành phần kinh tế của xã hội phát triển - xã hội,

góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế-xã hội của mỗi nước. Ở Việt Nam,
kinh tế hộ gia đình cũng có vai trò và ý nghĩa to lớn, bởi vì nước ta bước vào nền
kinh tế thị trường với gần 80% dân số đang sinh sống ở nông thôn với xuất phát
điểm thấp, kinh tế hộ gia đình đang là một đơn vị sản xuất phổ biến. Đây là mô
hình kinh tế có vị trí quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế
vĩ mô, nhằm huy động mọi nguồn lực tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Hiện nay, kinh tế hộ gia đình không phải là một thành phần
kinh tế, nhưng là một loại hình để phân biệt với các hình thức tổ chức kinh tế
khác. Một trong các thành viên của kinh tế hộ gia đình đồng thời là chủ hộ.
Trong hoạt động kinh tế, gia đình có thể tiến hành tất cả các khâu của quá trình
sản xuất và tái sản xuất. Chủ hộ điều hành toàn bộ mọi quá trình sản xuất kinh
doanh và chịu trách nhiệm vô hạn về mọi hoạt động của mình. ở nước ta, kinh tế
hộ gia đình phát triển chủ yếu ở nông thôn, thường gọi là kinh tế hộ gia đình
nông dân, ở thành thị thì gọi là các hộ tiểu thủ công nghiệp. Kinh tế hộ gia đình
hiện đang phát triển và hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau như nông
nghiệp, vận tải, xây dựng, thương mại dịch vụ và các ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp, kinh doanh [1]…
2.4.2. Đặc điểm của kinh tế hộ
- Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở vừa là một đơn vị sản xuất vừa
là một đơn vị tiêu dùng [16].
- Quan hệ giữa tiêu dùng và sản xuất biểu hiện ở trình độ phát triển của hộ
tự cấp, tự túc. Trình độ này quyết định quan hệ giữa hộ nông dân và thị trường.
11
- Đặc điểm kinh tế hộ nông dân. Kinh tế nông hộ nông dân vẫn tồn tại
như một hình thái sản xuất đặc thù nhờ các đặc điểm:
• Khả năng của nông dân thoả mãn nhu cầu của tái sản xuất đơn giản nhờ
sự kiểm soát tư liệu sản xuất, nhất là ruộng đất. Nhờ giá trị xã hội của nông dân
hướng vào quan hệ qua lại hơn là vào việc đạt lợi nhuận cao nhất.
• Nhờ việc chuyển giao ruộng đất từ thế hệ này sang thế hệ khác chống lại
sự tập trung ruộng đất vào tay một số ít nông dân.

• Khả năng của nông dân thắng được áp lực của thị trường bằng cách tăng
thời gian lao động vào sản xuất (khả năng tự bóc lột sức lao động).
• Đặc trưng của nông nghiệp không thu hút việc đầu tư vốn do có tính rủi
ro cao và hiệu quả đầu tư thấp.
• Khả năng của nông dân kết hợp được hoạt động nông nghiệp và phi nông
nghiệp để sử dụng hết lao động và tăng thu nhập. Tuy vậy, ở tất cả các xã hội
nền kinh tế nông dân phải tìm cách để tồn tại trong các điều kiện rất khó khăn do
áp lực của các chế độ hiện hành gây ra.
• Việc huy động thặng dư của nông nghiệp để thực hiện các lợi ích của
toàn xã hội thông qua địa tô, thuế và sự chênh lệch về giá cả. Các tiến bộ kỹ
thuật làm giảm giá trị của lao động nông nghiệp thông qua việc làm giảm giá
thành và giá cả của sản phẩm nông nghiệp. Vì vậy, nông dân chỉ còn có khả năng
tái sản xuất đơn giản nếu không có sự hỗ trợ từ bên ngoài. Các hộ nông dân
ngoài hoạt động nông nghiệp còn tham gia vào hoạt động phi nông nghiệp với
các mức độ rất khác nhau.
2.5. Hệ thống các tổ chức tín dụng nông nghiệp-nông thôn ở Việt Nam
2.5.1. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hoạt động theo mô hình
tổng công ty 90, là doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt, hoạt động theo luật các
tổ chức tín dụng và chịu sự quản lý trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Ngoài chức năng của một ngân hàng thương mại, Ngân hàng NN-PTNT được
xác định thêm nhiệm vụ đầu tư phát triển đối với khu vực nông thôn thông qua
việc mở rộng đầu tư vốn trung, dài hạn để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
12
sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy hải sản góp phần thực hiện thành công sự
nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn. Đến cuối năm 2005, vốn tự có của
ngân hàng NN-PTNT Việt Nam đạt 7.702tỷ VND, tổng tài sản có trên 190 ngàn
tỷ, hơn 2000 chi nhánh trên toàn quốc và 29.492 cán bộ nhân viên (chiếm
40%tổng số CBCNV toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam), ứng dụng công nghệ
hiện đại, cung cấp những sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hoàn hảo… Đến nay,

