Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
LỜI NÓI ĐẦU
Có thể nói sự ra đời của nghị định 100CP là bước ngoặt quan
trọng đánh dấu sự chấm dứt của cơ chế độc quyền nhà nước,tạo ra môi
trường pháp lý cho việc phát triển một thị trường bảo hiểm mang tính cạnh
tranh. Bên cạnh đó với sự phát triển ổn định của nền kinh tế cùng với các
chính sách đầu tư trong và nước ngoài tạo ra một lượng tích lũy đáng kể về
tài sản đã mang lại những cơ hội không nhỏ cho sự phát triển của ngành bảo
hiểm Việt Nam nói chung và bảo hiểm hàng hải nói riêng. Bảo hiểm hàng
hải là một trong những lĩnh vực bảo hiểm ra đời khá sớm không những đáp
ứng nhu cầu đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngành vận tải biển mà còn
thúc đẩy mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia trên thế giới.
Cùng với sự phát triển đó thì tái bảo hiểm ra đời như một tất yếu
khách quan nhằm đảm bảo khả năng tài chính cho các công ty bảo hiểm.
Mặc dù mới được triển khai không lâu nhưng cho đến nay nghiệp vụ bảo
hiểm và tái bảo hiểm hàng hải đã có những bước đi dài, đóng góp không nhỏ
vào sự phát triển chung của thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Trong thời gian thực tập tại Phòng Tái bảo hiểm Hàng hải của
Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam,với những kiến thức
đã được thầy cô truyền đạt và được sự giúp đỡ của các anh chị phòng tái bảo
hiểm hàng hải em đã hoàn thành luận văn với đề tài:
“Tình hình triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất thân tàu
tại Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE)
(2000-2006)”.
Nội dung luận văn gồm 3 chương chính:
Chương I: Tổng quan về tái bảo hiểm và tái bảo hiểm vật chất thân tàu
Chương II: Phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất
thân tàu tại VINARE (2000-2006)
Chương III: Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh
nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất thân tàu tại VINARE.
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
11
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ TÁI BẢO HIỂM VÀ TÁI BẢO
HIỂM VẬT CHẤT THÂN TÀU
I. TỔNG QUAN VỀ TÁI BẢO HIỂM
1. BẢN CHẤT VÀ TÁC DỤNG CỦA TÁI BẢO HIỂM
1.1. Bản chất của tái bảo hiểm
Bảo hiểm là một phạm trù kinh tế, nó bao gồm các quá trình phân
phối lại nhằm đáp ứng nhu cầu đảm bảo của xã hội. Đặc trưng của nó là việc
thành lập mang tính chất tập thể một quỹ dự trữ tài chính thông qua sự vận
động của các quy luật thống kê và các nguyên tắc cân đối cũng như việc
phân phối mang tính chất riêng rẽ quỹ đó để có thể đáp ứng những nhu cầu
có thể dự đoán được trong tương lai phát sinh ra từ những sự cố bất ngờ gây
thiệt hại hay xẩy ra.
Do những đặc thù trên nên bảo hiểm có sự đóng góp nhất định
vào việc đảm bảo tính liên tục,sự ổn định và hiệu quả của quá trình sản
xuất,lưu thông và tiêu dùng của xã hội. Dựa vào các rủi ro được bảo hiểm,
các ngành kinh tế khác nhau và các quá trình tiến hành bảo hiểm được chia
thành nhiều loại và được tổ chức thành một hệ thống độc lập của nền kinh tế
quốc dân (ở nhiều nước còn được gọi là ngành kinh tế bảo hiểm). Một trong
loại hình đó là tái bảo hiểm.
Về khái niệm,tái bảo hiểm là một hình thức bảo hiểm lại những rủi
ro đã được bảo hiểm (công ty bảo hiểm). Hay nói cách khác, tái bảo hiểm là
bảo hiểm cho người bảo hiểm. Nhiệm vụ chủ yếu của tái bảo hiểm là phân
chia các rủi ro đã được bảo hiểm của các công ty bảo hiểm gốc cho một tập
thể các công ty tái bảo hiểm và thông qua đó sẽ tận dụng một cách tối ưu các
quy luật thống kê. Với nhiệm vụ trên tái bảo hiểm ổn định kinh doanh cho
các công ty bảo hiểm gốc và tạo điều kiện cho các công ty này có thể nhận
bảo hiểm cho những rủi ro vượt quá khả năng tài chính của mình.
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
22
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
1.2. Tác dụng cơ bản của tái bảo hiểm
Tái bảo hiểm có tác dụng sau:
• Phân tán rủi ro, góp phần ổn định tài chính cho công ty bảo hiểm gốc,
đặc biệt là trong những trường hợp xảy ra các sự cố thảm họa hay tích
lũy rủi ro;
• Tăng cường khả năng nhận bảo hiểm của công ty bảo hiểm gốc đối
với những rủi ro vượt quá khả năng tài chính của nó;
• Góp phần ổn định thu chi của ngân sách Nhà nước và tăng thu ngoại
tệ cho Nhà nước;
• Giúp các công ty bảo hiểm nhỏ,mới thành lập ổn định và phát triển
nhờ tư vấn về nghiệp vụ từ các công ty tái bảo hiểm;
• Giúp các công ty bảo hiểm sửa chữa tính bất thường, đột biến của rủi
ro - khả năng sai lệch giữa thực tế và dự đoán mà người bảo hiểm có
được nhờ số liệu thống kê từ quá khứ;
• Góp phần thúc đẩy,phát triển quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước
bởi tái bảo hiểm là hoạt động mang tính chất quốc tế;
• Gián tiếp bảo vệ quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm bằng sự ổn
định tài chính của công ty bảo hiểm gốc;
• Đảm bảo đời sống cho cán bộ nhân viên làm việc trong các công ty
bảo hiểm gốc, góp phần giải quyết việc làm cho một bộ phận lao động
xã hội (tạo chỗ làm tại các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm, công ty
môi giới tái bảo hiểm, );
• Tạo điều kiện cho công ty bảo hiểm khi muốn rút lui khỏi thị trường
nào đó (khi nhận thấy không còn đủ khả năng để thực hiện một nghiệp
vụ bảo hiểm nào đó hoặc khi muốn tập trung vào các nghiệp vụ khác
mà công ty có thế mạnh , công ty bảo hiểm này có thể nhượng tái
bảo hiểm các đơn bảo hiểm thuộc loại nghiệp vụ này cho các công ty
khác).
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
33
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA TÁI BẢO HIỂM
Thực tế cho thấy, cũng như các ngành nghể khác, bảo hiểm và tái
bảo hiểm ra đời luôn gắn liền trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định.
Sự ra đời và phát triển của tái bảo hiểm có thể chia thành 4 giai đoạn sau:
a. Giai đoạn đầu phát triển của tái bảo hiểm
Theo tài liệu của các nhà nghiên cứu,Italia là nước đầu tiên chứng
kiến sự ra đời và phát triển của tái bảo hiểm. Bản giao ước cổ nhất được biết
đến có tính chất pháp lý như một hợp đồng tái bảo hiểm được kí kết vào năm
1370 tại thành phố Genes. Đó là hợp đồng tái bảo hiểm hàng hải, liên quan
tới chuyến hành trình bằng đường biển từ Cadiz (Tây Ban Nha) đến Sluys
(Hà Lan). Sau này, với sự phát triển rộng rãi của những quan hệ thương mại
giữa các thành phố của Italia cũng như các nước Bắc Âu, đặc biệt là nước
Anh, dịch vụ tái bảo hiểm cũng phát triển theo. Tuy nhiên, sau khi có sự
xuất hiện của những vụ lạm dụng có tính chất con buôn gây ra nhiều phản
ứng chống lại bản chất của tái bảo hiểm đã dẫn đến việc ra đời của đạo luật
cấm các hoạt động tái bảo hiểm hàng hải ở nước Anh. Trong một thời gian
dài (1746-1864), đạo luật này vô hình chung đã tạo điều kiện cho tổ chức
LLOYD’S phát huy ảnh hưởng của mình bằng đồng bảo hiểm. Sau năm
1864,nó trở thành thị trường tái bảo hiểm quan trọng nhất trên thế giới. Thời
gian này cũng đã chứng kiến sự xuất hiện của các nghiệp vụ tái bảo hiểm
khác như tái bảo hiểm cháy, với hình thức tái bảo hiểm duy nhất được áp
dụng trong thời kỳ này là tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn cho từng rủi ro riêng
biệt.
