Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ ở xã quảng lợi, huyện quảng điền, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 83 trang )

Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xa xưa trồng lúa và nuôi lợn đã được nông dân coi như một nghề gắn bó với
nhau như hình với bóng. Con lợn ngày nay không chỉ cung cấp 70 - 80% [13] sản lượng
thịt nói chung cho hơn 80 triệu dân trong nước mà còn tham gia xuất khẩu mỗi năm hàng
ngàn tấn. Con lợn còn cung cấp một lượng phân chuồng đáng kể cho cây trồng nhất là
lúa. Phân lợn còn làm thức ăn cho cá. Nhiều người giàu lên nhờ nuôi lợn.
Những năm gần đây đàn lợn ở nước ta ngày một phát triển, cả về số lượng và chất
lượng nhờ áp dụng các tiến bộ kỹ thuật ở trong nước cũng như trên thế giới, năng suất
nuôi lợn năm sau cao hơn năm trước. Khối lượng lợn xuất chuồng bình quân đạt
50,9kg/con năm 1981 tăng lên 70kg/con năm 1993. Đàn lợn cả nước cũng tăng rất nhanh:
từ 10 triệu con năm 1980 đã vượt lên 22 triệu con năm 2000. Sản lượng thịt cũng tăng từ
287 ngàn tấn (1980) lên 1,42 triệu tấn năm 2000. [13]
Xã Quảng Lợi, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên Huế, là một vùng rất có tiềm năng
cho phát triển chăn nuôi đặc biệt là chăn nuôi trâu, bò, lợn và gia cầm. Tuy nhiên chăn
nuôi trâu, bò rất khó có thể nhân rộng trong nông hộ nhất là hộ nghèo vì vốn đầu tư ban
đầu cho chăn nuôi là rất lớn đồng thời khả năng quay vòng vốn lại khá lâu (thời gian nuôi
một con bê đến khi bán được phải từ 2 năm trở lên). Còn đối với gia cầm tuy đầu tư vốn
ít và tận dụng được diện tích vườn nhà nhưng lợi nhuận lại thấp đặc biệt với dịch cúm gia
cầm đang lan tràn hiện nay dẫn đến rủi ro rất lớn cho người chăn nuôi. Vì vậy, lợn vẫn là
vật nuôi có tiềm năng phát triển nhất ở xã.
Trong những năm gần đây, để đáp ứng và góp phần tích cực đưa chăn nuôi trở
thành ngành sản xuất hàng hóa, trong đó chăn nuôi lợn giữ vai trò chủ đạo có nhiều hộ
trong xã đã phát triển chăn nuôi lợn thịt theo hướng đầu tư cao và bước đầu đã có kết quả
khả quan. Tuy nhiên, xã Quảng Lợi lại là một xã có nền chăn nuôi nhỏ lẻ, chăn nuôi theo
quy mô trang trại, gia trại chưa phát triển mặc dù trong thời gian gần đây xã đã có nhiều
chính sách phát triển. Nhưng chăn nuôi lợn có thực sự mang lại hiệu quả và mang lại hiệu
quả như thế nào cho hộ chăn nuôi thì xã chưa hề có một báo cáo cụ thể nào về vấn đề
này. Vì vậy để có một cái nhìn cụ thể và chính xác hơn về hiệu quả kinh tế của các hộ
1


chăn nuôi lợn thịt và sự khác biệt theo quy mô chăn nuôi, đồng thời tìm các giải pháp phù
hợp với xu hướng phát triển cho địa phương, chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Đánh
giá hiệu quả kinh tế của hoạt động chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ ở xã Quảng Lợi,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nhằm các mục tiêu cụ thể sau:
- Tìm hiểu thực trạng chăn nuôi lợn thịt ở nông hộ tại xã Quảng Lợi huyện Quảng
Điền tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của chăn nuôi lợn thịt của nông hộ tại địa phương theo
quy mô chăn nuôi và theo từng nhóm hộ.
- Đề xuất giải pháp để phát triển chăn nuôi phù hợp cho hộ chăn nuôi và cho địa
phương .
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1) Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là các nông hộ chăn nuôi lợn thịt tại xã
Quảng Lợi huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế.
2) Phạm vi nghiên cứu
+ Thời gian nghiên cứu: Từ ngày 2/1/2006 đến ngày 7/5/2007.
+ Không gian nghiên cứu: Địa điểm nghiên cứu được thực hiện tại xã Quảng Lợi,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.

2
Phần 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Một số hiểu biết về hiệu quả và hiệu quả kinh tế
2.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của hiệu quả
Hiệu quả là một thuật ngữ dùng để chỉ các mối liên hệ giữa kết quả thực hiện với
các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong
những điều kiện nhất định.
Vì vậy theo hướng mục tiêu của chủ thể, kết quả trong hoạt động càng lớn hơn chi

phí bỏ ra thì càng có lợi.
Đối với các phương án hành động khác nhau hiệu quả chính là chỉ tiêu để phân
tích, đánh giá, lựa chọn chúng.
Hiệu quả được biểu hiện theo nhiều góc độ khác nhau vì vậy hình thành nhiều
khái niệm khác nhau: Hiệu quả tổng hợp, hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả môi
trường, hiệu quả tuyệt đối, hiệu quả tương đối…
2.1.2. Hiệu quả kinh tế
Sản xuất là một hoạt động có mục đích của con người, tác động lên các đối tượng
lao động thông qua công cụ lao động nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu của
mình và cho xã hội. Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì các nhà
sản xuất, doanh nghiệp, người tiêu dùng và toàn xã hội có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với
nhau. Cho nên kết quả kinh tế là một vấn đề không những được bản thân nhà sản xuất,
doanh nghiệp quan tâm mà còn là vấn đề của toàn xã hội. Hiệu quả kinh tế là một phạm
trù kinh tế phản ánh chất lượng hoạt động kinh tế, là thước đo trình độ quản lý và trình độ
tổ chức của các doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển, yêu cầu bắt buộc của các nhà sản
xuất và doanh nghiệp là phải kinh doanh có hiệu quả, có như vậy các nhà sản xuất, doanh
nghiệp mới có điều kiện tái sản xuất mở rộng, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ mới vào sản xuất. GSTS Ngô Đình Giao cho rằng: “Hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn
cao nhất của mọi sự lựa chọn kinh tế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của nhà nước”.[4] TS Nguyễn Tiến Mạnh lại cho rằng: “Hiệu quả kinh tế là
3
phạm trù khách quan phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu đã
xác định”.
Vì vậy ta có thể hiểu rằng: Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế biểu hiện tập
trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực
và trình độ, chi phí các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu
đề ra.
Nền kinh tế của mỗi quốc gia đều được phát triển theo hai chiều: Phát triển kinh tế
theo chiều rộng (huy động mọi nguồn lực vào sản xuất, tăng thêm vốn, bổ sung lao động
và kỹ thuật, mở mang thêm nhiều ngành nghề, xây dựng thêm nhiều xí nghiệp…), phát