tổng số Dự án nước ngoài mà ngân hàng NN-PTNT Việt Nam tiếp nhận và triển
khai là 68 dự án với tổng số vốn 2.486 triệu USD, trong đó giải ngân qua ngân
hàng NN-PTNT là 1,5 tỷ USD. Hiện nay ngân hàng NN-PTNT Việt Nam đã có
quan hệ đại lý với 932 ngân hàng đại lý tại 112 quốc gia và vùng lãnh thổ, là
thành viên của nhiều tổ chức, hiệp hội tín dụng có uy tín lớn. Đến cuối năm
2007, tổng tài sản đạt 325.802 tỷ đồng tương đương với 20 tỷ USD gấp gần 220
lần so với ngày đầu thành lập. Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 242.102 tỷ
đồng trong đó cho vay nông nghiệp nông thôn chiếm trên 70% với trên 10 triệu
hộ gia đình, cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm trên 36% với gần 3 vạn
doanh nghiệp dư nợ. Tổng nguồn vốn 295.048 tỷ đồng tỉ lệ vốn huy động chiếm
đa số [10].
2.5.2. Ngân hàng Chính sách Xã hội
Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCS-XH) được thành lập theo Quyết
định 131/2002/QĐ-TTg ngày 4 tháng 10 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ
trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ người nghèo. Việc xây dựng Ngân
hàng Chính sách Xã hội là điều kiện để mở rộng thêm các đối tượng phục vụ là
hộ nghèo, học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, các đối tượng chính sách
cần vay vốn để giải quyết việc làm, đi lao động có thời hạn ở nước ngoài và các
tổ chức kinh tế, cá nhân hộ sản xuất, kinh doanh thuộc các xã đặc biệt khó khăn,
miền núi, vùng sâu, vùng xa. Ngân hàng Chính sách Xã hội có bộ máy quản lý
và điều hành thống nhất trong phạm vi cả nước, với vốn điều lệ ban đầu là 5
nghìn tỷ đồng và được cấp bổ sung phù hợp với yêu cầu hoạt động từng thời kỳ.
Thời hạn hoạt động của Ngân hàng Chính sách Xã hội là 99 năm. NHCS-XH
hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, phục vụ người nghèo và các đối tượng
13
chính sách khác. Bộ máy quản trị của Ngân hàng Chính sách Xã hội bao gồm:
Hội đồng quản trị tại Trung ương, 64 Ban đại diện Hội đồng quản trị cấp tỉnh,
thành phố và hơn 660 Ban đại diện Hội đồng quản trị cấp quận, huyện. Ngân
hàng CS-XH cho hộ nghèo vay dưới nhiều hình thức khác nhau, để nguồn vốn
có thể đến tay người nghèo [7].