b. Giai đoạn từ giữa thế kỷ XIX đến giữa thế kỉ XX
Trong giai đoạn này,những thành tựu khoa học kỹ thuật đã được
ứng dụng vào sản xuất làm nền kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa đã có
những bước tiến nhảy vọt,quan hệ giao lưu hàng hóa giữa các nước ngày
càng được mở rộng. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho thị trường tái bảo
hiểm trưởng thành và phát triển. Tuy nhiên các công ty bảo hiểm vừa hoạt
động bảo hiểm gốc vừa hoạt động tái bảo hiểm tạo ra những hạn chế nhất
định, đặt ra yêu cầu cần phải có công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp. Năm
1843, công ty tái bảo hiểm nội bộ đầu tiên ra đời là Weceler Re (Đức). Tuy
nhiên, nó chỉ là công ty con của một công ty bảo hiểm địa phương, chủ yếu
nhận các phần dôi của công ty mẹ.
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
44
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
Năm 1846 công ty tái bảo hiểm độc lập đầu tiên được thành lập tại
Đức mang tên Cologe Re. Sau đó là sự ra đời hàng loạt của các công ty tái
bảo hiểm chuyên nghiệp có tên tuổi như:
- Swiss Re – công ty tái bảo hiểm đầu tiên của Thụy Sỹ, thành
lập năm 1863;
- London Gurantee Reinsurance Co.Ltd (Luân Đôn) năm 1869;
- Munich Re (Đức), thành lập năm 1880.
Ở Anh, công ty tái bảo hiểm đầu tiên là The Reinsurance
Company Ltd, thành lập năm 1867 và vào thời gian đó, trên thế giới mới chỉ
tồn tại 10 công ty tái bảo hiểm. Tuy nhiên, công ty này đã đóng cửa vì phá
sản vào năm 1871. Một số công ty tái bảo hiểm khác đã được thành lập
nhưng không tồn tại được lâu. Năm 1907, công ty tái bảo hiểm Vương quốc
Anh thành lập,mang tên Mercantile & General Reinsurance. Một năm sau,
năm 1908, công ty tái bảo hiểm Bristish & European ra đời.
Ở Mỹ,công ty tái bảo hiểm đầu tiên được thành lập năm 1912 với
tên The First Reinsurance Company of Hartford khi mà các công ty tái bảo
hiểm nước ngoài đã hoạt động tại Mỹ một số năm trước đó.
Vào những năm 1920,người ta cũng chứng kiến sự ra đời của các
tập đoàn tái bảo hiểm địa phương như Uruguay, Chile, Banco del Estado,
Ban đầu, những công ty này không tìm kiếm dịch vụ ngoài những dịch vụ
của địa phương bị bắt buộc nhượng cho họ.
Cùng với sự phát triển của thị trường tái trong giai đoạn này nhiều
hình thức và phương pháp tái bảo hiểm được xây dựng như tái số thành,
mức dôi
Tuy nhiên, chiến tranh thế giới thứ II đã làm ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển của ngành bảo hiểm nói chung và tái bảo hiểm nói riêng. Trên
thực tế hoạt động bảo hiểm và tái bảo hiểm bị ngừng trệ, thậm chí một số
nước các nhà cầm quyền còn trưng dụng cả quỹ bảo hiểm để phục vụ chiến
tranh gây ra tổn thất lớn cho các nhà bảo hiểm đặc biệt là các công ty ở
những nước Châu Âu.
c. Giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến năm 1990
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
55
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
Sau chiến tranh thế giới thứ II năm 1945 cục diện thế giới thay
đổi, hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời và phát triển, phong trào giải phóng
dân tộc của các nước thuộc địa thắng lợi, các nước tư bản rơi vào khủng
hoảng làm cho nền kinh tế nói chung và ngành bảo hiểm – tái bảo hiểm nói
riêng có nhiều thay đổi:
- Các nước TBCN đang trong quá trình phục hồi, đồng thời với
nhiều công ty tái bảo hiểm mới được thành lập tạo nên thị
trường tái bảo hiểm cạnh tranh dưới nhiều hình thức;
- Hệ thống các nước XHCN ra đời thực hiện độc quyền trong
lĩnh vực bảo hiểm và tái bảo hiểm, hạn chế với các nước
TBCN. Tuy nhiên các nghiệp vụ nhận tái chỉ mang tính chất
đối ngoại là bảo hiểm hàng hóa nhập khẩu và bảo hiểm thân
tàu thủy;
- Năm 1970-1980 các tập đoàn tái bảo hiểm vùng ra đời như:
Tập đoàn tái bảo hiểm Châu Phi, tập đoàn tái bảo hiểm Châu
Á, tập đoàn tái bảo hiểm Asean. Các tập đoàn này vận hành
dựa trên cơ sở nhượng bắt buộc hay tự nguyện với nhau giữa
các thành viên.
d. Giai đoạn từ năm 1990 đến nay
Năm 1990 sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN tạo tiền để cho
thị trường tái bảo hiểm quốc tế được mở rộng và phát triển. Mối quan hệ
giữa các nước ngày càng được củng cố đánh dấu giai đoạn phát triển cao của
thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm. Tuy nhiên những năm đầu của thế kỷ
XX thị trường tái bảo hiểm quốc tế phải đối mặt lớn với thảm họa và rủi ro
do thiên nhiên và con người gây ra.
Năm 2001, với thảm họa khủng bố giáng xuống nước Mỹ ngày 11-
9, các công ty bảo hiểm,tái bảo hiểm phải gánh chịu những khoản tổn thất
nặng nề chưa từng có với tổng tổn thất được bảo hiểm lên tới 40,2 tỷ USD,
dẫn tới sự phá sản tụt hạng của một số công ty tái bảo hiểm hàng đầu thế
giới, và đến nay với hàng loạt tổn thất do thiên tai gây ra đặc biệt là tổn thất
nặng nề do sóng thần vào thời điểm cuối năm 2004 tại các nước Nam Á làm
cho tình hình thị trường tái bảo hiểm quốc tế trở nên phức tạp.
3. CÁC HÌNH THỨC TÁI BẢO HIỂM
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
66
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
3.1. Tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn
Đây là hình thức tái bảo hiểm cơ bản và cổ điển nhất. Theo hình
thức này, công ty nhượng toàn quyền lựa chọn toàn bộ hay một số rủi ro cần
phải tái đi và công ty nhận (nhà tái bảo hiểm) có quyền nhận hay từ chối
toàn bộ hay một số rủi ro đó.
Quy trình để thực hiện tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn gồm có các
bước:
- Công ty nhượng thông báo cho nhà tái bảo hiểm một dịch vụ nào
đó mà họ cần tái đi dưới hình thức một bản đề nghị (hay bản chào tái), trong
đó ghi rõ các đặc điểm chính của rủi ro được tái bảo hiểm,chẳng hạn như:
+ Tên và địa chỉ của người được bảo hiểm;
+ Tính chất của rủi ro được bảo hiểm;
+ Ngày bắt đầu và ngày chấm dứt;
+ Số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm, phần giữ lại của công ty
nhượng;
+ Thủ tục phí tái bảo hiểm;
+ Phương thức tái, thủ tục thanh toán, bồi thường;
- Sau khi nhận được đề nghị,nhà tái bảo hiểm có quyền lựa chọn
nhận toàn bộ hay một phần tỷ lệ nào đó hay một số tiền cố định trên cơ sở
rủi ro được đề nghị. Nhà tái bảo hiểm xác nhận phần tham gia của mình vào
một phiếu đề nghị và gửi lại cho công ty nhượng, đồng thời, nhà tái bảo
hiểm có thể yêu cầu cung cấp thêm thông tin cần thiết. Chỉ khi được thông
báo chấp nhận,dịch vụ tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn mới có hiệu lực và cũng
tự động chấm dứt vào ngày đến hạn nếu không có bổ sung thêm.
