Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

hiệu quả sản xuất sắn của các nông hộ trên địa bàn xã thọ sơn huyện anh sơn, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.7 KB, 52 trang )

Article I. PHẦN 1
Article II. MỞ ĐẦU
Section II.1
Section II.2 1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây sắn đã từng được xem là một loại cây lương thực quan trọng cho
một bộ phận nông dân Việt Nam [6]. Nhân dân ta trồng sắn đã từ nhiều
năm nay, sắn là cây lương thực của cư dân nhiều vùng, nhất là các vùng đồi
trung du và miền núi. Tuy nhiên, hiện nay nhờ sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học công nghệ, cây sắn đã và đang đóng những vai trò rất quan trọng.
Trong những năm gần đây quan niệm đối với cây sắn đã có những thay đổi.
Một số người cho rằng cây sắn là cây mang lại nhiều lợi ích và đang có
nhiều hứa hẹn [1]. Sắn không chỉ là một loại cây lương thực, cây thực
phẩm mà còn là cây công nghiệp để tạo ra các sản phẩm như: cồn, đường,
bột ngọt, tinh bột…
Cùng với quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn. Trong nhiều năm qua nhiều tỉnh miền trung đã tiến hành
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản
xuất hàng hóa, hình thành những vùng nguyên liệu công nghiệp, sản xuất
chuyên canh gắn với nhà máy chế biến nông sản [7]. Đưa nông nghiệp
nông thôn phát triển, từng bước thay đổi bộ mặt kinh tế nông thôn, xóa đói
giảm nghèo, cải thiện điều kiện sống của người dân.
Tuy nhiên, cũng có một số người cho rằng cây sắn là loại cây có nhiều
nhược điểm và chủ trương không nên mở rộng việc trồng sắn [1]. Họ cho
rằng sắn là cây làm kiệt đất, làm tăng rửa trôi, xói mòn đất ở các sườn dốc.
Giá trị dinh dưỡng của sắn không cao vì nghèo protein và vitamin. Hiện
nay, ở một số nước Nam Mĩ, Châu Phi, Nam Á nhiều nhà khoa học đang
chú ý đến việc nghiên cứu cây sắn trên cả các phương diện trồng trọt, thâm
canh cũng như trên các phương diện nông nghiệp chế biến [1]. Ở một số
nước nạn đói đang là mối đe dọa hầu như thường xuyên đối với dân cư.
Người ta chú trọng phát triển cây sắn là loại cây có thể sinh trưởng tốt trên
các loại đất nghèo kiệt, là loại cây cho năng suất tương đối ổn định trong


khi chỉ yêu cầu một lượng lao động rất ít. Vì vậy sắn là loại cây chống đói
1
có hiệu quả nhất, bên cạnh đó nó cũng được coi là một cây công nghiệp
cho hiệu quả kinh tế cao.
Anh Sơn là một huyện miền núi thuộc miền Tây tỉnh Nghệ An.
Huyện nằm dọc theo đôi bờ sông Lam và Quốc lộ 7, phía Đông giáp với
huyện đồng bằng Đô Lương, phía Bắc giáp với huyện miền núi Tân Kỳ và
huyện vùng cao Quỳ Hợp, phía Tây giáp với huyện vùng cao Con Cuông
và Lào, phía Nam giáp với huyện miền núi Thanh Chương. Cách thành phố
Vinh 100km về phía Tây.
Xã Thọ Sơn là một xã của huyện Anh Sơn, là xã miền núi đặc biệt khó
khăn đất sản xuất chủ yếu là đất đồi, nghèo chất dinh dưỡng, hiện nay chỉ
phát triển cây sắn là phù hợp nhất, mang lại năng suất cao. Ở đây người
dân đã trồng sắn từ lâu đời. Trước đây cây sắn được người dân nơi đây
dùng như một loại cây lương thực có vai trò chỉ sau cây lúa, có thể dùng để
cứu đói. Ngày nay hoạt động sản xuất đã có nhiều thay đổi, người dân đã
sản xuất đủ lúa để ăn, cây sắn đã từ vai trò là một loại cây lương thực dùng
để cứu đói đã chuyển thành một loại cây công nghiệp cho hiệu quả kinh tế
cao, dùng làm nguyên liệu cho nhà máy tinh bột sắn Thanh Chương của
tỉnh Nghệ An và nhiều nhà máy sắn khác trong tỉnh cũng như ngoài tỉnh.
Tuy nhiên cây sắn ở đây vẫn chưa được phát huy hết vai trò vốn có của nó.
Article III. Vì vậy tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Hiệu
quả sản xuất sắn của các nông hộ trên địa bàn xã Thọ Sơn huyện Anh
Sơn, tỉnh Nghệ An”
Section III.1 1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu tình hình sản xuất sắn trên địa bàn xã Thọ Sơn huyện Anh
Sơn, tỉnh Nghệ An
- Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất sắn của các nông hộ trên địa bàn
xã Thọ Sơn.
Article IV. - Đánh giá những tiềm năng, hạn chế trong việc phát

triển sản xuất sắn trên địa bàn xã Thọ Sơn.
2
Article V. PHẦN 2
Article VI. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Section VI.1 2.1. Cơ sở lý luận
(a) 2.1.1. Khái niệm về hiệu quả kinh tế
Trong cơ chế thị trường một vấn đề luôn được các nhà sản xuất quan
tâm hàng đầu là hiệu quả của việc sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất
là điều kiện để tích lũy và tái đầu tư mở rộng, là động lực thúc đẩy việc mở
rộng sản xuất kinh doanh. Hay nói một cách khác nó chính là yếu tố sống
còn của không riêng bất cứ nhà sản xuất nào.
Chính vì vậy hiệu quả kinh tế không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của
mỗi nhà sản xuất, mỗi doanh nghiệp mà còn là của toàn xã hội. Hiệu quả
kinh tế là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh tế, là
thước đo trình độ tổ chức, quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp. Nâng
cao chất lượng hoạt động kinh tế nghĩa là tăng cường lợi dụng các nguồn
lực sẵn có trong một hoạt động kinh tế. Đây là đòi hỏi khách quan trong
nền sản xuất xã hội do nhu cầu vật chất của cuộc sống con người tăng lên
trong khi nguồn lực có hạn, chỉ có như vậy thì doanh nghiệp mới có điều
kiện mở rộng và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh tế. Theo
tiến sỹ Nguyễn Tiến Mạnh: Hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (hoặc một
quá trình) kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn lực (nhân lự, tài lực, vật lực, tiền vốn) để đạt được mục tiêu xác định.
Quan điểm này được đánh giá tốt nhất trình độ sử dụng các nguồn lực
ở mọi điều kiện của hoạt động kinh tế. Theo quan niệm như thế hoàn toàn
có thể tính toán được hiệu quả kinh tế. Trong hiệu quả kinh tế sự vận động
và biến đổi không ngừng của các hoạt động kinh tế không phụ thuộc vào
quy mô và tốc độ biến đổi khác nhau của chúng [4].
Theo tác giả Hồ Vĩnh Đào: Hiệu quả kinh tế còn gọi là “hiệu ích kinh