2.5.3. Các tổ chức tín dụng khác
Trong bối cảnh nền kinh tế chịu tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu, Quỹ tín dụng nhân dân trung ương được coi là một kênh dẫn vốn thiết
thực đối với nhiều người dân. Hiện Quỹ tín dụng nhân dân trung ương có 24 chi
nhánh, 1.018 Quỹ tín dụng cơ sở. Đến hết năm 2008, tổng nguồn vốn hoạt động
của Quỹ tín dụng Trung ương đạt 6.352 tỷ đồng, tăng 1,7% so với năm 2007;
vốn điều lệ đạt 612,5 tỷ đồng; tổng số các quỹ tích lũy từ lợi nhuận ròng là 111
tỷ đồng, tăng 18%. Số dư nguồn vốn huy động đạt 3.985,4 tỷ đồng, chiếm 62,7%
tổng nguồn vốn. Dư nợ cho vay trong hệ thống 2.238 tỷ đồng [13]…
Để hoạt động hiệu quả, góp phần phát triển sản xuất, bảo đảm an sinh xã
hội, các Quỹ tín dụng tiếp tục tăng cường huy động nguồn vốn từ dân cư, tổ chức
kinh tế; đẩy mạnh hoạt động trên thị trường liên ngân hàng và với các Tổ chức
tín dụng; mở rộng sản phẩm, dịch vụ. Hệ thống Quỹ tín dụng phấn đấu tăng
trưởng nguồn vốn huy động 25-30%; tăng nguồn vốn tín dụng 20-25%. Mở rộng
địa bàn hoạt động, tăng cường huy động vốn, cho vay, tiếp cận thành viên, nâng
cao mối liên kết hệ thống, đưa các sản phẩm, dịch vụ đến khách hàng. Quỹ tín
dụng đào tạo và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực công nghệ thông tin và dịch
vụ; nâng cao năng lực quản trị điều hành nguồn nhân lực [13]…
Hoạt động tín dụng nông nghiệp-nông thôn có tính rủi ro cao cho nên hiện
nay, nhiều ngân hàng thương mại, các cá nhân cho vay tuy có tham gia vào
nhưng rất hạn chế.
14
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các tổ chức, nhóm tín dụng đang hoạt động trên địa bàn xã Đức Bồng.
- Những hộ sản xuất, kinh doanh trên địa bàn xã Đức Bồng.
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: xã Đức Bồng, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh.

- Tập trung nghiên cứu những hộ có vay vốn và có nhu cầu vay vốn để sản
xuất.
- Thời gian nghiên cứu: 1/2011-5/2011.
3.2. Nội dung nghiên cứu
● Tổng quan về địa điểm nghiên cứu
Tìm hiểu về điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội xã Đức Bồng, huyện Vũ
Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Đánh giá những thuận lợi, khó khăn cho sự phát triển kinh
tế-xã hội nói chung, sự phát triển của hệ thống tín dụng nông nghiệp-nông thôn
nói riêng.
● Tìm hiểu về hệ thống tín dụng nông nghiệp-nông thôn trên địa bàn xã Đức
Bồng bao gồm:
- Hoạt động của tín dụng nông nghiệp-nông thôn trên địa bàn xã Đức
Bồng, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh.
- Quy chế hoạt động tín dụng của tín dụng nông nghiệp-nông thôn: đối
tượng vay, mức vay, lãi suất, thời hạn vay, các hoạt động hỗ trợ
- Kết quả hoạt động của tín dụng nông nghiệp-nông thôn trên địa bàn xã:
nguồn vốn cho vay, tổng lượt vay, tổng số vốn giải ngân
- Thuận lợi và khó khăn của hoạt động tín dụng nông nghiêp-nông thôn
trên địa bàn xã.
● Tìm hiểu tình hình vay vốn của người dân trên địa bàn xã bao gồm các nội
dung: Tình hình vay vốn của người dân, vấn đề quan tâm nhất của người dân khi
15
tham gia vay vốn và đánh giá của người dân về hoạt động tín dụng trên địa bàn
xã 3 năm qua (2008-2010).
● Nghiên cứu tác động của tín dụng nông nghiệp-nông thôn tới hoạt đốngản xuất
của người dân:
- Các hoạt động tạo thu nhập của các hộ điều tra trong 3 năm qua (2008-
2010).
- Sản xuất nông nghiệp và chuyển đổi hoạt động sản xuất của người dân
tham gia vay vốn trên địa bàn xã.