Ưu điểm của hình thức này:
+ Giúp các công ty nhượng đặc biệt là các công ty mới thành
lập còn ít kinh nghiệm có thể hoàn thành việc nhận bảo hiểm cho những đơn
vị rủi ro có giá trị lớn, vượt quá khả năng tài chính của họ bằng việc sử dụng
chuyên môn và khả năng của thị trường tái bảo hiểm quốc tế;
+ Giúp công ty nhượng có điều kiện loại bỏ được những rủi ro
đặc biệt lớn hoặc nguy hiểm mà một khi tổn thất thuộc đơn vị này xảy ra có
thể làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của mình trong năm nghiệp vụ
bảo hiểm riêng biệt nào đó;
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
77
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
+ Giúp cho công ty nhượng có thể chủ động trong việc chấp
nhận bảo hiểm phục vụ nhu cầu của người được bảo hiểm về những loại rủi
ro mà có thể không được chấp nhận trong các hợp đồng bảo hiểm bắt buộc
truyền thống của mình, chẳng hạn như: rủi ro động đất, ngập lụt, đình công,
bạo loạn, chiến tranh hoặc những rủi ro tương tự khác;
+ Tạo điều kiện cho công ty nhượng cải thiện sự thăng bằng
của các hình thức tái bảo hiểm bắt buộc, cải thiện vận may rủi trong việc đạt
được những lợi ích tối đa theo các điều kiện quy định trong các hợp đồng tái
bảo hiểm đó của họ (ví dụ: điều kiện về chia lãi, thủ tục phí tái bảo hiểm
theo thang lũy tiến, thủ tục phí tái bảo hiểm theo lãi, ).
Nhược điểm:
+ Công ty nhượng phải thông báo đầy đủ, chi tiết về nghiệp vụ
bảo hiểm gốc dẫn đến có thể bị tiết lộ thông tin có lợi cho đối thủ cạnh tranh
trong thị trường bảo hiểm gốc.
+ Không đảm bảo thời gian và sự chắc chắn trong việc phân tán
rủi ro tái bảo hiểm do đó có thể sẽ mất cơ hội tranh thủ bảo hiểm hoặc không
có khả năng để nhận bảo hiểm cho rủi ro có giá trị lớn, hay ít nhất cũng làm
cho công ty nhượng mất uy tín vì sự chậm trễ trả lời người được bảo hiểm.;
+ Chi phí hành chính,thủ tục giấy tờ tốn kém do đó ảnh hưởng
đến lợi nhuận của hợp đồng;
+ Thường xuyên phải đàm phán tái lập lại hợp đồng tái bảo
hiểm trước khi quyết định kí kết hợp đồng bảo hiểm gốc với khách hàng mà
trong nhiều trường hợp đáng lẽ không cần thiết phải thay đổi hay hủy bỏ hợp
đồng đã kí;
+ Trong nhiều trường hợp hình thức tái bảo hiểm này chỉ được
thực hiện với mức phí cao hơn mức phí gốc hoặc thủ tục phí ít hơn khi khả
năng nhận của thị trường tái bảo hiểm quốc tế đã đạt gần tới mức tối đa,
hoặc khi phí bảo hiểm gốc quá thấp so với phí trung bình của thị trường.
3.2. Tái bảo hiểm bắt buộc
Tái bảo hiểm bắt buộc là sự thỏa thuận giữa công ty nhượng và
nhà tái bảo hiểm trong đó công ty nhượng bắt buộc phải nhượng cho nhà tái
bảo hiểm tất cả các đơn vị rủi ro gốc mà hai bên đã thỏa thuận từ trước.
Ngược lại, nhà tái bảo hiểm cũng buộc phải chấp nhận toàn bộ các đơn vị rủi
ro đó.
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
88
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
Ở đây, công ty nhượng toàn quyền trong việc chấp nhận bảo hiểm
gốc, định phí, mà không phải thông qua ý kiến của nhà tái bảo hiểm. Công
ty nhượng đơn phương thanh toán các vụ tổn thất có liên quan đến những rủi
ro được bảo hiểm với mục đích bảo vệ quyền lợi chung của công ty nhượng
và nhà tái bảo hiểm. Ngược lại, nhà tái bảo hiểm chia sẻ rủi ro với công ty
nhượng và sẽ chấp nhận thanh toán tổn thất thuộc phạm vi hợp đồng tái bảo
hiểm đã thỏa thuận mà công ty nhượng thay mặt họ giải quyết.
Như vậy,hình thức tái bảo hiểm bắt buộc là thỏa thuận ràng buộc
các bên với nhau một cách chặt chẽ hơn là hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa
chọn.
Ưu điểm:
+ Công ty nhượng sẽ được toàn quyền quyết định phí bảo hiểm
cho nên hợp đồng sẽ được kí kết rất nhanh;
+ Các nhà tái bảo hiểm hoàn toàn chia sẻ vận may rủi với công
ty nhượng đồng thời rất thoải mái chấp nhận rủi ro một cách tự nguyện bởi
vì đến lượt mình họ cũng có quyền làm như vậy;
+ Đây là hình thức rất chặt chẽ bởi vì mọi thỏa thuận đã được
thảo luận từ trước khi kí kết hợp đồng, vì vậy phí bảo hiểm mà các bên thu
được cũng cao nhất.
Nhược điểm:
+ Đối với những nghiệp vụ bảo hiểm mới triển khai,các nhà tái
bảo hiểm không lường hết được mức độ rủi ro cũng như xác xuất rủi ro vì
vậy việc kí kết hợp đồng ít nhiều còn mang tính mạo hiểm;
+ Vì mọi rủi ro đều phải tái đi cho nên, đứng về phía công ty
nhượng, những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm nhỏ vẫn phải đem đi tái
trong khi khả năng tài chính của họ vẫn có thể đảm đương được.
3.3. Tái bảo hiểm kết hợp tùy ý lựa chọn - bắt buộc
Đây là hình thức tái bảo hiểm mà công ty nhượng không bắt buộc
phải nhượng tất cả các dịch vụ mà mình nhận bảo hiểm nhưng công ty nhận
bắt buộc phải nhận các dịch vụ mà công ty nhượng đưa vào thỏa thuận này
với điều kiện là những dịch vụ đó phải phù hợp với nội dung điều khoản đã
quy ước của hợp đồng tái bảo hiểm thỏa thuận.
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
99
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
- Đối với nhà nhận tái: So với hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa
chọn, nhà nhận tái bảo hiểm bất lợi hơn vì không có quyền từ chối những rủi
ro mà họ không muốn nhận. Công ty nhận tái bảo hiểm có điều kiện thu
nhập nguồn phí tái bảo hiểm lớn hơn và có phần thăng bằng hơn so với hình
thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn. Ở đây, công ty nhượng không được lợi
dụng hình thức này để lựa chọn tái đi những rủi ro có khả năng xảy ra tổn
thất lớn với mục đích đẩy phần bất lợi cho nhà tái bảo hiểm. Để đề phòng
trường hợp này xảy ra, công ty nhận phải nắm vững ý đồ của công ty
nhượng, xem xét kỹ các rủi ro mà công ty nhượng đem tái bảo hiểm và
thường xuyên phải canh chừng diễn biến của thỏa ước mà mình đã kí kết. Sử
dụng hình thức tái bảo hiểm này, công ty nhượng có điều kiện để đem chào
tái bảo hiểm từng phần trách nhiệm thặng dư của khả năng tự giữ lại của
mình cho một hay một số ít các nhà tái bảo hiểm mà họ lựa chọn, thay cho
việc phải đem tất chia tất cả các phần thặng dư cho các nhà tái bảo hiểm nếu
đem tái theo hình thức bắt buộc. Tuy nhiên, cách tái bảo hiểm như thế
thường chỉ có các công ty nhận có tiềm lực thật lớn vì họ là những người có
khả năng nhận các rủi ro có giá trị bảo hiểm cao và như vậy sẽ không đòi hỏi
phân tán cho quá nhiều nhà tái bảo hiểm, đỡ tốn kém chi phí.