tế” so sánh giữa chiếm dụng và tiêu hao trong hoạt động kinh tế (bao gồm
lao động vật hóa và lao động sống) với các thành quả có ích đạt được.
3
Còn theo Farell(1957), Fchultz(1964), Rizzo(1979) và Ellis(1993) cho
rằng: Hiệu quả kinh tế được xác định bởi việc so sánh giữa kết quả đạt được
và chi phí bỏ ra (các nguồn nhân tài, vật lực, tiền vốn ). Để đạt được kết quả
đó các học giả trên đều cho rằng cần phân biệt rõ ba khái niệm về hiệu quả:
hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân bổ các nguồn lực và hiệu quả kinh tế [4].
Hiệu quả kỹ thuật là sản lượng sản phẩm có thể đạt được trên một đơn
vị chi phí đầu vào hay nguồn lực sử dụng vào sản xuất trong điều kiện cụ
thể về kỹ thuật hay công nghệ áp dụng. Nó chỉ ra rằng một đơn vị nguồn
lực dùng vào sản xuất đem lại bao nhiêu sản phẩm. Hiệu quả này thường
được phản ánh trong các mối quan hệ về các năm sản xuất. Như vậy hiệu
quả kỹ thuật thể hiện thông qua mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra, giữa
các đầu vào với nhau và giữa các loại sản phẩm.
Hiệu quả phân bổ là chỉ tiêu hiệu quả trong các yếu tố giá sản phẩm và
giá đầu vào được tính toán để phản ánh giá trị sản phẩm thu trên 1 đồng chi
phí tăng thêm về đầu vào hay nguồn lực. Thực chất của hiệu quả phân bổ là
hiệu quả kỹ thuật có tính đến các yếu tố về giá của các yếu tố đầu vào, đầu
ra. Vì vậy nó còn được gọi là hiệu quả giá. Việc xác định hiệu quả này
cũng như xác định các điều kiện về lý thuyết biên để tối đa hóa lợi nhuận.
Điều đó có nghĩa là giá trị biên của các sản phẩm phải bằng chi phí biên
của các nguồn lực sử dụng vào sản xuất.
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt cả hiệu
quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ. Điều này có nghĩa là cả yếu tố hiện vật và
yếu tố giá trị đều được xem xét khi sử dụng nguồn lực. Chỉ khi nào sử dụng
nguồn lực đạt cả về hiệu quả kỹ thuật lẫn hiệu quả phân bổ thì khi đó sản xuất
mới đạt hiệu quả kinh tế. Sự khác nhau trong các hiệu quả của các doanh
nghiệp có thể là sự khác nhau về hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ.
Hiệu quả xã hội là phản ánh những tác động của hoạt động sản xuất kinh

doanh đến các yếu tố xã hội. Một trong những yếu tố quan trọng là khả năng
giải quyết công ăn việc làm cho người dân địa phương. Tác động đến cơ cấu
lao động, sự di cư. Thông qua đó có những tác động tích cực hay tiêu cực để
đánh giá phù hợp với tình hình sản xuất. Ở đây đi xem xét hoạt động trồng
sắn có tác động như thế nào đến khả năng tạo công ăn việc làm.
4
Hiệu quả kinh tế là mối tương quan so sánh giữa chi phí bỏ ra và kết
quả đạt được ở cả hai mặt kinh tế và xã hội. Mục tiêu cuối cùng của phát
triển kinh tế là phát triển xã hội. Vì thế hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội
có mối quan hệ mật thiết với nhau. Do đó, khi nói đến hiệu quả kinh tế
chúng ta cần phải hiểu trên quan điểm kinh tế-xã hội.
Qua nội dung đã trình bày trên ta có thể kết luận rằng:
Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu biểu hiện kết quả của hoạt động sản xuất,
nói rộng ra là của hoạt động kinh tế, hoạt động kinh doanh phản ánh tương
quan giữa kết quả đạt được so với hao phí lao động, vật tư, tài chính. Là chỉ
tiêu phản ánh trình độ và chất lượng sử dụng các yếu tố sản xuất, kinh
doanh nhằm đạt được kết quả tối đa và chi phí tối thiểu. Tùy vào mục đích
đánh giá, có thể đánh giá hiệu quả kinh tế bằng những chỉ tiêu khác nhau
như năng suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn, hàm lượng vật tư của sản
phẩm, lợi nhuận so với vốn… Chỉ tiêu tổng hợp thường dùng nhất là doanh
lợi thu được so với tổng vốn bỏ ra [1].
Article VII. 2.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả sản
xuất:
- Giá trị sản xuất (GO): là toàn bộ giá trị của cải vật chất và dịch vụ
được hộ nông dân sáng tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là một
năm). Đây là chỉ tiêu tổng hợp nói lên quy mô, cơ cấu hoạt động sản xuất
kinh doanh của nông hộ.
GO = Qi*Pi
Trong đó : Qi: Khối lượng sản phẩm thứ i
Pi: Đơn giá sản phẩm thứ i

- Giá trị gia tăng (VA): Là hiệu số giữa giá trị sản xuất và chi phí
trung gian, là kết quả cuối cùng thu được sau khi trừ đi chi phí trung gian
của hoạt động trồng sắn.
VA = GO – IC
Trong đó: VA: Là giá trị gia tăng
GO: Là tổng giá trị sản xuất
IC: Là chi phí trung gian
5
- Giá trị sản xuất tính cho một đơn vị chi phí trung gian (GO/IC):
Là chỉ tiêu phản ánh về lượng số đơn vị giá trị sản xuất thu được khi bỏ ra
một đơn vị chi phí trung gian đầu tư sản xuất.
- Giá trị gia tăng tính chi một đơn vị chi phí trung gian (VA/IC):
Là chỉ tiêu phản ánh về lượng, cho biết cứ một đơn vị chi phí trung gian bỏ
ra để đầu tư cho sắn thì thu được bao nhiêu đơn vị giá trị gia tăng. Đây là
chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả kinh tế đạt được.
- Giá trị gia tăng/lao động (VA/LĐ): Là chỉ tiêu phản ánh thu nhập
tăng thêm cho một lao động.
Article VIII. 2.1.3. Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế
Có nhiều phương pháp để xác định hiệu quả kinh tế song điều quan
trọng là chúng ta cần xác định chính xác kết quả thu được và chi phí phải
bỏ ra cho quá trình sản xuất kinh doanh. Tuỳ theo mục đích tính toán hiệu
quả kinh tế mà chúng ta xác định kết quả thu được sao cho phù hợp. Nếu
mục tiêu của doanh nghiệp là sản xuất ra sản phẩm để đáp ứng nhu cầu xã
hội là chủ yếu thì kết quả được sử dụng là tổng giá trị sản xuất (GO),
nhưng với doanh nghiệp hay trang trại phải thuê mướn nhân công thì kết
quả thu được cần quan tâm lại là lợi nhuận, còn đối với các nông hộ kết
quả được quan tâm là thu nhập hoặc thu nhập hỗn hợp.
Chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh là chi phí cho các
yếu tố đầu vào như đất đai, tư liệu sản xuất, lao động, tiền vốn, trình độ và
công nghệ. Tuỳ theo mục đích phân tích và nghiên cứu mà chi phí bỏ ra có