triển kinh tế theo chiều sâu (đẩy mạnh các cách mạng khoa học và công nghệ sản xuất,
tiến nhanh lên hiện đại hóa, tăng cường chuyên môn hóa, nâng cao cường độ sử dụng các
nguồn lực, chú trọng chất lượng sản phẩm và dịch vụ.). Phát triển theo chiều sâu là nhằm
nâng cao hiệu quả kinh tế một cách bền vững.
Hiệu quả kinh tế biểu hiện tính hữu hiệu về kinh tế của việc sử dụng các loại vật
tư, lao động, tiền vốn… trong sản xuất kinh doanh, nó chỉ ra mối quan hệ giữa các lợi ích
kinh tế mang lại với chi phí bằng tiền trong mỗi kỳ kinh doanh. Lợi ích kinh tế càng lớn
thì hiệu quả kinh doanh càng cao.
Vì vậy, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp được đánh giá thông qua một số chỉ
tiêu hiệu quả nhất định. Những chỉ tiêu hiệu quả này phụ thuộc chặt chẽ vào mục tiêu
hoạt động của chủ thể hiệu quả. Vì vậy, khi phân tích hiệu quả các phương án cần xác
định rõ chiến lược phát triển cũng như mục tiêu của chủ thể trong từng giai đoạn phát
triển. Cho đến nay các tác giả đều nhất trí dùng lợi nhuận làm tiêu chuẩn cơ bản để phân
tích hiệu quả sản xuất kinh doanh
Theo quan điểm kinh tế học thì hiệu quả kinh tế chỉ đạt được khi:
- Mọi giai đoạn sản xuất ở trên đường giới hạn của năng lực sản suất là có
hiệu quả vì nó tận dụng được hết các nguồn lực.
- Số lượng hàng hóa đạt được trên đường giới hạn của năng lực sản xuất càng
lớn thì hoạt động sản xuất kinh doanh càng có hiệu quả.
- Sự thỏa mãn tối đa về số lượng, chất lượng và chủng loại hàng hóa theo nhu
cầu thị trường trong giới hạn của nguồn lực sản xuất cho hiệu quả kinh tế cao nhất.
4
Hiệu quả kinh tế là mối quan hệ tổng hòa giữa hai yếu tố hiện vật và giá trị
trong việc sử dụng các nguồn lực vào sản xuất. Nói cách khác, hiệu quả kinh tế là hiệu
quả đạt được trong việc sử dụng hai yếu tố cơ bản trong sản xuất kinh doanh. Hai yếu tố
đó là:
+ Yếu tố đầu vào: Chi phí trung gian, lao động sống, khấu hao tài sản, thuế…
+ Yếu tố đầu ra: Sản lượng và giá trị sản phẩm, giá trị sản xuất, thu nhập, giá
trị gia tăng, lợi nhuận…
Việc xác định các yếu tố đầu vào trong việc đánh giá hiệu quả kinh tế nhiều khi

gặp nhiều khó khăn do những tư liệu sản xuất tham gia vào nhiều quá trình sản xuất hoặc
những yếu tố phi vật chất: Công nghệ, chính sách, môi trường mà trong khi yêu cầu đánh
giá hoạt động kinh tế đòi hỏi phải toàn diện. Bản chất của hiệu quả kinh tế là mối tương
quan so sánh tương đối và tuyệt đối giữa lượng kết quả thu được và lượng chi phí bỏ ra.
Ở đây ta cần xác định rõ 2 khái niệm: Hiệu quả và kết quả.
Hiệu quả là đại lượng vật chất được tạo ra có mục đích của con người. Có rất
nhiều các chỉ tiêu, các nội dung để đánh giá kết quả. Điều quan trọng là khi đánh giá kết
quả của một hoạt động sản xuất, kinh doanh ta cần xem xét kết quả đó được tạo ra như
thế nào và mất chi phí bao nhiêu. Việc đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc đánh giá kết quả đạt được mà còn đánh giá chất
lượng của hoạt động đó. Đánh giá chất lượng đạt được của hoạt động sản xuất kinh
doanh chính là đánh giá hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh đó.
Trên bình diện toàn xã hội, các chi phí bỏ ra để đạt một kết quả nào đó chính là
hao phí lao động xã hội. Cho nên thước đo của hoạt động là mức độ tối đa hóa trên đơn vị
hao phí lao động xã hội tối thiểu. Nói cách khác, hiệu quả là sự tiết kiệm tối đa các nguồn
lực đạt được cả chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế và hiệu quả phân phối thì khi đó sản xuất mới
đạt hiệu quả kinh tế. Do đó, nâng cao hiệu quả kinh tế là mục tiêu quan trọng nhất của
các đơn vị sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Đối với phạm vi đề tài này chúng tôi chủ yếu tập trung vào đánh giá hiệu quả kinh
tế của hoạt động chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ.
5
2.1.3. Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế được đo lường bằng sự so sánh giữa kết quả sản xuất kinh doanh
với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Vì vậy để xác định hiệu quả kinh tế ta cần chú ý
đến các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc về mối quan hệ giữa mục tiêu và tiêu chuẩn hiệu quả: Theo nguyên tắc
này tiêu chuẩn hiệu quả được định ra trên cơ sở mục tiêu.
Phân tích hiệu quả của một phương án luôn dựa trên phân tích mục tiêu. Phương
án có hiệu quả cao nhất khi nó đóng góp nhiều nhất cho việc thực hiện các mục tiêu đặt
ra với chi phí thấp nhất.

- Nguyên tắc vế sự thống nhất lợi ích: Theo nguyên tắc này, một phương án được
xem là có hiệu quả khi nó kết hợp trong đó các loại lợi ích.
- Nguyên tắc về tính chính xác, tính khoa học: Để đánh giá hiệu quả các phương án
cần phải dựa trên một hệ thống các chỉ tiêu có thể lượng hóa được và không lượng hóa
được, tức là phải kết hợp phân tích định lượng và phân tích định tính. Không thể thay thế
phân tích định lượng bằng phân tích định tính khi phân tích định lượng chưa đủ đảm bảo
tính chính xác, chưa cho phép phản ánh được mọi lợi ích cũng như mọi chi phí mà chủ
thể quan tâm.
Nguyên tắc này đòi hỏi những căn cứ tính toán hiệu quả phải được xác định chính
xác, tránh chủ quan, tùy tiện.
- Nguyên tắc về tính đơn giản và tính thực tế: Theo nguyên tắc này, những phương
pháp tính toán hiệu quả và hiệu quả kinh tế phải được dựa trên cơ sở các số liệu thông tin
thực tế, đơn giản và dễ hiểu.
Với quan điểm tổng quát thì các chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế lựa chọn để nghiên
cứu chủ yếu được trình bày dưới một số dạng cơ bản sau:
- Dạng thuận (toàn bộ): Hiệu quả chi phí được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt
được và chi phí bỏ ra. Điều đó có nghĩa là hiệu quả kinh tế là sự so sánh về mặt lượng
giữa kết quả và chi phí sản xuất.
6
H = Q/C ; H = Q – C
H: Hiệu quả
Q: Lượng kết quả đạt được
C: Chi phí hoặc yếu tố đầu vào
- Dạng thuận (cận biên): Là tỷ số giữa phần tăng thêm của kết quả đối với phần
tăng thêm của chi phí. Nghĩa là nếu tăng thêm một đơn vị chi phí sẽ làm tăng thêm bao
nhiêu đơn vị kết quả thu được.
H
b
= ΔQ/ΔC ; ΔH = ΔQ – ΔC
H

b
: Hiệu quả cận biên
ΔQ: Lượng kết quả tăng thêm
ΔC: Chi phí hoặc các yếu tố đầu vào tăng thêm
- Dạng nghịch: Để tăng thêm một đơn vị kết quả thì cần tăng thêm bao nhiêu đơn
vị chi phí.
H = C/Q ; h
b
= ΔC/ ΔQ
Trong đó:
H: Hiệu quả
Q: Lượng kết quả đạt được
C: Chi phí hoặc các yếu tố đầu vào
ΔQ: Lượng kết quả tăng thêm
ΔC: Chi phí hoặc các yếu tố đầu vào tăng thêm
- Hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa phần trăm tăng lên của kết quả thu
được và phần trăm tăng lên của chi phí bỏ ra. Nghĩa là nếu tăng thêm 1% chi phí sẽ tăng
thêm bao nhiêu phần trăm kết quả đầu ra.
H = % ΔC/ %ΔQ
Như vậy các chỉ tiêu hiệu quả được tính toán trên cơ sở xác định được các yếu tố
đầu vào và các yếu tố đầu ra.
7
Tuy nhiên mỗi cách tính, mỗi quan điểm đều có những hạn chế nhất định, chưa
phản ánh hết các khía cạnh của hiệu quả kinh tế.
Nếu hiệu quả kinh tế gắn liền với lợi nhuận thuần túy thí hiệu quả kinh tế chưa
phản ánh được năng suất lao động xã hội, chưa thấy được sự khác nhau về quy mô đầu
tư, cũng như quy mô kết quả thu được trong các đơn vị sản xuất có kết quả và chi phí như
nhau.
Nếu hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết quả và chi phí sản xuất thì
cũng chưa hoàn toàn đầy đủ vì kết quả là sự tác động của nhiều yếu tố: Tự nhiên, kinh tế,