- Đối với công ty nhượng: Với hình thức này, công ty nhượng có
điều kiện đem chào tái bảo hiểm từng phần trách nhiệm thặng dư của khả
năng giữ lại cho một hay một số nhà tái bảo hiểm mà họ lựa chọn thay vì
phải phân chia tất cả các phần thặng dư của khả năng tự giữ lại của mình cho
các nhà tái bảo hiểm theo hình thức bắt buộc.
Hình thức tái bảo hiểm này thường chỉ có thể thực hiện được bằng
cách chào tái cho các nhà tái bảo hiểm có tiềm lực lớn, có khả năng nhận
được các đơn vị rủi ro có giá trị cao như vậy sẽ giảm bớt chi phí do phải
phân tán rủi ro cho nhiều nhà tái bảo hiểm.
Trong trường hợp công ty nhượng có quá nhiều đơn vị rủi ro cần
phải đem đi tái thì chi phí hành chính cho việc áp dụng hình thức tái bảo
hiểm này sẽ rất tốn kém vì những rủi ro cần tái bảo hiểm đó thường đòi hỏi
các điều kiện tái bảo hiểm khác nhau, công tác tính toán phí và sổ sách kế
toán sẽ phức tạp và khó khăn hơn.
4. CÁC PHƯƠNG PHÁP TÁI BẢO HIỂM
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
1010
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
Các hình thức tái bảo hiểm như đã trình bày ở trên được áp dụng
theo hai phương pháp chính là:
+ Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm (tái bảo hiểm theo tỷ lệ);
+ Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường (tái bảo hiểm phi tỷ lệ).
4.1. Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm
Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm là một phương pháp tái bảo
hiểm mà trong đó trách nhiệm của công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm đối
với mỗi đơn vị rủi ro được bảo hiểm được phân bổ theo tỷ lệ tham gia của
mỗi bên trên cơ sở số tiền bảo hiểm. Vì lẽ đó các dịch vụ tái bảo hiểm theo
số tiền bảo hiểm còn được gọi là tái bảo hiểm theo tỷ lệ.
Phương pháp tái bảo hiểm theo tỷ lệ được chia làm hai dạng chính:
+ Tái bảo hiểm số thành;
+ Tái bảo hiểm mức dôi.
4.1.1. Tái bảo hiểm số thành
Theo phương thức này, công ty nhượng giữ lại cho mình một tỷ lệ
nhất định so với số tiền bảo hiểm, phần còn lại tái đi. Vì vậy phí bảo hiểm và
số tiền bồi thường cũng được phân bổ giữa công ty nhượng và nhà tái bảo
hiểm theo tỷ lệ tương ứng.
Ưu điểm:
+ Tính toán đơn giản, dễ xử lý, chi phí hành chính và cách quản
lý đơn giản, ít tốn kém;
+ Đối với nhà tái bảo hiểm, dạng tái bảo hiểm này có tính cân
đối và dễ chấp nhận hơn so với dạng tái bảo hiểm mức dôi, có khả năng
phân tán rủi ro tốt hơn so với các loại tái bảo hiểm khác. Nhà tái bảo hiểm có
điều kiện tham gia vào mọi rủi ro mà công ty nhượng nhận bảo hiểm, đồng
thời công ty nhượng có thể yên tâm nhận mọi rủi ro có giá trị nằm trong
phạm vi hạn mức khống chế tối đa đã quy ước vì mọi rủi ro này đều được
chia sẻ cho nhà tái bảo hiểm cùng hưởng và cùng chịu với công ty nhượng.
Điều này đảm bảo cân đối thu chi cho cả hai bên: công ty nhượng và nhà
nhận tái bảo hiểm.
+ Thủ tục phí tái bảo hiểm của dạng này cao nhất,ngoài ra các
điều kiện về phí tạm giữ cũng có tỷ lệ cao, nhờ đó công ty nhượng có điều
kiện sử dụng vốn nhàn rỗi để đầu tư vào các việc khác.
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
1111
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
Nhược điểm:
+ Công ty nhượng phải tái đi mọi đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc
theo một tỷ lệ định trước nên không khai thác hết khả năng của công ty;
+ Đồng thời công ty nhượng không khống chế được tỷ lệ bồi
thường đối với mức giữ, không có khả năng làm giảm hệ số biến thiên của
phần tổn thất thuộc mức giữ lại làm ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh
doanh của công ty;
Tái bảo hiểm số thành thường được ứng dụng trong những trường
hợp sau:
+ Khi công ty nhượng có ý định thu xếp tái bảo hiểm dưới hình
thức trao đổi dịch vụ lẫn nhau giữa các công ty bảo hiểm này với các công ty
bảo hiểm khác;
+ Đối với các công ty bảo hiểm “ non trẻ ” việc áp dụng tái bảo
hiểm số thành là rất phù hợp. Khi công ty nhượng mới bắt đầu triển khai bảo
hiểm một nghiệp vụ mới mà họ còn chưa có kinh nghiệm và thiếu số liệu
thống kê phân tích khả năng tiến triển của loại nghiệp vụ đó. Với phương
pháp này, công ty nhượng có điều kiện đảm bảo ổn định kinh doanh của
mình,nhất là trong những năm đầu tiên vì lúc này “ quy luật số lớn “ chưa có
tác động nhiều trong nghiệp vụ. Thêm vào đó, nhà nhận tái hầu hết được coi
như công ty bảo hiểm gốc cùng chia sẻ rủi ro, vận may với công ty nhượng,
có điều kiện gần gũi và giúp đỡ công ty nhượng nhiều hơn về mặt kỹ thuật,
chuyên môn, cố vấn cho công ty nhượng tích cực hơn;
+ Đối với các loại nghiệp vụ bảo hiểm mà công ty nhượng có
khó khăn trong việc phân định thế nào là một rủi ro đơn (đặc biệt trong các
loại bảo hiểm về nông nghiệp);
+ Nhằm giảm nhẹ khả năng nguy hiểm của công ty nhượng đối
với các hợp đồng bảo hiểm về rủi ro thiên tai;
+ Đối với các loại nghiệp vụ mà phạm vi tác động và quy mô
của tổn thất không chắc chắn, mặc dù các hợp đồng bảo hiểm loại này có thể
có giới hạn trách nhiệm.
Tái bảo hiểm số thành thường được sử dụng trong bảo hiểm trách
nhiệm dân sự, xe ô tô, mưa đá, giông bão, bảo hiểm vận chuyển hàng hóa và
thường kết hợp với tái bảo hiểm mức dôi.
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
1212
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
4.1.2. Tái bảo hiểm mức dôi
Tái bảo hiểm mức dôi là dạng tái bảo hiểm tỷ lệ cổ xưa và phổ
biến nhất. Trong tái bảo hiểm mức dôi, công ty nhượng ấn định mức giữ lại
là một số tuyệt đối,số vượt quá tái đi. Với phương pháp này,trách nhiệm của
người nhận được xác định theo lớp là bội số của mức giữ lại. Phí bảo hiểm
và số tiền bồi thường được phân bổ theo tỷ lệ tương ứng với trách nhiệm
giữa công ty nhượng và nhà nhận tái.
Ưu điểm:
Phương pháp tái bảo hiểm này giúp khai thác hết khả năng của
công ty nhượng do chỉ tái đi những rủi ro vượt quá mức giữ lại, đảm bảo lợi
ích kinh tế cao hơn tái bảo hiểm số thành. Đồng thời phương pháp này còn
giúp công ty nhượng có điều kiện giữ lại một khối lượng kim ngạch bảo
hiểm lớn và do đó có mức phí thu nhập lớn không cần phải tái bảo hiểm.
