Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

đánh giá hiệu quả một số mô hình sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện phù cát – tỉnh bình định trong 3 năm 2005-2007

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 78 trang )

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ
Lịch sử xã hội loài người gắn liền với các nền văn minh, trong đó văn minh
nông nghiệp xuất hiện sớm nhất, tạo tiền đề cho các nền văn minh khác xuất hiện, đưa
xã hội loài người ngày càng phát triển. Có thể nói, nông nghiệp từ lâu đã có vai trò
quan trọng trong cuộc sống của con người. Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển,
khoa học công nghệ ngày càng hiện đại thì vai trò của nông nghiệp ngày càng được
nâng cao. Sản xuất nông nghiệp hiện đại không chỉ đáp ứng nhu cầu về số lượng mà
còn đáp ứng nhu cầu về chất lượng ngày càng cao của con người.
Hiện nay, song song với sự phát triển của các ngành công nghiệp thì nông
nghiệp cũng có những bước tiến khá xa so với những thập kỉ trước. Để có được sự thay
đổi đó, khoa học công nghệ là yếu tố quyết định hàng đầu. Thực tiễn cho thấy nhiều
nước trên thế giới đã ứng dụng rất thành công những thành tựu của công nghệ sinh học
vào sản xuất nông nghiệp: ứng dụng của di truyền, đã tạo ra nhiều giống mới có năng
suất cao hơn, phẩm chất tốt hơn, khả năng chống chịu sâu bệnh cao hơn, mẫu mã đẹp,
đa dạng hơn và phù hợp với thị hiếu của con người. Khoa học công nghệ đã hạn chế rất
nhiều sự phụ thuộc của nông nghiệp vào điều kiện bất lợi của môi trường: người ta có
thể trồng rau thủy canh trong môi trường không cần đất hay ở các nước ôn đới vào mùa
đông, người ta có thể trồng các loại rau, củ trong lồng kính khi không thể canh tác
ngoài đồng vì nhiệt độ quá thấp. Có thể nói: khoa học công nghệ là yếu tố then chốt
quyết định mọi thành công. Nó đã khắc phục một phần yếu tố ảnh hưởng bất lợi đến
sản xuất nông nghiệp, mang lại giá trị thu nhập từ nông nghiệp ngày càng cao. Và nông
nghiệp ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế của các nước trên thế
giới.
Việt Nam là nước nông nghiệp, hơn 75% dân số ở nông thôn và khoảng 70%
dân số sống phụ thuộc vào nông nghiệp, thu nhập từ nông nghiệp chiếm khoảng 20%
tỉ trọng cơ cấu thu nhập từ các ngành kinh tế quốc dân.
Đây là ngành kinh tế quan trong của đất nước vì nó đã đảm bảo được an ninh
lương thực quốc gia. Trong thời gian qua, nông nghiệp việt nam đã có những bước tiến
mạnh mẽ: Từ một nước phải nhập khẩu lúa gạo đến nay đã vươn lên đứng thứ 2 trên
1


thế giới (sau Thái Lan). Không chỉ dừng lại ở đó ,Việt Nam còn nổi tiếng trên thế giới
về xuất khẩu tiêu, xuất khẩu café, hạt điều… Những hàng hóa nông sản này đã có uy
tín trên thị trường thế giới và được người tiêu dùng ưa chuộng từ nhiều năm nay. Đây
là điều kiện tốt để nông nghiệp Việt Nam phát triển mạnh hơn trong xu thế hòa nhập
kinh tế toàn cầu hiện nay.
Có được những thành tựu này là nhờ sự quan tâm của Đảng; Nhà Nước và một
nhân tố quan trong góp phần không nhỏ trong việc phát triển nông nghiệp nước nhà đó
là các tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ đã được áp dụng vào thực tiễn sản xuất.
Trong những thập kỉ qua, đã có nhiều nghiên cứu về lĩnh vực nông nghiệp: nghiên cứu
tạo các giống lúa lai, ngô lai, đậu tương… năng suất cao, phẩm chất tốt, chống chịu tốt
với sâu bệnh… hay những nghiên cứu về áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất nông
nghiệp nhằm nâng cao năng suất, sản lượng, chất lượng sản phẩm của cây trồng, vật
nuôi…Những nghiên cứu đó đã được thử nghiệm và từng bước đưa vào ứng dụng ở
nhiều vùng sản xuất trên cả nước.
Để những tiến bộ khoa học kỹ thuật đến với người dân một cách có hiệu quả thì
vai trò của người cán bộ chuyển giao là quan trọng. Một trong những cách chuyển giao
tiến bộ khoa học kỹ thuật có hiệu quả nhất đó là xây dựng các mô hình trình diễn.
Trong những năm gần đây, có rất nhiều mô hình áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất đã đựợc triển khai hầu hết các tỉnh và thành phố trên cả nước nhằm phục vụ
cho chiến lược ổn định và phát triển sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực cho quốc
gia, phục vụ cho mục tiêu sản xuất hàng hóa tiêu dùng và xuất khẩu.
Tuy nhiên không phải mô hình nào cũng phù hợp với điều kiện địa phương mà
có những mô hình thành công được nhân rộng và có những mô hình thất bại không
được ứng dụng rông rãi.
Bình Định là một tỉnh nằm trong dải đất miền trung, dân cư phần lớn sống phụ
thuộc vào nông nghiệp nên đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn: nông
nghiệp của tỉnh vẫn còn kém phát triển so với nhiều vùng trên cả nước. Hàng năm, tỉnh
được sự hỗ trợ lớn về phía nhà nước để phát triển nông nghiệp, ổn định đời sống người
dân. Trung tâm khuyến nông tỉnh đã và đang triển khai các mô hình trình diễn của
Trung ương và địa phương hầu hết trên địa bàn các huyện: Mô hình cánh đồng

2
50 triệu/ha/năm, mô hình đưa giống mới vào sản xuất, mô hình chăn nuôi công nghệ
cao, mô hình trồng rau sạch….
Phù Cát cũng như nhiều địa phương khác trong tỉnh Bình Định, với dân số chủ
yếu sống ở nông thôn (trên 85%) và sống phụ thuộc vào nông nghiệp rất lớn (trên
80%), nhưng nông nghiệp Phù Cát vẫn còn lạc hậu, manh mún, nhỏ lẻ,… khả năng ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật của người dân vào sản xuất còn thấp. Trong những năm qua đã
có rất nhiều mô hình đã triển khai thực hiện trên địa bàn huyện, do Trung tâm khuyến
nông, do Viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật Duyên hải Nam Trung Bộ, và nhiều cơ
quan, tổ chức khác chủ quản. Trong quá trình thực hiện không phải mô hình nào cũng
đạt kết quả như mong đợi, có mô hình thành công, có mô hình thất bại, có mô hình
nhân rộng nhanh, có mô hình nhân rộng chậm hoặc không nhân rộng được… Vì vậy
cần có những đánh giá hiệu quả các mô hình đã được áp dụng để rút ra nhưng bài học
kinh nghiệm và những giải pháp để thực hiện mô hình tốt hơn.
Xuất phát từ thực tế nói trên, được sự nhất trí của khoa KN&PTNT và sự giúp
đỡ của GVHD, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả một số mô
hình sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Phù Cát – tỉnh Bình Định trong 3 năm
2005-2007”.
1.2 MỤC TIÊU
1. Đánh giá hiệu quả một số mô hình sản xuất nông nghiệp đã triển khai trên địa bàn
huyện Phù Cát từ năm 2005-2007
2. Rút ra những bài học kinh nghiệm và giải pháp để thực hiện mô hình tốt hơn.
3. Khuyến cáo nhân rộng đối với những mô hình thành công.
3
PHẦN 2: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHUYỂN GIAO KỸ THUẬT
TIẾN BỘ TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN
2.1.1 Chuyển giao kỹ thuật tiến bộ (KTTB) trong nông nghiệp và nông thôn
2.1.1.1 Các khái niệm
Có nhiều định nghĩa về chuyển giao TBKT