- Tình hình vay vốn theo lĩnh vực sản xuất của các hộ điều tra
● Đánh giá kết quả hoạt động của tín dụng nông nghiệp-nông thôn với các tiêu
chí thay đổi thu nhập và cơ cấu thu nhập và thay đổi tiện nghi sinh hoạt và
phương tiện sản xuất của hộ sau khi vay vốn.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Chọn điểm và mẫu nghiên cứu
- Chọn điểm nghiên cứu: dựa trên các tiêu chí:
+ Điểm nghiên cứu ở khu vực nông thôn có cơ cấu sản xuất nông nghiệp
chiếm tỷ lệ cao.
+ Điểm nghiên cứu phải có hoạt động tín dụng diễn ra trong các năm
2005-2010.
Theo tiêu chí trên tôi đã chọn xã Đức Bồng, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà
Tĩnh làm điểm nghiên cứu.
- Mẫu nghiên cứu: 60 hộ trên địa bàn xã theo tiêu chí 50% hộ nghèo, 50% hộ
không nghèo.
Phỏng vấn người am hiểu: Ban quản lý các tổ chức tín dụng, những người
có trách nhiệm với hoạt động sản xuất nông nghiệp trên địa bàn.
- Yêu cầu mẫu khảo sát:
+ Các hộ gia đình đang sinh sống trên trên địa bàn xã Đức Bồng.
+ Các hộ phân bố đều trên khu vực khảo sát.
+ Các hộ khảo sát được lựa chọn ngẫu nhiên.
16
3.3.2. Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn
Từ nhìn nhận bằng trực quan ban đầu và quá trình tiếp xúc phỏng vấn trực
tiếp nhà quản lý, người sản xuất nông nghiệp (những người chịu ảnh hưởng trực
tiếp của chính sách tín dụng) về tác động của tín dụng đến phát triển kinh tế
nông nghiệp của địa phương.
3.3.3. Phương pháp thu thập thông tin
Thu thập thông tin thứ cấp:
- Báo cáo tình hình kinh tế- xã hội, phương hướng hoạt động của xã Đức

Bồng.
- Báo cáo về hoạt động tín dụng nông nghiệp-nông thôn trên địa bàn.
- Tài liệu sách báo, tạp chí, bài nghiên cứu liên quan đến vấn đề nghiên
cứu.
Qua đó nắm được một số vấn đề gồm:
- Tổng quan về địa phương: những thuận lợi và khó khăn trong phát triển
kinh tế, tiềm năng thế mạnh của địa phương, cơ cấu kinh tế, dân số, định hướng
phát triển trong thời gian tới
- Hoạt động của tín dụng nông nghiệp-nông thôn trên địa bàn xã Đức
Bồng.
- Hoạt động sản xuất trên địa bàn xã.
- Khả năng chuyển đổi hoạt động sản xuất của nông hộ.
- Hiệu quả của các hoạt động sản xuất.
Thu thập thông tin sơ cấp:
- Phỏng vấn sâu người am hiểu ở địa phương: cụ thể tôi sẽ tiến hành
phỏng vấn các trưởng thôn, cán bộ hội phụ nữ, cán bộ hội nông dân, phó chủ tịch
xã để thu thập thông tin.
- Phỏng vấn hộ: Phỏng vấn 60 hộ sản xuất nông nghiệp có tham gia hoạt
động tín dụng nông nghiệp –nông thôn trên địa bàn xã theo phương pháp phỏng
vấn bán cấu trúc với các câu hỏi đóng, mở để thu thập thông tin.
Loại thông tin thu thập:
- Hoạt động tín dụng nông-nghiệp nông thôn trên địa bàn xã.
17
- Hoạt động vay vốn của nông hộ.
- Hoạt động sản xuất của nông hộ.
- Thu nhập và cơ cấu của thu nhập trong nông hộ.
- Kết quả hoạt động sản xuất của hộ khi sử dụng vốn vay.
- Chất lượng cuộc sống của nông hộ.
- Thuận lợi và khó khăn khi vay vốn để sản xuất.
3.3.4. Xử lý số liệu

Số liệu sau khi thu thập được tổng hợp và xử lý thông qua phần mềm tính
toán Microsoft Excel đối với các số liệu định lượng.
Các số liệu định tính xử lý để đưa ra nhận xét cho các thông tin đó.
3.4. Một số chỉ tiêu đánh giá tác động của tín dụng nông nghiệp-nông thôn
tới hoạt động sản xuất của nông hộ
- Mức đầu tư cho hoạt động sản xuất của hộ: số hộ và số vốn đầu tư cho
hoạt động sản xuất khi được vay vốn.
- Tác động của tín dụng nông nghiệp-nông thôn tới chuyển dịch cơ cấu sản
xuất trên địa bàn xã: số hộ và hình thức chuyển dịch cơ cấu sản xuất sau khi vay
vốn; hiệu quả đưa lại.
- Thu nhập và cơ cấu thu nhập của hộ: mức tăng của thu nhập, sự bền
vững của thu nhập và thay đổi cơ cấu thu nhập của các hộ vay vốn.
- Thay đổi tiện nghi sinh hoạt và phương tiện sản xuất: số lượng và giá trị
của các loại tiện nghi sinh hoạt và phương tiện sản xuất của các hộ sau khi vay
vốn.
- Khả năng giải quyết việc làm: khả năng tạo ra việc làm của các hộ
( tăng mức độ thường xuyên của công việc nhằm giảm thời gian rảnh rỗi của
người dân do đặc điểm sản xuất theo mùa vụ của hoạt động nông nghiệp đưa
lại ) sau khi vay vốn.
18
Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội xã Đức Bồng
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
● Vị trí địa lý
Đức Bồng là một xã miền núi nằm ở phía Bắc huyện Vũ Quang, tỉnh Hà
Tĩnh cách thành phố Hà Tĩnh 70km về phía Đông Nam.
- Phía Bắc giáp huyện Đức Thọ
- Phía Nam giáp thị trấn Vũ Quang
- Phía Đông giáp xã Đức Hương