Nhược điểm:
Việc tính toán lại phức tạp hơn, chi phí tốn kém hơn,sử dụng nhiều
nhân lực (nhất là đối với những nước không có điều kiện áp dụng máy tính
điện tử) và có ảnh hưởng lớn đến kinh doanh trong trường hợp tổn thất rơi
nhiều vào những rủi ro dưới mức giữ lại của công ty nhượng.
Tái bảo hiểm mức dôi thông thường được áp dụng khi khối lượng
dịch vụ gồm nhiều rủi ro có những số tiền rất chênh lệch được bảo hiểm: tái
bảo hiểm cháy, tai nạn thân thể và nhân thọ
4.1.3. Tái bảo hiểm kết hợp số thành - mức dôi
Đây không phải là dạng thứ ba của hình thức tái bảo hiểm theo tỷ
lệ mà thực chất là sự kết hợp giữa hai dạng số thành và mức dôi. Dạng kết
hợp này tỏ ra rất phù hợp và thường được áp dụng với các công ty bảo hiểm
mới thành lập. Với các công ty này, khối lượng dịch vụ mà họ nhận bảo
hiểm chưa đủ ổn định để tránh khỏi trường hợp không may có rủi ro tổn thất
lớn xảy ra. Để đảm bảo có thể đứng vững trên thị trường và đáp ứng những
nhu cầu khác nhau của khách hàng mua bảo hiểm,công ty nhượng cần thiết
phải có tái bảo hiểm theo hình thức mức dôi. Đồng thời vì mới thành lập nên
công ty nhượng thường chưa đủ số tiền dự trữ đảm bảo để đương đầu với
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
1313
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
những chu kì biến thiên của tổn thất,vì vậy cần phải bảo vệ phần giữ lại gộp
của mình bằng một hợp đồng tái bảo hiểm số thành.
Thông thường khi áp dụng dạng tái bảo hiểm kết hợp này, công ty
nhượng đem tái bảo hiểm cho cùng một số nhà tái bảo hiểm và trong đó
dạng tái bảo hiểm số thành là hợp đồng cơ sở và dạng tái bảo hiểm mức dôi
làm hợp đồng bổ sung tự động.
Tái bảo hiểm theo phương pháp kết hợp này phát huy được những
ưu điểm và hạn chế được những nhược điểm của từng phương pháp số thành
hoặc mức dôi.
Ưu điểm:
Giúp công ty nhượng đảm bảo khả năng gia tăng về phần trách
nhiệm bảo hiểm một cách tự động mà không ảnh hưởng đến mức giữ lại của
bản thân công ty (không phải tăng mức giữ lại), đồng thời việc phân tán rủi
ro sẽ dễ dàng hơn, hợp đồng tái bảo hiểm số thành ổn định hơn.
Nhược điểm:
Thủ tục và chi phí điều hành phức tạp hơn hợp đồng số thành
thuần túy, thủ tục phí tái bảo hiểm thu được từ hợp đồng mức dôi thấp hơn
so với thủ tục phí đưa vào hợp đồng số thành (vì tỷ trọng giữa phí và trách
nhiệm thấp).
4.2. Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường
Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường là một hình thức tái bảo hiểm
trong đó công ty nhượng ấn định một giới hạn bồi thường bằng một số tiền
mà họ có thể tự gánh chịu cho mỗi tổn thất thuộc trách nhiệm của mình
(điểm tự bồi thường hoặc mức tự bồi thường), phần tổn thất vượt quá hạn
mức đó được chuyển giao cho nhà tái bảo hiểm gánh chịu (giới hạn trách
nhiệm bồi thường của nhà tái bảo hiểm).
Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường có những đặc điểm sau:
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
1414
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
+ Trách nhiệm của công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm đối với
tổn thất không chia sẻ theo tỷ lệ về phí, trách nhiệm cũng như về bồi thường.
Vì thế hình thức tái bảo hiểm này còn được gọi là là tái bảo hiểm phi tỷ lệ;
+ Số tiền bồi thường tổn thất là tiêu chuẩn cơ bản để phân định
trách nhiệm giữa các bên;
+ Công ty nhượng phải chịu trách nhiệm bồi thường cho những
tổn thất bằng hoặc dưới điểm tự bồi thường;
+ Nhà tái bảo hiểm chỉ bồi thường cho phần tổn thất chênh lệch
của những tổn thất vượt quá điểm tự bồi thường của công ty nhượng cho tới
một hạn mức tối đa đã có sự thỏa thuận trước trong hợp đồng tái bảo
hiểm,hạn mức này được gọi là “ hạn mức trách nhiệm của nhà tái bảo hiểm”.
Ưu điểm
+ Là hình thức tái bảo hiểm chỉ bảo vệ cho những trường hợp có
tổn thất quá lớn và được bảo vệ 100% mức tổn thất vượt quá “điểm tự bồi
thường” nên công ty nhượng có thể khống chế mức bồi thường tối đa của
mình bằng một mức tiền nhất định;
+ Công ty nhượng sẽ có thu nhập phí bảo hiểm lớn hơn vì nhà tái
bảo hiểm không có trách nhiệm bồi thường cho những vụ tổn thất có số tiền
thấp hơn “điểm tự bồi thường” của công ty nhượng;
+ Chi phí hành chính ít tốn kém do công ty nhượng không phải
phân loại từng đơn vị rủi ro bảo hiểm, tính toán mức giữ lại, phí tái bảo
hiểm, mức tái bảo hiểm
Nhược điểm
+ Phương pháp tính phí phức tạp và khó chính xác, đòi hỏi kinh
nghiệm và kỹ thuật tính toán cao, đặc biệt đối với các rủi ro thảm họa lớn;
+ Mức tự bồi thường nếu tính quá cao thì có thể ảnh hưởng đến
kết quả kinh doanh của công ty nhượng nhưng nếu quá thấp thì lại làm tăng
chi phí hành chính của nhà tái bảo hiểm;
+ Gây khó khăn cho công ty nhượng trong việc thanh toán phí tái
bảo hiểm vì phí tái bảo hiểm thường phải đóng trước;
+ Phải trả thêm phí tái bảo hiểm trong trường hợp có bồi thường
thuộc trách nhiệm hợp đồng tái bảo hiểm và có điều khoản tái lập trách
nhiệm bảo vệ.
Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường có các dạng sau:
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
1515
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
+ Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ;
+ Tái bảo hiểm vượt quá tỷ lệ bồi thường;
+ Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo thảm họa.
4.2.1. Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp
vụ
Dạng tái bảo hiểm này bao gồm hai loại: loại đảm bảo nghiệp vụ
không hạn mức và loại đảm bảo nghiệp vụ có hạn mức từng sự cố.
a. Loại đảm bảo nghiệp vụ không hạn mức
Là loại đảm bảo nghiệp vụ áp dụng cho từng đơn vị rủi ro gốc và
không hạn chế tổng số tiền bồi thường trong trường hợp có nhiều tổn thất
xảy ra từ một sự cố. Trong loại tái bảo hiểm này, nhà tái bảo hiểm bồi
thường không hạn định số vụ và tổng số tiền của các vụ tổn thất xảy ra dù là
một tổn thất riêng biệt hay là một sự cố tổng hợp. Mục đích của việc thu xếp
tái bảo hiểm theo dạng này là để giảm bớt hay thay thế cho các dạng tái bảo
hiểm theo tỷ lệ thông thường.
b. Loại đảm bảo nghiệp vụ có hạn mức từng sự cố
Là loại “đảm bảo nghiệp vụ” bổ sung cho loại trên,trong đó mức
bồi thường của nhà tái bảo hiểm ngoài việc phải chịu trách nhiệm đối với
những tổn thất tính riêng từng đơn vị rủi ro vượt quá điểm vượt mức bồi
thường, nó còn được khống chế ở một mức tối đa ấn định trong trường hợp
nhiều rủi ro xảy ra trong cùng một sự cố có tổng số tiền bồi thường quá lớn.
Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ thường
được sử dụng trong các loại tái bảo hiểm về tài sản (vật chất). Các loại
nghiệp vụ về trách nhiệm ít áp dụng dạng này vì thông thường bảo hiểm về
trách nhiệm ít bị tổn thất do thảm họa khốc liệt gây nên. Ngoài ra trong bảo
hiểm hàng hải,nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa và bảo hiểm hàng và tàu kết
hợp thường áp dụng dạng này.
4.2.2.Tái bảo hiểm vượt quá tỷ lệ bồi thường
Là dạng tái bảo hiểm phi tỷ lệ mà nhà tái bảo hiểm chỉ có trách
nhiệm bồi thường trong trường hợp khi kết quả toàn bộ nghiệp vụ của công
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
1616
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
ty nhượng có một tỷ lệ bồi thường vượt quá một tỷ lệ hoặc một mức tiền
định trước. Tái bảo hiểm theo dạng này nhằm mục đích bảo vệ công ty
nhượng chống lại một sự gia tăng đột biến của tỷ lệ bồi thường trong một
ngành bảo hiểm hay một dạng dịch vụ bảo hiểm nhất định trong một khoảng
thời gian nhất định.
Khoảng thời gian này thường là năm tài chính và tỷ lệ bồi thường
được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm giữa tổn thất phải bồi thường và số phí đã
thu hoặc đã được hưởng của năm tài chính, hoặc cũng có thể được biểu thị
bằng một số tiền nhất định.
Tỷ lệ bồi thường = Tổng số tiền bồi thường / Tổng phí thu.
4.2.3. Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo tai họa
khốc liệt
Là dạng tái bảo hiểm phi tỷ lệ để đảm bảo cho công ty nhượng
tránh được những trường hợp tổn thất quá mức bồi thường. Mục đích trước
hết của loại đảm bảo này là bảo vệ đối với sự tích tụ nhiều tổn thất xảy ra từ
cùng một sự cố hay một sự việc có tính chất thật quan trọng hay khốc liệt.
Điểm tính mức bồi thường có thể thay đổi tùy thuộc một phần vào
thực lực tài chính về mức tự bồi thường của công ty nhượng. Trên thế
giới,dạng tái bảo hiểm này được sử dụng rất rộng rãi trong tất cả các loại
nghiệp vụ bảo hiểm.
5. THỦ TỤC PHÍ TÁI BẢO HIỂM
Thủ tục phí tái bảo hiểm là một khoản tiền mà nhà tái bảo hiểm
trả cho công ty nhượng khi nhà tái bảo hiểm tham gia nhận hợp đồng tái
bảo hiểm của công ty nhượng. Số tiền này bằng một tỷ lệ phần trăm của
số phí đem tái bảo hiểm.
Nhà tái bảo hiểm phải trả cho công ty nhượng khoản thủ tục phí
nhằm giúp chi trả cho việc điều hành dịch vụ của công ty nhượng. Trong
thực tế số thủ tục phí mà công ty nhượng được hưởng có thể cao hơn hoặc
có thể thấp hơn chi phí mà họ bỏ ra do thủ tục phí tái được điều chỉnh trên
cơ sở tính toán về tỷ lệ bồi thường dự kiến của một dịch vụ bảo hiểm hoặc
số phí thu nhập bảo hiểm.
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
1717
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
Việc tính toán thủ tục phí tái bảo hiểm không có một quy tắc cứng
nhắc nào mà nó phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên tham gia trong
hợp đồng tái bảo hiểm. Tuy nhiên, khi xác định một tỷ lệ thủ tục phí cần
xem xét kỹ một số yếu tố quan trọng:
+ Thể loại tái bảo hiểm và phương thức chảo tái bảo hiểm ( số
thành, mức dôi );
+ Phí tái bảo hiểm trên cơ sở phí toàn phần hay có khấu trừ (phí
gộp, phí thuận, môi giới );
+ Có quy định các điều khoản thỏa thuận giảm giá đặc biệt cho
người được bảo hiểm trong phí bảo hiểm gốc không;
+ Chi phí hành chính và quản lý của công ty nhượng nhiều hay ít;
+ Kết quả bồi thường của các năm;
+ Kết quả đầu tư phí nhàn rỗi.
Thủ tục phí tái bảo hiểm được chia làm 3 loại chính như sau:
• Thủ tục phí cố định
Là một khoản tiền nhà tái bảo hiểm trả cho công ty nhượng được
biểu thị bằng một tỷ lệ phần trăm cố định của số phí tái bảo hiểm.
• Thủ tục phí theo thang lũy tiến
Cơ sở để tính thủ tục phí theo thang lũy tiến là lấy mức thủ tục phí
cố định làm chuẩn từ đó quy định mức tăng giảm theo tỷ lệ của bồi thường.
Như vậy kết quả bồi thường càng thấp bao nhiêu thì tỷ lệ thủ tục phí tái bảo
hiểm lại tăng lên bấy nhiêu và ngược lại.
Ví dụ:
Đơn vị: %
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
1818
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
Tỷ lệ bồi thường Tỷ lệ thủ tục phí tái
bảo hiểm
>75 20
73 21
71 22
69 23
67 24
63 25
61 26
59 27
57 28
<55 29
Với thang lũy tiến này, số tiền thủ tục phí tái bảo hiểm ít nhất là
20% phí tái bảo hiểm và hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả của nghiệp vụ.
Nếu tỷ lệ bồi thường là 75% thì phần lãi còn lại của nhà tái bảo hiểm là 5%.
Những nếu tỷ lệ bồi thường là 65% thì lãi của nhà tái bảo hiểm sẽ là 10%
thay cho mức 15% nếu lấy mức thủ tục phí cố định là 20%.
• Thủ tục phí tái bảo hiểm theo lãi
Đây là một phương pháp bổ sung cho phương pháp tính thủ tục
phí tái bảo hiểm cố định. Theo phương pháp này,nhà tái bảo hiểm phải trả
thêm cho công ty nhượng một khoản lợi nhuận nhất định được tính bẳng tỷ
lệ phần trăm của lợi nhuận thực tế mà nhà tái bảo hiểm được hưởng khi kết
quả của hợp đồng tái bảo hiểm có lãi.
Kết quả kinh doanh của nhà tái bảo hiểm được xác định trên cơ sở
“tài khoản lỗ lãi”. Chênh lệch “dương” giữa thu và chi được gọi là lãi và thủ
tục phí bảo hiểm theo lãi được tính trên cơ sở số lãi thu được đó. Thông
thường mức thủ tục phí theo lãi khoảng từ 10-20%,tùy thuộc vào sự thỏa
thuận giữa các bên tham gia hợp đồng. Mục đích của phương pháp này là để
thu lại một phần lãi cho công ty nhượng trong trường hợp kết quả kinh
doanh thực tế tốt hơn nhiều so với tỷ lệ bồi thường trung bình dự kiến và để
giúp nhà tái bảo hiểm có một tỷ lệ lợi nhuận hợp lý trong nhiều năm tham
gia hợp đồng tái bảo hiểm.
6. PHÍ TẠM GIỮ
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
1919
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
Phí tạm giữ là một khoản dự phòng riêng giúp cho công ty nhượng
có thuận lợi trong việc giải quyết bồi thường cho nghiệp vụ bảo hiểm gốc
trước khi quyết toán đòi bồi thường của nhà tái bảo hiểm. Ngoài ra, đối với
một số nước,việc tạm giữ lại một khoản phí tái bảo hiểm của nhà tái bảo
hiểm là một điều kiện quan trọng trong việc thực hiện thanh toán cân đối của
những dịch vụ tái bảo hiểm chuyển ra nước ngoài và cũng là mối quan hệ
giữa sự lãnh đạo của nhà tái bảo hiểm và khả năng thanh toán của công ty
nhượng.
Thông thường trong thực tế khoản dự phòng này được tính bằng
một tỷ lệ phần trăm cố định của phí tái bảo hiểm toàn phần (khoảng từ 35-
40%). Phí tạm giữ của năm nghiệp vụ bảo hiểm này sẽ được hoàn trả cho
nhà tái bảo hiểm vào thời điểm tương ứng của năm kế tiếpvà được tính thêm
một khoản lãi suất nhất định (từ 3-5%).
