Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

đánh giá sự đa dạng hóa sinh kế với xóa đói giảm nghèo ở xã quảng lợi huyện quảng điền tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.35 KB, 54 trang )

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1.Đặt vấn đề:
Nông thôn đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Các loại
hoạt động nông lâm ngư nghiệp đã và đang đóng vai trò quan trọng trong nền kinh
tế quốc gia. Trong những năm qua từ một đất nước trải qua nhiều năm chiến tranh,
nền sản xuất lạc hậu, thu nhập và đời sống của người dân chủ yếu dựa vào hoạt
động sản xuất nông lâm ngư nghiệp. Nông thôn đã chứng tỏ vai trò trong sự phát
triển của đất nước từ chỗ ổn định đời sống của người dân trong nước về lương thực
tiến đến các sản phẩm của nông lâm ngư nghiệp này ngày được xuất khẩu càng
nhiều đóng góp vào kinh tế của đất nước. Với hơn 70% dân số đang sinh sống ở
vùng nông thôn, với nguồn tài nguyên và con người, nông thôn đóng vai trò hết sức
quan trọng trong sự phát triển của đất nước.
Thấy được những lợi ít của chuyên môn hóa trong sản xuất, trong những năm
qua trên đất nước Việt Nam nói chung và vùng nông thôn nói riêng đã chú trọng
phát triển vùng chuyên môn hóa và đã tạo ra nhiều mặt hàng xuất khẩu (cà phê,
điều…). Tuy nhiên, do hạn chế của sự phát triển cơ sở hạ tầng cũng như hạn chế
của công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông thôn, đồng thời gặp nhiều khó
khăn do khí hậu nhiệt đới mang lại nên các nông hộ còn áp dụng phương thức đa
dạng các hoạt động đem lại thu nhập là chủ yếu, trong mấy năm qua nó đã góp phần
thúc đẩy nền kinh tế phát triển và góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo của
đất nước.
Thừa Thiên Huế là một tỉnh nằm giữa miền Trung của đất nước có điều kiện khí
hậu, thủy văn khắc nghiệt, thường khô hạn và bị nhiễm mặn vào màu hè, có lũ tiểu
mãn vào tháng 10-12 âm lịch. Do đó, tỉnh gặp nhiều khó khăn trong sản xuất nông
nghiệp nói riêng, sản xuất phi nông nghiệp và đời sống nói chung. Tuy vậy, qua sự
phấn đấu của nhân dân trong tỉnh, trong mấy năm gần đây về kinh tế xã hội đã có
nhiều khởi sắc, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh.
Có nhiều động lực để phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, ngoài các chính sách
mang tính chiến lược của chính phủ và của tỉnh đúng đắn theo từng giai đoạn phát
triển thì việc phát huy nội lực trong từng nông hộ là rất quan trọng. Để xem xét
trong những năm qua đa dạng các hoạt động tạo thu nhập có phải là động lực phát


triển kinh tế xã hội và góp phần xóa đói giảm nghèo hay không? Chúng tôi đã mạnh
1
dạn chọn đề tài: “Đánh giá sự đa dạng hóa sinh kế với xóa đói giảm nghèo ở xã
Quảng Lợi huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế”.
1.2. Mục tiêu của đề tài:
* Mục tiêu tổng quát: Đánh giá sự đa dạng các hoạt động tạo thu nhập với xóa
đói giảm nghèo của nhân dân xã Quảng Lợi huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên
Huế.
* Mục tiêu cụ thể:
- Tìm hiểu tình trạng nghèo đói và đánh giá sinh kế của hộ nghèo.
- Xác định hình thức và kết quả của đa dạng hóa sinh kế cho xóa đói giảm nghèo.
2
PHẦN 2: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Một số khái niệm làm rõ vấn đề
* Khái niệm về sinh kế:
- Định nghĩa theo từ điển: Sinh kế là một cách để sống, không đồng nghĩa với từ
thu nhập nó chú ý đến cách thức kiếm sống.[4]
- Theo Chamber and Conway (1992): Một sinh kế bao gồm khả năng, tài sản (các
nguồn dự trữ, các nguồn tài nguyên, quyền được bảo vệ và tiếp cận) và các hoạt
động cần có cho một cách thức kiếm sống.[4]
- Theo DFID (1999) : một sinh kế có thể được miêu tả như là sự tập hợp các
nguồn lực và khả năng mà con người có được kết hợp với những quyết định và hoạt
động mà họ thực hiện để kiếm sống và đạt được các mục tiêu và ước nguyện của
họ.[4]
- Theo Ellis (2000): Một sinh kế bao gồm tài sản (tự nhiên, phương tiện vật chất,
con người ,tài chính, vốn xã hội), tất cả cùng nhau xác định sự sống mà cá nhân hay
hộ gia đình nhận được.[4]
* Khái niệm về đa dạng, đa dạng hóa, đa dạng sinh kế:
- Đa dạng: Theo DFID, 2003 đa dạng là sự tồn tại nhiều nguồn thu nhập khác
nhau tại một thời điểm thời gian.[4]

- Đa dạng hóa: Theo DFID, 2003 đa dạng hóa là diễn giải sự tạo thành đa dạng
như là một tiến trình kinh tế xã hội, phản ánh các nhân tố - là nguyên nhân dẫn đến
sự chấp nhận chiến lược sinh kế đa dạng của gia đình hay hộ.[4]
- Đa dạng hóa sinh kế nông thôn: Tiến trình mà các hộ gia đình nông thôn gây
dựng một danh mục đa dạng của các hoạt động và tài sản để sống sót và cải thiện
mức sống của họ, DFID, 2003. [4]
- Ngoài ra còn có một số khái niệm khác về đa dang hóa như sau: Định nghĩa thứ
nhất về đa dạng hóa là sự tăng về số lượng nguồn thu nhập và sự cân đối giữa các
nguồn thu nhập khác nhau, ví dụ, một hộ có hai nguồn thu nhập được coi là đa dạng
hóa hơn một hộ có một nguồn thu nhập, một hộ có hai nguồn thu nhập mỗi nguồn
chiếm 50% được coi là đa dạng hơn hộ có một mguồn thu nhập chiếm 90% (Joshi
và cộng sự, 2002). Định nghĩa thứ hai về đa dạng hóa cho rằng đó là sự biến đổi từ
sản xuất lương thực tự cấp tự túc sang nền nông nghiệp có tính thương mại hóa, ví
dụ, Delgado và Siamwallr cho rằng mục tiêu của đa dạng hóa nông nghiệp với ý
3
nghĩa là một mục tiêu của nền nông nghiệp tiểu điền nên ở châu phi đề cập chủ yếu
phần đầu ra của hộ để bán thu tiền mặt hình thức đa dạng hóa này cũng giống như
thương mại hóa nông nghiệp.Định nghĩa thứ ba tập trung vào việc chuyển dịch từ
trồng cây có giá trị thấp sang trồng cây có giá trị cao hơn, sang chăn nuôi và ngành
nghề phi nông nghiệp, tức là xác định đó là những cây trồng mang lại lợi ích kinh tế
cao trên một đơn vị ruộng đất hay lao động. Định nghĩa này xem đa dạng hóa như
một nguồn tăng thu nhập và phương tiện tiềm tàng để giảm nghèo. [5]
* Khái niệm về nghèo đói: Thế nào là nghèo khổ thì hiện nay có rất nhiều cách
tiếp cận khác nhau. Tựu trung lại thì có hai cách tiếp cận chính là phương pháp
tuyệt đối và phương pháp tương đối. Theo cách tiếp cận tương đối, nghèo khổ là
một phạm trù chỉ mức sống của một cộng đồng hay một nhóm dân cư khác so với
cộng đồng hay nhóm dân cư khác.
Theo phương pháp tiếp cận tuyệt đối, thì nghèo đói là tình trạng cuộc sống mà
con người không đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu. Ví dụ đó là một cuộc sống
cùng cực, chạy ăn từng bữa… mà con số thống kê bình quân không thể phản ánh

đầy đủ.[6,tr58]
2.2. Tiếp cận khung phân tích sinh kế bền vững
Có nhiều phương pháp được đưa ra dùng để phân tích sinh kế nông thôn nhưng
để phục vụ cho nghiên cứu của mình chúng tôi chỉ tiếp cận phân tích sinh kế nông
thôn dựa trên khung sinh kế bền vững của DFID:

• Hoàn cảnh “ Dễ bị tổn thương”:
-Là đề cập đến phạm vi người dân bị ảnh hưởng bởi các loại sốc (như lũ lụt, hạn
hán, bão, mất người thân, xung đột và chiến tranh), yếu tố mùa vụ và xu hướng sự
4