xã hội. Các yếu tố đó cần được phản ánh ở hiệu quả kinh tế. Ngoài ra, cơ cấu chi phí sẵn
có và chi phí bổ sung cũng làm cho kết quả đạt được khác nhau. Các đơn vị chi phí sẵn
có khác nhau thì hiệu quả của các chi phí bổ sung cũng khác nhau.
2.2. Vai trò của chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ
Chăn nuôi lợn thịt đóng vai trò hết sức quan trọng không những trong khía cạnh
đời sống mà còn trong khía cạnh xã hội:
- Chăn nuôi cung cấp thực phẩm cho xã hội: Chăn nuôi lợn cung cấp một lượng
thịt lớn cho con người. Chăn nuôi cung cấp nguồn protein động vật, là nguồn thực phẩm
có giá trị dinh dưỡng cao, cân đối các axit amin vô cùng quan trọng trong khẩu phần ăn
của con người. Trong lợn thịt có 12,6% protein, năng lượng tương ứng là 370kcalo/100g.
[14]
- Ngành chăn nuôi cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp: Việc phát triển mạnh
ngành chăn nuôi tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các ngành công nghiệp có liên
quan, cung cấp nguyên liệu cho ngành chế biến thực phẩm, công nghiệp chế biến thức ăn
gia súc, cung cấp nguồn hàng xuất khẩu.
- Chăn nuôi lợn là một bộ phận thu nhập của nhân dân và xã hội: Chăn nuôi thực
sự đem lại nguồn thu đáng kể cho người nông dân, cho quốc gia là động lực quan trọng
tạo ra tiền đề để phát triển kinh tế hộ. Ngành chăn nuôi đã giải quyết công ăn việc làm
cho hàng triệu người lao động, góp phần làm tăng thu nhập cho các hộ gia đình, tác động
mạnh đến công cuộc xóa đói, giảm nghèo ở vùng nông thôn.
- Ngoài ra chăn nuôi còn thúc đẩy phát triển ngành trồng trọt: Cung cấp nguồn
phân bón hữu cơ quan trọng, góp phần cải tạo đất, tăng năng suất cây trồng. Là thành
8
phần không thể thiếu được trong hệ sinh thái nông nghiệp, góp phần tạo nên sự cân bằng
trong hệ sinh thái con người - vật nuôi - cây trồng và trong hệ sinh thái nhân văn của cư
dân nông nghiệp.
2.3. Đặc điểm của chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ
2.3.1. Quy mô chăn nuôi nhỏ chủ yếu là chăn nuôi tận dụng
Đây là đặc điểm nổi bật của ngành chăn nuôi lợn Việt Nam. Nhìn chung quy mô
chăn nuôi của hộ còn rất nhỏ, chủ yếu là chăn nuôi tận dụng. Chăn nuôi công nghiệp mặc

dù đang có xu thế phát triển mạnh nhưng còn chiếm tỷ trọng rất thấp.
Hiện nay, trang trại chăn nuôi với quy mô tương đối lớn, từ 50 - 60 con đang phát
triển mạnh. Đây là những trạng trại chăn nuôi theo kiểu công nghiệp, áp dụng giống tiên
tiến (giống lai, giống ngoại). Sản lượng thịt sản xuất tại các trang trại chăn nuôi chỉ chiếm
10% sản lượng thịt toàn quốc, chủ yếu vẫn là các hộ chăn nuôi nhỏ.
Do chăn nuôi nhỏ, các hộ gia đình chủ yếu tận dụng thức ăn thừa, thức ăn xanh và
thức ăn thô là chủ yếu. Tỷ lệ các hộ sử dụng thức ăn công nghiệp chất lượng cao cho
chăn nuôi còn thấp và chủ yếu là cho giống lai/ngoại. Do quy mô sản xuất chưa lớn, chăn
nuôi công nghiệp còn phát triển ở mức độ thấp nên hầu hết các hộ gia đình và trang trại
chăn nuôi sử dụng lao động gia đình là chủ yếu. Theo điều tra của IFPRI- Bộ No &
PTNT có tới trên 92% hộ chỉ sử dụng lao động gia đình cho hoạt động chăn nuôi. Các hộ
chăn nuôi có quy mô lớn thì tỷ lệ này thấp hơn khoảng 66%.[8]
2.3.2. Mức độ phổ biến giống ngoại còn thấp
Theo điều tra của IFPRI và Bộ No & PTNT năm 1999, khoảng 75% số hộ sản xuất
lợn có nuôi lai hoặc lợn ngoại. Tỷ lệ này dao động từ 69% ở các hộ sản xuất quy mô nhỏ
đến 90% các hộ quy mô lớn. Việc nuôi lợn ngoại phụ thuộc vào quy mô sản xuất và vùng
lãnh thổ. Chỉ có khoảng 10% số hộ nuôi quy mô nhỏ có lợn ngoại, trong khi đó hơn 55%
số hộ quy mô lớn có nuôi lợn ngoại.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mức độ phổ biến của các giống vật nuôi nhập
nội không phù hợp với điều kiện chăn nuôi ở các hộ chăn nuôi sản xuất nhỏ. Các hộ sản
xuất quy mô nhỏ thường sử dụng các loại thức ăn thô (55,5%), xanh (42%), có bổ sung
thêm thức ăn tinh trong khẩu phần (2,4%).[8]
9
2.3.3. Hộ chăn nuôi còn thiếu thông tin
Do sản xuất chăn nuôi còn manh mún, phân tán. Chưa có thị trường buôn bán thực
thụ và thị trường đấu giá cho sản phẩm chăn nuôi nên hộ gia đình chủ yếu phải bán các
sản phẩm cho thương lái và các chủ thu gom trung gian, dễ bị ép giá. Bên cạnh đó thông
tin đại chúng chưa cung cấp tốt các thông tin về thị trường cho người sản xuất, trên 80%
nguồn thông tin chủ yếu của người chăn nuôi về giá cả, thị trường do các thương lái cung
cấp và liên lạc cá nhân, không tránh khỏi thông tin bị bóp méo.

2.3.4. Năng suất chăn nuôi thấp
Nhìn chung năng suất chăn nuôi của Việt Nam rất thấp so với các nước trên thế
giới. Đây là mô hình chăn nuôi nhỏ, tận dụng, tỷ lệ áp dụng các giống lai và ngoại thấp,
kỹ thuật chăn nuôi chưa tốt.
Hiện nay, trọng lượng xuất chuồng trung bình của lợn ở Việt Nam chỉ đạt 70 -
80kg hơi (trong thời gian nuôi 8 tháng), nhưng của thế giới đã lên đến 100 - 120kg (trong
thời gian nuôi 6,5 tháng). Trong 10 năm qua sản lượng thịt chăn nuôi ở Việt Nam tăng
khá nhanh nhưng chủ yếu là do tăng quy mô đàn chứ không phải do tăng năng suất.[8]
2.3.5. Giá thịt cao và không ổn định
Giá thịt tại nước ta còn khá cao, không thể cạnh tranh được với các thị trường trên
thế giới. Giá thịt nạc Việt Nam cao gấp 1,3 - 1,6 lần giá tại thị trường Chicago. Tiềm
năng suất khẩu thịt của Việt Nam yếu kém cả về giá và chất lượng.
Bên cạnh đó giá thịt Việt Nam biến động rất mạnh điều này ảnh hưởng tới tình
hình cung trên thị trường và thu nhập của người chăn nuôi. Nhiều thời điểm giá thịt lợn
xuống thấp hơn mức giá thành sản xuất, chỉ khoảng 6000 - 7000đ/kg. Người chăn nuôi bị
lỗ.[8]
2.3.6. Giá thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam còn cao
Thức ăn gia súc chiếm tỷ trọng cao nhất trong tất cả các loại chi phí trong sản xuất
chăn nuôi. Ở nước ta, tỷ trọng này chiếm khoảng 70 - 77% tổng chi phí chăn nuôi, trong
khi đó chi phí giống chiếm từ 18 - 25% và chi phí lao động chỉ chiếm khoảng 2 - 5%.
Chính vì thế việc tăng giảm giá thức ăn ảnh hưởng lớn tới chi phí sản xuất chăn nuôi.[8]
10
Giá thức ăn gia súc ở Việt Nam là cao so với giá của các loại tương ứng ở các
nước châu Á khác. Giá thức ăn cao một phần là do giá của các loại nguyên liệu thô chủ
yếu trong sản xuất thức ăn cao. Nguyên nhân nữa làm cho giá thức ăn cao ở Việt Nam là
do thuế nhập khẩu áp dụng cho các loại nguyên liệu thô. Thêm vào đó tổng sản lượng sản
xuất trong nước của các nguyên liệu thô giàu dinh dưỡng phục vụ cho chăn nuôi thức ăn
dường nhu không đáp ứng đủ nhu cầu của ngành công nghiệp thức ăn mặc dù hiện tại sản
lượng trong nước đang tăng lên.
2.3.7. Dịch vụ thú y còn yếu