thể tính toán toàn bộ hoặc cho từng yếu tố chi phí. Thông thường chi phí bỏ
ra được tính là tổng chi phí, tổng chi phí trung gian.
Hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi
phí bỏ ra. Điều đó có nghĩa là hiệu quả kinh tế là sự so sánh về mặt lượng
giữa kết quả và chi phí sản xuất. Ta có công thức: H = Q/C
Trong đó:
H: hiệu quả kinh tế
Q: kết quả thu được
C: chi phí bỏ ra
6
(a) Phương pháp này phản ánh rõ nét trình độ sử dụng các nguồn
lực, xem xét được một đơn vị nguồn lực đã sử dụng đem lại bao nhiêu kết
quả. Điều này cho phép chúng ta so sánh hiệu quả ở các quy mô khác nhau.
Article IX. 2.2. Cơ sở thực tiễn.
Article X. 2.2.1. Vị trí kinh tế của cây sắn
Article XI. 2.2.1.1. Giá trị sử dụng
Sắn là cây trồng có nhiều công dụng trong chế biến công nghiệp, thức
ăn gia súc và lương thực thực phẩm. Củ sắn được dùng để chế biến tinh
bột, sắn lát khô, bột sắn nghiền hoặc dùng để ăn tươi. Từ sắn củ tươi hoặc
từ các sản phẩm sắn sơ chế tạo thành hàng loạt các sản phẩm công nghiệp
như bột ngọt, rượu cồn, mì ăn liền, gluco, xiro, bánh kẹo, mạch nha, kỹ
nghệ chất dính (hồ vải, dán gỗ), bún, miến, mì ống, mì sợi, bột khoai, bánh
tráng, hạt trân châu (tapioca), phụ gia thực phẩm, phụ gia dược phẩm. Củ
sắn cũng là nguồn nguyên liệu chính để làm thức ăn gia súc. Thân sắn dùng
để làm giống, nguyên liệu cho công nghiệp xenlulô, làm nấm, làm củi đun.
Lá sắn non dùng làm rau xanh giàu đạm. Lá sắn dùng trực tiếp để nuôi tằm,
nuôi cá. Bột lá sắn hoặc lá sắn ủ chua dùng để nuôi lợn, gà, trâu bò, dê,…
Hiện tại, sản phẩm sắn ngày càng thông dụng trong buôn bán, trao đổi
thương mại quốc tế (P.Silvestre, M.Arraudeau, 1991)
2.2.1.2. Lợi ích của trồng sắn:

Sắn dễ trồng, hợp nhiều loại đất, vốn đầu tư thấp, hợp khả năng kinh
tế với nhiều hộ gia đình nông dân nghèo, thiếu lao động, tận dụng đất để
lấy ngắn nuôi dài. Cây sắn cũng có khả năng cạnh tranh cao vì sử dụng
hiệu quả tiền vốn, đất đai, tận dụng tốt các loại đầt nghèo dinh dưỡng. Sắn
đạt năng suất cao và lợi nhuận khá nếu biết dùng giống tốt và trồng đúng
quy trình canh tác sắn bền vững. Sắn đựơc nông dân ưu tiên trồng vì: Có
khả năng sử dụng tốt các đất đã kiệt: Cho năng suất cao và ổn định, chi phí
đầu tư thấp và sử dụng ít nhân công, thời gian thu hoạch kéo dài nên thuận
rải vụ. Nghề trồng sắn thích hợp với những hộ nông dân nghèo, ít vốn.
Nhược điểm của nghề trồng sắn làm kiệt đất; Củ sắn nghèo đạm và
vitamin, có độc tố HCN trong sắn củ tươi; Chế biến sắn gây ô nhiễm môi
trường [2].
7
Article XII. 2.2.2. Tình hình sản xuất, tiêu thụ sắn trên thế giới và
Việt Nam
Article XIII. 2.2.2.1. Tình hình sản xuất, tiêu thụ sắn trên thế giới
Sắn (Manihot esculenta Crantz) hiện được trồng trên 100 nước có khí
hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc ba châu lục: châu Á, châu Phi và châu
Mỹ Latinh. Tổ chức Nông lương thế giới (FAO) xếp sắn là cây lương thực
quan trọng ở các nước đang phát triển sau lúa gạo, ngô và lúa mì. Tinh bột
sắn là một thành phần quan trọng trong chế độ ăn của hơn một tỷ người
trên thế giới (www. TTTA. Food market, 2009). Đồng thời, sắn cũng là cây
thức ăn gia súc quan trọng tại nhiều nước trên thế giới và cũng là cây hàng
hóa xuất khẩu có giá trị để chế biến bột ngọt, bánh kẹo, mì ăn liền, ván ép,
bao bì, màng phủ sinh học và phụ gia dược phẩm.
Đặc biệt trong thời gian tới, sắn là nguyên liệu chính cho công nghiệp
chế biến nhiên liệu sinh học (ethanol). Năm 2008, Trung Quốc đã sản xuất
một triệu tấn ethanol, họ đã thoả thuận với một số quốc gia lân cận để cung
cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp sản xuất ethanol. Tại Thái Lan,
nhiều nhà máy sản xuất ethanol sử dụng sắn đã được xây dựng năm 2008.

Indonesia đã lên kế hoạch sử dụng sắn sản xuất ethanol để pha vào xăng
theo tỷ lệ bắt buộc 5% bắt đầu từ năm 2010. Các nước như Lào, Papua
New Guinea, đảo quốc Fiji, Nigeria, Colombia và Uganda cũng đang
nghiên cứu thử nghiệm cho sản xuất ethanol (TTTA. Outlook for 2009) [3]
Diện tích, năng suất và sản lượng sắn trên thế giới có chiều hướng gia
tăng từ năm 1995 đến nay. Sản lượng sắn thế giới năm 2006/07 đạt 226,34
triệu tấn củ tươi so với 2005/06 là 211,26 triệu tấn và 1961 là 71,26 triệu
tấn. Năm 2008, sản lượng sắn thế giới đạt 238,45 triệu tấn củ tươi so với
223,75 triệu tấn. Nước có sản lượng sắn nhiều nhất thế giới là Nigeria
(45,72 triệu tấn), kế đến là Thái Lan (22,58 triệu tấn) và Indonesia (19,92
triệu tấn). Việt Nam đứng thứ mười trên thế giới về sản lượng sắn (7,71
triệu tấn). Nước có năng suất sắn cao nhất hiện nay là Ấn Độ (31,43
tấn/ha), kế đến là Thái Lan (21,09 tấn/ha), so với năng suất sắn bình quân
của thế giới là 12,16 tấn/ha (FAO, 2008).
8
Trên thế giới, sắn được trồng bởi những hộ nông dân sản xuất nhỏ để
làm lương thực- thực phẩm, thức ăn gia súc và để bán. Sắn chủ yếu trồng
trên đất nghèo và dùng kỹ thuật canh tác truyền thống.
Mức tiêu thụ sắn bình quân toàn thế giới khoảng 18 kg/người/năm.
Sản lượng sắn của thế giới được tiêu dùng trong nước khoảng 85% (lương
thực 58%, thức ăn gia súc 28%, chế biến công nghiệp 3%, hao hụt 11 %),
còn lại 15% (gần 30 triệu tấn) được xuất khẩu dưới dạng sắn lát khô, sắn
viên và tinh bột (CIAT, 1993). Nhu cầu sắn làm thức ăn gia súc trên toàn
cầu đang giữ mức độ ổn định trong năm 2006 (FAO, 2007).
Sắn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu lương thực ở châu Phi, bình quân
khoảng 96 kg/người/năm. Zaire là nước sử dụng sắn nhiếu nhất với 391
kg/người/năm (hoặc 1123 calori/ngày). Nhu cầu sắn làm lương thực chủ
yếu tại vùng Saharan châu Phi cả hai dạng củ tươi và sản phẩm chế biến
ước tính khoảng 115 triệu tấn, tăng hơn năm 2005 khoảng 1 triệu tấn.
Buôn bán sắn trên thế giới năm 2006 ước đạt 6,9 triệu tấn sản phẩm,