Hoàn cảnh
dễ bị tổn
thương, sốc,
tính thời vụ,
xu thế thay
đổi
H
S N
Người nghèo
P F
Chính sách,
thể chế,
tiến trình
Tác động
Kết quả
sinh kế
Chiến

lược
SKBV
thay đổi của kinh tế ,chính trị, môi trường (như dân số, công nghệ, thị trường, và
thương mại, toàn cầu hóa).
- Là yếu tố mà con người khó kiểm soát được
- Hoàn cảnh dễ bị tổn thương thường rơi vào nnhững hộ nghèo do thiếu nguồn
lực nên khả năng tự bảo vệ kém.
• Tài sản/vốn sinh kế:
- Được mô tả như nguồn vốn tích lũy được sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp để
tạo ra phương tiện sống sót cho hộ gia đình.
- Sinh kế phụ thuộc vào khối lượng và chất lượng các nguồn vốn/tài sản.
- Các nhà nghiên cứu/tổ chức phát triển xác định/phân loại thành các tài sản khác
nhau: vốn con người, vốn tự nhiên, vốn xã hội, vốn tài chính, vốn vật chất tạo thành
ngũ giác tài sản của hộ gia đình.
* Vốn con người:
+ Bao gồm: sức khỏe, dinh dưỡng, giáo dục, kiến thức và kỹ năng, khả năng làm
việc, khả năng thích ứng.
+ Vốn con người ở cấp hộ: Liên quan đến số lượng và chất lượng lao động của
hộ : số nhân khẩu, cấu trúc nhân khẩu (theo giới tính, tuổi tác ), quĩ thời gian và
kiểu phân công lao động giữa các thành viên. Vốn hoặc cơ cấu con người của hộ
không tĩnh mà biến đổi cấu trúc lại do nhân khẩu học bên trong (sinh tử, di trú ra
thành phố ) hoặc những sự kiện không mong đợi (li hôn)
+ Vốn con người là yếu tố trọng yếu quyết định khả năng sử dụng và quản lý các
nguồn vốn khác.
+ Vốn con người được tăng cường khi đầu tư vào giáo dục và đào tạo cũng như
các kỹ năng thu được qua theo đổi nghề nghiệp.
+ Chính sách vĩ mô để tăng dịch vụ giáo dục và sức khỏe công cộng có thể tăng
vốn con người của một quốc gia.
* Vốn tự nhiên:
+ Bao gồm: đất đai, cát sạn, nước và các nguồn lợi thủy sản, sản phẩm gỗ và cây

rừng, động vật hoang dã, đa dạng sinh học, những dịch vụ môi trường, khoáng
sản…
+ Vốn tự nhiên đôi khi được coi là tài nguyên môi trường, được người dân sử
dụng để tạo phương tiện sống
5
+ Vốn tự nhiên không cố định.
+ Vốn tự nhiên thường có sự tương tác giữa nguồn lực cá nhân/ hộ và nguồn lực
của cộng đồng hoặc nhà nước.
+ Được tăng cường khi con người quản lý được nó.
* Vốn xã hội:
+ Vốn xã hội đề cập đến cấp hộ rộng hơn cấp hộ gia đình
+ Chỉ mối quan hệ qua lại trong cộng đồng và giữa các hộ dựa trên niềm tin đến
từ các mối ràng buộc xã hội.
+ Bao gồm: Có thể là một mạng lưới hoặc mối quan hệ giữa các cá nhân như:
chỗ quen biết, hàng xóm, bà con. Những mối quan hệ tin cậy và hỗ trợ tương tác.
Thành viên của các tổ chức chính thức hoặc phi chính thức. Đại diện của tập thể.
Cơ chế tham gia và việc ra quyết định, làm lãnh đạo
+ Có thể có hiệu quả trong tăng cường quản lý một số nguồn vốn chung như vốn
tự nhiên (đất chăn thả, rừng ) hoặc vốn vật chất (thủy lợi )
* Vốn vật chất
+ Được tạo ra bởi tiến trình sản xuất kinh tế. Có thể thay thế vốn tự nhiên trong
một số hoàn cảnh. Loại quan trọng của vốn vật chất để thúc đẩy đa dạng sinh kế là
đường, điện, hệ thống cung cấp nước
+ Bao gồm: Hạ tầng cơ sở: phương tiện vận chuyển, đường xá, xe cộ, nơi sinh
sống, phương tiện sinh hoạt, năng lượng, đối thoại, công cụ và công nghệ (công cụ
thiết bị phục vụ sản xuất, giống phân bón hóa chất, công nghệ truyền thống).
* Vốn tài chính:
+ Vốn tài chính thường bằng tiền mặt hoặc được dự trữ dưới dạng khác khi thiếu
vắng thị trường tài chính.
+ Các loại vốn tài chính: Tiền tiết kiệm, những khoản vay từ các nguồn chính

thức hoặc phi chính thức, tiền người thân đi xa gửi về, lương hưu, tiền công thật.
*Chính sách, thể chế và tiến trình.
+ Chính sách của chính phủ, của các tổ chức phi chính phủ và các thể chế quốc
tế. thể chế của các cơ quan lập pháp và hành pháp hay các tòa án. Tiến trình là quá
trình ra quyết định, chuẩn mực xã hội.[4]
6
2.3. Đặc điểm, nguyên nhân và một số chỉ tiêu xác định hộ nghèo
* Đặc điểm của người nghèo:
- Đặc điểm về nhân khẩu: Người nghèo phổ biến thuộc những loại hộ có qui mô
gia đình lớn, những chỉ 1-2 thế hệ trong gia đình, mỗi hộ có rất nhiều con và tuổi
còn nhỏ. Tình trạng các cặp vợ chồng trẻ hoặc đang tuổi sinh đẻ ở các hộ nghèo lại
không thực hiện được kế hoạch hóa gia đình, trong lúc sản xuất của gia đình rất
kém phát triển.[6,tr63]
- Đặc điển về trình độ văn hóa: Trong nhóm hộ nghèo, số người chưa bao giờ
đến trường học chiếm tỷ lệ cao nhất, trong số chưa tốt nghiệp cấp 1 một số người do
hoàn cảnh khó khăn nên phải bỏ lở dở không tốt nghiệp được, đáng chú ý là trình
độ từ cấp 3 trở lên chiếm tỷ lệ rất ít. Người nghèo thường không được đào tạo nghề
nghiệp. Đây là điều đáng lo ngại nhất đối với người nghèo.[6,tr64]
- Đặc điểm về tài sản, nhà ở, đời sống tin thần: Mức độ chênh lệch giữa hộ nghèo
và hộ khá, không những chỉ thể hiện ở thu nhập hay chi tiêu, mà còn thấy sự gia
tăng quá nhanh về mức độ mua sắm tài sản, phương tiện sản xuất và đời sống tin
thần, đa số những hộ nghèo và người nghèo vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.[6,tr64]
- Người nghèo rất dễ gặp tổn thương: Nguy cơ dễ bị tổn thương của người nghèo
thể hiện ở chổ, những khó khăn, đột biến, rủi ro ập đến với gia đình, những cuộc
khủng hoảng xảy ra với cộng đồng … thường gây thiệt hại lớn nhất cho người
nghèo đói, đó là nét đặc trưng cơ bản cho tất cả các xã hội khác nhau. Những hộ gia
đình nghèo chỉ có khả năng trang trải ở mức hạn chế, tối thiểu các chi phí lương
thực và phi lương thực thiết yếu khác, hộ rất dễ bị tổn thương trước mọi biến cố xảy
ra, họ thường phải bỏ thêm chi phí không đáng có hoặc bị giảm thu nhập vì khó tiếp
cận các cơ hội tăng trưởng kinh tế. Đối với hộ nghèo, nếu có một thành viên trong