Nước ta có một mạng lưới thú y từ trung ương đến địa phương. Mặc dù mạng lưới
thú y được quan tâm phát triển nhưng số lượng nhân viên thú y vẫn còn rất thiếu, đặc biệt
ở các cấp huyện và xã. Tại các xã cũng có các nhân viên thú y, tuy nhiên trình độ còn rất
hạn chế chưa đáp ứng đủ nhu cầu kiểm tra, chữa bệnh, thời gian qua dịch bệnh lan rộng
ảnh hưởng mạnh tới hiệu quả chăn nuôi. Hơn thế nữa loại hình chăn nuôi quy mô nhỏ
vẫn tồn tại ở Việt Nam, hiện chiếm đến 90% số gia súc, gia cầm trên cả nước, tính
chuyên môn hóa chưa cao hầu hết các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ nên việc phòng dịch sẽ
rất khó khăn. Hiện nay, trên thị trường thuốc thú y rất đa dạng, được cung cấp bởi nhiều
nhà sản xuất khác nhau. Việc quản lí và kiểm soát thuốc thú y hiện nay rất khó. Chính vì
vậy trên thị trường hiện nay vẫn xuất hiện nhiều loại thuốc giả, thuốc kém chất lượng,
thuốc nhập lậu.[19]
2.4. Đặc tính kinh tế kỹ thuật của chăn nuôi lợn thịt
Thịt lợn là sản phẩm chính của chăn nuôi lợn, vì vậy chăn nuôi lợn thịt cũng là
phần quan trọng nhất của ngành chăn nuôi lợn. Nhu cầu về lợn thịt nạc ngày càng tăng và
chênh lệch giữa giá thịt nạc và thịt mỡ đang lớn dần.Trình độ khoa học kỹ thuật cũng như
khả năng đầu tư vào ngành chăn nuôi lợn ngày càng tăng cao. Vì vậy, để chăn nuôi lợn
thịt đạt hiệu quả kinh tế cao, cần phải chọn giống lợn để nuôi thịt: Giống ngoại thuần,
ngoại lai, lai kinh tế có tỷ lệ máu ngoại cao (F2), lợn lai F1. Tuy nhiên chọn lợn nào để
nuôi phụ thuộc vào điều kiện chăn nuôi của hộ gia đình hay cơ sở chăn nuôi, phụ thuộc
vào thị trường. Để phục vụ xuất khẩu phải nuôi lợn ngoại thuần, lợn ngoại lai và lợn có tỷ
lệ máu ngoại cao, thị trường nội địa có thể nuôi lợn lai kinh tế.
11
Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của chăn nuôi lợn
- Lợn là động vật phàm ăn, có khả năng chịu đựng kham khổ cao. Lợn có bộ máy
tiêu hóa tốt, có khả năng tiêu hóa thức ăn cao, do đó lợn có thể sử dụng nhiều loại thức ăn
khác nhau (tinh bột, thô, xanh, rau bèo, củ quả…). Nguồn thức ăn chăn nuôi lợn rất
phong phú, có thể tận dụng các phụ phế phẩm của ngành trồng trọt, của công nghiệp chế
biến thực phẩm. Khả năng tiêu hóa thức ăn của lợn cao nên tiêu tốn ít thức ăn cho 1kg
tăng trọng. Do vậy, lợn rất phù hợp cho chăn nuôi trong các hộ gia đình.
- Lợn cái khả năng sinh sản cao, tái sản xuất đàn nhanh nên lợn hơn hẳn các gia

súc khác về mặt sản xuất. Lợn là loại động vật đa thai bình quân lợn đẻ một năm từ 1,6 -
2,6 lứa, một lứa từ 8 - 12 con.
- Lợn lại dễ bị dịch bệnh, độ rủi ro cao do khí hậu, thời tiết bất thường, thiên tai,
bão lụt, hạn hán ảnh hưởng đến khả năng sản xuất của lợn. Mặt khác, giá cả đầu vào, đầu
ra luôn biến động do cạnh tranh và cung cầu thị trường.
- Sản xuất hàng hóa lượng thức ăn công nghiệp giá cả cao đòi hỏi nguồn vốn lớn,
đặc biệt là vốn cố định để xây dựng chuồng trại chăn nuôi. Vốn ở đầu mỗi chu kỳ sản
xuất là rất cần thiết. Khi sản xuất thâm canh chu kỳ sản xuất ngắn nên thu hồi vốn nhanh,
hiệu quả vốn cao hơn so với các gia súc khác.
- Nhiều loại giống cần nhập ngoại giá thành cao, thiếu chủ động trong việc đáp
ứng nhu cầu sản xuất.
Nhìn chung với lợn thịt chuồng trại cần thoáng mát có mật độ nuôi thích hợp, lợn
phải được tiêm phòng đầy đủ trước khi đưa vào nuôi thịt, nếu không phải tiêm bổ sung để
bảo vệ đàn lợn an toàn dịch bệnh. Lợn thịt có sự thay đổi khá nhanh về trọng lượng cho
nên cần nhu cầu dinh dưỡng - thức ăn phù hợp, cân đối từng giai đoạn. Cũng như các sản
phẩm nông nghiệp khác, lợn thịt còn khó khăn trong vấn đề tìm đầu ra cho tiêu thụ sản
phẩm. Muốn phát triển ngành nghề nuôi lợn cần phát triển đồng bộ hệ thống thu mua,
bảo quản, chế biến xuất khẩu…
12
2.5. Các vấn đề cần chú ý và tình hình nghiên cứu nâng cao hiệu quả chăn nuôi lợn
thịt ở nước ta
2.5.1. Một số chính sách và hỗ trợ của Chính phủ về chăn nuôi lợn thịt nước ta trong
thời gian qua
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ta đã có sẵn cơ sở vật chất
kỹ thuật ở cả hai miền Nam - Bắc cho nghiên cứu và phát triển chăn nuôi, có đội ngũ cán
bộ khoa học và kỹ thuật được xây dựng, rèn luyện qua hai cuộc kháng chiến ở miền Nam,
đủ sức triển khai các hoạt động khoa học - công nghệ trong thời kỳ mới.
Nghị quyết 257-CP ngày 10/7/1979 về phát triển chăn nuôi lợn, sau đó là việc
khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động theo chỉ thị 100 (13/10/1981) tạo điều kiện
cho chăn nuôi gia đình phát triển. Nghị quyết 10 của Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt

Nam ngày 5/4/1988 thúc đẩy chế độ “khoán” kết hợp với chính sách khuyến khích nông
dân làm giàu chính đáng bằng phát triển kinh tế gia đình để thúc đẩy chăn nuôi phát triển.
Do đó, đàn lợn thịt tăng không đáng kể trong thời kì 1976 - 1980 do những khó khăn về
cơ chế hành chính bao cấp, chuyển sang cơ chế kinh tế nhiều thành phần đã tăng với tốc
độ cao trong kế hoạch 1981 - 1985. Đàn lợn tăng 2,5% vào cuối những năm 80, có năm
xuất khẩu khoảng 8.000 - 10.000 tấn thịt lợn thành phẩm. Trong thời kì này, một số giống
ngoại vẫn tiếp tục được nhập như Đại Bạch Liên Xô, Yocsia Cuba, Yocsia Bỉ, Yocsia
Nhật…[14]
Cùng với sự chăn nuôi, công tác khoa học – công nghệ chăn nuôi cũng được đổi
mới. Bắt đầu từ năm 1981, công tác này được triển khai theo chương trình khoa học và
công nghệ có mục tiêu cấp Nhà nước: Chương trình 02.03 về phát triển chăn nuôi lợn,
chương trình 02.09 về phát triển nguồn và chất lượng thức ăn chăn nuôi giai đoạn 1981 -
1985; chương trình 02B về nghiên cứu ứng dụng và biện pháp tổng hợp phát triển và
nâng cao năng suất chăn nuôi giai đoạn 1986 - 1990; chương trình KN-02 về phát triển
chăn nuôi giai đoạn 1991 - 1995; chương trình KHCN 08.06 về nghiên cứu phát triển
chăn nuôi lợn có tỷ lệ nạc trên 52%.[14]
Hoạt động khoa học công nghệ theo chương trình đã huy động và tập hợp được
đông đảo cán bộ khoa học và kỹ thuật ở các cơ quan nghiên cứu khoa học để có những
kết luận khoa học mới, đón trước những yêu cầu của sản xuất, mặt khác triển khai những
13
kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất, nhằm tăng khối lượng và chất lượng sản phẩm chăn nuôi
đáp ứng nhu cầu thịt, trứng, sữa ngày một tăng của đời sống xã hội.
Từ những kết quả nghiên cứu và triển khai kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất, ta đã
tổng kết 10 năm (1981) công nhận giống lợn trắng DBI ở miền Bắc (1981), giống lợn
trắng Phú Khánh ở Duyên Hải Miền Trung (1988), giống lợn trắng Thuộc Nhiêu miền
Nam (1990), công nhận lợn Yocsia Việt Nam (1990) cùng với giải pháp dùng lợn Móng
Cái thay lợn cỏ từ Nghệ An đến Quảng Nam – Đà Nẵng đã hình thành hệ thống lợn phù
hợp với điều kiện sinh thái sản xuất của mỗi vùng từ đồng bằng Sông Hồng, dọc tuyến
quốc lộ 1 đến đồng bằng sông Cửu Long. Lợn lai kinh tế được nuôi rộng rãi trong cả
nước. Tỷ lệ lợn lai trong tổng đàn lợn từ 20% năm 1981 lên 40% năm 1985, rồi 54,1%

năm 1990 và 78,5% năm 1998 đưa khối lượng lợn xuất chuồng từ 47kg lên 62kg, rồi
67kg và 70kg; công nhận một loạt văcxin đưa vào sản xuất phòng chống dịch tả lợn, …
[14]
Những năm đầu của thập niên 90, điểm nổi bật của khoa học và phát triển chăn
nuôi là khẳng định một số giống gia súc ngoại đã được thích nghi: Lợn Yocsia, lợn
Landrat, đặc biệt đã xác định một số công thức lai kinh tế lợn nội với lợn ngoại có 3
giống tham gia phù hợp với miền Bắc, miền Trung và lai kinh tế lợn ngoại có 3 - 4 giống
tham gia phù hợp cho các tỉnh miền Nam, đưa tỷ lệ thịt nạc/thân thịt xẻ đạt tương ứng 47
- 49% và 56 - 58%, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ thịt lợn siêu nạc và xuất khẩu.
Từ những nghiên cứu trên, ta thấy rằng để chăn nuôi lợn có hiệu quả điều nhất
thiết cần phải có đó là con giống tốt cho năng suất và sản lượng cao, thứ hai là phải có
nguồn thức ăn đảm bảo dinh dưỡng và đúng khẩu phần, người chăn nuôi phải có kỹ thuật
chăn nuôi phù hợp. Tuy nhiên với những nghiên cứu này ta cũng thấy nhà nước thiếu hẳn
một phần rất đáng quan tâm và không thể thiếu nếu muốn chăn nuôi có hiệu quả đó là
nghiên cứu thị trường và nhu cầu người chăn nuôi cũng như những khó khăn và lợi thế
của nông hộ trong quá trình chăn nuôi.
2.5.2. Khả năng phát triển chăn nuôi lợn thịt ở nước ta trước vận hội mới
Việt Nam hiện có 3,8 triệu con heo nái, mỗi năm sản xuất 26 triệu con lợn thịt,
tương đương 2,2 triệu tấn thịt. Trong đó 50% số lợn được sản xuất từ quy mô hộ gia đình,
40% từ quy mô trung bình (thâm canh hoặc bán thâm canh) và 10% từ quy mô công
14
nghiệp [20]. Hệ thống chăn nuôi lợn nước ta tồn tại 3 phương thức, bao gồm nuôi lợn nái
sinh sản để bán lợn con cai sữa; nuôi lợn thịt không tự túc con giống và nuôi lợn thịt tự
túc con giống. Phương thức chăn nuôi thứ nhất và thứ ba thường chuyển dịch lẫn nhau.
Vì vậy trong trường hợp không bán được lợn con cai sữa, người chăn nuôi phải tiếp tục
nuôi cho đến ngày xuất chuồng. Phương thức chăn nuôi thứ hai có ưu thế là có thể dự báo
thị trường và chủ động về thời gian đầu vào, có thể bỏ trống chuồng khi không thuận lợi,
tuy nhiên khó khăn là không chủ động nguồn con giống.
Quá trình chuyển dịch quy mô đàn trong chăn nuôi lợn ở nước ta xảy ra tương tự
như các nước phát triển. Biến đổi nhanh và mạnh mẽ nhất vẫn là khu vực các trang trại

chăn nuôi quy mô trung bình. Dưới tác động của giá cả, dịch bệnh sức ép người tiêu dùng
đòi hỏi loại hình này cần phải thay đổi quy mô, tăng đầu tư khoa học kỹ thuật để có thể
tồn tại. Hoặc có thể thay đổi phương thức sản xuất bằng cách chuyển từ chăn nuôi lợn thịt
tự túc con giống sang chăn nuôi lợn thịt không tự túc con giống quy mô lớn dưới hình
thức gia công trong một chuỗi sản xuất. Hoặc chuyển hướng sang sử dụng nguồn giống
lợn địa phương để sản xuất các sản phẩm thịt chất lượng cao bằng phương pháp thâm
canh có kiểm soát chặt chẽ. Do vậy đòi hỏi mạnh mẽ từ phía người chăn nuôi ở đây là
xác định tính đặc thù về mặt chất lượng thịt của các giống heo địa phương.
Chăn nuôi quy mô hộ gia đình vẫn còn tồn tại và ít chịu tác động rủi ro của đầu
vào, nhưng khả năng tham gia thị trường của sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực này sẽ
giảm mạnh do lợi nhuận của thương lái (chi phí thu gom, vận chuyển, kiểm dịch và chất
lượng). Thị trường tiêu thụ sản phẩm từ hộ chăn nuôi nhỏ chủ yếu là tại chỗ. Mỗi khi
kinh tế nông hộ chưa phát triển, thì chăn nuôi nhỏ vẫn là nguồn cung cấp thực phẩm
chính cho người dân. Gia nhập WTO sẽ tạo cơ hội lớn về việc làm, thu hút một lượng lao
động lớn khỏi khu vực nông thôn sẽ làm giảm đáng kể lượng thực phẩm tiêu thụ tại các
chợ nông thôn, đồng thời cũng giảm số hộ chăn nuôi theo phương thức tận dụng do giảm
cơ học về dân số.
Chăn nuôi công nghiệp bằng các giống cao sản nhập ngoại là nguồn cung cấp thực
phẩm quan trọng cho các thành phố lớn hiện nay và người tiêu dùng cả nước cũng như
xuất khẩu trong tương lai. Khả năng phát triển và chuyển dịch lợn theo hướng chăn nuôi
lợn công nghiệp ở nước ta trước mắt phụ thuộc rất lớn vào thị trường của các thành phố
lớn và có thể đây là thị trường cạnh tranh khốc liệt sau khi gia nhập WTO. Trong đó
15
chúng ta đang gặp phải hai yếu tố bất lợi chính là giá cả và vệ sinh an toàn thực phẩm,
đặc biệt là dịch lở mồm long móng và hoóc môn kích thích sinh trưởng trong chăn nuôi.
Để giữ vững thị trường, tạo đà cho quá trình chuyển dịch sang nền chăn nuôi công nghiệp
bền vững cần phải có nỗ lực mạnh mẽ của tất cả các nhà chăn nuôi lợn và cơ quan quản
lý nhà nước.
Những năm gần đây, ngành chăn nuôi nước ta có tốc độ tăng trưởng tương đối
cao, bình quân đạt 7 - 8% mỗi năm. Bên cạnh phương thức chăn nuôi truyền thống, thì