Trong trường hợp nếu nhà tái bảo hiểm rút lui không tiếp tục tham
gia tái bảo hiểm cho hợp đồng năm tiếp theo nữa,trách nhiệm của nhà tái bảo
hiểm sẽ được giải quyết theo một trong hai cách sau:
+ Hoặc tiếp tục chịu trách nhiệm đối với những rủi ro còn hiệu
lực cho tới khi chấm dứt toàn bộ những rủi ro được bảo hiểm trong năm
nghiệp vụ bảo hiểm đó;
+ Hoặc thỏa thuận chuyển giao toàn bộ phần trách nhiệm còn
tồn tại sang cho nhà tái bảo hiểm mới tham gia cho năm tới.
7. QUẢN LÝ HỢP ĐỒNG
Hợp đồng nhượng tái bảo hiểm được kí kết giữa công ty nhượng
và công ty nhận theo các chuẩn mực quy định. Theo định kỳ, người nhượng
phải lập và chuyển cho người nhận bảng thanh toán gồm bảng kê phí và
bảng kê thiệt hại.
Bảng thanh toán này có thể phân bổ theo năm ký kết, năm xảy ra
thiệt hại hoặc năm kế toán.
• Phân bổ theo năm ký kết: Theo cách này, những thiệt hại xảy ra đối
với những hợp đồng gốc trong năm thứ i được hạch toán vào tài khoản
năm thứ i của hợp đồng,dù việc thanh toán sẽ được tiến hành vào bất
cứ lúc nào.
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
2020
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
• Phân bổ theo năm xảy ra thiệt hại: Những thiệt hại xảy ra trong năm
thư i được hạch toán vào tài khoản năm thứ i của hợp đồng tái,không
tính đến việc thiệt hại đó liên quan đến hợp đồng gốc ở thời kỳ nào và
được thanh toán vào lúc nào.
• Phân bổ theo năm kế toán: Theo cách này,tất cả các khoản thu cũng
như thanh toán bồi thường trong năm đều hạch toán vào tài khoản
tương ứng của hợp đồng tái bảo hiểm không tính đến việc thanh toán
phát sinh vào thời điểm nào.
Ngoài ra, xét đến quản lý hợp đồng còn phải xem xét các vấn đề
như hủy bỏ hợp đồng, môi giới tái bảo hiểm
II. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM VẬT
CHẤT THÂN TÀU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA BẢO HIỂM THÂN TÀU
Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày cũng như trong lao động sản
xuất kinh doanh,mặc dù không muốn nhưng con người luôn đứng trước
những nguy cơ rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào đe dọa tới sự an toàn tính
mang, sức khỏe, tài sản của con người. Để đối phó với những nguy cơ rủi ro
con người đã đưa ra nhiều biện pháp,trong đó có bảo hiểm. Bảo hiểm là một
trong những biện pháp tài trợ rủi ro, bù đắp thiệt hại về mặt tài chính khi rủi
ro bất ngờ xảy ra, được coi là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro
gây ra có hiệu quả nhất. Hoạt động của các ngành kinh tế nói chung và hàng
hải nói riêng không thể tách rời với hoạt động của bảo hiểm nói chung và
bảo hiểm hàng hải nói riêng.
Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, cùng với sự phát triển của
khoa học kỹ thuật các phương tiện giao thông vận tải cũng ngày một được
cải tiến và hiện đại hơn góp phần quan trọng vào sự phát triển giao lưu
thương mại quốc tế. Ngành vận tải biển được đánh giá đóng một vai trò
quan trọng, được coi là mạch máu lưu thông của thương mại quốc tế. Theo
số liệu thống kê có tới 90% lượng hàng hóa được chuyên chở bằng đường
biển vì vận chuyển bằng đường biển có nhiều điểm thuận lợi như chở được
khối lượng hàng hóa lớn,cồng kềnh như các hàng siêu trường,siêu trọng,chở
được nhiều chủng loại hàng khác nhau từ đó dẫn tới giá thành vận chuyển rẻ
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
2121
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
so với những ngành vận tải khác. Tuy nhiên lại có nhược điểm lớn là hành
trình thường kéo dài,tốc độ vận chuyền chậm,dễ chịu tác động của các rủi ro
tự nhiên gây ra tổn thất với giá trị lớn. Do hoạt động gần như độc lập,lênh
đênh trên biển nên việc ứng cứu,hạn chế tổn thất gặp nhiều khó khăn. Ngành
vận tải biển vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong ngành vận tải thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng mặc dù theo thống kê của các hãng sản xuất và
sửa chữa,hàng năm trên thế giới có khoảng 7.000 vụ tai nạn tàu biển làm
thiệt hại hàng tỷ đôla.
Hiện nay, đội tàu biển quốc gia Việt Nam có khoảng 970 tài với
tổng trọng tải đạt 2,85 triệu USD, xếp thứ 60/152 quốc gia có tàu mang quốc
tịch và xếp thứ 4/11 nước ASIAN. Con số 970 tàu mang quốc tịch Việt Nam
này không phải là nhiều song cũng không hẳn là quá ít. Ngành vận tải biển
Việt Nam đã góp phần vận chuyển được khoảng trên dưới 13% khối lượng
hàng hóa xuất nhập khẩu. Những vụ tổn thất xảy ra đã gây không ít khó
khăn cho các chủ tàu, làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
họ. Và để giúp các chủ tàu ổn định kinh tế khi không may gặp rủi ro, tạo cho
các chủ tàu khôi phục và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần
thúc đẩy nền kinh tế phát triển và mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trên
thế giới, để góp phần tăng thu cho ngân sách, tăng nguồn vốn đầu tư cho nền
kinh tế hoạt động bảo hiểm thân tàu đã ra đời khá sớm.
2. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM THÂN TÀU
Vào cuối thế kỷ XV khi châu Âu thực hiện những cuộc viễn chinh
tới châu Á và châu Mỹ, tạo ra cái gọi là “ cuộc cách mạng thương mại” (xảy
ra trước cuộc cách mạng công nghiệp nổi tiếng), ý tưởng quỹ chung và rủi ro
đã đồng loạt xuất hiện. Ví dụ một đội tài nhỏ có thể đi từ châu Âu tới
Indonexia,trao đổi hàng hóa tại đó và trở về với nhiều hàng hóa,tuy nhiên ở
đây tiềm tàng nhiều rủi ro: Một số tàu không hoàn thành toàn bộ chuyến đi
về, một số tàu có thể bị chìm do bão tố, cạn kiệt nguồn cung cấp (hoặc đội
thủy thủ chết vì bệnh tật), lạc đường, bị chìm do quá tải, hoặc bị mọt ăn
thủng. Những người tham gia đầu tư vào những chuyến đi như kể trên cảm
nhận thấy cần thiết phải cùng nhau chia sẻ rủi ro tránh tình trạng một số nhà
đầu tư mất trắng toàn bộ chuyến hàng do một hiện tượng khá phổ biến: tàu
bị mất tích. Người ta đã tìm ra hai cách nhằm giải quyết nhu cầu này. Thứ
nhất là tạo lập một chuyến hàng dưới hình thức cổ phần, một nhóm nhà đầu
tư cùng đầu tư vào một nhóm thuyền chở hàng chung cùng chia sẻ rủi ro tổn
thất và phân chia lợi nhuận thu được sau chuyến buôn. Cách thứ hai là bảo
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
2222
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
hiểm, một hệ thống theo đó chủ tàu hay chủ hàng (có thể là một cá nhân hay
một công ty) trả một số tiền mặt cho người khác nếu họ thỏa thuận sẽ bồi
thường khi con tàu đã nêu trên không hoàn thành chuyến đi cụ thể nào đó.
Theo cách thức này,thay thế việc phát triển cạnh tranh,cổ phần,bảo hiểm tiền
mặt và cam kết sẽ bồi thường cho chủ tàu trong trường hợp tàu mất tích.