gia đình bị ốm đau, thì đó là một sự cố nghiêm trọng có thể làm đảo lộn cuộc sống
và sinh hoạt của gia đình và có thể đến hàng năm sau mới phục hồi được. Và nếu
trong cùng một thời gian có vài sự việc nghiêm trọng xảy ra liên tiếp thì sự suy sụp
đến cùng kiệt là khó tránh khỏi.[6,tr65]
* Nguyên nhân nghèo:
Đã có rất nhiều cuộc điều tra, nghiên cứu xác định yếu tố nghèo đói, trong đó có
cuộc điều tra của Bộ Nông nghiệp năm 1993, tại 17 tỉnh thuộc 7 vùng trong cả nước
đã xác định có 9 yếu tố dẫn đến nghèo đói, đó là: Đông con; thiếu lao động; thiếu
7
ruộng đất sản xuất; thiếu vốn; rủi ro tai nạn; không có kinh nghiệm làm ăn; chi tiêu
không có kế hoạch; bệnh tật ốm đau; không có nghề gì khác ngoài nông nghiệp và
yếu tố khác. Trong đó, số hộ rơi vào cảnh nghèo đói do từ 3-5 yếu tố chiếm tỷ lệ
cao nhất.[6,tr67]
*Một số tiêu chí nghèo áp dụng ở Việt Nam:
- Chuẩn nghèo dựa vào thu nhập của gia đình, áp dụng trước năm 2001 như sau:
+ Hộ đói: là hộ có mức thu nhập bình quân trên đầu người trong một tháng qui ra
gạo dưới 13 kg tương đương với 45000 VND.
+ Hộ nghèo : là hộ có mức thu nhập tùy theo từng vùng:
Vùng nông thôn, vùng núi, hải đảo dưới 15 kg (tương đương 55.000VND).
Vùng nông thôn đồng bằng, trung du dưới 20 kg (tương đương 55.000VND).
Vùng thành thị dưới 25 kg (tương đương 55.000VND).
- Chuẩn nghèo dựa vào thu nhập của gia đình, áp dụng sau năm 2001 như sau:
+ Hộ nghèo : là hộ có mức thu nhập tùy theo từng vùng:
Vùng nông thôn, vùng núi, hải đảo dưới 80.000 VND.
Vùng nông thôn đồng bằng, trung du dưới 100.000 VND.
Vùng thành thị dưới 150.000 VND.[6,tr61]
2.4. Một số thành công trong công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam
Thành tựu giảm nghèo của Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công
nhất trong phát triển kinh tế. Một thập kỷ trước, 58% dân số có mức chi tiêu không
đủ cho một cuộc sống khỏe mạnh. Năm năm sau đó tỷ lệ dân số sống dưới ngưỡng

nghèo này đã giảm xuống 37%. Tỷ lệ này tiếp tục giảm xuống còn 29% vào năm
2002. Như vậy gần một phần ba dân số, tương đương với trên 20 triệu người đã
thoát nghèo trong vòng mười năm.[1,tr1]
Thành tựu cũng đáng kể khi xem xét những thước đo về nghèo đói khác, ngoài
tiêu chí mức chi tiêu. Mục tiêu phát triển của Việt Nam cho thấy mức tiến triển liên
tục của những chỉ số xã hội, từ số học sinh được đi học đến tỷ lệ tử vong của trẻ sơ
sinh. Mặc dù ở một số vùng và một số nhóm dân số có thành tựu cao hơn những
nhóm khác, Việt Nam vẫn tiếp tục giảm được mức đói nghèo nhanh hơn những
nước khác ở cùng mức độ phát triển tương tự. Trong đầu những năm của thập kỷ
90, tỷ lệ đói nghèo của Việt Nam cao hơn dự tính, xét về mức độ phát triển kinh tế
8
của nước này. Trong nữa đầu của những năm 90 Việt Nam đã đuổi kịp các nước
trung bình ở cùng mức độ phát triển và đã vượt xa vào năm 2002.[1,tr2]
*Một số nhân tố góp phần thành công trong xóa đói giảm nghèo trong
những năm qua của Việt Nam:
Trước đây những thành tựu đạt được là nhờ việc phân đất đai nông nghiệp cho
các hộ ở vùng nông thôn, trong bối cảnh cải cách kinh tế tạo ra những động lực
đúng đắn để tăng sản xuất nông nghiệp. Song lợi ích của những cải cách này gần
như đã phát huy hết tác dụng. Trong mấy năm gần đây, động lực thúc đẩy xóa đói
giảm nghèo lại là việc tạo ra công ăn việc làm trong khu vực tư nhân và việc tăng
cường hội nhập của nền kinh tế thị trường.[1,tr2]
Đại đa số dân số trong độ tuổi lao động của Việt Nam trên thực tế đều làm việc
và tỷ lệ tham gia thị trường lao động thuộc diện cao nhất thế giới. Những gì đã thay
đổi không phải ở chỗ hoạt động hay không mà cơ cấu ngành nghề của lao động.
Trong 4 năm qua, tỷ lệ người tham gia lao động trên các trang trại của mình giảm từ
2/3 xuống ít hơn một nữa. Thay vào đó, nhiều người đang tham gia vào các ngành
nghề trả công: 30% số đó đang làm những công việc trả công trong năm 2002, so
với 19% trước đó 4 năm. Nhờ sự thay đổi này, đến năm 2002, khu vực kinh tế tư
nhân đã chiếm khoảng 2,5 triệu người, lớn hơn toàn bộ khu vực kinh tế nhà nước.
[1,tr2]

Mức thu nhập ngày càng tăng từ nông trại trong vài năm qua cũng rất quan trọng
đối với thành tựu xóa đói giảm nghèo ở vùng nông thôn. Các hộ gia đình ở các
trang trại bắt đầu chuyển hướng vào sản xuất cho thị trường hơn là sản xuất cho tiêu
thụ gia đình. Hiện nay họ đang bán 70% sản phẩm nông nghiệp của mình cho thị
trường, so sánh với 48% cách đây 9 năm. Điều này không hề ảnh hưởng đến mức
chi tiêu để đảm bảo an ninh lương thực hay đủ chất dinh dưỡng, vì cả hai chỉ số này
đều đã tăng lên theo thời gian. Đa dạng hóa ngành nghề cũng giúp cho nông dân
giảm bớt dễ bị tổn thương khi gặp chuyện không may.[1,tr2]
Như vậy, trong thời gian vừa qua ở vùng nông thôn của Việt Nam đã thực hiện
đa dạng các hoạt động sinh kế trong các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và
trong ngành nghề đã làm cho thu nhập ở vùng nông thôn tăng lên, nó góp phần rất
lớn vào công tác giảm nghèo.
9
2.5. Một số nghiên cứu về các hình thức đa dạng hóa trên thới giới
Joshi và các cộng sự (2002) xem xét xu hướng đa dạng hóa ở Nam Á với việc sử
dụng số liệu thống kê về diện tích và sản lượng và chỉ số đa dạng của Simpson. Các
tác giả đã chỉ ra rằng đa dạng hóa cây trồng đã tăng lên trong vòng 2 thập kỷ qua ở
hầu hết các nước Nam Á. Tại Ấn Độ, vùng phía Nam và Tây đang đa dạng theo
hướng từ trồng ngũ cốc sang đậu đỗ, hạt có dầu, cây ăn quả và rau. Ở Miền Bắc
nông dân đang chuyển từ sản xuất hạt thô sang sản xuất lúa, lúa mỳ và cây hạt
thương phẩm. Vùng phía Đông nghèo và kém phát triển hơn nên nông nghiệp độc
canh cây lúa nhưng diện tích lúa gạo cũng hết sức đa dạng. Khi phân tích kinh tế
lượng cấp quốc gia số liệu thống kê nhiều năm thấy rằng mức độ đa dạng hóa gắn
liền với mật độ đường sá, đô thị hóa, quy mô trang trại, thu nhập trên đầu người.
Lượng mưa cũng là yếu tố rất quan trọng, vùng có lượng mưa thấp có cơ cấu cây
trồng đa dạng hơn vùng có lượng mưa lớn hơn. Điều này có thể cho thấy đa dạng
hóa từ sản xuất hạt thô sang lúa, lúa mì cao sản có tác động đến an ninh lương thực
trong khi đa dạng sang hướng sản xuất cây có giá trị tạo ra nhiều việc làm trên một
hecta và nhiều sản phẩm cho xuất khẩu.[5]
Readon (1997) tóm tắt kết quả của 27 công trình nghiên cứu về việc làm phi