Theo Swanson và Cloor (1994) thì chuyển giao TBKT hay công nghệ là một
quá trình tiếp diễn nhằm tiếp cận và thông tin có ích cho con người và từ đó giúp đỡ họ
tiếp thu những kiến thức, kỹ năng và quan điểm cần thiết để sử dụng có hiệu quả lượng
thông tin hoặc công nghệ đó.
Maunder (FAO,1973) thì cho rằng đó là một dịch vụ hay hệ thống nhằm thông
qua các thông các phương thức đào tạo, giúp đỡ những người công dân cải thiện các
phương pháp kỹ thuật canh tác, tăng hiệu quả sản xuất và thu nhập, tăng mức sống và
nâng cao trình độ giáo dục xã hội của cuộc sống nông thôn. [2]
[1] Có một số quan điểm cho rằng: Chuyển giao TBKT và chuyển giao KTTB
là như nhau. Nhưng theo Đỗ Kim Chung thì : Danh từ TBKT mang tính trừu tượng và
bao quát. TBKT thể hiện những nét mới và “tiến bộ” của một yếu tố nào đó nhưng
chưa thật đồng bộ, chưa thật khả thi ở thực tiễn sản xuất, nhất là bên ngoài cơ quan
nghiên cứu. Theo ông, nếu nói chuyển giao một yếu tố TBKT là chưa chuẩn xác, vì
chuyển giao TBKT tức là chuyển giao một yếu tố kỹ thuật nào đó chưa đồng bộ chưa
hoàn thiện, chưa kiểm định tính thích nghi về sinh thái, kinh tế và xã hội của yếu tố kỹ
thuật đó ở đồng ruộng của nông dân. Do nhận thức chưa thật đầy đủ khái niệm này nên
một số địa phương đã không thành công trong chuyển giao kỹ thuật trong nông nghiệp.
Cũng theo Đỗ Kim Chung thì chuyển giao KTTB là quá trình đưa các KTTB đã được
khẳng định là đúng đắn trong thực tiễn và áp dụng trên diện rộng để đáp ứng nhu cầu
của sản xuất và đời sống con người (thông thường quá trình phát triển kỹ thuật và công
nghệ bao gồm các hoạt nghiên cứu, chuyển giao thử nghiệm và chuyển giao ở diện
rộng).
KTTB trong nông nghiệp là những kỹ thuật được khẳng định là phù hợp và khả
thi về sinh thái, kinh tế và xã hội trên đồng ruộng của nông dân, góp phần nâng cao
4
hơn hiệu quả sử dụng nguồn lực trong nông nghiệp, tạo điều kiện phát triển bền vững
về kinh tế xã hội và môi trường trong nông nghiệp và nông thôn. Tính từ “tiến bộ” ở
đay thể hiện sự “tốt hơn” và “mới hơn” so với kỹ thuật hiện có. KTTB góp phần nâng
cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh và cải thiện đời sống của nông dân và cư
dân nông thôn. KTTB mang tính tiến bộ và phải phù hợp với nhu cầu của địa bàn

chuyển giao. Theo các tác giả Nguyễn Văn Thu và Bùi Mạnh Hải (2001) thì khả năng
ứng dụng và phổ cập của một tiến bộ kỹ thuật phụ thuộc vào “sức đẩy của công nghệ”
và “sức kéo theo nhu cầu” vì thế nên khi lựa chọn KTTB để chuyển giao không những
phải xem xét tính “tiến bộ” mà quan trọng hơn phải làm rõ được “nhu cầu” của địa bàn
sẽ tiếp thu công nghệ.
2.1.1.2 Mục đích của chuyển giao KTTB
Công tác chuyển giao KTTB nhằm giúp nông dân có khả năng tự giải quyết các
vấn đề của gia đình và cộng đồng nhằm đẩy mạnh sản xuất để nâng cao đời sống và
dân trí, góp phần xây dựng và phát triển nông thôn mới thông qua áp dụng thành công
KTTB bao gồm cả những kiến thức và kỹ năng về quản lý, thông tin và thị trường,các
chủ trương chính sách về nông nghiệp và nông thôn (FAO, 2001). Chuyển giao KTTB
còn phải giúp nông dân liên kết lại với nhau để phòng và tránh thiên tai, tiêu thụ sản
phẩm phát triển ngành nghề, xúc tiến thương mại, giúp nông dân phát triển khả năng tự
quản lý, điều hành và tổ chức các hoạt động xã hội nông thôn ngày càng tốt hơn (Bộ
NN và PTNT, 2002). Như vậy, mục đích của chuyển giao KTTB: Một là, Đẩy mạnh
sản xuất hàng hóa một cách bền vững, góp phần xây dựng nông thôn theo hướng công
nghiệp hóa hiện đại hóa, dân chủ hóa và hợp tác hóa; Hai là, nâng cao thu nhập của
nông dân, giúp nông dân giải quyết và đáp ứng được các nhu cầu cơ bản của họ, thực
hiện xóa đói giảm nghèo; Ba là, nâng cao dân trí trong nông thôn; Bốn là, phát hiện các
vấn đề mới nảy sinh, thẩm định các kết quả nghiên cứu để hình thành chiến lược
nghiên cứu. Công tác chuyển giao KTTB chỉ có thể có hiệu quả khi kết quả chuyển
giao được nông dân chấp nhận, tồn tại bền vững trong nông dân và cộng đồng, góp
phần cải thiện cuộc sống của nông dân
2.1.1.3 Quan hệ giữa chuyển giao và nghiên cứu.
Nghiên cứu và chuyển giao KTTB trong nông nghiệp là nhiệm vụ cơ bản của
các cơ quan nghiên cứu và ứng dụng (Bộ NN&PTNT, 2000).Nghiên cứu là giải quyết
5
các vấn đề khó khăn và nhu cầu do thực tiễn đặt ra và phục vụ thực tiễn. Đối với nông
dân thì nghiên cứu chủ yếu là giải quyết các vấn đề khó khăn mà nông dân gặp phải về
kinh tế, xã hội, môi trường đảm bảo cho nền nông nghiệp phát triển bền vững. Trong

nông nghiệp, nghiên cứu và chuyển giao là 2 mặt của vấn đề phát triển nông nghiệp và
nông thôn. Nếu nghiên cứu mà không chuyển giao thì kết quả nghiên cứu sẽ không góp
phần giải quyết các vấn đề thực tiễn, tạo ra khoảng cách ngày càng lớn giữa lý luận và
thực tiễn. Còn chuyển giao mà không gắn với công tác nghiên cứu thì chuyển giao sẽ
không có KTTB để đưa tới nông dân. Chuyển giao giúp cho nghiên cứu tồn tại, trái lại
nghiên cứu cũng giúp cho công tác chuyển giao tốt hơn.
2.1.1.4 Hệ thống chuyển giao KTTB trong nông nghiệp và nông thôn.
Hệ thống chuyển giao KTTB tới nông dân ở các nước phát triển và đang phát
triển bao gồm: Hệ thống khuyến nông nhà nước, các cơ quan nghiên cứu và đào tạo,
các tổ chức đoàn thể xã hội (Hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh), các tổ
chức chính phủ và phi chính phủ, quốc tế và quan trọng là các tổ chức cộng đồng
(HTX, họ tộc, các nhóm sở thích của nông dân).
Hệ thống khuyến nông nhà nước được các tổ chức từ Trung ương đến tỉnh,
huyện, ở một số nơi tới cộng đồng. Hầu hết ở các nước đang phát triển đều có Cục
khuyến nông từ Trung ương tới tỉnh, ở huyện hình thành các trạm khuyến nông để
chuyển giao KTTB xuống nông dân, cán bộ khuyến nông thực hiện chuyển giao KTTB
tói nông dân.
Các viện nghiên cứu thường xây dựng các trung tâm nghiên cứu – thực nghiệm
vùng hay các tiểu vùng để khu vực hóa các KTTB sau đó hợp tác với nông dân để thực
nghiệm trước khi chuyển giao đại trà.
Các tổ chức phát triển quốc tế và phi chính phủ thực hiện chuyển giao KTTB
thông qua triển khai các dự án phát triển nông nghiệp và nông thôn. Tùy theo quy mô
và phạm vi của dự án, các tổ chức phát triển này có thể tổ chức chuyển giao theo hệ
thống tổ chức của dự án theo các hợp phần khuyến nông, phát triển lâm nghiệp, nông
nghiệp riêng biệt. Các cán bộ chuyển giao này thường được các chương trình dự án trả
công, thực hiện các hoạt động chuyển giao của chương trình.
6
Các tổ chức xã hội như Hội phụ nữ, hội nông dân, hội nghề nghiệp cũng tham
gia vào chuyển giao. Ngoài ra trong cộng đồng có những nông dân chuyển giao tham
gia gọi là khuyến nông tự nguyện.