chăn nuôi trang trại đã hình thành và có xu hướng ngày càng phát triển. Tuy nhiên, ở lĩnh
vực này, đặt ra nhiều vấn đề, cần có những giải pháp đồng bộ để có thể phát triển bền
vững. Có thể khẳng định, việc phát triển bền vững mô hình chăn nuôi trang trại, tập trung
là xu thế tất yếu của ngành chăn nuôi khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, cũng là
yêu cầu cấp bách khi dịch lở mồm, long móng ở gia súc vẫn tiếp tục phức tạp. Việc tổ
chức chăn nuôi theo quy mô trang trại tập trung sẽ tạo điều kiện tăng năng suất, cải tiến
chất lượng, đảm bảo an toàn thực phẩm, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao khả năng
phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ môi trường sinh thái. Vì thế hơn lúc nào hết, các chủ
trang trại mong muốn nhà nước “tiếp sức” cho khu vực kinh tế này. Những chính sách
thông thoáng, phù hợp về đất đai, vốn, đầu tư, thị trường… cho chăn nuôi trang trại sẽ là
những giải pháp thiết thực, là nguồn lực để ngành chăn nuôi nước ta vượt qua thách thức,
phát triển bền vững trong thời gian tới.
2.6. Tình hình phát triển chăn nuôi lợn thịt ở tỉnh Thừa Thiên Huế và huyện Quảng
điền trong những năm gần đây
2.6.1. Tình hình phát triển chăn nuôi của tỉnh Thừa Thiên Huế
2.6.1.1 Diễn biến đàn lợn trong những năm gần đây của tỉnh
Cũng như các địa phương khác trong cả nước nuôi lợn ở Thừa Thiên Huế đã có từ
lâu đời. Tuy nhiên hình thức chăn nuôi ở đây chủ yếu là quảng canh, quy mô hộ gia đình
nhỏ, lẻ, phân tán. Với hình thức chăn nuôi như vậy, thịt lợn chỉ chỉ đáp ứng nhu cầu nội
tỉnh chưa đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Tuy nhiên trong thời gian gần đây với các chương
trình dự án phát triển chăn nuôi: Cải tạo đàn lợn, chương trình nuôi lợn siêu nạc, phát
triển trang trại, gia trại chăn nuôi đã có ảnh hưởng tích cực. Ngoài ra còn có các chính
sách hỗ trợ khác: Thú y, cho vay tín dụng,…Công tác khuyến nông cũng được tăng
16
cường và mở rộng, kết hợp với các lớp tập huấn, xây dựng mô hình trình diễn, tổ chức
các chuyến tham quan học hỏi kinh nghiệm…góp phần không nhỏ vào thúc đẩy chăn
nuôi lợn phát triển cả số lượng và chất lượng.
Bảng 1: Mức độ biến động đàn lợn trên toàn tỉnh Thừa Thiên Huế theo các
năm
Năm Tổng đàn

(con)
Mức độ
biến động
(Con)
Tốc độ
tăng
(%)
Sản lượng
thịt lợn hơi
(tấn)
Mức độ
biến động
(tấn)
Tốc độ tăng
(%)
2000 203.237 - 0,00 14.477 - 0,00
2001 244.408 41.171 20,26 18.808 4.331 22,92
2002 245.121 713 2,92 19.058 250 1,33
2003 252.292 7.171 2,86 19.377 219 1,67
2004 259.570 7.278 2,88 20.229 852 4,40
2005 264.787 5.217 2,01 20.967 738 3,65
[Nguồn: 10]
Theo bảng thống kê 1 ta thấy số lượng đàn lợn trong tỉnh qua các năm có tăng
song tăng không mạnh. Giai đoạn năm 2000 - 2001 tốc độc tăng trưởng đàn lợn rất
nhanh, vào năm này được các chính sách hỗ trợ xóa đói giảm nghèo của tỉnh cũng như
của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ chú trọng hơn vào công tác phát triển chăn
nuôi, đặc biệt là chăn nuôi gia súc nhỏ. Tuy nhiên, hệ thống thú y và quan trọng là thú y
địa phương chưa phát triển nên vào giai đoạn năm 2001 - 2002 tốc độ tăng đàn chậm
thậm chí có huyện còn giảm xuống, nguyên nhân do ảnh hưởng của sự bùng phát dịch
bệnh chăn nuôi nói chung đặc biệt là dịch long móng lở mồm ở gia súc. Đợt dịch này đã

ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền chăn nuôi nước ta nói chung và người chăn nuôi nói
riêng. Vào những năm gần đây công tác kiểm dịch cũng như phòng và chữa bệnh đã được
chú trọng nên chăn nuôi lợn của tỉnh phát triển khá ổn định (tốc độ tăng trưởng bình quân
mỗi năm từ 2,01% - 2,92%).
Về sản lượng chăn nuôi, tốc độ tăng cũng khá cao đặc biệt vào giai đoạn hiện nay
(từ năm 2004 trở đi) tốc độ tăng sản lượng thịt bình quân hàng năm (3,56% - 4,40%)
nhanh hơn tốc độ tăng số lượng đàn (từ 2,01% - 2,88%). Điều này chứng tỏ công tác
17
giống đã được chú trọng nhiều hơn. Các giống lợn địa phương năng xuất thấp đã dần bị
thay thế bởi các giống lai, ngoại nhanh lớn có năng suất cao. Đây chính là sự phát triển
chăn nuôi theo chiều sâu, theo hướng sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của thị trường.
Nhìn chung, ngành chăn nuôi đặc biệt là chăn nuôi lợn của tỉnh Thừa Thiên Huế
trong những năm qua đã có những bước phát triển ổn định, sự phát triển này không
những về số lượng mà còn cả chất lượng, không những theo chiều rộng mà còn cả chiều
sâu. Ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường trong tỉnh mà còn có thể xuất khẩu ra
các thị trường khác. Đồng thời còn thể hiện chính sách phát triển chăn nuôi theo hướng
đầu tư cao: Thâm canh, bán thâm canh, trang trại, gia trại của tỉnh đã có những thành
công rõ rệt.
2.6.1.2. Một số chương trình khuyến nông về phát triển chăn nuôi lợn thịt được thực hiện
trong năm 2006
1) Mô hình nuôi lợn thịt giống ngoại
Mô hình này được triển khai với quy mô bước đầu là 135 con (giống nhập từ công
ty giống thức ăn chăn nuôi Thừa Thiên Huế). Trong năm qua (7 – 12/2006) mô hình đã tổ
chức thực hiện ở Hương An (30 con), Hương Vinh (15 con), Thành phố Huế (20 con),
Thủy Châu (15 con), Dương Thủy (15 con), thị trấn Sịa (40 con). Với 8 hộ tham gia chăn
nuôi. Toàn tỉnh đã tổ chức 4 lớp tập huấn mỗi lớp 30 người. Kinh phí cho xây dựng mô
hình là 50.043.500đ. Trong đó hỗ trợ vật tư (giống, thú y): 36.787.500đ, kinh phí triển
khai: 13.256.000đ.[12]
Kết quả đạt được từ mô hình: Trong thời gian nuôi 99 ngày, trọng lượng đưa vào