nông nghiệp trong nông thôn ở vùng Sub-sahar của Châu Phi. Ông nhận thấy hoạt
động phi nông nghiệp tương đối quan trọng trong nông thôn, trong nhiều trường
hợp chiếm khoảng 30-50% thu nhập. Nhìn chung thu nhập của lao động làm công
trong các hoạt phi nông nghiệp. Thu nhập phi nông nghiệp ở nông thôn có xu
hướng quan trọng hơn ở những vùng gần thành phố nơi có hạ tầng cơ sở tốt và mật
độ dân cư đông. Cuối cùng thu nhập phi nông nghiệp quan trọng hơn đối với những
hộ khá giả ở nông thôn.[5]
Trong nghiên cứu về hộ gia đình ở nông thôn ở Ethiopia, Block, Webb (2001)
thấy rằng đa dạng hóa khỏi hoạt động trồng trọt gắn liền với các hộ có thu nhập cao
hơn, tỷ lệ phụ thuộc cao hơn, hộ có chủ là nam giới và sinh sống ở cao nguyên
(vùng có đất tốt và nhiều mưa). Một trong những động cơ để đa dạng hóa từ trồng
trọt sang chăn nuôi là đảm bảo khỏi bị hạn.[5]
Delgado và Simwalla (1997) nghiên cứu cơ cấu đa dạng hóa ở châu Á và châu
Phi. Họ lưu ý ở châu Phi nông dân thường áp dụng mức độ hỗn hợp cây trồng cao
như một chiến lược giảm rủi ro liên quan đến thời tiết bất lợi. Ở nhiều nước châu Á
10
đa dạng hóa cây trồng gắn liền với giảm tầm quan trọng của cây lúa và chuyển sang
cây ăn quả, rau và chăn nuôi. Loại hình đa dang này tăng thu nhập nhưng làm nông
dân phải đối mặt với rủi ro của thị trường, đặc biệt khi hàng hóa là loại mau hỏng.
Họ cho rằng chính phủ đóng vai trò xây dựng thể chế hỗ trợ ví dụ như HTX và sản
xuất nông nghiệp theo hướng hợp đồng nhằm hỗ trợ cho đa dạng hóa theo hướng
sản xuất hàng hóa có giá trị cao, do đó tăng thu nhập cho nông dân.[5]
Ở Cote d’voire (bờ biển Ngà) việc phá giá tiền tệ năm 1994 đã khuyến khích
trồng ca cao, bông và các cây xuất khẩu khác nhưng hộ giàu có khả năng tận dụng
được cơ hội này hơn chủ yếu là do có nhiều vốn hơn. Ở Kenya chương trình việc
làm lấy lương thực đã làm tăng khả năng thanh toán bằng tiền mặt của người nông
dân nghèo, cho phép họ hoạt động phi trồng trọt và tránh phải bán gia súc trong
những lúc hạn hán (Barrrettvaf cộng sự, 2001).[5]
Một số nghiên cứu khác so sánh đa dạng hóa ở Rwanda, Kenya và bờ biển Ngà.
Đa dạng hóa từ trồng trọt sang các hoạt động khác diễn ra mạnh nhất ở những nơi

có lượng mưa thấp và đất xấu. Mặc dù thu nhập của lao động không có tay nghề
thường gắn liền với những hộ nghèo nhưng hầu hết các dạng thu nhập khác có
tương quan dương với thu nhập. Thực tế đa dạng thu nhập cao hơn ở những hộ có
thu nhập cao hơn.[5]
Một số nghiên cứu mới đây của West Punjab (Ấn Độ) xem xét hướng dài hạn
của sản xuất nông nghiệp trong thế kỷ 20. Nghiên cứu này chỉ ra rằng diện tích tăng
lên chiếm 71% tăng trưởng sản lượng nông nghiệp trong thời kỳ 1903-1952 nhưng
trong giai đoạn 1952-1992 đóng quan trọng nhất là tăng năng suất (53%) và đa dạng
hóa (7%). Ở đây đa dạng hóa được hiểu là tăng diện tích cây trồng cho cây trồng có
năng thấp cao.[5]
2.6. Một số nghiên cứu về các hình thức đa dạng hóa ở Việt Nam
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về đa dạng hóa ở Việt Nam. Theo Pederson
và Annou (1999) đã sử dụng số liệu điều tra mức sống dân cư 1992-1993 để nghiên
cứu các hình thức đa dạng hóa. Họ thấy rằng đa dạng hóa nông nghiệp gắn liền với
những trang trại nhỏ, diện tích tưới tiêu ít và trình độ học vấn cao hơn. Ngoài ra họ
thấy rằng những hộ tương đối chuyên canh lúa có xu hướng đa dạng hóa thu nhập
phi nông nghiệp nhiều hơn. Điều này có thể ám chỉ rằng hộ gia đình thích một vài
đa dạng hóa hoặc trong các hoạt động phi lúa gạo , hoặc phi nông nghiệp.[5]
11
Hennin (2002) mô tả mô hình đa dạng hóa ở vùng núi và Trung du Bắc Bộ, tập
trung vào các tỉnh Lạng Sơn. Ông cho rằng chính sách đổi mới đã tăng thu nhập và
kích thích đa dạng hóa thu nhập. Nông dân ở những vùng được nghiên cứu đã áp
dụng các giống lúa hiện đại và phân bón và đã mở rộng sản xuất các cây hàng hóa
như mía, lạc, đậu tương, thuốc lá, cà phê, quế, chè, hồi. Các hoạt động phi nông
nghiệp bị hạn chế do thiếu các dịch vụ công nghiệp nông thôn, nhưng một số hộ đã
có thu nhập từ dịch vụ khuân vác, sũa chửa xe đạp xe máy…Nông dân đã nêu ra
nhiều yếu tố cản trở đa dạng hóa và giảm nghèo đó là: thiếu vốn, thiếu đất sản xuất,
khả năng tiếp cận thị trường kém, hạ tầng thủy lợi yếu kém, chất lượng giáo dục
thấp. Vay vốn từ các tổ chức tín dụng chính thức kể cả vốn ưu đãi từ quĩ vốn xóa
đói giảm nghèo cũng không phải là phổ biến do lãi xuất cao, thời hạn cho vay ngắn

và thủ tục rờm rà. Mặc dù cải cách đã mang lại thu nhập cao hơn nhưng nó cũng
làm tăng bất bình đẳng, phân hóa xã hội và làm hỏng một số dịch vụ xã hội.[5]
Một nghiên cứu về huyện Chợ Mới cho rằng giao đất rất có hiệu quả trong việc
thâm canh trong sản xuất lúa ở vùng đất thấp, đa dạng hóa ở vùng đất cao (nhất là
cây ăn quả) và tái tạo đất rừng. Thâm canh ở vùng đất thấp không phải là lựa chọn
đa dạng hóa ở vùng đất cao. Thực tế là thâm canh mang lại thu nhập và an toàn
lương thực cần thiết cho phép hộ có thể đa dạng hóa ở những mảnh đất cao (Fatoux
và các cộng sự, 2002).[5]
Một nghiên cứu ở vùng Ba Bể nhấn mạnh tầm quan trọng của khả năng tiếp cận
trong việc quyết định cơ hội thu nhập. Ở những thôn bản xa xôi nông dân trong cậy
vào trồng trọt và chăn nuôi theo kiểu tự cung tự cấp, họ có ít cơ hội bán sản phẩm,
gặp gỡ cán bộ khuyến nông, hưởng lợi từ các chương trình của chính phủ , hay
kiếm được việc làm phi nông nghiệp hơn. Kết quả là họ có xu hướng nghèo hơn dân
ở gần đường cái, gần trung tâm đô thị, ngay cả khi họ có đất thấp có tưới.(Alther và
các cộng sự, 2002)[5]
Một số nghiên cứu ở Chợ Đồn cho thấy tính chất dân tộc trở nên ít hữu hiệu hơn
với tính chất là chỉ báo của chiến lược sinh kế. Trước dây, người Tày chủ yếu định
canh lúa ở vùng đất thấp, còn người Dao thì du canh du cư ở vùng đất cao. Do quá
trình phân chia lại đất đai, mua bán đất và do các yếu tố khác, sự khác nhau của
người Tày và người Dao còn rất ít. Cả người Tày và người Dao những người có đất
12
thấp đều định canh định cư và trồng lúa có tưới tiêu, trong khi đó một số khác
không có đất ruộng cũng phải du canh ở vùng cao[5].
2.7. Các yếu tố quyết định đến đa dạng hóa
Trong khi ý thức được những lợi ích gắn liền với chuyên môn hóa tuy nhiên các
nông hộ ở những nước đang phát triển lại áp dụng phương thức đa dạng hoạt động
đem lại thu nhập, có ít nhất sáu nhân tố có thể giải thích cho vấn đề này:
Thứ nhất, nguồn thu nhập đa dạng có thể là một chiến lược nhằm để giảm rủi ro.
Nếu mỗi nguồn thu nhập biến động bất thường từ năm này sang năm khác do thời
tiết hay những yếu tố khác, và mức độ biến động thu nhập không tỷ lệ thuận với các