2.1.1.5 Các phương thức chuyển giao KTTB tới nông dân.
Phương thức chuyển giao là cách thức tiến hành chuyển giao KTTB tới nông
dân. Phương thức chuyển giao KTTB bao gồm phương thức tiếp cận chuyển giao và
phương pháp chuyển giao.
a, Các phương thức tiếp cận trong chuyển giao KTTB trong nông nghiệp
Theo Frank Ellis (1992), quá trình chuyển giao kỹ thuật tiến bộ trên thế giới trải
qua các phương thức tiếp cận khác nhau: Chuyển giao công nghệ (TOT), Chuyển giao
công nghệ ứng dụng (ATT), Nghiên cứu hệ thống nông nghiệp (FSR). Theo thời gian,
các phương thức tiếp cận cần chuyển giao ngày một hoàn thiện. Vào những năm cuối
của thế kỷ 20, đã xuất hiện phương pháp tiếp cận mới trong chuyển giao “Nghiên cứu
có sự tham gia của nông dân” (FPR) (Daniel, 1997).
* Phương thức chuyển giao công nghệ TOT: Phương thức tiếp cận này rất phổ
biến trên thế giới trong nghiên cứu và chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp ở thập kỷ 50
và 60 của thế kỷ 20 (Frank Ellis, 1992). Theo phương thức này, được tạo ra và lan
truyền các KTTB là một quá trình đường thẳng từ những viện nghiên cứu của các nước
giàu sang nước nghèo, và từ các viện nghiên cứu của các nước nghèo tới trung tâm
khuyến nông và cuối cùng tới nông dân. Tuy vậy, phương thức này vẫn còn khá ngự trị
trong chương trình nghiên cứu nông nghiệp các nước. Theo phương thức tiếp cận này,
người làm tốt công tác chuyển giao KTTB có những quan niệm: Một là, hiện đại là tốt
nhất; hai là, công nghệ trong nông nghiệp có khả năng chuyển giao toàn cầu không cần
tính đến các điều kiện sinh thái địa phương; ba là, nông dân ở những nước nghèo còn
lạc hậu họ cần phải áp dụng một cách nhanh chóng các kỹ thuật để trở thành nông dân
hiện đại (Paniel, 1997; Frank, 1992; Chamber, 1989). Những người áp dụng phương
thức này cho là luôn tồn tại kỹ thuật nông nghiệp phù hợp để nông dân ở các nước
nghèo chuyển giao và ứng dụng (Horton, 1984; Havertkort, 1988). Đây là cách nhìn sai
lầm. Nông dân sản xuất nhỏ đã không tiếp thu được những công nghệ đó. Trong những
điều kiện đó, chỉ có thể nông dân giàu, sản xuất quy mô lớn có thể tiếp cận và được lợi
7
từ phương thức chuyển giao này (Chamber và Ghidyal, 1985). Phương thức này nhìn
nông dân là người nhận công nghệ một cách thụ động

* Phương thức chuyển giao công nghệ ứng dụng (ATT): Phương thức này còn
được gọi là mô hình chuyển giao công nghệ cải biên (Daniel, 1987). Phương thức này
khác với TOT ở chỗ yêu cầu về tính địa phương của công nghệ được nhận diện, ứng xử
của nông dân cũng được chú ý tới. Trong chuyển giao công nghệ, người ta đã chú ý tới
điều kiện địa phương, các ràng buộc về kinh tế và xã hội để nông dân tiếp thu công
nghệ mới. Phương thức này khá phổ biến ở những thập kỷ 70 và 80 của thế kỷ 20. Đặc
trưng nhất của phương thức chuyển giao này là hệ thống đào tạo và gặp gỡ nông dân
(Benor, Harision, Baxter, 1984; Frank, 1992; Daniel, 1997). Khuyến nông có vai trò
lớn trong chuyển giao KTTB đến nông dân. KTTB được đưa tới nông dân một cách
chủ động thông qua đào tạo tập huấn. Nông dân sau khi được tập huấn thì làm theo.
Cán bộ khuyến nông gặp gỡ nông dân để tư vấn cho họ các vấn đề cụ thể sau tập huấn.
Nhờ đó, phương pháp này đã giúp nông dân giải quyết các vấn đề khác như đầu vào,
phân bón và tín dụng. Phương thức này phát huy tác dụng trong giai đoạn cách mạng
xanh thập kỷ 70 (Frank, 1992). Tuy nhiên, những nông dân nghèo vẫn không được
hưởng các thành quả chuyển giao này. Về lý thuyết, phương thức chuyển giao này đã
có sự tham gia của người dân. Nhưng chỉ có những nông dân sản xuất với quy mô lớn
có sự tham gia. Sự tham gia đó mang tính thụ động hơn là chủ động. Cán bộ khuyến
nông khởi xướng công nghệ theo yêu cầu từ bên ngoài để nông dân làm theo.
* Hệ thống nghiên cứu nông nghiệp (FSR): Đây là mẫu hình của nghiên cứu
và phát triển nông nghiệp trong thập kỷ 70 của thế kỷ 20 tập trung giải quyết các vấn
đề của nông dân sản xuất nhỏ, nông dân nghèo bằng các cách: Một là, nhận thức rằng
nông dân nghèo có kiến thức quý báu phải được kết hợp trong quá trình nghiên cứu;
hai là, nghiên cứu kiến thức bản địa cũng là một bộ phận cấu thành của quá trình phát
triển công nghệ mới (Kassorla, 1977). Vì thế vào nửa thập kỷ 70 phương pháp tiếp cận
hệ thống nghiên cứu nông nghiệp được phát triển nhằm mang lợi cho nông dân nghèo
hay sản xuất nhỏ. Tuy nhiên FSR không đạt được mục tiêu của nó do việc thực hiện
quá trình này bị hạn chế bởi nhiều lý do. Nhược điểm của phương pháp tiếp cận này là
không có sự liên hệ chặt chẽ giữa cán bộ nghiên cứu và nông dân. Chính vì lẽ đó, ở các
8
nước đang phát triển lại chuyển sang phương pháp tiếp cận mới Nghiên cứu có sự tham

gia của nông dân.
* Nghiên cứu có sự tham gia của nông dân (FPR): FPR còn được gọi nhiều
khái niệm khác nhau: Nông dân dựa vào nghiên cứu nông dân (farm back to farmer
research) (Rhoabse và Booth, 1982). Nông dân là điểm đầu tiên và cuối cùng của
nghiên cứu (Chambers and Ghidyal,1985) và Phát triển công nghệ có sự tham gia
(Participatory Technology Development) (Tan, 1985). Đây là phương pháp tiếp cận
trong nghiên cứu xuất phát từ nông dân, do nông dân đặt kế hoạch và thực hiện trong
sự hợp tác giữa nông dân với cán bộ nghiên cứu (Daniel, 1997). FPR có các đặc điểm
cơ bản sau: Đặc trưng cơ bản của cách tiếp cận này là thu hút sự tham gia của nông dân
và phát triển công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng và vật nuôi. Nông
dân tham gia một cách tích cực trong toàn bô quá trình nghiên cứu. Quá trình nghiên
cứu này được tiến hành trên ruộng của nông dân. Vai trò của người cán bộ nghiên cứu
lúc này là người khám phá, người bạn và người cố vấn của nông dân. FPR được dựa
trên các tiếp cận hệ thống, yêu cầu sự hợp tác đa ngành giữa nông dân và cán bộ
nghiên cứu và nó khuyến khích phương pháp sáng tạo linh hoạt.
Trên đây là một trong những cách phân loại lịch sử của các cách tiếp cận trong
công tác chuyển giao tiến bộ kỹ thuật. Theo Lê Hưng Quốc (1998) thì trong công tác
khuyến nông khuyến lâm có 3 cách tiếp cận chủ yếu: Cách tiếp cận theo mô hình
“chuyển giao”, Cách tiếp cận theo mô hình trình diễn, Cách tiếp cận theo khuyến nông
khuyến lâm lan rộng. Trong đó, cách tiếp cận theo mô hình “chuyển giao” là cách tiếp
cận khá phổ biến trước đây. Đây là một hình thức khuyến nông khuyến lâm mang hình
thức một chiều, có nhiều nhược điểm ngay trong nhận thức đối với cán bộ khuyến
nông khuyến lâm và quá trình thực hiện khuyến nông khuyến lâm. Đến những năm 70
thì cách tiếp cận theo mô hình trình diễn, theo hướng lấy nông dân làm trung tâm rất
phát triển. Theo cách tiếp cận này, vai trò của người dân được chú trọng từ việc xác
định nhu cầu, thực hiện, chấp nhận và phổ cập. Quá trình này cho phép vị trí của nông
dân ngày càng cao trong quá trình khuyến nông khuyến lâm. Theo thời gian, các
phương thức tiếp cận ngày càng có hiệu quả hơn, đến năm 1984 cách tiếp cận theo
khuyến nông khuyến lâm lan rộng được bắt đầu áp dụng ở nhiều nước dựa trên cách
tiếp cận từ nông dân đến nông dân. Từ năm 1995 chương trình hợp tác lâm nghiệp Việt