tăng 11% so với năm 2005 (6,2 triệu tấn), giảm 14,8% so với năm 2004
(8,1 triệu tấn). Trong đó tinh bột sắn (starch) và bột sắn (flour) chiếm 3,5
triệu tấn, sắn lát (chips) và sắn viên (pellets) 3,4 triệu tấn.
Trung Quốc hiện là nước nhập khẩu sắn nhiều nhất thế giới để làm cồn
sinh học (bio ethanol), tinh bột biến tính (modify starch), thức ăn gia súc và
dùng trong công nghiệp thực phẩm dược liệu. Địa điểm chính tại tỉnh Quảng
Tây. Năm 2005, Trung Quốc đã nhập khẩu 1,03 triệu tấn tinh bột, bột sắn và
3,03 triệu tấn sắn lát, sắn viên. Năm 2006, Trung Quốc đã nhập khẩu 1,15
triệu tấn tinh bột, bột sắn và 3,40 triệu tấn sắn lát và sắn viên.
Thái Lan chiếm trên 85% lượng xuất khẩu sắn toàn cầu, kế đến là
Indonesia và Việt Nam. Thị trường xuất khẩu sắn chủ yếu của Thái Lan là
Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản và cộng đồng châu Âu với tỷ trọng xuất
khẩu sắn khoảng 40% bột và tinh bột sắn, 25% là sắn lát và sắn viên
(TTTA, 2006; FAO, 2007).
Năm 2006 được coi là năm có giá sắn cao đối với cả bột, tinh bột và
sắn lát. Việc xuất khẩu sắn làm thức ăn gia súc sang các nước cộng đồng
9
châu Âu hiện đã giảm sút nhưng giá sắn năm 2006 vẫn được duy trì ở mức
cao do có thị trường lớn tại Trung Quốc và Nhật Bản (FAO, 2007)
Viện Nghiên cứu Chính sách lương thực thế giới (IFPRI), đã tính toán
nhiều mặt và dự báo tình hình sản xuất và tiêu thụ sắn toàn cầu với tầm
nhìn đến năm 2020. Năm 2020 sản lượng sắn toàn cầu ước đạt 275,10 triệu
tấn, trong đó sản xuất sắn chủ yếu ở các nước đang phát triển là 274,7 triệu
tấn, các nước đã phát triển khoảng 0,40 triệu tấn. Mức tiêu thụ sắn ở các
nước đang phát triển dự báo đạt 254,60 triệu tấn so với các nước đã phát
triển là 20,5 triệu tấn. Khối lượng sản phẩm sắn toàn cầu sử dụng làm
lương thực thực phẩm dự báo nhu cầu là 176,3 triệu tấn và thức ăn gia súc
53,4 triệu tấn. Tốc độ tăng hàng năm của nhu cầu sử dụng sản phẩm sắn
làm lương thực, thực phẩm và thức ăn gia súc đạt tương ứng là 1,98% và
0,95%. Châu Phi vẫn là khu vực dẫn đầu sản lượng sắn toàn cầu với dự báo

sản lượng năm 2020 sẽ đạt 168,6 triệu tấn. Trong đó, khối lượng sản phẩm
sử dụng làm lương thực thực phẩm là 77,2%, làm thức ăn gia súc là 4,4%.
Châu Mỹ La tinh giai đoạn 1993-2020, ước tốc độ tiêu thụ sản phẩm sắn
tăng hàng năm là 1,3%, so với châu Phi là 2,44% và châu Á là 0,84 -
0,96%. Cây sắn tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong nhiều nước châu Á,
đặc biệt là các nước vùng Đông Nam Á nơi cây sắn có tổng diện tích đứng
thứ ba sau lúa và ngô và tổng sản lượng đứng thứ ba sau lúa và mía. Chiều
hướng sản xuất sắn phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh cây trồng. Giải
pháp chính là tăng năng suất sắn bằng cách áp dụng giống mới và các biện
pháp kỹ thuật tiến bộ [2].
10
Bảng 1. Diện tích, năng suất và sản lượng sắn của thế giới
từ năm 1995 – 2008
Năm Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
1995 16,43 9,84 161,79
1996 16,25 9,75 158,51
1997 16,05 10,06 161,60
1998 16,56 9,90 164,10
1999 16,56 10,31 170,92
2000 16,86 10,70 177,89
2001 17,17 10,73 184,36
2002 17,31 10,61 183,82
2003 17,59 10,79 189,99
2004 18,51 10,94 202,64
2005 18,69 10,87 203,34

2006 20,50 10,90 224,00
2007 18,39 12,16 223,75
2008 21,94 12,87 238,45
(Nguồn: Trần Công Khanh tổng hợp từ
FAOSTAT qua các năm).
Article XIV. 2.2.2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ sắn ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trước đây sắn là cây lương thực, thức ăn gia súc quan
trọng sau lúa và ngô. Hiện nay cây sắn đã chuyển đổi vai trò từ cây lương
thực thành cây công nghiệp với tốc độ cao, năng suất và sản lượng sắn đã
tăng nhanh ở thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Năm 2005, cây sắn có diện tích
thu hoạch 432 nghìn ha, năng suất 15,35 tấn/ha, sản lượng 6,6 triệu tấn, so
với cây lúa có diện tích 7.326 ha, năng suất 4,88 tấn/ha, sản lượng 35,8
triệu tấn, cây ngô có diện tích 995 ha, năng suất 3,51 tấn/ha, sản lượng gần
một triệu tấn (FAO, 2007). Cây sắn là nguồn thu nhập quan trọng của các
hộ nông dân nghèo do sắn dễ trồng, ít kén đất, ít vốn đầu tư, phù hợp sinh
thái và điều kiện kinh tế nông hộ (Hoàng Kim và Phạm Văn Biên, 1997).
Nghiên cứu và phát triển cây sắn theo hướng sử dụng đất nghèo dinh
dưỡng, đất khó khăn là việc làm có hiệu quả cao (Hoàng Kim và Trần
11
Công Khanh, 2005), đây là hướng hỗ trợ chính cho việc thực hiện Đề án
“Phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025” đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 177/2007/ QĐ-TT
ngày 20 tháng 11 năm 2007.
Tại Việt Nam, sắn được canh tác phổ biến ở hầu hết các tỉnh của các
vùng sinh thái nông nghiệp. Diện tích, năng suất và sản lượng sắn Việt
Nam qua các năm và phân theo các vùng sinh thái được thể hiện qua Bảng
2 và Bảng 3. Diện tích sắn nhiều nhất ở vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải
miền Trung (168,80 ngàn ha). Tây Nguyên là vùng sản xuất sắn lớn thứ hai
của cả nước, tập trung chủ yếu ở bốn tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk và
Đăk Nông. Năm 2008, diện tích sắn của Tây Nguyên đạt 150.100 ha,