nguồn thu nhập thì hộ có nhiều nguồn thu nhập sẽ ít bị biến động hơn hộ chuyên
môn hóa.[5]
Thứ hai, có thể có những yếu tố tích cực bên ngoài giữa các hoạt động khác nhau
do vậy tổng thu nhập từ việc kết hợp hai hoạt động sẽ lớn hơn là nếu hộ chỉ chuyên
môn hóa vào một hoạt động.[5]
Thứ ba, nhiều nguồn thu nhập có thể có ích như một sự thích ứng với việc mất
thị trường hay thị trường hoạt động kém hiệu quả.[5]
Thứ tư, năng suất lao động trong một hoạt động có thể có tính thời vụ cao, tạo ra
động cơ để có thể thực hiện các hoạt động khác nữa khi năng suất của hoạt động thứ
nhất thấp. Điều này giúp lý giải sự tồn tại của các hoạt động phi nông nghiệp trong
thời kỳ nông nhàn ở những vùng sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc vào thiên
nhiên. Điều này cũng lý giải sự tham gia có tính thời vụ vào lao động làm thuê
trong nông nghiệp trong thời gian thu hoạch của một cây trồng hàng hóa chính .[5]
Thứ năm, tính không đồng nhất về kỹ năng hay cơ hội việc làm của các thành
viên trong gia đình có thể thúc đẩy hộ đa dạng hóa, thậm chí ngay cả khi từng thành
viên được chuyên môn hóa, hộ vẫn có thể đa dạng hóa.
Thứ sáu, nguồn thu nhập đa dạng có thể được thúc đẩy bởi sự kết hợp của nhu
cầu tiêu dùng đa dạng và chi phí giao dịch cao trong việc mua hàng tiêu dùng. Về
mặt kinh tế, chi phí giao dịch cao có nghĩa là quyết định sản xuất và tiêu dùng
không tách biệt, do vậy nhu cầu tiêu dùng quyết định đến sản xuất. Ví dụ, nếu một
gia đình sống xa đường cái và chợ thì chi phí để mua và bán hàng hóa sẽ cao buộc
gia đình đó phải đa dạng sản xuất để đáp ứng nhu cầu bản thân về các loại hàng hóa
lương thực và phi lương thực.[5]
13
Nếu chúng ta định nghĩa đa dạng hóa là quá trình chuyển dịch từ cây trồng có giá
trị thấp sang cây trồng có giá trị cao và hoạt động phi trồng trọt thì câu hỏi đặt ra là:
tại sao người nông dân lại lựa chọn trồng những loại cây có giá trị thấp? câu trả lời
là có rất nhiều trở ngại hạn chế một số hộ gia đình đa dạng hóa môt số hộ theo
hướng chuyển sang cây trồng và các hoạt động có giá trị cao. Thực tế những trở
ngại này chắc chắn góp phần làm tăng lợi nhuận từ những hoạt động này. Đa dạng

hóa theo hướng cây trồng và ngành nghề có giá trị cao có thể bị hạn chế bởi:
- Thiếu khả năng thanh toán bằng tiền mặt và thiếu khả năng tiếp cận nguồn tín
dụng. Hạn chế này đặc biệt thích ứng trong trường hợp trồng cây ăn quả và cây dài
ngày khác. Điều này củng sẽ hạn chế phát triển của hoạt động phi nông nghiệp, hoạt
động cần nhiều trang thiết bị.
- Thiếu thông tin về phương thức sản xuất và thị trường tiêu thụ. Cản trở này
thường gắn với việc trồng các loại cây mới và cây đặc sản, nuôi trồng thủy sản và
các loại sản phẩm dễ hỏng khác.
- Thiếu trình độ văn hóa hay kỹ năng ngôn ngữ cần thiết để tiếp thu những thông
tin cần thiết. Vấn đề này ảnh hưởng đến người dân tộc thiểu số ở nhiều nước trên
thế giới và có thể là một khó khăn đối với các hộ có chủ là nữ ở một số địa phương.
- Hạ tầng cơ sở nghèo nàn làm giảm giá tại nông hộ của cây trồng và làm tăng
giá mua đầu vào tại nông hộ.
- Thiếu đất hay lao động để đa dạng hóa cây trồng phi lương thực hay hoạt động
khác. Dễ hiểu vì sao nông dân nghèo ngần ngại dựa vào thị trường cho nhu cầu
lương thực của họ, do vậy họ thường thích bổ sung thêm vào sản xuất lương thực
những cây trồng có giá trị cao và các hoạt dộng khác hơn là chuyển hẳn sang trồng
cây có giá trị.
- Thiếu vốn xã hội. Vốn xã hội đề cập đến mạng lưới bạn bè hay môi trường kinh
doanh gắn liền với một cá nhân có mức độ tin tưởng nhau nhất định. Trong nông
nghiệp vốn xã hội đối với các nhà buôn bán hơn các nhà thu gom…
Những cản trở này gợi ý một số loại can thiệp cần thiết của chính phủ để loại bỏ
những rào cản này và thúc đẩy các hộ nghèo tham gia vào hoạt động có giá trị cao.
Tất nhiên, nếu những nỗ lực này thành công, họ có thể mở rộng sản xuất và có thể
kéo giá xuống.[5]
14
2.8. Tác động của đa dạng hóa với xóa đói giảm nghèo và đời sống nông dân ở
vùng nông thôn
Hiện nay có rất nhiều quan tâm đến quá trình đa dạng hóa thu nhập và thương
mại hóa trong nông thôn của các nước đang phát triển. Trước tiên các ý kiến phê

bình phổ biến cho rằng chuyển đổi từ sản xuất lương thực sang trồng cây có hiệu
quả kinh tế có thể tác động bất lợi đến an toàn lương thực và dinh dưỡng. Quan
điểm này được Von Braun (1995) đã tập hợp hàng loạt nghiên cứu dựa vào các
cuộc điều tra hộ để so sánh thu nhập, khẩu phần lương thực, tình trạng dinh dưỡng
của nông hộ đưa ra tranh luận. Kết luận của ông là nông dân tham gia trồng các
loại cây có giá trị nhìn chung khá giả hơn nhiều phương diện so với những hộ tương
tự nhưng định hướng nhiều hơn vào tự cung tự cấp.[5]
Mặt khác thương mại hóa kết hợp với các chính sách không phù hợp hay thất
bại về thể chế có thể gây ra những tác động bất lợi cho hộ nghèo
Một số khác lưu ý rằng đa dạng hóa theo hướng chuyển sang sản xuất hàng
hóa có giá trị cao có thể làm tăng bất bình đẳng trong thu nhập và gây ra phân hóa
xã hội. Henin (2002) thể hiện mối quan tâm tương đối với trường hợp ở Việt Nam.
Rất nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng thu nhập phi nông nghiệp ở nông thôn có liên
quan tích cực với tổng thu nhập của gia đình, có ngụ ý hoạt động phi nông nghiệp
làm trầm trọng thêm mức độ bất bình đẳng thu nhập trong nông thôn (Reardon,
1997; Lanjouw, 2001) .[5]
Vấn đề quan tâm tiếp theo là tác động môi trường của sản xuất nông nghiệp
theo hướng hàng hóa. Trong một số trường hợp tăng nhanh diện tích cây hàng hóa
đã dẫn đến nạn phá rừng và các phương thức sản xuất không bền vững. Việc sử
dụng phân hóa học có thể có tác động bất lợi đến sức khỏe và năng suất của nông
dân và hoặc làm ô nhiễm nguồn nước ngầm của các địa phương.[5]
15
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Hộ nông dân và ngư dân sống dựa và sản xuất nông ngư nghiệp sống ở vùng sinh
thái đất cát ven biển miền Trung
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu lĩnh vực kinh tế và xã hội.
- Phạm vi không gian: Đề tài được nghiên cứu ở vùng sinh thái đất cát ven biển

miền Trung.
- Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu từ năm 1997 đến 2007.
3.3. Nội dung nghiên cứu:
3.3.1. Tình hình kinh tế xã hội của xã Quảng Lợi.
- Tình hình sử dụng đất của xã Quảng Lợi năm 2006 .
- Tình hình dân số và lao động của xã Quảng Lợi năm 2006.
- Tình hình nghèo đói và thu nhập của xã Quảng Lợi từ năm 1997 đến năm 2006
3.3.2. Tình hình đa dạng hóa sinh kế tại xã Quảng Lợi từ 1997-2006:
- Tình hình đa dạng hóa trong trồng trọt và chăn nuôi.
- Tình hình đa dạng hóa trong thủy sản.
- Tình hình đa dạng hóa trong ngành nghề và dịch vụ.
3.3.3.Đặc điểm kinh tế xã hội của các hộ khảo sát:
- Tình hình về vốn con người của nông hộ
- Tình hình thu nhập tiền mặt của nông hộ
3.3.4. Tình hình thay đổi các hoạt động sinh kế trong các lĩnh vực của nông hộ:
- Tình hình thay đổi hoạt động tạo thu nhập trong lĩnh vực trồng trọt.
- Tình hình thay đổi hoạt động tạo thu nhập trong lĩnh vực chăn nuôi.
- Tình hình thay đổi hoạt động tạo thu nhập trong lĩnh vực thủy sản.
3.3.5. Phân tích hồi quy (Regression) một số yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập/năm
của các nông hộ.
3.3.6.Tình hình thu nhập/khẩu/hộ và khả năng chi tiêu của nông hộ 2006.
3.3.7. Tình hình nhà cửa, phương tiện sản xuất và sinh hoạt của các nông hộ 2006.
16
3.4. Phương pháp nghiên cứu:
3.4.1. Chọn điểm nghiên cứu:
* Chọn điểm nghiên cứu:
Đề tài đã chọn xã Quảng Lợi của huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế, là xã
nghèo và sản xuất nông, ngư nghiệp là chủ yếu.
3.4.2. Phương pháp thu thập dữ liệu:
* Thu thập dữ liệu sơ cấp:

- Thông tin: Tình hình kinh tế xã hội ở xã Quảng Lợi: tình hình sử dụng đất, dân
số và lao động, tình hình nghèo đói và mức độ thu nhập của gia đình qua các năm.
Tình hình thực hiện đa dạng hóa trong các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản
ngành nghề và dịch vụ trên toàn xã qua các năm.
- Nguồn: từ báo cáo cuối năm của 1997-2006 và số liệu thống kê qua các năm
của VPUBND xã.
* Phỏng vấn người am hiểu:
- Thông tin: tình hình kinh tế xã hội cơ bản và nguyên nhân hay một số đặc trưng
của người nghèo và các hoạt động sinh kế của họ.
- Số người được phỏng vấn: Phỏng vấn 3 cán bộ xã (chủ tịch xã và 2 cán bộ văn
phòng), 2 trưởng thôn, 2 hộ vượt nghèo thành công, 2 cán bộ HTX.
* Chọn hộ nghiên cứu:
- Chọn 32 hộ, có 2 hộ vượt nghèo thành công nhờ đa dạng sinh kế dùng phỏng
vấn sâu, 10 hộ luôn luôn nghèo và 10 hộ vượt nghèo, 10 hộ luôn luôn không nghèo.
* Phỏng vấn hộ:
- Phương pháp: sử dụng phương pháp (PRA) có sự tham gia của người dân
- Công cụ: Sử dụng câu hỏi bán cấu trúc và một số đánh giá chung để phỏng vấn.
Sử dụng phương pháp hồi cố trong xã hội học nhằm gợi nhớ, tái hiện lại những
hoạt động sản xuất đã diễn ra từ 1997 đến nay.
3.4.3. Phương pháp phân tích số liệu:
Số liệu được tổng hợp và xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel, gồm:
- Xử lý thống kê mô tả (Descriptive statistics).
- Phân tích hồi quy tuyến tính (Regression): để thấy thu nhập/hộ/năm phụ thuộc
thế nào với các yếu tố như diện tích đất sản xuất, trình độ văn hóa của chủ hộ, số
khẩu của hộ, số lao động chính của hộ, đặc biệt là số nguồn cho thu nhập của nông
hộ có phải là động lực của xóa đói giảm nghèo hay không.
17
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Tình hình kinh tế xã hội của xã Quảng Lợi
Xã Quảng Lợi là một xã nghèo nằm ở vùng sinh thái ven biển ở miền Trung

nước ta, có chất đất chủ yếu là đất cát pha, đồng thời hệ thống thủy lợi còn kém nên
diện tích đất sản xuất một vụ còn khá cao. Xã Quảng Lợi có 9 thôn (trong đó có 3
thôn và một cụm dân cư sống bằng nghề ngư nghiệp nằm dọc theo phá Tam Giang,
6 thôn nằm dọc theo đường tỉnh lộ 4B), có 4 HTX, hai trường tiểu học, một trường
THCS, 11 lớp mẫu giáo và một trạm y tế. Dân cư sống rải rác với chiều dài 9 km.
Qua quan sát chúng tôi thấy ở xã Quảng Lợi về điều kiện cơ sở hạ tầng, giao thông
vận tải, thủy lợi còn đặc biệt khó khăn. Về đường sá và đê điều được bê tông hóa
còn rất thấp, mới chỉ có 5,5 km trong 9 km đường tỉnh lộ được đỗ nhựa và 3,6 km
trong 18 km đường thôn xóm được bê tông. Mương máng mới bê tông 11,5 km.
Đây là một khó khăn rất lớn trong việc đi lại và vận chuyển và giao lưu văn hóa,
trao đổi hàng hóa của người dân trong xã và với bên ngoài. Ngoài ra cơ sở hạ tầng
và tính chất của vùng cát ven biển nó có thể làm cho vùng này khó khăn hơn trong
các hoạt động sản xuất cũng như trong đời sống.
4.1.1. Tình hình sử dụng đất của xã Quảng Lợi năm 2006
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt và nó có vai trò quan trọng trong sản xuất
nông nghiệp. Nó là một tài nguyên không thể thiếu và có ảnh hưởng rất lớn đến
mức thu nhập của nông hộ. Điều đó cũng có nghĩa là cơ cấu đất đai của mỗi vùng sẽ
cho thấy được tiềm năng kinh tế và trình độ sử dụng đất của vùng. Chúng tôi đã tiến
hành thu thập các thông tin về đất đai của xã Quảng Lợi thông qua các báo cáo của
UBND xã. Cơ cấu đất đai của xã Quảng Lợi được thể hiện ở bảng sau:
18
Bảng 1: Tình hình sử dụng đất của xã Quảng Lợi năm 2006
Loại hình Diện tích (ha) Tỷ lệ (%) Ghi chú
Tổng diện tích đất tự nhiên 3.239 100
1. Đất nông nghiệp 1.192,23 38,80 So với đất ĐTN
1.1.Đất sản xuất nông nghiệp 670,93 56,28 So với đất SXNN
- Đất trồng cây hàng năm 670,93 100 So với đất SXNN
+ Đất lúa 312,75 46,61 So với đất hoa màu
+ Đất hoa màu 358,18 53,39 So với đất hoa màu
- Đất trông cây lâu năm 0 0

1.2. Đất lâm nghiệp 479,8 40,24 So với đất SXLN
- Đất rừng sản xuất 0 0
- Đất rừng phòng hộ 479,8 100 So với đất SXLN
1.3. Đất nuôi trồng thủy sản 41,5 3,48 So với đất SXNN
2. Đất phi nông nghiệp 1.655,41 61,20 So với đất ĐTN
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của VPUBND Xã Quảng Lợi năm 2006)
Qua bảng trên cho thấy, diện tích đất sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ lệ trong đất
tự nhiên còn thấp (36.80 %) khoảng 1192 ha. Trong đất nông nghiệp thì đất dùng
sản xuất nông nghiệp vẫn thấp là 671 ha chiếm tỷ lệ 56,28%.Ta thấy đất sản xuất
nông nghiệp chủ yếu là trồng lúa và hoa màu còn hầu như không có đất trồng cây
lâu năm. Trong diện tích đất lâm nghiệp thì đất rừng phòng hộ chiếm hết 100%,
không có đất trồng cây lâu năm. Như vậy xã Quảng Lợi hầu như không có lợi thế
về phát triển cây ăn quả và cây nghiệp, đây là một hình thức sản xuất mang lại hiệu
quả kinh tế cao giúp thoát nghèo và làm giàu có hiệu quả nhanh. Mặt khác qua tìm
hiểu chúng tôi biết xã Quảng Lợi chủ yếu là đất cát pha sản xuất nông nghiệp tập
trung vào vụ Đông Xuân còn vụ Hè Thu và Thu Đông diện tích đưa vào sản xuất
còn rất ít do thiếu nước. Đây là một khó khăn rất lớn đối với các hộ sản xuất nông
nghiệp và khó khăn cho phát triển kinh tế của nông hộ cũng như phát triển của xã
nhà. Đây có thể là một nguyên nhân làm cho xã Quảng Lợi kém phát triển hơn các
xã lân cận.
Xã Quảng Lợi có lợi thế về đánh bắt và nuôi trồng thủy sản ở phá Tam Giang,
hiện nay toàn xã có 41,5 ha đưa vào nuôi trồng thủy sản nhưng chủ yếu là nuôi tôm
sú và nuôi cá hồ. Đây là hoạt động sản xuất mà theo người dân là lợi thế của vùng,
mới đưa vào sản xuất nhưng hiệu quả kinh tế cao.
19
4.1.2. Tình hình dân số và lao động của xã Quảng Lợi năm 2006
Dân số và lao động thể hiện đặc điểm dân cư của một vùng. Đó chính là nguồn
nhân lực, là số lượng và chất lượng của lực lượng lao động và tình hình dân số nó
tác động khá nhiều đến hiệu quả kinh tế. Trong nghiên cứu này chúng tôi muốn
xem xét sự tham gia vào các hoạt động sản xuất của nông hộ và một số chỉ tiêu bình