9
Nam-Thụy Điển đã thử nghiệm và áp dụng khuyến nông khuyến lâm lan rộng ở một số
tỉnh miền núi Phía Bắc dựa trên hình thức khuyến lâm từ người dân. Theo cách tiếp
cận này, vai trò của người dân, cộng đồng là trung tâm trong các hoạt động phổ cập,
mở rộng đặc biệt là khả năng tự quản lý và điều hành các hoạt động khuyến nông
khuyến lâm của người dân và cộng đồng. Phương pháp này đang góp phần khắc phục
những tồn tại chính hiện nay của hệ thống khuyến nông khuyến lâm của nhà nước là
chưa có khả năng với tới được tất cả các thôn bản.[9]
Điểm lại lịch sử của công tác chuyển giao tiến bộ kỹ thuật hơn nửa thế kỷ qua ở
Việt Nam chúng ta thấy một số biện pháp tuần tự sau:
- Từ năm 1950, TBKT được cán bộ khuyến nông chuyển giao cho người nông
dân, đây là biện pháp kém hiệu quả…
- Từ năm 1970, các nhà đầu tư làm nhiệm vụ chuyển giao TBKT do có yêu cầu
về tiêu thụ sản phẩm mới, biện pháp này cũng có nhiều giới hạn.
- Từ năm 1980, người nông dân cùng với cán bộ khuyến nông nêu vấn đề cho
các nhà khoa học để giải quyết, kết quả của biện pháp này cũng có ít giải pháp phù hợp
được nêu ra từ các nhà khoa học.
- Từ năm 1990, bắt đầu có sự gắn kết giữa các nhà nghiên cứu và cán bộ khuyến
nông và giải pháp này tỏ ra có tiến bộ hơn. Từ cuối những năm 1990, bắt đầu có kết
hợp chặt chẽ giữa các nhà nghiên cứu, cán bộ khuyến nông cùng với người nông dân.
Có thể nói sự kết hợp này đã tạo thành mô hình chuyển giao TBKT có hiệu quả. Giải
pháp coi trọng sự tham dự của người dân đã làm giảm bớt khó khăn cho việc chuyển
giao TBKT. [12]
[6] Theo Báo cáo chung về Khuyến nông khuyến lâm ở Việt Nam (1993-1997)
của Cục khuyến nông khuyến lâm (Bộ NN&PTNT) thì cách tiếp cận khuyến nông có
thể tùy theo các tổ chức hoạt động khuyến nông, cụ thể như:
Hệ thống khuyến nông Nhà nước hoạt động chủ yếu theo các chương trình
khuyến nông đã được chính phủ phê duyệt nên chủ yếu tiếp cận theo các chương trình
khuyến nông. Với cách tiếp cận này các chương trình khuyến nông nhà nước có vai trò
quan trọng để hình thành nên các nền kinh tế sản xuất hàng hóa có định hướng. Cách

tiếp cận này chủ yếu nhằm thỏa mãn dịch vụ đầu vào để hoàn thành các chương trình
khuyến nông hơn là thỏa mãn nhu cầu từ người dân. Cho nên nó phát huy tác dụng rõ
10
rệt nhất ở những vùng đồng bằng, vùng dân trí cao và thường thành công đối với các
cây nông nghiệp và vật nuôi. Còn ở những vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít
người và đối với cây lâm nghiệp dài ngày thì cách tiếp cận này còn có nhiều mặt hạn
chế. Ngoài ra các nông lâm trường hoặc các công ty sản xuất kinh doanh ngành hàng
như cà phê, cao su, chè,… cũng áp dụng theo cách tiếp cận này.
Còn đối với các chương trình, dự án phát triển nông thôn có nguồn tài trợ nước
ngoài thường sử dụng phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân
(PRA) trong hoạt động khuyến nông. Cách tiếp cận này nhằm thỏa mãn nhu cầu từ
người dân. PRA được coi là công cụ lập kế hoạch phát triển có sự tham gia của người
dân lần đầu tiên được áp dụng trong chương trình hợp tác lâm nghiệp Việt Nam-Thụy
Điển do SIDA tài trợ vào cuối năm 1991. Đây là chương trình sử dụng PRA một cách
hệ thống trên một địa bàn rộng trong một thời gian dài.
Ngoài hai phương pháp tiếp cận trên, các hệ thống dịch vụ vật tư nông nghiệp
và các công ty sản xuất sản phẩm vật tư nông nghiệp hoạt động khuyến nông bằng các
biện pháp hướng dẫn kỹ thuật sử dụng vật tư nông nghiệp có hiệu quả cho năng suất
cao. Thực chất đây là một trong những hình thức quảng cáo bằng các cách như: Mở hội
nghị khách hàng, xây dựng mô hình trình diễn… thông qua các tổ chức khuyến nông
nhà nước.
Một cách tiếp cận khuyến nông rất hiệu quả nữa là tiếp cận đào tạo nông dân
trên đồng ruộng (FFS). Cách tiếp cận này được áp dụng cho các chương trình IPM. Từ
năm 1992 chương trình IPM đã được triển khai ở Việt Nam. Giải pháp cơ bản của IPM
là mở các lớp học trên đồng ruộng cho nông dân với cách học thông qua việc làm thực
tế. Những nông dân đã được học qua lớp đào tạo lại trở thành giảng viên để truyền đạt
những kiến thức được cho những nông dân khác trong cộng đồng tạo ra hình thái phát
triển hình cây mở rộng được kết quả. Điểm mạnh của phương pháp IPM là nó không
phụ thuộc vào việc phải có một tổ chức khuyến nông chính thức ở các thôn bản mà
thay vào đó nó chủ yếu dựa vào các nhóm nông dân tình nguyện, những người mong

muốn được gặp nhau định kì khi đến mùa vụ sản xuất để học về một kỹ thuật cụ thể
nào đó. Phương pháp của IPM mới đầu chỉ áp dụng cho cây lúa, sau này đã mở rộng ra
áp dụng cho cây rau, cây chè, đậu tương, nuôi… Trong dự án IFAT ở Hà Giang đang
thiết kết sử dụng phương pháp này trong hoạt động khuyến nông toàn tỉnh.
11
b, Phương pháp chuyển giao kỹ thuật tiến bộ:[1]
Phương pháp chuyển giao KTTB trong nông nghiệp là cách thức chuyển giao
thông tin về KTTB bao gồm cả kỹ thuật, tổ chức sản xuất, thị trường tới nông dân.
Nhìn chung, có ba nhóm phương pháp chuyển giao: Một là, Phương pháp tiếp xúc
nhóm (bao gồm Mô hình trình diễn, tập huấn, tham quan, hội nghị đầu bờ và họp
nhóm); hai là, Phương pháp tiếp xúc cá nhân (bao gồm Thăm và gặp nông dân, tư vấn,
điện thoại); ba là, Phương pháp truyền thông đại chúng (bao gồm các chương trình trên
đài phát thanh, tivi, áp phích, quảng cáo,…).
Phương pháp tiếp xúc nhóm: Các cán bộ chuyển giao truyền thông tin về KTTB
qua nhóm nông dân, qua họp nhóm, trao đổi hội nghị đầu bờ, hội thảo, qua tập huấn,
làm điểm trình diễn và tham quan. Phương pháp này giúp nhiều nông dân nắm được
phương pháp và thông tin, có hiệu quả hơn phương pháp cá nhân.
Phương pháp tiếp xúc cá nhân là phương pháp cán bộ chuyển giao thăm và gặp
gỡ, tư vấn cho từng nông dân, trao đổi với nông dân qua thư và điện thoại. Phương
pháp này giúp các cán bộ chuyển giao giải quyết các vấn đề cá biệt cao cho từng nông
dân, nên hiệu quả chuyển giao khá tốt. Tuy nhiên, do thiếu cán bộ chuyển giao nên
không thể tiếp xúc hết nông dân. Một số cán bộ chuyển giao hay tiếp xúc với nông dân
giàu có điều kiện thuận lợi nên dễ bỏ qua cho nông dân nghèo, ở vùng sâu vùng xa.
Phương pháp thông tin đại chúng là phương pháp chuyển giao KTTB tới quảng
đại nông dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, tivi, video,
tranh áp phích và quảng cáo. Phương pháp này có ưu điểm là truyền thông tin tới số
lớn nông dân. Nhưng phương pháp này không giải quyết các vấn đề mang tính cá biệt
của nông dân. Nông dân có điều kiện sản xuất rất khác nhau, ngay trên cùng một cánh
đồng, thì ruộng có vị trí khác nhau cũng phải có những quyết định đồng ruộng khác
nhau.