nhưng năng suất bình quân chỉ đạt 15,7 tấn/ha, tổng sản lượng 2,35 triệu
tấn, thấp hơn rất nhiều so với năng suất và sản lượng sắn của vùng Đông
Nam Bộ (23,74 tấn/ha và 2,69 triệu tấn) (Tổng cục thống kê, 2009).
Bảng 2. Diện tích, năng suất và sản lượng sắn của Việt Nam
giai đoạn 1995 – 2008
Năm Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
1995 164,30 9,84 1,62
1996 275,60 7,50 2,06
1997 254,40 9,45 2,40
1998 235,50 7,55 1,77
1999 226,80 7,96 1,80
2000 234,90 8,66 2,03
2001 250,00 8,30 2,07
2002 329,90 12,60 4,15
2003 371,70 14,06 5,23
2004 370,00 14,49 5,36
2005 425,50 15,78 6,72
2006 474,80 16,25 7,77
2007 496,80 16,07 7,98
2008 557,40 16,85 9,30
(Nguồn: Trần Công Khanh tổng hợp từ Niên giám thống kê qua các năm).
12
Bảng 3. Diện tích, năng suất và sản lượng của các vùng sinh thái Việt
Nam năm 2008
Vùng sinh thái Diện tích

(1000 ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(1000 tấn)
Đồng bằng sông Hồng 7,90 12,92 102,10
Trung du và miền núi phía Bắc 110,00 12,07 1.328,00
Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung 168,80 16,64 2.808,30
Tây Nguyên 150,10 15,70 2.356,10
Đông Nam Bộ 113,50 23,74 2.694,50
Đồng bằng sông Cửu Long 7,40 14,43 106,80
Cả nước 557,40 16,87 9.395,80
(Nguồn: Trần Công Khanh tổng hợp từ Niên giám
thống kê qua các năm).
Về thời tiết, Ðông Nam Bộ và Tây Nguyên có sự phân biệt mùa mưa
và mùa khô rất rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 05 và kết thúc vào cuối
tháng 10 hàng năm. Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến hết tháng 04 năm
sau. Do đặc điểm thời tiết của Vùng Đông Nam Bộ và Tây nguyên gần
giống nhau nên lịch thời vụ trồng sắn của cả hai vùng sinh thái nói trên
cũng được bố trí tương tự:
- Thời vụ chính (khoảng 70% diện tích), sắn được trồng từ giữa tháng tư
đến cuối tháng năm, thu hoạch từ đầu tháng một đến cuối tháng ba năm sau.
- Thời vụ phụ (khoảng 30% diện tích), sắn được trồng từ giữa tháng 8
đến giữa tháng 9, thu hoạch từ giữa tháng 9 đến giữa tháng 10 năm sau.
Sắn trồng ở thời vụ cuối mùa mưa có hàm lương tinh bột thấp hơn so với
thời vụ trồng đầu mùa mưa, diễn biến hàm lượng tinh bột của sắn trong
năm được trình bày ở bảng 4.
13
Bảng 4. Diễn biến về hàm lượng tinh bột sắn qua các tháng trong năm
từ 1994 – 1997 tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ

Tháng Hàm lượng tinh bột(%)
Năm 1994 Năm 1995 Năm 1996 Năm 1997 Trung bình
Tháng 1 27,8 28,2 28,2 26,4 27,5
Tháng 2 28,8 29,3 29,3 26,5 28,2
Tháng 3 28,4 28,9 28,9 26,9 28,1
Tháng 4 22,1 24,3 24,3 25,1 23,8
Tháng 5 18,3 20,8 20,8 22,7 20,6
Tháng 6 - - - 21,7 21,7
Tháng 7 - - - - -
Tháng 8 - - - - -
Tháng 9 21,0 22,9 22,9 22,1 22,0
Tháng 10 21,5 22,8 22,8 25,3 23,2
Tháng 11 23,3 24,1 24,1 26,6 25,0
Tháng 12 24,8 24,3 24,3 28,6 26,2
(Nguồn: Hoàng Kim, Trần Công Khanh
và Diệp Phương Điền, 1998)
Sắn chủ yếu dùng để bán (48,6%) kế đến dùng làm thức ăn gia súc
(22,4%), chế biến thủ công (16,8%), chỉ có 12,2% dùng tiêu thụ tươi.
Sắn cũng là cây công nghiệp có giá trị xuất khẩu và tiêu thụ trong
nước. Sắn là nguyên liệu chính để chế biến bột ngọt, bio- ethanol, mì ăn
liền, bánh kẹo, siro, nước giải khát, bao bì, ván ép, phụ gia dược phẩm,
màng phủ sinh học và chất giữ ẩm cho đất. Toàn quốc hiện có trên 60 nhà
máy chế biến tinh bột sắn với tổng công suất khoảng 3,8 triệu tấn củ
tươi/năm và nhiều cơ sở chế biến sắn thủ công rãi rác tại hầu hết các tỉnh
trồng sắn. Việt Nam hiện sản xuất mỗi năm khoảng 800.000 – 1.200.000
tấn tinh bột sắn, trong đó trên 70% xuất khẩu và gần 30% tiêu thụ trong
nước. Sản phẩm sắn xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là tinh bột, sắn lát và
bột sắn.
Sản xuất lương thực là ngành trọng tâm và có thế mạnh của Việt Nam
tầm nhìn đến năm 2020. Chính phủ Việt Nam chủ trương đẩy mạnh sản