nuôi bình quân 24,61kg/con. Trọng lượng xuất chuồng bình quân 85,97kg/con. Tăng
trọng bình quân 18,63kg/con/tháng. Mức thức ăn tiêu tốn để tăng trọng 1kg là 2,87kg.
Lãi bình quân mỗi con là 228.000đ, hộ lãi cao nhất: 300.000đ/con, lãi thấp nhất:
174.000đ/con.[11]
2) Mô hình nuôi lợn thịt F1
Mô hình này do hội nông dân thực hiện. Với quy mô ban đầu 28 con. Được triển
khai trọng điểm ở Phú Dương (5 con), Thủy An (10 con), Quảng Vinh (10 con), Thủy
18
Châu (3 con). Thời gian thực hiện từ tháng 6 – 10/20006, với 6 hộ tham gia. Tổng kinh
phí: 10.000.000đ. Trong đó hỗ trợ giống 10.000.000đ.[11]
Kết quả đạt được từ mô hình: Trong thời gian nuôi bình quân 119 ngày, trọng
lượng đưa vào nuôi bình quân 14,89kg/con. Trọng lượng xuất chuồng bình quân
70,36kg/con. Tăng trọng bình quân 13,96kg/con/tháng. Mức tiêu tốn thức ăn để tăng
trọng 1kg trọng lượng là 3,15kg. Lãi bình quân mỗi con là 73.000đ.[11]
Qua 2 mô hình chăn nuôi lợn thịt được triển khai trong năm 2006 ta thấy công tác
giống là công tác được chú trọng nhiều nhất. Thực tế cho thấy muốn phát triển chăn nuôi
lợn thịt đạt hiệu quả thì phải bắt đầu từ cải tạo giống. Các giống lợn địa phương thường
tầm vóc rất nhỏ, khả năng tăng trọng thấp nếu sử dụng các giống này sẽ không mang lại
hiệu quả cho người chăn nuôi. Với các mô hình đang thực hiện mức lãi xuất thu được
bình quân từ 73.000 – 200.000đ/con quả là mức lãi xuất khá lý tưởng đối với nông hộ
chăn nuôi. Mức lãi xuất này sẽ góp phần không nhỏ vào việc khích lệ nông hộ mạnh dạn
mở rộng đầu tư chăn nuôi cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
2.6.2. Tình hình phát triển chăn nuôi lợn thịt của huyện Quảng Điền
2.6.2.1. Diễn biến phát triển chăn nuôi lợn thịt của huyện trong những năm gần đây
Bảng 2: Tình hình phát triển chăn nuôi của huyện Quảng Điền
Năm
Đàn lợn Đàn bò
Số lượng
con
Mức độ

tăng
(%)
Số lượng
thịt hơi
(tấn)
Mức độ
tăng
(%)
Số lượng
con
Mức độ
tăng
(%)
2001 36.426 0,00 2801 0,00 895 0,00
2002 34.486 -5,33 2659 -5,07 945 5,59
2003 35.605 3,24 2493 -6,24 1.176 24,44
2004 33.148 -6,90 2617 4,97 1.344 14,29
2005 34.971 5,50 2717 3,82 1.638 21,88
[Nguồn:8]
19
Quảng Điền có thể nói là một huyện chăn nuôi lợn có tổng đàn lợn vào loại khá
của toàn tỉnh chiếm 13,33% số lượng toàn tỉnh (2005). Đàn lợn của huyện có mức biến
động thất thường, sự biến động lên xuống đó phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết
và tình hình dịch bệnh. Trong những năm qua, tình hình biến động của thời tiết cũng như
dịch bệnh khá phức tạp hơn nữa hệ thống phòng và trị bệnh thú y của huyện còn rất hạn
chế, trong khi đó chăn nuôi nông hộ lại chủ yếu là chăn nuôi nhỏ, lẻ rất khó khăn trong
việc kiểm tra, kiểm soát nguồn bệnh. Đó chính là nguyên nhân tại sao đàn lợn của huyện
từ năm 2001 - 2005 đã giảm 3,99%.
Tuy nhiên trong 2 năm gần đây 2004 - 2005 chăn nuôi lợn của địa phương đã có
khởi sắc đáng kể: Mức độ tăng số lượng đàn lên đến 5,5%, hơn thế nữa sản lượng thịt hơi

cũng tăng lên đáng kể. Điều này thể hiện huyện cũng đã biết rõ tầm quan trọng của chăn
nuôi lợn đồng thời cũng đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm trong công tác phòng và chữa
bệnh qua các đợt dịch, huyện cũng đã chú trọng hơn trong việc bồi dưỡng nâng cao tay
nghề của đội ngũ cán bộ làm công tác thú y. Hơn thế ngay chính nông hộ chăn nuôi cũng
đã nhận thức được muốn chăn nuôi hiệu quả cần có chuồng trại kiên cố, tiêm phòng, thú
y đầy đủ và kịp thời. Chính vì vậy đã hạn chế rất nhiều sự ảnh hưởng của thời tiết cũng
như của dịch bệnh góp phần nâng cao hiệu quả chăn nuôi.
Nhìn chung, chăn nuôi lợn là một ngành có tiềm năng phát triển ở huyện. Chính vì
vậy công tác lai tạo nhằm nâng cao chất lượng đàn lợn đang được chú trọng phát triển.
Hầu như tất cả nông hộ chăn nuôi đều nuôi lợn thịt giống lai cho năng suất thịt cao hơn
nhiều so với lợn địa phương. Chính sách phát triển trang trại, gia trại chăn nuôi đang có
chiều hướng phát triển tốt trong nông hộ chăn nuôi. Quy mô chăn nuôi lớn ngày càng
xuất hiện nhiều ở địa phương.
So với chăn nuôi lợn, chăn nuôi bò có chiều hướng phát triển ổn định ở địa
phương trong những năm qua. Tuy nhiên chăn nuôi bò đòi hỏi phải có diện tích bãi chăn
thả tự nhiên lớn. Hơn thế nữa nguồn vốn đầu tư ban đầu lại khá cao và thường là vượt
khả năng của các hộ khó khăn. Chính vì vậy chăn nuôi bò khó có khả năng phát triển trên
diện rộng và đặc biệt khó trở thành phương kế xóa đói giảm nghèo ở địa phương. Chăn
nuôi lợn thịt vẫn được coi là xu thế phát triển phù hợp nhất cho địa phương.
20
2.6.2.2. Các chủ trương chính sách của huyện trong phát triển chăn nuôi lợn thịt
- Chương trình khí sinh học Bioga: Tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung và huyện
Quảng Điền nói riêng là một trong 12 tỉnh thành được thực hiện dự án khí sinh học do
chính phủ Hà Lan tài trợ, trong năm 2006 đã xây dựng được 31 công trình. Nâng tổng số
công trình xây dựng trên địa bàn toàn huyện lên đến 230 công trình. Chương trình này
được người dân đồng tình hưởng ứng và được đánh giá là có hiệu quả thiết thực.[12]
Việc xây dựng công trình đã góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường do phân gia
súc gây ra, mỗi tháng tiết kiệm được 150.000 - 200.000đ/hộ tiền mua chất đốt. Nhiều hộ
còn đưa khí sinh học vào để thắp sáng. Ngoài ra khi xây dựng khí sinh học, các hộ chăn
nuôi đã có thêm một nhà vệ sinh tự hoại mà từ lâu họ không thực hiện được do khó khăn

về kinh tế.
Nhiều hộ đã phát triển thêm chăn nuôi sau khi xây dựng công trình khí sinh học.
Trong thời gian tới tiếp tục thực hiện kế hoạch phân bổ số lượng công trình của huyện.
- Chương trình nạc hóa đàn lợn: Đã triển khai chương trình nạc hóa đàn lợn cho
15 hộ nuôi lợn nái ngoại với số lượng 75 con, mỗi hộ nuôi 5 con. Hiện nay chương trình
này chưa triển khai được do khó khăn về giống. Từ chương trình hỗ trợ của cục Khuyến
nông quốc gia đang triển khai cho 2 hộ nuôi 40 con lợn siêu nạc ở thị trấn Sịa. Hiện nay
lợn đang phát triển khá tốt.[12]
Mô hình nuôi lợn nái ngoại 15 con cho 2 hộ ở vùng trang trại rú cát. Hiện nay mô
hình đang hợp đồng giống và chuẩn bị cấp cho các hộ. Nhìn chung chương trình nạc hóa
đàn lợn đang ở mức độ xây dựng mô hình nuôi lợn nái ngoại và lợn thịt giống ngoại.
Đến nay chưa có kết quả tốt nhưng bước đầu cho thấy nuôi với quy mô vừa 5 lợn nái, 20
lợn thịt là có kết quả.
- Chương trình nuôi lợn thâm canh: Từ dự án đa dạng hóa nông nghiệp với 6 hộ
tham gia nuôi 12 con lợn F1 theo hình thức nuôi công nghiệp. Sau 4 tháng nuôi lợn tăng
trọng từ 70 - 80kg/con. Hiệu quả kinh tế mang lại theo các hộ tham gia mô hình đánh giá
là khá cao so với hình thức nuôi trước đây.[12]
Nhìn chung huyện Quảng Điền trong những năm gần đây đã khá chú trọng đến
công tác phát triển chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi lợn. Với những chương trình, dự án
phát triển đúng đắn chắc chắn trong tương lai huyện sẽ có một ngành chăn nuôi phát triển.
21
Phần 3
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Nội dung nghiên cứu
1) Thực trạng chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ của xã Quảng Lợi, huyện Quảng
Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế (cơ cấu đàn, quy mô chăn nuôi, nguồn thức ăn, tình hình thú
y, tiêu thụ sản phẩm…)
2) Hiệu quả kinh tế chăn nuôi lợn thịt của nông hộ điều tra chia theo nhóm hộ và
theo quy mô chăn nuôi (chi phí sản xuất, khả năng tăng trọng, hiệu quả chăn nuôi…)
3) Đánh giá mối quan hệ giữa sản lượng chăn nuôi với các yếu tố đầu vào cho