2.1.2. Tình hình chuyển giao KTTB trong nông nghiệp ở một số nước và ở Việt
Nam.[1]
2.1.2.1 Tình hình chuyển giao KTTB ở một số nước.
Chuyển giao KTTB là một nội dung chủ yếu trong chiến lược phát triển nông
nghiệp và nông thôn của các nước trên thế giới và nhất là các nước đang phát triển
(Chamber, 1990; Daniel, 1997; Niels, 1990). Công tác chuyển giao KTTB chủ yếu do
12
các Cơ quan khuyến nông nhà nước, các Viện nghiên cứu nông nghiệp, các Tổ chức
phát triển và thành phần kinh tế tư nhân tiến hành. Khoa học khuyến nông ra đời hơn
100 năm trước kia (1887) do Richard Muolton- một giảng viên của Đại học Cambridge
ở nước Anh khởi xướng. Khuyến nông được tổ chức thành hệ thống từ Trung ương đến
địa phương để giúp nông dân giải quyết các vấn đề khó khăn của chính họ. Các nước
Đông Nam Châu Á, đều có Cục khuyến nông hay các tổ chức tương tự làm nhiệm vụ
khuyến nông. Trung Quốc không tổ chức thành Cục khuyến nông nhưng có Cục truyền
bá kỹ thuật nông nghiệp. Hệ thống khuyến nông được tổ chức rộng khắp. Phương pháp
cơ bản trong chuyển giao những năm những năm cuối thế kỷ 20 là Phương pháp nhóm
(tập huấn có sự tham gia, mô hình trình diễn, tham quan, hội nghị đầu bờ), Phương
pháp cá nhân ( tập huấn và gặp gỡ, trao đổi và tư vấn). Các chính phủ của các nước
như Phi-lip-pin, Sin-ga-po, Ma-lay-sia, Thái Lan đều thực hiện chính sách trợ giá đầu
vào cho nông dân thôn qua gắn với các chương trình chuyển giao KTTB. Tuy nhiên,
trong nhiều thập kỉ trợ giá, hiệu quả của các chương trình khuyến nông không cao.
Hiện nay xu hướng chung là công tác chuyển giao KTTB được thực hiện dưới nhiều
hình thức phù hợp, giảm dần sự trợ cấp của chính phủ, tăng cường phát huy sự tham
gia của người dân.
2.1.2.2 Tình hình chuyển giao KTTB trong nông nghiệp ở Việt Nam
Việc chuyển giao kỹ thuật tiến bộ trong nông nghiệp ở Việt Nam gắn liền với sự
phát triển của nền nông nghiệp và được chia thành ba giai đoạn chủ yếu.
Giai đoạn trước năm 1988, KTTB được chuyển giao chủ yếu qua các hợp tác xã
nông nghiệp, theo hệ thống sản xuất kế hoạch hóa tập trung. Trong giai đoạn này, các
quyết định sản xuất chủ yếu do HTX tiến hành, KTTB được chuyển giao từ cơ quan

nghiên cứu tới nông dân thông qua các bộ phận chức năng Phòng trồng trọt, Chăn
nuôi, Thủy sản của UBND huyện. Các cán bộ phòng nông nghiệp được phân công
“tăng cường” xuống các địa phương để chỉ đạo, giúp các HTX ứng dụng các KTTB.
Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là xây dựng điểm chỉ đạo, gắn liền với tổ chức
HTX nông nghiệp. Mô hình này phục vụ nền kinh tế tập trung, chưa phát huy cao độ
sự sáng tạo và nguồn lực của địa phương, nhất là nông dân.
Giai đoạn từ 1988 đến 1993 gắn liền với sự ra đời của Nghị quyết 10 BT/TW
của ban bí thư Trung Ương Đảng về Cải tiến toàn diện công tác quản lý nền nông
13
nghiệp. Với nghị quyết 10, kinh tế hộ được hình thành và phát triển. Công tác chuyển
giao KTTB ở giai đoạn giao thời từ phục vụ nền nông nghiệp kinh tế tập thể sang kinh
tế hộ. KTTB vẫn được đưa về địa phương theo kênh cũ (Phòng nông nghiệp). Tuy
nhiên, ở nhiều địa phương, tính chất hoạt động của HTXNN đã thay đổi, nên công tác
chuyển giao KTTB có sự lúng túng trong phương thức, cách làm và biện pháp chuyển
giao trong giai đoạn này.
Giai đoạn từ 1993 đến nay với sự hình thành hệ thống khuyến nông nhà nước.
Ngày 2/3/1993, Chính phủ ban hành Nghị định 13/CP về công tác khuyến nông mở
đầu việc hình thành hệ thống khuyến nông Việt Nam, đáp ứng yêu cầu mới của sự phát
triển nông nghiệp và nông thôn nước ta. Theo quyết định 13/CP của Chính phủ, một hệ
thống khuyến nông nhà nước đã được thành lập từ Trung Ương tới 64 tỉnh và hầu hết
các huyện trong cả nước (Lê Hưng Quốc, 2001). Lúc này, Phòng nông nghiệp ở các
huyện chỉ làm chức năng quản lý nhà nước về nông nghiệp. Mặc khác, do chuyển đổi
về chính sách nghiên cứu và chuyển giao, gắn kết giữa doanh nghiệp và nông dân, việc
chuyển giao KTTB không những do cán bộ khuyến nông nhà nước tiến hành mà còn
do các viện nghiên cứu, các tổ chức phát triển và các doanh nghiệp tiến hành.
Trong những năm qua công tác chuyển giao kỹ thuật được tiến hành ở khắp các
tỉnh thành trong cả nước với nhiều nội dung khác nhau nhưng chủ yếu tập trung vào
phổ biến áp dụng giống cây trồng và vật nuôi tiến bộ, phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh
tế trong nông nghiệp. Trọng tâm là chuyển giao các KTTB về giống mới, ưu thế lai cho
nông dân. Ngoài ra, một số nơi đã chuyển giao các KTTB về công nghệ sau thu hoạch,

bảo quản nông sản phục vụ cho nông dân.
Về phương pháp khuyến nông, hệ thống chuyển giao của chúng ta đã áp dụng
khá đủ các phương pháp bao gồm xây dựng mô hình trình diễn, tập huấn, tham quan,
hội nghị đầu bờ, biên soạn tài liệu phổ biến, phát trên vô tuyến truyền hình. Tuy nhiên,
phương pháp mô hình trình diễn và tập huấn vẫn là chính ( Lê Hưng Quốc, 2001; Bộ
NN& PTNT, 2002). Có thể tóm tắt các mô hình khuyến nông chuyển giao thành các
dạng sau: Một là, Mô hình khuyến nông – nông dân là mô hình khuyến nông nhà nước
phối hợp với nông dân thực hiện chuyển giao; hai là, Mô hình doanh nghiệp- khuyến
nông-nông dân là mô hình chuyển giao có sự tham gia của doanh nghiệp; ba là, Mô
hình ngân hàng-khuyến nông-nông dân là mô hình chuyển giao có sự tham gia của
14
ngân hàng trong hỗ trợ và quản lý vốn vay; bốn là, Mô hình 3+1 là mô hình gồm
khuyến nông, doanh nghiệp, ngân hàng cùng liên kết với nông dân để sản xuất ra hàng
hóa (Lê Hưng Quốc, 2002). Các mô hình trên được phát triển thành “liên kết 5 nhà” để
sản xuất hàng hóa (nhà khoa học và nhà khuyến nông chuyển giao KTTB cho nhà
nông, Nhà nông làm ra hàng hóa nông nghiệp, Nhà ngân hàng cung cấp vốn cho việc
ứng dụng KTTB vào sản xuất và Nhà nước hình thành khung chính sách cho chuyển
giao và sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản hàng hóa) (Đỗ Kim Chung, 2002).
Ở Việt Nam, công tác chuyển giao KTTB đã có đóng góp quan trọng trong việc
xây dựng mô hình trình diễn, hướng dẫn nông dân sản xuất và áp dụng KTTB vào sản
xuất, từng bước chuyển từ sản xuất tự túc, tự cấp sang nền nông nghiệp hàng hóa đa
dạng và hiệu quả, hướng mạnh xuất khẩu, phát triển ngành nghề nông thôn mới, tăng
thu nhập, xóa đói giảm nghèo. Công tác chuyển giao KTTB trong thời gian qua đã đạt
được một số kết quả chủ yếu sau: Đã đáp ứng được nhu cầu chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước, tạo được lòng tin và hưởng ứng của nông dân, đã thực hiện được chuyển giao
KTTB tới nông dân theo các chương trình khuyến nông có hiệu quả, đặc biệt trên lĩnh
vực giống cây trồng, vật nuôi có ưu thế lai, các KTTB được áp dụng thành công trong
nông nghiệp. Công tác chuyển giao KTTB góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng từ 4-
4,5%, phát triển nông sản hàng hóa, đời sống nông dân được cải thiện đáng kể. Khâu
đột phá trong chuyển giao KTTB là đưa nhiều giống cây trồng, giống vật nuôi năng