- Phía Tây giáp xã Đức Lĩnh
Địa bàn xã có hơn 2 km sông Ngàn Sâu chảy qua, có đường tỉnh lộ 5 và
đường Ân Phú-Cửa Rào đi qua, giáp với thị trấn. Đây là điều kiện thuận lợi cho
việc đi lại, giao lưu buôn bán, trao đổi hàng hoá cũng như việc tiếp cận các tổ
chức tín dụng của các hộ dân trong xã.
● Khí hậu, thời tiết
Nằm trong khu vực miền Trung, phía Bắc Đèo Ngang khí hậu của Đức
Bồng thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa, tuy nhiên do ảnh hưởng của vị trí địa lý
nên ngoài những đặc điểm chung, khí hậu nơi đây có những nét đặc thù riêng
của một vùng đồi núi.
Mang tính chất chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa nên Đức Bồng có hai
mùa gió trong năm: gió mùa mùa đông (từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, chịu
tác động của gió mùa Đông Bắc) và gió mùa mùa hạ (bắt đầu từ tháng 4 đến
tháng 9, chịu tác động của gió Tây thổi từ vùng thượng Lào, có đặc điểm là khô
và nóng). Nhiệt độ trung bình hằng năm là 24,5
0
C, nhiệt độ cao nhất là 40,2
0
C
(tháng 7), thấp nhất là 8,6
0
C (tháng 1). Do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc nên
có những mùa đông nhiệt độ thấp xuống dưới 10
0
C.
19
Tổng lượng mưa khá lớn , trung bình 2304,5mm/năm, mưa tập trung vào
tháng 8, tháng 9 mưa ít nhất vào các tháng 2, 3,5. Riêng lượng mưa tháng 8, 9
chiếm gần 1/2 lượng mưa cả năm, vì vậy, thường gây lũ lụt cho vùng.
Độ ẩm tương đối cao, trung bình 85%, các tháng mùa đông trung bình

92%, thời kỳ khô kéo dài 4-5 tháng, từ tháng 4 đến tháng 8, độ ẩm trung bình
70%.
● Địa hình, đất đai
- Địa hình:
Là xã thuộc huyện miền núi Vũ Quang, nằm ở sườn phía Đông của dãy
Trường Sơn Bắc ở độ cao trung bình 700m so với mực nước biển. Địa hình đồi
núi chiếm phần lớn diện tích đất tự nhiên phân hoá tương đối phức tạp, không
bằng phẳng, bị chia cắt bởi nhiều sông suối. Vì vậy, giao thông thuỷ lợi còn
nhiều khó khăn.
- Đất đai:
Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, đóng vai trò hết sức quan trọng và cần
thiết cho mọi hoạt động sản xuất. Trong sản xuất nông nghiệp, đất đai là tư liệu
sản xuất đặc biệt, là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất cây trồng và chất
lượng sản phẩm.
Tiềm năng đất đai của xã tương đối lớn nhưng hiện tại mới khai thác sử
dụng được gần 75%, trong đó chủ yếu là đất lâm nghiệp, đất sản xuất nông
nghiệp chỉ chiếm một phần nhỏ, mặt khác chất lượng và hiệu quả sản xuất của
các hộ nông dân còn rất yếu kém. Đất nông nghiệp có xu hướng giảm xuống qua
mỗi năm trong đó chủ yếu là giảm diện tích đất hằng năm, nguyên nhân chính là
do chuyển đổi sang đất nhà ở, đất chuyên dụng. Diện tích đất lâm nghiệp giảm,
trở thành những vùng đất trống đồi núi trọc, làm cho đất chưa sử dụng tăng lên.
20
Bảng1. Tình hình sử dụng đất xã Đức Bồng qua 3 năm từ 2008-2010
Loại đất sử
Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
Diện
tích
(ha)
Tỷ lệ
(%)