14
xuất lúa, ngô và coi trọng việc sản xuất sắn, khoai lang ở những vùng,
những vụ có điều kiện phát triển. Thị trường xuất khẩu sắn lát và tinh bột
sắn Việt Nam dự báo thuận lợi và có lợi thế cạnh tranh cao do có nhu cầu
cao về chế biến bioethanol, bột ngọt, thức ăn gia súc và những sản phẩm
tinh bột biến tính. Diện tích sắn của Việt Nam dự kiến ổn định khoảng 450
nghìn ha nhưng sẽ tăng năng suất và sản lượng sắn bằng cách chọn tạo và
phát triển các giống sắn tốt có năng suất củ tươi và hàm lượng tinh bột cao,
xây dựng và hoàn thiện quy trình kỹ thuật canh tác sắn bền vững và thích
hợp vùng sinh thái.
Thị trường chính là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Singapo, Hàn
Quốc. Đầu tư nhà máy chế biến bio- etanol là một hướng lớn triển vọng.
Nghiên cứu, sản xuất nhiên liệu sinh học (NLSH) là định hướng đúng
đắn trong việc tìm kiếm và sử dụng nguồn năng lượng sạch đã được thế
giới quan tâm nghiên cứu sản xuất. Năm 2008, toàn thế giới đã sản xuất
khoảng 66 tỷ lít ethanol, Mỹ hiện là quốc gia sản xuất ethanol lớn nhất thế
giới đạt gần 34 tỷ lít. Năm 2012, Mỹ sẽ cung cấp trên 28 tỷ lít ethanol và
diesel sinh học. Để khuyến khích sử dụng nhiêu liệu sạch, Chính phủ Mỹ
đã thực hiện việc giảm thuế 0,50 USD/gallon ethanol, 1 USD/gallon diesel
sinh học và hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ sản xuất NLSH. Tổng thống
đương nhiệm đã tuyên bố sẽ đưa nước Mỹ thoát khỏi sự phụ thuộc dầu mỏ
từ nước ngoài bằng cách đầu tư lớn cho nghiên cứu và phát triển để tạo
công nghệ mới sản xuất năng lượng sạch và NLSH.
Công ty TNHH Nhiên liệu sinh học Phương Đông (OBF) là liên doanh
giữa Tổng Công ty Dầu Việt Nam (PVOIL) và tập đoàn Itochu Nhật Bản
đang triển khai xây dựng nhà máy sản xuất Ethanol từ sắn tại huyện Bù Đăng,
tỉnh Bình Phước với công suất chế biến 100 triệu lít/năm (dự tính sử dụng 230
nghìn tấn sắn lát khô/năm hoặc 575 nghìn tấn củ tươi/năm). Việc duy trì và
nâng cao năng suất, sản lượng sắn của vùng nguyên liệu tại các tỉnh Bình
Phước, Đắc Nông, Tây Ninh là việc làm hết sức cấp bách và cần thiết (nguyên

liệu là sự sống còn của nhà máy) [6].
15
Article XV. 2.2.3. Tình hình sản xuất và tiêu thị sắn tỉnh Nghệ An
Trước 2002, cây sắn được trồng chủ yếu theo kiểu tự phát, quảng
canh, diện tích manh mún nhỏ lẻ, củ sắn chủ yếu ăn tươi và cắt lát phơi khô
dùng làm thức ăn gia súc. Đến thời điểm này, khi có quyết định của ủy ban
nhân dân tỉnh Nghệ An về việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng nhằm tăng giá
trị kinh tế của nông sản hàng hóa trên một đơn vị diện tích canh tác. Với
chủ trương này, ủy ban nhân dân tỉnh đã phê duyệt xây dựng vùng nguyên
liệu sắn công nghiệp, từ đó diện tích, năng suất và sản lượng có sự thay đổi
đáng kể, từ 11600 ha(2006) lên 17100 ha(2008), tăng 47,4%.
Cùng việc phát triển cây sắn tập trung trên diện tích lớn, tháng 4/2002
Nghệ An đã xây dựng được nhà máy sản xuất tinh bột sắn Intimex Thanh
Chương với công suất 100 tấn tinh bột/ ngày và đến 2004 đã xây dựng
thêm nhà máy chế biến tinh bột sắn Yên Thành với công suất 50 tấn tinh
bột sắn/ngày.
Năm 2003, toàn tỉnh đã xuất khẩu được 63.808 tấn tinh bột sắn. Nghệ
An đang triển khai hai dự án sản xuất và chế biến tinh bột sắn tại Thanh
Chương và Yên Thành [8].
Article XVI. 2.2.4. Tình hình sản xuất và tiêu thụ sắn huyện Anh
Sơn
Anh Sơn là huyện miền núi, sản xuất nông nghiệp là ngành sản xuất
chính. Trước đây người dân trồng nhiều loại cây như lạc, ngô, khoai đậu và
cây vừng. Trong những năm gần đây huyện đã chuyển sang trồng cây công
nghiệp như cây mía, cây chè và cây sắn.
Hiện nay toàn huyện không có xã nào không trồng sắn, kể cả thị trấn.
Diện tích sắn một số xã như sau: Thọ Sơn 330 ha, Bình Sơn 210 ha, Lĩnh Sơn
140 ha, Thành Sơn 120 ha, (Số liệu thống kê huyện Anh Sơn năm 2010).
Diện tích, năng suất, sản lượng sắn của huyện Anh Sơn trong 3 năm
(2008-2010) như sau:

16
Bảng 5: Diện tích, năng suất, sản lượng sắn của huyện Anh Sơn
(2008-2010)
Chỉ tiêu Đvt 2008 2009
2010
Tổng
Sắn cao
sản
Sắn
thường
Diện tích ha 790,0 991,0 1.127,0 1.011,0 116,0
Năng suất Tạ/ha 275,6 294,2 291,2 314,6 91,2
Sản lượng Tấn 217.724,0 291.552,5 328.182,4 346.374,6 10.579,2
(Nguồn: Số liệu thống kê huyện Anh Sơn
năm 2010)
Kết quả bảng 5 cho thấy: Diện tích trồng sắn của toàn huyện là 1.127
ha và có xu hướng tăng dần qua các năm, cụ thể từ năm 2008 có 790 ha,
tăng lên 1.127 ha năm 2010, tăng 42,66%.
- Về năng suất: Năng suất sắn tăng lên qua các năm. Năng suất tăng
lên như vậy là do huyện đã làm rất tốt công tác chỉ đạo người dân sản
xuất sắn phải coi trọng việc bảo vệ đất, áp dụng đúng kỷ thuật trồng sắn
thâm canh.
- Về sản lượng: Từ năm 2008-2010 trong vòng 3 năm sản lượng tăng
lên 15%. Huyện đang có chủ trương mở rộng quy mô sản xuất sắn vì hiện
nay các nước như Trung Quốc và Lào rất cần nguyên liệu sắn của ta nhưng
đối với huyện Anh Sơn thì chỉ đủ cho nhà máy chế biến tinh bột sắn Thanh
Chương và số ít cho nhà máy chế biến Yên Thành.
17
Article XVII. PHẦN 3
Article XVIII. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