suất cao, chất lượng tốt vào sản xuất, áp dụng kỹ thuật canh tác tiên tiến như qui trình
bón phân hợp lý, biện pháp quản lý tổng hợp dịch hại (IPM), qui trình phòng và trị
bệnh cho vật nuôi và áp dụng công nghệ sau thu hoạch (Nguyễn Văn Bộ, 2001)
2.2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ MÔ HÌNH TRÌNH DIỄN [3]
2.2.1 Khái niệm về mô hình
Trong thực tế, để khái quát hóa các sự vật, hiện tượng, các quá trình, các mối
quan hệ hay một ý tưởng nào đó, người ta thường thể hiện dưới dạng mô hình. Có
nhiều loại mô hình khác nhau, mỗi loại mô hình chỉ đặc trưng thco một điều kiện sinh
thái hay sản xuất nhất định nên không thể có mô hình chung cho tất cả các điều kiện
sản xuất khác nhau.
15
Theo quan niệm của nhiều cơ quan chuyển giao, mô hình trình diễn kỹ thuật cần
có các đặc trưng sau:
- Là mẫu hình tối ưu cho một giải pháp sản xuất;
- Phải có tính đại diện cho vùng có điều kiện tương tự;
- Phải ứng dụng được các KTTB vào sản xuất;
- Phải có tính hiệu quả: về kinh tế, xã hội và môi trường.
2.2.2 Sự cần thiết phải xây dựng các mô hình trình diễn
Để giúp cho người dân phát triển sản xuất và xóa đói giảm nghèo, việc xây
dựng các mô hình sản xuất là rất cần thiết vì các lý do sau đây:
- Thực tế đã khẳng định, muốn làm giàu trong sản xuất nông, lâm nghiệp thì
không thể sản xuất theo kiểu quảng canh, tự cấp, tự túc mà phải áp dụng các kỹ thuật
tiến bộ, thâm canh tăng năng suất và tiến đến sản xuất theo hướng hàng hóa.
- Để đáp ứng yêu cầu của việc chuyển đổi phương thức canh tác nhằm phù hợp
với thực tế sản xuất. Ví dụ, hiện nay khi diện tích bãi chăn thả ngày càng bị thu hẹp,
việc duy trì số lượng đàn bò là rất khó khăn nếu vẫn thực hiện phương thức chăn thả
truyền thống như trước đây. Do vậy, việc xây dựng các mô hình nuôi bò bán thâm canh
là cần thiết để hướng dẫn cho người dân chuyển đổi phương thức chăn nuôi nhằm thích
ứng với tình hình mới của thực tiễn sản xuất để phát triển sản xuất chăn nuôi bò.
- Đáp ứng các nhu cầu về chuyển đổi cơ cấu cây trồng thích hợp với điều kiện

sinh thái để đem lại hiệu quả kinh tế hoặc luồn lách theo thời vụ nhằm né tránh thời tiết
khắc nghiệt. Ví dụ, các mô hình vườn đồi, mô hình trồng rau,… ở trung du và miền
núi.
- Nhằm tạo cho người dân ý thức về phát triển bền vững, nghĩa là phát triển kinh
tế phải quan tâm đúng mức tới bảo vệ môi trường, không làm cạn kiệt nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Ví dụ, mô hình chăn nuôi kết hợp với Bioga, mô hình vườn đồi,…
- Tạo ra những hình mẫu về sản xuất để tổ chức các chuyến tham quan học tập,
các lớp tập huấn hay hội nghị đầu bờ nhằm chuyển giao các kỹ thuật tiến bộ vào sản
xuất theo cách “nông dân tự chuyển giao cho nông dân”.
- Để ứng dụng những kỹ thuật mới hoặc thuyết phục người dân trước khi phổ
biến ra diện rộng. Góp phần khẳng định tính khả thi của một phương án sản xuất để
16
giai đoạn tiếp theo chỉ cần tiếp tục bổ sung chứ không phải mày mò thử nghiệm mà có
thể yên tâm, phát triển trên diện rộng khi có vốn đầu tư và có thị trường tiêu thụ sản
phẩm.
Nghiên cứu về phương pháp chuyển giao KTTB tại 13 tỉnh miền núi phía Bắc
cho thấy: Xây dựng mô hình trình diễn là phương pháp chủ đạo để chuyển giao các kỹ
thuật tiến bộ cho người dân (93,3% số cơ quan và dự án áp dụng). Đây là phương pháp
rất thành công, nhất là với đồng bào các dân tộc thiểu số. Kết quả nghiên cứu cũng cho
thấy, hầu hết cán bộ và nông dân được phỏng vấn ở 13 tỉnh đều cho rằng: Mô hình
trình diễn là rất quan trọng vì: một là, nông dân chỉ làm theo khi họ thấy được kết quả;
hai là, mô hình là nhằm để khẳng định tính phù hợp của KTTB tại địa phương.
2.2.3 Một số nguyên tắc khi thực hiện mô hình trình diễn
- Phải đáp ứng các nhu cầu đích thực của nông dân và mang lại hiệu quả kinh tế
cho họ.
- Người dân cần xác định rõ trách nhiệm của mình khi tham gia các mô hình.
Phải làm cho dân hiểu: làm mô hình là vì lợi ích của chính họ, không phải làm “cho”
dự án
- Khuyến khích sự tham gia của người dân càng nhiều càng tốt, đó chính là điều
kiện để đảm bảo tính bền vững của mô hình.

- Chỉ hỗ trợ, không “ban phát” làm thay dân.
- Thông qua mô hình để xây dựng năng lực và chuyển giao kỹ thuật cho người
dân.
- Cần xác định qui mô phù hợp với khả năng đầu tư của dân để có thể thực hiện
thành công mô hình và nhân rộng mô hình sau này.
- Kỹ thuật chuyển giao phải phù hợp với trình độ dân trí và các điều kiện thực
tế của địa phương.
- Chú ý sự phát triển bền vững và khả năng để nhân rộng.
17
2.3 TÌNH HÌNH XÂY DỰNG MÔ HÌNH CỦA KHUYẾN NÔNG TRUNG ƯƠNG VÀ
CÁC ĐỊA PHƯƠNG (TỪ 1993-2004) [11]
Từ khi thành lập đến nay, hệ thống khuyến nông đã phát triển mạnh mẽ trên
khắp đất nước. Hơn 10 năm hoạt động và trưởng thành, Khuyến nông Việt Nam đã
đóng góp không nhỏ trong quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn, nâng cao dân
trí, trình độ kỹ thuật nông nghiệp cho nông dân. Hầu hết các giống cây, con mới trong
sản xuất hiện nay chủ yếu là do kênh khuyến nông (Khuyến nông nhà nước và Khuyến
nông tự nguyện) chuyển giao và tham gia phát triển. Có thể nói công tác chuyển giao là
quan trọng để đưa những tiến bộ kỹ thuật đến người nông dân. Một trong những hình
thức được lựa chọn và thực tế đã mang lại hiệu quả cao nhất đó là chuyển giao các
TBKT thông qua xây dưng các mô hình trình diễn. Đây là một hoạt động tổng hợp
gồm nhiều hoạt động: tổ chức, tuyên truyền, tập huấn trước khi triển khai mô hình, hội
nghị đầu bờ, tuyên truyền sau khi mô hình có hiệu quả.
Sau đây là những mô hình khuyến nông đã được triển khai và thực hiện gắn với
các chương trình khuyến nông. Một số chương trình khuyến nông trọng điểm.
2.3.1 Chương trình an ninh lương thực (ANLT) tại chỗ cho vùng sâu, vùng xa,
vùng dân tộc ít người thông qua các chương trình khuyến nông lúa lai, ngô lai và một
số cây trồng khác:
2.3.1.1 Chương trình khuyến nông đối với cây lúa:
Khuyến nông sản xuất hạt giống lúa lai F1 đã triển khai ở 26 tỉnh, thu hút trên
88.200 hộ nông dân tham gia với tổng diện tích mô hình trên 8.000ha; khuyến nông lúa

lai thương phẩm đã triển khai ở 39 tỉnh với hơn 250.000 hộ nông dân tham gia trên
tổng diện tích mô hình là: 2.258.355ha. Kết quả chương trình đã góp phần phát triển
mạnh mẽ diện tích lúa lai từ vài hecta ở những năm đầu thập kỷ 90, đến nay diện tích
lên trên 600.000ha/năm, góp phần tăng sản lượng lương thực của cả nước, góp phần
quyết định giữ vững ANLT cho các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc nói riêng và cả
nước nói chung. Tham gia vào việc tự túc sản xuất hạt lúa lai F1 trong nước khoảng
25% và khống chế giá nhập nội.
18
2.3.1.2 Chương trình khuyến nông phát triển ngô lai
Chương trình đã triển khai hầu hết các tỉnh, nhiều nhất là vùng Trung du và
miền núi phía Bắc, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Với sự tham gia của hơn 9.000 hộ
nông dân trên 12.000 ha mô hình, góp phần tăng năng suất ngô từ 21.1 tạ/ha lên 32.2
tạ/ha. Giá thành sản xuất hạt giống trong nước chỉ bằng 50% so với giá giống nhập nội,
góp phần tiết kiệm được 20 triệu USD nhập giống hàng năm.
2.3.1.3 Chương trình khuyến nông chuyển đổi cơ cấu mùa vụ
Chương trình đã triển khai hầu khắp các tỉnh trong cả nước với tổng diện tích
mô hình 6.410ha. Chương trình đã góp phần thúc đẩy mở rộng diện tích, chuyển đổi
trên 600.000 ha từ cây trồng kém hiệu quả, chế độ canh tác cũ sang cây trồng, chế độ
canh tác mới hiệu quả cao, làm tăng thêm thu nhập trên mỗi ha từ 1.3 đến 5 lần, thậm
chí có nơi trên 100 lần với giá trị tương đương từ 5 đến 200 triệu đồng. Chương trình
còn góp phần né tránh thiên tai bất thuận cho cây trồng.
2.3.1.4 Chương trình khuyến nông phát triển cây công nghiệp dài ngày ( café, chè, cao
su, tiêu điều,…).
Chương trình được triển khai trên nhiều tỉnh nhất là ở vùng Tây Nguyên và
Trung du miền núi phía Bắc thu hút trên 15.000 hộ nông dân tham gia trên tổng diện
tích mô hình 10.013ha. Kết quả đã góp phần mở rộng diện tích theo qui hoạch và cung
cấp nguyên liệu cho cơ sở chế biến và tham gia xuất khẩu.
Chương trình khuyến nông trồng trọt đã phát huy sáng tạo, năng động về sử
dụng những giống cây lương thực mới chất lượng cao, những giống có ưu thế lai…
phục vụ chiến lược phát triển sản xuất, đảm bảo ANLT quốc gia và nông sản hàng hóa