chăn nuôi (giống, thức ăn, thú y…).
4) Đề xuất những giải pháp phù hợp để phát triển chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu
- Tại xã Quảng Lợi, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế đây là một xã có
ngành chăn nuôi khá phát triển, có tỷ lệ hộ tham gia chăn nuôi lợn là khá lớn, đồng thời
có nhiều hộ đã đầu tư chăn nuôi lợn thịt với quy mô tương đối.
3.2.2. Thu thập số liệu thứ cấp
- Báo cáo về tình hình phát triển chăn nuôi hàng năm của cả nước, tỉnh Thừa
Thiên Huế, huyện Quảng Điền, xã Quảng Lợi.
- Các tài liệu thống kê, niên giám thống kê từ các cơ quan liên quan.
- Các báo cáo khoa học.
3.2.3. Số liệu sơ cấp
Phương pháp PRA (Participatory Rural Appraisal) là một quá trình học hỏi lẫn
nhau một cách linh hoạt giữa người dân địa phương và những người từ nơi khác đến (cán
bộ khuyến nông, người làm công tác phát triển, người nghiên cứu…). Đây là phương
pháp tạo điều kiện cho người dân có điều kiện trao đổi, phân tích các hiểu biết về cuộc
sống và điều kiện của họ để lập kế hoạch hành động.[1]
22
Các công cụ của PRA được sử dụng trong quá trình nghiên cứu:
- Quan sát cá thể và tổng thể: Nhằm giúp thu thập số liệu một cách chính xác hơn
trong nghiên cứu định lượng nhất là đối với nghiên cứu điều tra về hiệu quả kinh tế của
chăn nuôi lợn thịt tại nông hộ. Đồng thời giúp người nghiên cứu có cái nhìn tổng quát về
tình hình chăn nuôi lợn thịt hiện nay cũng như những ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế,
xã hội, chính sách khác…
- Phỏng vấn sâu: Cán bộ khuyến nông, thú y xã về tình hình phát triển cũng như
các rủi ro mà hộ chăn nuôi gặp phải trong quá trình chăn nuôi.
- Phỏng vấn cấu trúc bằng bảng hỏi: Chúng tôi đã tiến hành chọn 40 hộ điều tra
bằng bảng câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn cho mục đích nghiên cứu
+ Chọn mẫu: Chọn ngẫu nhiên có định hướng

* Những nông hộ có tham gia chăn nuôi lợn trong đó có: 15 hộ khá, 15 hộ
trung bình, 10 hộ nghèo các hộ này phải là những hộ có chăn nuôi lợn thịt. Từ mẫu chọn
hộ phân tầng này chúng tôi đã có được quy mô nông hộ điều tra được phân ra theo các
mức so sánh sau: Quy mô từ 1 – 5 con/lứa, từ 6 – 10 con/lứa, lớn hơn 10 con/lứa.
Các hộ phải có chăn nuôi lợn thịt.
Tiêu chuẩn chọn hộ đối với những hộ có quy mô chăn nuôi từ 7 con/lứa trở lên:
+ Đối tượng nuôi phải là lợn thịt
+ Có bổ sung thức ăn tăng trọng (thức ăn công nghiệp) cho lợn
+ Cơ sở vật chất đủ tiêu chuẩn
+ Có tiêm phòng Văcxin và tẩy kí sinh trùng cho lợn hàng năm.
3.2.4. Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu
1) Cách thức tính toán các chỉ tiêu
- Giá trị sản xuất (GO)/hộ/lứa và /con: Giá trị tính bằng tiền của toàn bộ sản phẩm
thu được trong một chu kì sản xuất.
Công thức tính (lý thuyết): GO (1000đ) = Tổng sản lượng X Đơn giá
23
Giá trị sản xuất chỉ được tính những sản phẩm của quá trình lao động. Các sản
phẩm không do quá trình lao động tạo ra thì không được tính vào quá trình sản xuất. Sản
phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ được lao động sáng tạo ra phải là những sản phẩm
hữu ích, được xã hội chấp nhận, được sử dụng vào các nhu cầu tiêu dùng cuối cùng.
Đối với nông hộ chăn nuôi hàng năm hộ có thể bán được một số con nhất định vì
vậy giá trị sản xuất của hộ đối với những con bán:
GO
1
= Trọng lượng những con bán X Giá bán của chúng tại thời điểm bán
Ngoài ra đối với chăn nuôi nông hộ còn thu được một lượng sản phẩm phụ đáng
kể: Phân bón… (GO
2
).
Và giá trị sản xuất của nông hộ cả năm 2006 là:

GO (2006) = GO
1
+ GO
2

- Chi phí sản xuất trung gian (IC)/hộ/năm hay /con: Là toàn bộ chi phí vật chất và
dịch vụ thường xuyên được sử dụng trong quá trình sản xuất ra sản phẩm. Gồm có:
+ Chi phí vật chất: Là chi phí do hộ gia đình bỏ ra trong các hoạt động dịch vụ:
Nhiên liệu, công cụ lao động, vật rẻ tiền mau hỏng được phân bổ trong năm…
+ Chi phí dịch vụ: Là chi phí cần qua các hoạt động dịch vụ: Chi phí thú y, chi phí
dịch vụ trả ngân hàng, tín dụng…
- Giá trị gia tăng (VA): Là phần chênh lệch giữa GO và IC, là phần giá trị tăng
thêm hay phần còn lại của giá trị sản xuất sau khi trừ đi chi phí trung gian:
VA = GO – IC
- Hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư (HQĐT):
Được tính bằng tỷ số giữa giá trị gia tăng VA và chi phí trung gian IC
HQĐT = VA/IC
- Hiệu quả sử dụng lao động: Là chỉ tiêu dùng để phản ánh hiệu quả của việc sử
dụng lao động trong gia đình. Chỉ tiêu này được tính bằng tỷ số giữa hiệu quả chăn nuôi
của hộ và số lao động tham gia chăn nuôi lợn của hộ.
- GO/IC: Một đồng chi phí trung gian tạo ra bao nhiêu đồng giá trị sản xuất
24
Với mỗi chỉ tiêu này chúng tôi tính riêng cho từng nhóm hộ và từng quy mô nông
hộ để dễ dàng so sánh.
2) Phương pháp sử lý số liệu
Sử lý số liệu bằng phần mềm Excel
Phương pháp tính toán thống kê
Hàm sản xuất Cobb – Douglas sử dụng trong đề tài có dạng sau:
Y = A . Xi
αi

e
βjDj
Trong đó:
Y: Giá trị gia tăng VA
A: Hằng số
Xi: Các yếu tố đầu vào: Con giống, thức ăn công nghiệp, thức ăn tinh, thú y…
αi, …: Hệ số ảnh hưởng của các biến độc lập Xi (biến số lượng đến năng suất).
Dj: Biến giả nhận 2 giá trị 0 và 1 (biến chất lượng, biến định tính), của yếu tố
năng lực bản thân nông hộ.
βj: Hệ số ảnh hưởng của các biến giả Dj đến Y
* Khi Dj = 0
Logarit hai vế ta có phương trình:
LnY = LnA + αiLn Xi
* Khi Dj = 1
Logarit hóa vế ta có phương trình:
LnY = LnA + βj + αiLnXi
25

×