Diện
tích
(ha)
Tỷ lệ
(%)
Diện
tích
(ha)
Tỷ lệ
(%)
Tổng diện tích
đất
1371.9
5
100 1371.9
5
100 1371.9
5
100
1. Đất nông
nghiệp
224.54 16.36 223.83 16.31 222.38 16.21
1.1. Đất trồng
cây hằng năm
129.01 9.40 128.71 9.38 128.18 9.34
1.2. Đất trồng
cây lâu năm
95.53 6.96 95.12 6.93 94.20 6.87
2. Đất lâm
nghiệp

561.16 40.90 540.28 39.38 491.60 35.83
3. Đất phi
nông nghiệp
292.34 21.30 293.26 21.38 293.86 21.42
3.1. Đất nhà ở 19.41 1.41 20.54 1.50 21.16 1.54
3.2. Đất
chuyên dùng
183.88 13.40 183.60 13.38 183.31 13.36
3.3. Đất sông
suối và mặt
nước chuyên
dùng
89.05 6.49 89.12 6.50 89.39 6.52
4. Đất chưa sử
dụng
293.91 21.42 314.58 22.93 364.11 26.54
(Nguồn: Thống kê xã Đức Bồng, 2010)
21
● Tài nguyên thiên nhiên
- Tài nguyên đất:
Đất đai của xã chủ yếu thuộc nhóm đất feralit (đỏ vàng), chiếm đại bộ
phận diện tích. Ngoài ra còn có đất dốc tụ ở các thung lũng, đất phù sa ven sông
suối, đất nâu vàng trên phù sa cổ , các loại đất này chiếm diện tích nhỏ và phân
bố rải rác. Vì vậy diện tích đất trồng lúa và màu rất hạn chế và độ màu mỡ thấp.
Xã có tiềm năng lớn về đất lâm nghiệp, đây chính là tiền đề để phát triển
cây lâm nghiệp cũng như kết hợp chăn nuôi trâu, bò. Đây là hướng đi phù hợp
với điều kiện của xã.
- Tài nguyên nước:
Xã có mật độ sông suối tương đối dày đặc. Đặc biệt là có hơn 2 km sông
Ngàn Sâu chảy qua và một số hồ tự nhiên có trữ lượng nước tương đối lớn. Nếu

hệ thống thuỷ lợi được đầu tư tốt sẽ cung cấp đầy đủ nước tưới cho cây trồng
trên toàn xã.
4.1.2. Điều kiện kinh tế-xã hội
● Tình hình dân số và lao động
22
Bảng 2: Dân số và cơ cấu lao động của xã Đức Bồng qua các năm 2008-2010

Chỉ tiêu
Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
1. Tổng dân số
(người)
3389 100 3411 100 3457 100
2. Tổng số hộ
(hộ)
862 100 879 100 900 100
- Hộ sản xuất
nông nghiệp
701 81.32 697 79.29 695 77.22

- Hộ sản xuất
phi nông
nghiệp
161 18.68 182 20.71 205 22.78
3. Tổng số lao
động
1810 100 1833 100 1851 100
- Lao động
nam
851 47.02 843 45.99 856 46.25
- Lao động nữ 959 52.98 990 54.01 995 53.75
- Lao động
nông nghiệp
1450 80.11 1434 78.23 1415 76.45
- Lao động phi
nông nghiệp
360 19.89 399 21.77 436 23.55
(Nguồn: Thống kê xã Đức Bồng, 2010)
Qua bảng 2 cho thấy, dân số trên địa bàn xã có sự biến động không đáng
kể. Tiềm năng lao động của xã tương đối lớn nhưng không khai thác hết do thiếu
việc làm, thu nhập thấp, tỷ lệ người ăn theo cao và chất lượng lao động còn thấp.
Vấn đề đặt ra là tạo nên ngành nghề phụ để lao động có thêm việc làm và tạo nên
23
thu nhập. Chính vì vây, phát triển hệ thống tín dụng NN-NT trên địa bàn xã là rất
quan trọng để người dân có thể tiếp cận các nguồn vốn, phát triển sản xuất.
● Tình hình cơ sở hạ tầng
Trước khi tách ra khỏi huyện Đức Thọ để trở thành xã của huyện mới Vũ
Quang cơ sở hạ tầng của xã hầu như không có gì đáng kể. Được sự quan tâm đầu
tư của chính quyền các cấp và sự đóng góp của người dân đến nay cơ sở hạ tầng
trên địa bàn xã có những chuyển biến tích cực. Nhìn chung xã đã có đầy đủ các