xuất khẩu.
2.3.2 Chương trình khuyến lâm [5]
2.3.2.1 Chương trình trồng tre lấy măng.
Chương trình đã triển khai ở 38 tỉnh thành trong cả nước, xây dựng nhiều mô
hình với trên 1.364ha gồm các loại: Bát Độ, Điền Trúc, Lục Trúc, Mạnh Tông…Năng
suất bình quân đạt 15-20 tấn măng tươi/ha. Đa số hộ trồng tre có thu nhập từ sản xuất
giống trong giai đoạn đầu.
19
2.3.2.2 Chương trình trồng cây nguyên liệu giấy
Chương trình đã xây dựng nhiều mô hình với diện tích 10.628ha, mô hình gồm
các loại cây: Bạch đàn lai, keo lai tại vùng nguyên liệu các nhà máy giấy của Trung
ương và địa phương, 80% nông hộ vùng nguyên liệu giấy đã sử dụng giống mới (keo
lai, bạch đàn lai). Sử dụng giống mô hom để trồng rừng nguyên liệu góp phần tăng
năng suất trồng rừng từ 1,5-2 lần so với các loài cây cũ.
2.3.3 Chương trình khuyến nông chăn nuôi [11]
Nhằm khuyến khích, hỗ trợ phát triển nhiều vật nuôi có giá trị kinh tế cao đặc
biệt một số chương trình khuyến nông trọng điểm về lợn, bò và gia cầm:
2.3.3.1 Chương trình khuyến nông chăn nuôi lợn hướng nạc
Chương trình đã thu hút khoảng 13.000 hộ thuộc 40 tỉnh, thành tham gia với
tổng số lợn nuôi của chương trình là 32.786 con, chương trình đã gắn chăn nuôi với
xây dựng bổ khí sinh học để xử lý chất thải. Kết quả số lứa đẻ của một lợn nái tăng từ
1,7 lứa/năm lên 2 lứa/năm. Số ngày cai sữa của lợn con giảm từ 60 ngày xuống 35-40
ngày, tỷ lệ chết của lợn con giảm, số lợn cai sữa/nái/năm tăng từ 16 con lên 20 con, tỷ
lệ nạc tăng từ 35-36% lên 45-47%. Chỉ tính riêng về số lợn con tăng lên trong chương
trình, lợi nhuận thu được đã lên tới 30 tỷ đồng. Chương trình khuyến nông chăn nuôi
lợn hướng nạc đã góp phần thúc đẩy phát triển chăn nuôi trang trại theo hướng công
nghiệp hóa hiện đại hóa, tuy vậy vẫn còn một số tồn tại: số lượng con giống trong xây
dựng còn tản mạn, chưa tập trung, cán bộ khuyến nông còn thiếu cả về số lượng và
chất lượng.
2.3.3.2 Chương trình khuyến nông chăn nuôi cải tạo đàn bò

Chương trình đã thu hút trên 482.000 hộ nông dân tham gia ở gần 50 tỉnh,
thành. Kết quả đã đào tạo 700 dẫn tinh viên chính qui, trên 2000 dẫn tinh viên cấp
huyện và 6.000 khuyến nông viên chăn nuôi thú y, huấn luyện kỹ thuật cho 51.400 lượt
hộ. Các giống bò ngoại RedSindhi, Sahiwal, Brehman đã được lai với bò vàng Việt
Nam làm tăng tỷ lệ bò lai cả nước từ 10 lên 25% để nâng khối lượng bò cái từ 170kg
lên 220-250kg, tỷ lệ thịt xẻ tăng từ 40% lên 47%. Chương trình khuyến nông chăn nuôi
cải tạo đàn bò góp phần nâng cao tầm vóc đàn bò vàng Việt Nam làm cơ sở cho việc
20
lại tạo tiếp theo hướng chuyên thịt hoặc sữa và giúp gần nửa triệu hộ chăn nuôi bò lai
có thu nhập tăng trên 1.000 tỷ đồng.
2.3.3.3 Chương trình khuyến nông chăn nuôi gia cầm
Chương trình đã triển khai trên toàn quốc và đã chuyển giao được trên 650.000
gia cầm giống mới cho các hộ nông dân (gà Lương Phượng, Kabin, Sasso, JA-57,
Lương Phượng lai gà Ri, BT1, BT2…các giống vịt, ngan Super M, ngan Pháp dòng
R51, R71…). Chương trình đã giúp nâng tỷ lệ sống và tốc độ tăng trọng của gia cầm;
cung cấp con giống tại chỗ cho các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, tạo thêm việc làm
và tăng thu nhập cho bà con nông dân. Thực tế cho thấy nuôi 100 con gà, vịt, ngan…
giống mới có thể thu lãi 0.3-0.5 triệu đồng thậm chí có những hộ lãi 0.9-1.0 triệu đồng
sau 2-3 tháng chăn nuôi.
Các chương trình chăn nuôi đã góp phần nâng cao trình độ dân trí, trình độ kỹ
thuật, đưa ngành chăn nuôi từ manh mún, nhỏ lẻ dần dần trở thành ngành sản xuất
hàng hóa chính, tập trung, có hiệu quả kinh tế và tính cạnh tranh cao góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người nông dân, nhất là nông
dân ở các tỉnh khó khăn, tỉnh miền núi.
Bên cạnh những chương trình, những mô hình ở Viêt Nam đã triển khai thực
hiện thành công và nhân rộng tốt. Còn không ít chương trình triển khai một cách ồ ạt,
không kế hoạch đã làm thất thoát rất nhiều tiền của nhà nước và gây thiệt hại kinh tế
của nông dân rất nhiều, chẳng hạn như các chương trình: mía đường, phát triển bò sữa,
mô hình nuôi tôm trên cát…
Theo nguồn từ báo điện tử Kinh tế nông thôn, số ra ngày thứ hai, 11/9/2006 đưa

tin: sau khi Chương trình phát triển bò sữa do Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
khởi xướng, 33 tỉnh-thành phố “đua” nhau lập dự án, bò sữa đi vào nghị quyết của
nhiều địa phương và được coi là con nuôi mũi nhọn trong cơ cấu của ngành chăn nuôi.
Nhưng đến nay, đã có 20 tỉnh đang phải xem xét ngừng nuôi bò sữa, đẩy chương trình
đứng trước nguy cơ phá sản. Theo số liệu điều tra của Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp
và phát triển nông thôn) tháng 3/2006 tại Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hà
Nam cho thấy, số lượng bò sữa giảm 25% và giảm 16% số hộ nuôi. Giá một con bò
sữa hậu bị trên thị trường chỉ còn 7-13 triệu đồng/con so với mức 20 triệu đồng/con
trước đây. Tỷ lệ bò sữa loại thải rất cao, nhiều hộ không giữ bê sữa để tăng đàn, thậm
21
chí cả bò sữa mang thai cũng bị đưa vào lò mổ…Nhiều dự án phát triển bò sữa ở nhiều
tỉnh đang “thoi thóp” ở giai đoạn cuối như ở tỉnh Sơn La: Người dân thành con nợ,
doanh nghiệp đứng bên bờ phá sản, ngân hàng gánh những món nợ khổng lồ khó đòi.
Chi phí cho dự án lên tới hàng chục tỷ đồng.
Ngoài Chương trình phát triển bò sữa, Chương trình mía đường ở Việt Nam
cũng gặp thất bại lớn khi triển khai một cách ồ ạt. Sau khi chính sách phát triển ngành
mía đường được phát động, có hơn 40 nhà máy mới được thiết lập một cách vội vã từ
Bắc chí Nam: từ Tuyên Quang, Thanh Hóa, Quảng Bình xuống tận Cam Ranh, Sóc
Trăng, tạo nên một sự khủng hoảng thừa ngay từ đầu, có nhà máy xây dựng trước khi
có qui hoạch trồng mía, nghĩa là có nhà máy không có nguyên liệu để ép. Do đó hàng
loạt nhà máy phải đóng cữa và không còn khả năng để trả nợ và kỹ nghệ này hiện nay
đã bị phá sản hoàn toàn. Nhiều hộ nông dân trong qui hoach vùng trồng mía cũng bị
thiệt hại kinh tế đáng kể khi nhà máy bị phá sản, mía trồng không biết bán ở đâu và
cho ai. Gây mất lòng tin trong nhân dân vào chủ trương, chính sách của nhà nước.
Mô hình nuôi tôm trên cát cũng là một trong những mô hình cho hiệu quả kinh
tế rất cao trong những năm đầu, nhưng xét đến hậu quả lâu dài nó đã gây ảnh hưởng
đến môi trường một cách nghiêm trọng. Mô hình lần đầu tiên thực hiện thành công ở
Ninh Thuận với qui mô 0.5 ha (vào năm 1999), do thấy được hiệu quả kinh tế của mô
hình rất cao (doanh thu trên 1ha có thể đạt 400 triệu đồng/năm, lợi nhuận xấp xỉ 135
triệu đồng) nên trong những năm gần đây có rất nhiều dự án lớn đầu tư vào các tỉnh