NGHIÊN CỨU
Article XIX. 3.1. Đối tượng
Section XIX.1 Đối tượng nghiên cứu là các hộ tham gia trồng sắn
ở xã Thọ Sơn, Anh Sơn, Nghệ An.
Article XX. 3.2. Nội dung
Article XXI. 3.2.1.Thông tin chung về xã Thọ sơn huyện Anh Sơn
tỉnh Nghệ An
Article XXII. 3.2.1.1. Tổng quan địa bàn nghiên cứu.
- Điều kiện tự nhiên
+ Vị trí địa lý, địa hình
+ Khí hậu thời tiết
Article XXIII. 3.2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội
- Tình hình dân số và lao động
- Tình hình sử dụng đất đai
Article XXIV. 3.2.2. Thực trạng sản xuất sắn của xã Thọ Sơn
Article XXV. 3.2.2.1. Tình hình sản xuất sắn trên địa bàn xã Thọ Sơn
Article XXVI. 3.2.2.2. Đặc điểm kinh tế xã hội của hộ trồng sắn
- Nhân khẩu và lao động
- Tình hình sử dụng đất trồng trọt
- Thông tin về hoạt động tạo thu nhập của hộ
Article XXVII. 3.2.3. Hiệu quả sản xuất sắn của các hộ khảo sát
Article XXVIII. 3.2.3.1. Tình hình trang bị tư liệu sản xuất của các nông hộ
trồng sắn
Article XXIX. 3.2.3.2. Nguồn vốn sử dụng trong sản xuất sắn
Article XXX. 3.2.3.3. Tình hình sản xuất và tiêu thụ sắn của các nhóm
hộ
- Quy mô sản xuất sắn của các nhóm hộ
- Tình hình tiêu thụ sắn của các nông hộ
- Tình hình đầu tư sản xuất của các nhóm hộ khảo sát
- Kết quả và hiệu quả sản xuất sắn của các nông hộ được khảo sát

18
3.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả sản xuất
3.2.4.1. Giống
3.2.4.2. Quy mô sản xuất
3.2.4.3. Khí hậu thời tiết
3.2.4.4. Thị trường tiêu thụ sản phẩm
3.2.4.5. Điều kiện đất đai
3.2.4.6. Điều kiện dịch vụ sản xuất
(a) 3.2.5. Những khó khăn và nguyện vọng của hộ trồng sắn
(b) 3.2.5.1. Khó khăn
(c) 3.2.5.2. Nguyện vọng
Article XXXI. 3.3. Phương pháp nghiên cứu
Article XXXII. 3.3.1. Phương pháp chọn điểm, chọn mẫu
- Phương pháp chọn điểm:
Căn cứ vào đối tượng cần khảo sát chúng tôi tiến hành chọn địa
điểm điều tra tại các hộ trồng sắn tại xã Thọ Sơn.
- Dung lượng mẫu khảo sát:
Đề tài chọn khảo sát 45 hộ gia đình sản xuất sắn trong xã Thọ Sơn
huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An theo tiêu chí 15 hộ khá, 15 hộ trung bình và
15 hộ nghèo.
Chọn mẫu ngẫu nhiên theo tiêu chí không lặp lại theo danh sách mà
trưởng thôn cho: 15 hộ khá, 15 hộ trung bình, 15 hộ nghèo.
Article XXXIII. 3.3.2. Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp
Báo cáo tổng kết hàng năm, báo cáo về tình hình phát triển kinh tế xã
hội của xã và các số liệu thống kê của niên giám thống kê của huyện.
Article XXXIV. 3.3.3. Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp
+ Phỏng vấn hộ bằng bảng hỏi bán cấu trúc đã được chuẩn bị trước
với các hộ có tham gia trồng sắn (45 bảng hỏi)
+ Phỏng vấn sâu người am hiểu trong địa phương: Các trưởng thôn,
những người trồng sắn có kinh nghiệm, các hộ trồng theo quy mô lớn

+ Quan sát thực địa: Tiến hành quan sát một cách tổng thể địa hình,
giao thông, tình hình phát triển kinh tế xã hội, phát triển trồng sắn tại xã.
19
Article XXXV. 3.3.4. Phương pháp phân tích số liệu
- Số liệu điều tra thu thập được xử lý trên phần mềm excel.
- Phân tích định tính và định lượng để mô tả phân tích các chỉ tiêu
nghiên cứu.
20
Article XXXVI. PHẦN 4
Article XXXVII. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Article XXXVIII. 4.1. Thông tin chung về xã Thọ Sơn huyện Anh
Sơn, tỉnh Nghệ An
Article XXXIX. 4.1.1. Tổng quan địa bàn nghiên cứu.
Article XL. 4.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý, địa hình
Vị trí địa lý của địa bàn sản xuất đóng vai trò hết sức quan trọng, khi
nền kinh tế thị trường phát triển như hiện nay. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến
quá trình sản xuất, đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp.
Thọ Sơn là một xã vùng cao của huyện miền núi Anh Sơn nằm bên
đường quốc lộ 7A. Nó có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội,
an ninh quốc phòng. Phía Bắc giáp huyện quỳ hợp, phía Nam giáp xã
Thành Sơn và Bình Sơn, phía đông giáp huyện Tiên Kỳ, phía Tây giáp
huyện Con Cuông.
Với vị trí địa lý như trên, xã Thọ Sơn có nhiều điều kiện thuận lợi để
giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hội với các địa phương khác. Bên cạnh những
thuận lợi thì khó khăn cũng không ít, xã vùng cao của huyện miền núi, ở
cách xa trung tâm của huyện, địa hình cũng phức tạp, việc cung ứng vật tư,
tiến bộ khoa học kỷ thuật chưa được tập trung và nhanh chóng, nên sản
xuất nông nghiệp chưa được chuyên môn hoá cao.
- Đặc điểm về khí hậu

Khí hậu là điều kiện tiên quyết, là cơ sở sinh tồn của thực vật, ảnh
hưởng rất lớn đến đến sinh trưởng và phát triển của cây trồng nói chung và
cây sắn nói riêng. Vì vậy, việc nghiên cứu thời tiết khí hậu của vùng sẽ tạo
điều kiện cho việc tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Thọ Sơn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu sự tác động
trực tiếp của gió mùa Tây - Nam khô và nóng (từ tháng 4 đến tháng 8) và
gió mùa Đông Bắc lạnh, ẩm ướt (từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau), lượng
21
mưa phân bố không đều nên thường hạn hán ảnh hưởng đến quá trình sản
xuất và sinh hoạt của người dân.
Article XLI. 4.1.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội
- Tình hình dân số và lao động
Trong công tác xây dựng đổi mới và phát triển kinh tế, sức lao động
và dân số là tài sản quyết định sự phát triển kinh tế của địa phương. Nhưng
mặt khác là sự cản trở của sự phát triển khi vấn đề việc làm và đời sống
nhân dân không được đảm bảo. Vì vậy tôi tìm hiểu đặc điểm về dân số và
lao động của xã Thọ Sơn năm 2010. Kết quả thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1: Đặc điểm về nhân khẩu và lao động của xã Thọ Sơn
Chỉ Tiêu ĐVT Qui mô
Tổng số hộ Hộ 745
- Tổng số nhân khẩu Khẩu 3711
- Tổng số lao động Lao động 1765
+ Lao động nông nghiệp Lao động 1590
+ Lao động phi nông nghiệp Lao động 175
- Hộ nông nghiệp Hộ 700
+ Hộ trồng Sắn Hộ 603
- Hộ phi nông nghiệp Hộ 45
- Tỷ lệ hộ nghèo % 28,6
(Nguồn: Báo cáo của xã Thọ Sơn)
Qua bảng số liệu ta thấy: Xã Thọ Sơn với tổng số nhân khẩu là 3.711