quân. Kết quả điều tra được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2: Tình hình dân số và lao động của xã Quảng Lợi năm 2006
Chỉ tiêu Đơn vị tính Số lượng Tỷ lệ (%)
I. Tổng số hộ hộ 1629 100
Hộ sản xuất nông nghiệp hộ 1254 77
Hộ sản xuất ngư nghiệp hộ 277 17
Hộ công thương và dịch vụ hộ 98 6
II. Tổng nhân khẩu người 7585 100
Nam người 3801 50
Nữ người 3782 50
III. Tổng lao động lao động 4783 100
Nam lao động 2299 48
Nũ lao động 2484 52
IV. Các chỉ tiêu bình quân -
Bình quân nhân khẩu/hộ người 4.6 -
Bình quân lao động/hộ lao động 2.9 -
Bình quân nhân khẩu/lao động người 1.59 -
(Nguồn: báo cáo tổng kết của VPUBND xã Quảng Lợi năm 2006)
Từ bảng trên cho ta thấy, tổng số hộ trong toàn xã là 1629 hộ, trong đó hộ sản
xuất nông nghiệp là 1254 chiếm 77%, hộ ngư nghiệp chiếm 17%, hộ công thương
và dịch vụ chỉ chiếm tỷ lệ 6%. Như vậy, xã Quảng Lợi số hộ sống nhờ vào sản xuất
nông nghiệp còn khá cao. Với 17% số hộ sống nhờ vào thủy sản, chứng tỏ Quảng
Lợi là một xã vùng cát ven biển, ngoài những thế mạnh về nông nghiệp thì Quảng
Lợi còn có thế mạnh về đánh bắt thủy hải sản, đây là một thuận lợi tạo sự phong
phú cho quá trình đa dạng hóa sinh kế của nông dân.
Xét về chỉ tiêu bình quân ta thấy, tỷ lệ nhân khẩu nam và nữ xấp xỉ ngang nhau
nhưng tỷ lệ lao động nữ có cao hơn tỷ lệ lao động nam khoảng 4%. Tuy tỷ lệ này
nhỏ nhưng đây là một bất lợi cho phát triển kinh tế của nông hộ vì đặc trưng của sản
20
xuất nông nghiệp và ngư nghiệp là cần nhiều lao động có sức khỏe như nam giới.

Bình quân nhân khẩu/hộ là 4,6 và bình quân lao động/hộ là 2,9, các tỷ lệ này không
cao, tuy nhiên nó cao hơn mức nhà nước cho phép. Điều này chứng tỏ ở đây tỷ lệ
hộ đông con vẫn còn và lực lượng lao động của nông hộ đang rất dồi dào (khoảng 3
lao động chính trên hộ). Qua bảng trên ta thấy bình quân lao động/nhân khẩu là
1,59 tức là cứ một lao động phải làm nuôi 1,59 người. Đây là một tỷ lệ còn cao, nó
làm giảm khả năng tích lũy tài chính của nông hộ cũng như của xã, điều này đã làm
hạn chế cho phát triển kinh tế xã hội của xã.
4.1.3. Tình hình nghèo đói và thu nhập của xã Quảng Lợi từ năm 1997 - 2006
Nghèo đói là tình trạng kiệt quệ, bao gồm nhiều khía cạnh từ thu nhập hạn chế
đến tính dễ bị tổn thương khi gặp phải những tai ương bất ngờ và ít có khả năng
tham gia vào quá trình ra quyết định chung. Tình hình đói nghèo và thu nhập trên
đầu người trên năm nó giúp cho chúng ta thấy được sự phát triển kinh tế tại một
vùng hay một xã cụ thể tại một thời gian nhất định. Trong nghiên cứu này, chúng
tôi muốn xem xét sự thay đổi số lượng và tỷ lệ hộ nghèo cũng như sự thay đổi thu
nhập/người/năm từ năm 1997 - 2006 ở xã Quảng Lợi, trên cơ sở đã tìm hiểu về
những rủi ro về thời tiết và khí hậu mang lại.
Bảng 3: Tình hình nghèo đói và thu nhập của xã Quảng Lợi từ năm 1997 - 2006
Thứ tự Năm Hộ nghèo
(hộ)
Hộ đói
(hộ)
Tỷ lệ
(%)
Khẩu Thu nhập
(Đ/người/năm)
1 1997 448 57 32 1915 1.514.000
2 1998 356 37 25 1635 1.643.000
3 1999 263 12 19 1325 1.775.000
4 2000 530 0 42 2537 1.840.000
5 2001 510 0 37.5 2470 2.120.000

6 2002 496 0 32 2136 2.356.634
7 2003 399 0 25.6 1795 2.859.000
8 2004 230 0 20 904 3.571.770
9 2005 515 0 34.6 2013 4.459.667
10 2006 465 0 31.3 1813 5.063.000
(Nguồn: Số liệu thống kê của VPUBND xã Quảng Lợi từ năm 1997-2006)
Qua bảng trên ta thấy, ở xã Quảng Lợi đến năm 2000 mới xóa được đói hoàn
toàn, tuy nhiên số lượng hộ đói cũng giảm nhanh từ 57 hộ vào năm 1997 xuống còn
21
12 hộ vào năm 1999 và đến năm 2000 không còn hộ đói nữa. Trong giai đoạn này
tỷ lệ hộ nghèo cũng giảm rất nhanh từ 32% năm 1997 còn lại 19% vào năm 1999,
đây là tỷ lệ thấp nhất từ trước đến nay. Sau cơn lũ lịch sử năm 1999 đến nay tỷ lệ hộ
nghèo lại tăng lên đến 530 hộ chiếm tỷ lệ 42%, như vậy vào lúc này gần một nữa số
hộ ở xã sống dưới ngưỡng nghèo. Điều này cho ta thấy xã Quảng Lợi gặp nhiều khó
khăn để ổn định lại sản xuất cũng như phát triển kinh tế sau trận lũ đi qua.
Sau 5 năm khôi phục hậu qủa do lũ gây ra và thực hiện các chính sách ưu tiên
phát triển kinh tế nhằm mục tiêu xóa đói giảm nghèo nên số lượng hộ nghèo còn lại
là 230 hộ năm 2004 chiếm 20%, và tỉ lệ này lại tăng lên 34,6% vào năm 2005 và
31,3% vào năm 2006 theo chuẩn mới của Bộ LĐ-TBXH.
Mặc dầu tỷ lệ hộ nghèo từ năm 1997 cho đến nay tăng lên và giảm xuống không
đều, nhưng theo bảng trên ta thấy mức độ thu nhập của người dân/người/năm tăng
lên từ 1,5 triệu cho đến nay là trên 5 triệu. Điều này chứng tỏ đời sống của nhân dân
ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên với tỷ lệ hộ nghèo 31,3% và mức thu nhập
mới chỉ 5,05 triệu/người/năm tức là 410.000 đ/người/tháng vẫn còn thấp. Chứng tỏ
Quảng Lợi còn là một xã nghèo, xã khó khăn của nước ta.
Tỷ lệ hộ nghèo cao và thu nhập thấp của nhân dân xã Quảng Lợi một phần có
thể được giải thích từ sự yếu kém của cơ sở hạ tầng và điều kiện khắc nghiệt của
thời tiết. Tuy nhiên nguyên nhân làm thay đổi mức sống của người dân chủ yếu đều
do sự thay đổi hình thức và phương thức sản xuất dẫn đến thay đổi kết quả sinh kế.
Để giả thích rõ hơn tỷ lệ hộ nghèo ở xã Quảng Lợi còn cao nhưng có sự giảm xuống