miền Trung để xây dựng ao nuôi tôm trên cát. Nhưng mặt trái của phương thức nuôi
tôm trên cát ngày càng lộ dạng, gây tác hại lớn đến môi trường. Đặc điểm của mô hình
này là sử dụng rất nhiều nước, đặc biệt là nước ngọt, đây là nguồn nước khan hiếm ở
vùng cát nên chủ yếu là sử dụng biện pháp khoan nước ngầm. Việc khai thác nước
ngầm một cách ồ ạt như hiện nay đã làm phá vỡ mạch nước ngầm, hệ sinh thái vùng
cát, tăng hiện tượng sụt lún địa tầng và xói mòn đất cát ven biển, gây sa mạc hóa cục
bộ, nhiễm mặn sâu vào tầng đất bên trong… đã quan sát thấy hiện tượng cây phi lao
phòng hộ ở Ninh Thuận đã bị chết khô do khai thác qua mức mạch nước ngầm để nuôi
tôm. Mặc khác, lượng chất thải do nuôi tôm gây ra cũng rất lớn, ước tính mỗi năm 1ha
thải ra 8 tấn chất rắn: vỏ tôm, thức ăn thừa…và nhiều hóa chất xử lý ao nuôi. Những
chất thải này đa số được thải trực tiếp ra bên ngoài, gây ô nhiễm môi trường xung
22
quanh ao nuôi, làm cho dịch bệnh phát sinh nhiều, do đó chi phí đầu tư cho ao nuôi
tôm cứ tăng dần. Thực tế, trong 3 năm trở lại đây đã ghi nhận hiện tượng các hộ nuôi
tôm ở các tỉnh khu vực Nam Trung Bộ bị thất bại liên tiếp.
2.4 CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC CHUYỂN GIAO TBKT [10]
2.4.1 Ý nghĩa của đánh giá
Theo J. Seepersad và T.H.Henderson, đánh giá là một hoạt động của chúng ta
hàng ngày, bởi vì chúng ta luôn luôn cần phát hiện chính giá trị hay kinh nghiệm của
những vấn đề chúng ta làm. Đánh giá hoạt động khuyến nông có thể được coi là một
quá trình liên tục và có hệ thống đánh giá hoặc tiềm năng của chương trình khuyến
nông.
Theo E.Grober và V.Hoffmann, đánh giá nhằm mục đích đưa ra được những chỉ
dẫn và những khả năng cải tiến hoạt động khuyến nông. Nó so sánh tình trạng ban đầu
với tình trạng hiện nay, trong đó có đến mức nào, hoặc không có tác động của hoạt
động khuyến nông.
2.4.2 Chức năng của đánh giá
Có 4 chức năng sau:
a, Giúp đỡ cán bộ khuyến nông cải tiến công tác
b, Kiểm tra chương trình khuyến nông: Chỉ ra cho cơ quan khuyến nông những

khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện chương trình, phát hiện những nguyên nhân
và kiến nghị những biện pháp để cải tiến tình hình.
c, Khuyến cáo những người làm kết hoạch làm khuyến nông: Xem xét lại những
quan điểm và giả thiết làm cơ sở cho việc thiết lập chương trình phát triển khuyến
nông, cho phép đưa ra những chủ trương và biện pháp mới thiết thực sát với sự diễn
biến của thực tiễn phát triển nông nghiệp và nông thôn.
d, Khuyến cáo các cán bộ lãnh đạo về đường lối chính trị, lý giải những ảnh
hưởng về kinh tế - xã hội, những khó khăn, vướng mắc của mọi chương trình phát triển
khuyến nông trên bình diện chính trị, khả năng điều chỉnh chương trình khuyến nông,
tiếp tục đầu tư thực hiện chương trình tiếp theo hay kết thúc chương trình .
23
2.4.3 Những nguyên tắc cơ bản khi áp dụng các phương pháp đánh giá.
- Chính xác: Khi áp dụng những phương pháp đánh giá cần phải trắc nghiệm
chính xác những sự việc của nông dân đã làm, như thế kết quả mới phản ánh được thực
trạng của nông dân.
- Tin cậy: Lựa chọn mẫu cho kỹ và đủ tin cậy có thể đủ tiêu biểu cho “nhóm
nông dân –mục tiêu” để đánh giá trong trường hợp cùng một sự việc xảy ra nhiều lần
kết quả đánh giá bắt buộc phải giống nhau.
- Khách quan: Cần phải khách quan khi tiến hành công việc “đánh giá” và sưu
tập tài liệu, không thể vì tư tưởng thành tích, hoặc vì sự giải thích của người phụ trách
mà biến đổi kết quả của sự đánh giá.
- Những thiết kế và phương pháp đánh giá phải thực dụng và cân nhắc kỹ càng
về nhân lực, tài lực và giá trị kết quả.
- Đơn giản: Chỉ nên dùng biểu đồ và kỹ thuật đơn giản để dễ thống kê.
2.4.4 Một số phương pháp đánh giá
- Khảo sát kỹ thuật và kết quả trên thực địa rộng: Điều tra nghiên cứu trên diện
rộng kết quả của việc thực hiện chương trình, trình độ áp dụng kỹ thuật mới, phần trăm
số hộ thực hiện, vì sao có nhiều hộ chưa thực hiện? Rút ra nhận xét, kinh nghiệm?
- Khảo sát tỉ mỉ
- Phỏng vấn: Đối với nông dân cần phân loại 3 đối tượng phỏng vấn: nông dân

tiên tiến, nông dân chậm tiến, nông dân trung bình, đại diện các tổ chức quần chúng,
đại diện các cấp bộ đảng và chính quyền. Phỏng vấn về thực hiện mục tiêu và các biện
pháp của chương trình khuyến nông.
- Trưng cầu ý kiến: Đối với toàn bộ chương trình, đối với từng loại phương pháp
khuyến nông. Có thể trưng cầu ý kiến tại nhiều buổi họp phạm vi hẹp hoặc rộng, bằng
cách lấy ý kiến hoặc bằng phát phiếu. Trong những bản ghi trắc nghiệm, nên dùng
những từ, cụm từ đơn giản như “có”, “không”, “không ý kiến” hay tự do “giải đáp” đẻ
trả lời. Khi dùng phương pháp này cần chú ý:
+ Nội dung thật đơn giản, nhưng cụ thể và khách quan.
+ Từ ngữ rõ ràng, dễ hiểu
+ Yêu cầu người trả lời, giải đáp đúng sự thật
+ Những thuật ngữ kỹ thuật cần được chú thích rõ.
24
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Những mô hình đã triển khai và thực hiện trên địa bàn huyện Phù Cát trong 3
năm từ 2005-2007
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài khóa luận tốt nghiệp tiến hành nghiên cứu ở địa bàn huyện Phù Cát trong
thời gian từ 31/1/2007 đến 10/04/2007.
3.3 Nội dung nghiên cứu:
3.3.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội huyện Phù Cát
3.3.2 Tình hình sản xuất nông nghiệp của huyện từ 2003-2005
3.3.3 Tình hình thực hiện mô hình trên địa bàn tỉnh Bình Định từ 2001-2006
3.3.4 Tình hình thực hiện mô hình trên địa bàn huyện Phù Cát từ 2005-2007
3.3.5 Bài học kinh nghiệm và giải pháp.
3.4 Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia của người
dân(PRA) để thu thập thông tin:

• Thu thập thông tin thứ cấp
- Thu thập số liệu thứ cấp từ Trung Tâm Khuyến nông tỉnh, Phòng Kinh
tế, Trạm Khuyến nông huyện.
- Thu thập số liệu từ các báo cáo tổng kết đánh giá mô hình qua các năm;
các báo cáo có liên quan đến tình hình sản xuất của các loại cây trồng ở địa phương
nghiên cứu, từ Niên giám thống kê huyện Phù Cát
• Thu thập thông tin sơ cấp
- Phỏng vấn cán bộ khuyến nông, người hướng dẫn xây dựng mô hình
- Phỏng vấn hộ: sử dụng bảng hỏi bán cấu trúc và phỏng vấn người am
hiểu thông tin ở thôn, xã, huyện.
- Phỏng vấn 40 hộ trong đó có 14 hộ thực hiện mô hình và 26 hộ nhân
rộng mô hình của huyện.
• Phân tích dữ liệu
25

×