Những công ty bảo hiểm này đã tạo lập một quỹ chung dùng để thanh toán
cho người được bảo hiểm khi xảy ra tổn thất.
Bảo hiểm hàng hải là một trong những hình thức bảo hiểm đầu
tiên. Có thể nói cho vay mạo hiểm là một hình thức ban đầu của bảo hiểm
hàng hải,trong đó người cho vay cung cấp tài chính cho một chuyến đi biển
dựa trên sự an toàn của con tàu đó. Điều này có thể thấy ở thời xưa những
người Babilon, người Phonixi và người Hindu cổ đại đã thực hiện hình thức
cung cấp tài chính này. Ngày nay,vay mạo hiểm chỉ được sử dụng như một
biện pháp khẩn cấp nhằm hoàn thành một chuyến vận chuyển bằng đường
biển.
Lịch sử cho thấy người La Mã là những người đầu tiên sử dụng
bảo hiểm hàng hải để tránh các tổn thất do hiểm họa của hàng hải gây ra.
Cách thức bảo hiểm này còn được phát triển trong lĩnh vực quân sự khi
những người cung ứng hậu cần quân đội yêu cầu nhà cầm quyền La Mã chấp
nhận bồi thường tổn thất gây ra do chiến trận hoặc do điều kiện thời tiết bất
lợi. Hình thức bảo hiểm hiện đại được phát triển từ thế kỷ XIII ở Italia. Bản
hợp đồng bảo hiểm hàng hải cổ nhất được ký kết vào ngày 23/10/1347 bảo
hiểm cho tàu buôn SantaClara trong hành trình từ Genoa đi Majoca. Đến thế
kỷ XVII,hình thức bảo hiểm của tư nhân đã phát triển ở nước Anh và trong
những thế kỷ tiếp theo các công ty bảo hiểm hàng hải cá nhân thường không
có khả năng đảm bảo toàn bộ giá trị của chuyến đi. Do đó các nhà buôn tự
cảm thấy không được an toàn,và để đáp ứng nhu cầu này những chủ tàu đã
thành lập câu lạc bộ của mình là tập hợp nhiều nhóm chủ tàu và đã thực hiện
bảo hiểm một cách hiệu quả các tàu biển của nhau. Ngày nay những công ty
bảo hiểm vẫn còn áp dụng dịch vụ của mình dựa trên nguyên tắc cộng đồng
các thành viên để bảo hiểm cho nhau.
Đầu tiên,mức bồi thường bảo hiểm chỉ có giới hạn tới giá trị của
tàu đã bảo hiểm. Do đó chủ tàu phải có tiềm lực để bảo đảm trách nhiệm bồi
thưòng đối với bên thứ ba. Ví dụ trong một tai nạn đâm va,nếu tàu của người
đó bị phá hủy,công ty bảo hiểm chỉ bồi thường một khoản cần thiết để thay
thế tàu mới. Những hư hỏng thiệt hại cho tàu khác hoặc cá nhân khác chủ
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
2323
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
yếu thuộc cá nhân chủ tàu chịu trách nhiệm. Để giải quyết khó khăn này cho
chủ tàu,vào giữa những năm 1880,một điều khoản bảo hiểm được gọi là
Điều khoản bồi thường đâm va (Running Down Clause) đã trở thành một bộ
phận tiêu chuẩn trong các hợp đồng bảo hiểm. Điều khoản Running Down
Clause đã đảm bảo tới 75% trách nhiệm bồi thường trong tai nạn đâm va tàu
biển. Bên cạnh đó, Điều 17 và 18 Chương 104 Luật Hàng hải Thương mại
Anh đã đưa ra các quy định giới hạn trách nhiệm bồi thường của chủ tàu đối
với các tử vong và thương tật của bên thứ ba. Tuy đã có quy định giới hạn
trách nhiệm bồi thường tử vong hay thương tật cho bên thứ ba và đã có điều
khoản bồi thường đâm va tàu biển nhưng các chủ tàu vẫn cảm thấy mình còn
chịu rủi ro nhiều hơn so với hình thức họ tự bảo hiểm. Để đáp ứng khoản bồi
thường còn lại,câu lạc bộ dự phòng và bồi thường của chủ tàu (P&I Clubs-
the Protection and Indemnity Clubs) đã thành lập. Câu lạc bộ P&I được lập
ra nhằm mục đích chính là dự phòng để đảm bảo cho chủ sở hữu bồi thường
tai nạn tử vong hay thương tật,và là nguồn dự phòng để bồi thường tai nạn
đâm va mà Điều khoản bồi thường đâm va không thanh toán. Sau này câu
lạc bộ P&I còn phát triển hình thức bảo hiểm đối với khiếu nại của chủ tàu
bảo hiểm hàng hóa đòi chủ tàu bồi thường. Ngày nay có khoảng 90% đội tàu
buôn trên thế giới tham gia bảo hiểm với khoảng 15 nhóm câu lạc bộ P&I
quốc tế. Các câu lạc bộ này liên kết với nhau thông qua chương trình tái bảo
hiểm.
Như vậy bảo hiểm thân tàu là một trong ba loại bảo hiểm hàng hải
chính: bảo hiểm vật chất thân tàu, bảo hiểm hàng hóa và bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ tàu.
III. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TÁI BẢO HIỂM VẬT CHẤT
THÂN TÀU
1. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA TÁI BẢO HIỂM VẬT CHẤT
THÂN TÀU
Tàu thủy là một phương tiện vận tải có giá trị rất lớn và phạm vi
hoạt động rất rộng bởi vậy trong quá trình hoạt động tàu thường gặp nhiều
tai nạn rủi ro, gây thiệt hại không những cho bản thân con tàu và còn cho cả
người khác, làm phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ tàu,chính vì vậy các
nghiệp vụ liên quan đến bảo hiểm tàu thủy ra đời từ rất sớm, trong đó có
nghiệp vụ bảo hiểm vật chất thân tàu. Nghiệp vụ bảo hiểm này ra đời tích
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
2424
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
cực góp phần làm ổn định tài chính, ổn định sản xuất kinh doanh cho các đội
tàu và những người đi trên tàu.
Kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh rủi ro thông qua việc xác định
phí bảo hiểm đóng trước dựa trên xác suất rủi ro dự tính theo số liệu thống
kê quá khứ, tuy nhiên nhà bảo hiểm có thể phải đối mặt với rủi ro của chính
mình, khi xác suất rủi ro dự tính không đúng với xác suất rủi ro thực tế dẫn
đến phí bảo hiểm thu được không đáp ứng khả năng chi trả, bồi thường vì
vậy để bảo vệ cho chính mình, các công ty bảo hiểm đã sử dụng các hình
thức phân tán rủi ro, đó là đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm, trong đó có tái
bảo hiểm vật chất thân tàu vì trong nghiệp vụ bảo hiểm này mỗi khi có rủi ro
xảy ra thiệt hại sẽ là rất lớn. Hình thức này sẽ làm giảm chi phí bồi thường
cho công ty bảo hiểm gốc, rủi ro sẽ được phân tán cho các nhà bảo hiểm
đồng thời cũng tạo tâm lý an toàn cho người tham gia bảo hiểm.
2. CÁC PHƯƠNG PHÁP TÁI BẢO HIỂM ÁP DỤNG
Hiện nay thị trường tái bảo hiểm Việt Nam áp dụng cả hai phương
pháp tái bảo hiểm như trên:
+ tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm (gồm tái bảo hiểm số
thành,tái bảo hiểm mức dôi,tái bảo hiểm kết hợp số thành - mức dôi);
+ tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường (gồm tái bảo hiểm vượt
mức bồi thường, tái bảo hiểm vượt quá tỷ lệ bồi thường và tái bảo hiểm vượt
mức bồi thường đảm bảo tai họa khốc liệt).
TBH cố định TBH tạm thời
Số thành Mức dôi Vượt mức bồi thường
Tỷ lệ theo số tiền BH Theo số tiền bồi thường
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
2525