người với 745 hộ dân, trong đó có 213 hộ trung bình và khá, chiếm 72,4 %
trong tổng số hộ trên địa bàn xã. Trong những năm trước tỷ lệ hộ nghèo
của xã chiếm tỷ lệ rất cao, ba năm nay việc thực hiện công tác xoá đói giảm
nghèo, cho đến nay điều tra thì số hộ nghèo của xã còn 28,6 %, đó là điều
đáng mừng của xã hiện nay.
Theo thống kê trên địa bàn toàn xã, số người trong độ tuổi lao động là
1.765 lao động, chiếm tỷ lệ thấp hơn số người ngoài độ tuổi lao động, mà
chủ yếu là lao động nông nghiệp. Đây là một hạn chế trong quá trình sản
xuất nói chung và ngành nông, lâm nghiệp nói riêng. Hiện nay xã đang có
22
chủ trương tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân vay vốn sản xuất, kinh
doanh, đầu tư cho sản xuất.
- Tình hình sử dụng đất đai
Đối với sản xuất nông nghiệp, đất là tư liệu sản xuất đặc biệt quan
trọng và không thể thay thế được. Nó vừa là đối tượng lao động, vừa là tư
liệu sản xuất và là nơi trú ngụ, sinh sống và sinh hoạt của con người. Quy
mô và trình độ sử dụng nguồn lực đất đai có ảnh hưởng rất lớn đến thu
nhập từ sản xuất nông nghiệp. Vì vậy việc bố trí cây trồng hợp lý nhằm
nâng cao hiệu quả sản xuất. Tình hình sử dụng đất của xã Thọ Sơn được
thể hiện như sau :
Bảng 2 : Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp xã Thọ Sơn
Chỉ tiêu
Diện tích
(ha)
Tỷ lệ (%)
Diện tích đất nông nghiệp 3922,95 100,00
- Đất trồng cây hằng năm 397,66 10,14
+ Đất trồng lúa 37,11 9,33
+ Đất trồng ngô 90,20 22,68
+ Đất trồng sắn 270,35 67,99

- Đất trồng cây công nghiệp hằng năm 465,89 11,88
+ Đất trồng mía 330,71 70,98
+ Đất trồng lạc 135,18 29,02
- Đất trồng cây thực phẩm 27,35 3,07
- Lâm nghiệp 3051,40 77,78
- Đất nuôi trồng thủy sản 8,00 0,20
23
(i)(Nguồn: Số liệu thống kê báo cáo tình hình sử dụng đất
(ii) của xã Thọ Sơn)
Kết quả điều tra ở bảng cho thấy:
Tổng diện tích đất tự nhiên của xã là 4.386,99 ha. Trong đó đất lâm
nghiệp chiếm một diện tích khá lớn là 3.051,40 ha, chiếm tỷ lệ rất cao
trong tổng diện tích đất tự nhiên 69,56%, số còn lại là sử dụng vào trồng
cây nông nghiệp và cây công nghiệp hằng năm, nuôi trồng thuỷ sản, đất ở
và mục đích khác.
Đất nông nghiệp của xã được sử dụng vào việc trồng cây hằng năm,
trồng cây công nghiệp hằng năm. Trong đó đất trồng cây công nghiệp hằng
năm của xã là 465,89 ha, chiếm tỷ lệ tương đối cao trong tổng số diện tích
đất nông nghiệp đến 52,29%, trong đó diện tích đất trồng cây hằng năm là
397,66 ha chiếm tỷ lệ cũng khá lớn 44,64%. Còn lại 27,35 ha đất trồng cây
thực phẩm, chiếm tỷ lệ 3,07% diện tích đất nông nghiệp.
Trong cơ cấu đất trồng cây hằng năm thì diện tích đất trồng ngô lên
đến 90,20 ha, chiếm 22,68%. Đặc biệt trong những năm gần đây diện tích
đất trồng sắn tăng lên rất nhiều, theo chúng tôi điều tra cuối năm 2010 diện
tích trồng sắn trên địa bàn toàn xã lên đến 270,35 ha chiếm 67,99% trong
tổng diện đất trồng cây hằng năm. Diện tích đất trồng sắn tăng lên thể hiện
sự quan tâm của xã đặc biệt là sự quan tâm của người dân đối với việc
trồng sắn, cũng như hiệu quả của nó mang lại cho người dân nơi đây góp
phần nâng cao chất lượng cuộc sống của họ. Và cây sắn là cây chịu hạn
cao, có thể trồng được trên nhiều loại đất. Còn lại diện tích đất sử dụng cho

việc trồng lúa là 37,11 ha, chiếm tỷ lệ 9,33%.
Trong cơ cấu diện tích đất trồng cây công nghiệp hằng năm thì diện
tích đất trồng mía cao với diện tích là 330,71 ha, chiếm 70,98%. Diện tích
đất trồng mía cao như vậy là do chủ trương của việc trồng mía sớm hơn
trồng sắn nên người dân đã quen với việc trồng mía.
24
(iii) Bảng 3: Diện tích và sản lượng một số cây trồng chính của xã năm
2010
(iv)
Cây trồng Diện tích (ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng (tấn)
Lúa 37,11 39,90 148,07
- Đông xuân 27,00 47,00 126,90
- Hè thu 10,11 21,00 21,23
Sắn 270,35 245,00 6623,58
Khoai lang 18,00 63,00 113,40
Lạc 135,18 13,60 183,85
Ngô 90,20 35,60 321,11
Mía 330,71 65,00 2149,62
Rau đậu 27,00 6,20 16,74
(Nguồn: Báo cáo của xã Thọ
Sơn)
Qua bảng số liệu cho thấy: trên địa bàn toàn xã tập trung chủ yếu đối
với các loại cây trồng sắn, mía, lạc, lúa, ngô. Trong đó mía là trồng cây chủ
đạo và chiếm diện tích lớn nhất 330,71 ha, năng suất đạt 65 tạ/ha. Còn sắn
là cây trồng có diện tích là 270,35 ha có năng suất cao nhất 225 tạ/ha. Năng
suất cao như vậy là nhờ sự quan tâm chỉ đạo của của huyện đến xã cũng
như các ban ngành, các tổ chức hội, đoàn thể, nhất là nhóm cán bộ kỷ thuật

của nhà máy tinh bột sắn Thanh Chương, về tận cơ sở chỉ đạo sát sao và
tập huấn đầy đủ trước khi trồng sắn. Tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển
sản xuất, nhờ đó mà năng suất cây sắn được nâng cao. Cây lạc diện tích là
135,18 ha, với năng suất 13,60 tạ/ha, cây lạc cũng có giá trị, trước đây cây
lạc chiếm diện tích lớn nhât, nhưng hiện nay cây lạc được thay thế bằng
cây mía, bởi cây lạc sử dụng nhiều sức lao động hơn mấy cây trồng khác.
Về cây lúa, diện tích đất lúa của địa phương rất ít. Do cây sắn và cây mía
phù hợp với điều kiện đất đai hơn nên diện tích ngô không nhiều 90,20 ha
với năng suất 35,60 tạ/ha. Ngoài ra xã còn trồng khoai lang để tự cung cấp
25

×