cơ sở vật chất kỹ thuật so với trước, trong sản xuất nông nghiệp đã xuất hiện
máy cày, máy bừa, máy tuốt lúa…Hệ thống điện, đường, trường, trạm…phát
triển hơn trước.
- Về giao thông, thuỷ lợi: Xã có tỉnh lộ 5 đi qua nối liền với thị trấn Vũ
Quang và huyện Đức Thọ. Có tuyến đường Ân Phú-Cửa Rào đi qua, dễ dàng
giao lưu với 6 xã vùng hạ của huyện Vũ Quang. Đến nay toàn xã đã có hơn 20
km đường nhựa và bê tông, trong đó có hơn 7 km đường tỉnh lộ 5. Hằng năm, xã
đầu hàng chục triệu đồng với hàng trăm ngày công của nhân dân để nâng cấp hệ
thống giao thông của xã. Cùng với đó, hệ thống thuỷ lợi cũng được đầu tư để
cung cấp nước cho cây trồng trên địa bàn xã. Hiện nay, xã đã xây đựng được gần
5 km kênh mương bê tông và hồ chứa nước Đập Trấm. Và đang tiếp tục đầu tư
xây dựng nhiều km kênh mương bê tông khác.
- Về điện nước: Toàn xã có 5 trạm biến áp, 13/13 thôn có điện lưới quốc
gia, 100% hộ dân đã có điện thắp sáng và 95% hộ dân được sử dụng nước sạch
bằng hệ thống giếng đào và giếng khoan.
- Về hệ thống thông tin văn hoá: Hệ thống truyền thanh được đầu tư đầy
đủ và đồng bộ trên toàn xã. Bên cạnh đó, bưu điện văn hoá xã còn là địa chỉ tin
cậy của người dân trong xã về hoạt động thư tín, các loại sách báo phục vụ sản
xuất nông nghiệp. Đến năm 2010 tỷ lệ họ xem truyền hình trên toàn xã là 85%,
bình quân có 20 điện thoại/100dân.
- Về giáo dục, y tế: Nhờ hệ thống mạng lưới trường học được đầy tư tương
đối đồng bộ mà chất lượng dạy và học được nâng lên cả đại trà và mũi nhọn, cơ
sở vật chất phục vụ dạy và học được tăng cường. Hiện nay, xã có 1 trường tiểu
24
học đạt chuẩn quốc gia và một trường mầm non công lập. Phổ cập tiểu học đúng
độ tuổi và hoàn thành phổ cập THCS vững chắc và đang tiến hành xây dựng phổ
cập THPT.
Trạm y tế xã được được nâng cấp về cơ sở vật chất đảm bảo khám chữa
bệnh ban đầu cho người dân. Trong năm 2010, đã tổ chức khám và điều trị cho
2740 lượt người, làm tốt công tác phòng dịch và không để dịch lây lan trên địa

bàn. Tổ chức xử lý vệ sinh nguồn nước cho 608 giếng bị ngập và tiêm chủng đạt
tỷ lệ khá cao sau 2 đợt lũ lịch sử vừa qua.
4.1.3. Đặc điểm dân số, lao động và nhà ở của các hộ điều tra
 Tình hình dân số và lao động của các hộ điều tra
Bảng 3. Tình hình lao động và nhân khẩu của các hộ điều tra
Chỉ tiêu Hộ nghèo
Hộ không nghèo
Số khẩu 138 119
Số lao động 108 102
Số người ăn theo (trẻ
em, người già)
30
17
Bình quân khẩu/hộ 4.60 3.97
Bình quân lao
động/hộ
3.60 3.40
Bình quân người ăn
theo/hộ
1.00 0.57
(Nguồn: Phỏng vấn hộ, 2011)
Qua bảng 3, tình hình lao động và nhân khẩu của các hộ điều tra có sự
khác nhau giữa 2 nhóm hộ nghèo và không nghèo. Mặc dù, ở mỗi nhóm hộ số hộ
điều tra là 30, nhưng số nhân khẩu ở nhóm hộ nghèo lớn hơn 1.16 lần nhóm hộ
25

×