qua các năm và thu nhập cũng có sự tăng lên tôi đi tìm hiểu sự đa dạng hóa sinh kế
của nhân dân xã Quảng Lợi để xem đa dạng các nguồn thu nhập có khả năng góp
phần xóa đói giảm nghèo thế nào.
4.2. Tình hình đa dạng hóa sinh kế tại xã Quảng Lợi
4.2.1.Tình hình đa dạng hóa trong trồng trọt và chăn nuôi
Sự đa dạng hóa trong trồng trọt của xã Quảng Lợi từ 1997 đến 2006 theo xu
hướng: Thứ nhất, cải tạo và thay đổi giống cây trồng kết hợp với sử dụng phân hóa
học để đem lại năng suất và sản lượng cao hơn. Sự đa dạng có ý nghĩa nhất trong
giai đoạn vừa qua là thay đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa. Còn
trong lĩnh vực chăn nuôi, ở xã Quảng Lợi trong mấy năm qua không có sự thay đổi
về chủng loại vật nuôi nhưng có sự thay đổi về số lượng cũng như hình thức sản
22
xuất của nông hộ. Hiện nay số lượng của từng loại vật nuôi của nông hộ cao hơn
nhiều so với trước kia và đã có nhiều gia trại và trang trại sản xuất có hiệu quả. Để
khẳng định cho những nhận định đó chúng tôi đi phân tích bảng sau.
Bảng 4: Sự đa dạng hóa trong trồng trọt và chăn nuôi từ 1997 đến 2006
Hoạt động sản xuất Đơn vị tính Trước 2000 Năm 2001 Năm 2006
Trồng lúa địa phương Ha 296,2 196,7 48
Trồng lúa nông nghiệp Ha 93,5 148 235
Trồng lạc Ha 95 294 372
Trồng ớt Ha 18 16 28
Trồng đậu đỗ Ha 1,3 24 35
Trồng khoai, sắn 55 43 70
Cây trồng vụ Hè Thu (mè,
dưa hấu)
Ha
0 81 125
Cây trồng xen (ngô, đậu) Ha 0 55 244
Rau màu (rau , nứa) Ha 0 0 19,6
Tổng thu nhập từ trồng trọt Tỷ đồng 2,2 5,2 9,4

Trâu Con 546 762 897
Bò Con 219 247 289
Lợn thịt Con 2816 3910 6580
Lợn nái Con 652 860 1233
Gia cầm Con 17660 50400 33358
Trang trại Cái 0 0 1
Gia trại Cái 0 0 7
Thu nhập từ chăn nuôi Tỷ đồng 8,9 10,6 12,5
(Nguồn: Số liệu thống kê của UBND xã Quảng Lợi từ năm 1997-2006)
Qua bảng trên ta thấy, số lượng loại cây trồng cũng như diện tích từng loại cây
có sự thay đổi khá lớn từ trước 2000 đến nay. Trước 2000 chỉ có 6 loại cây được
trồng và các loại cây có giá trị hàng hóa như lúa nông nghiệp, lạc, đậu đỗ chiếm
diện tích rất ít, lúa nông nghiệp mới chuyển đổi từ lúa địa phương được 93,5 ha, lạc
được 95 ha. Như vậy trong giai đoạn này sản xuất chủ yếu là tự cung tự cấp nên
hiệu quả kinh tế còn thấp, thu nhập từ trồng trọt cả xã là 2,2 tỷ đồng.
23
Sang 2001, số lượng loại cây trồng tăng lên (11 loài) và diện tích từng loài cây
cũng thay đổi rất đáng kể. Giảm dần những loại cây có giá trị hàng hóa và năng suất
thấp (lúa địa phương, khoai, sắn ) tăng diện tích những cây có giá trị hàng hóa, diện
tích đất trồng lạc lên đến 294 ha chiếm diện tích cao nhất trong tất cả các loài cây
trồng, lúa nông nghiệp cũng tăng lên 148 ha. Lúc này đã xuất hiện nhiều loài cây
trồng vụ Hè Thu như mè, dưa hấu (81 ha), trồng xen ngô và đậu đỗ vào lạc được 55
ha, nó cải thiện tình trạng để hoang đất vào vụ Hè Thu trong suốt thời gian trước
kia.
Đến năm 2006, số lượng cây trồng cũng tăng lên (13 loài), đã đưa vào trồng 2
loài cây mới đó là rau màu và cây nứa, diện tích những loài cây có giá trị hàng hóa
cũng tăng lên đáng kể: diện tích đất trồng lạc là 372 ha, đậu đỗ 35 ha, dưa hấu 4,5
ha, diện tích ngô và đậu đỗ trồng xen lên đến 244 ha tăng gấp 5 lần năm 2001. Rau
màu vừa mới đưa vào sản xuất nhưng cũng chiếm diện tích khá cao 19,6 ha.
Tóm lại, trong những năm qua ở xã Quảng Lợi đã có sự chuyển đổi diện tích đất

từ cây trồng có giá trị kinh tế thấp sang cây trồng có giá trị hàng hóa (lạc, đậu trồng
xen, rau màu, lúa nông nghiệp ) và kết hợp đưa vào một số cây trồng để đưa vào
sản xuất vụ Hè Thu (như mè, dưa hấu, đậu đỗ…), làm cho thu nhập từ trồng trọt
trên toàn xã là 9,4 tỷ đồng tăng gấp đôi 2001. Đây là chiều hướng đa dạng hóa có
hiệu quả, nó góp phần tăng thu nhập cũng như nâng cao đời sống xã hội của nhân
dân, sâu xa hơn nó góp phần xóa đói giảm nghèo ở địa phương.
Qua bảng trên ta thấy, từ năm 2001 đến nay số lượng vật nuôi như trâu bò, lợn
thịt, lợn nái đều tăng lên đáng kể, trong đó có trâu và lợn thịt là tăng lớn nhất. Năm
2006 số lượng trâu là 897 con tăng gần gấp đôi năm 2001. Và số lượng lợn thịt lớn
đến 6580 tăng gần gấp ba năm 2001 và gấp đôi 2004. Lợn nái cũng tăng nhiều đến
nay đã có 1233 con. Sự tăng lên về số lượng lợn thịt, lợn nái có thể giải thích cho sự
ra đời của 1 trang trại và 7 gia trại lợn vào năm 2006 ở xã.
Qua tìm hiểu người dân và cán bộ địa phương ở xã Quảng Lợi, tôi thấy ở đây
ngoài sự tăng lên về số lượng gia súc đã có sự thay đổi rất lớn về hình thức sản xuất
trong chăn nuôi. Trước đây hầu như nuôi trâu bò để phục vụ cho cày kéo nên chủ
yếu là nuôi trâu bò đực, nuôi khoảng 1-2 con/hộ. Nhưng hiện nay việc cày kéo đều
được cơ khí hóa thì nông hộ chuyển sang nuôi trâu bò theo hướng hàng hóa nên chủ
yếu nuôi trâu bò mẹ để bán nghé, nuôi khoảng 2-4 con. Trong lĩnh vực nuôi lợn thịt,
24
trước kia hộ gia đình chủ yếu nuôi lợn thịt để tận dụng phế phẩm trong gia đình,
nuôi từ 1-2 con nên thu nhập từ chăn nuôi lợn chỉ là là nguồn thu phụ của gia đình.
Nhưng đến nay qua tìm hiểu tôi thấy, các hộ đã kết hợp giữa nuôi nhiều lợn nái hơn
và tách đàn lợn con để nuôi lợn thịt với số lượng nhiều hơn. Trong chăn nuôi lợn
các hộ đã sử dụng thức ăn công nghiệp, cho nên thời gian nuôi một lứa ngắn lại và
sản lượng lợn xuất chuồng và lợn con tăng lên, từ đó mức độ thu nhập của nông hộ
cao hơn trước nhiều.
Như vậy hiện nay mức độ đầu tư của các nông hộ về vốn và lao động cho chăn
nuôi lợn cũng đã tăng lên. Từ đó thu nhập từ chăn nuôi lợn của một số gia trại trở
thành nguồn thu nhập chính.
Trước năm 2000, gia đình chị Trần Thị Lệ thôn Thủy Lập, xã Quảng Lợi sản

xuất chủ đạo là trồng trọt với 9 sào trồng lúa địa phương và 5 sào trồng lạc, ớt,
Trong chăn nuôi mới chỉ nuôi 2 mẹ lợn nái, xuất chuồng 36 lợn con trong năm,
nuôi lợn thịt 2 lứa/năm và 2 con/lứa. Tổng cộng thu nhập bằng tiền mặt của trồng
trọt và chăn nuôi khoảng 7,57 triệu/năm. Tổng số tiền thu vào không đủ để chi cho
mua vật tư (3,5 triệu), ăn mặc, học hành của con cái. Đến 2003, chị đã vay 5 triệu
của hội phụ nữa và đầu tư vào xây thêm 2 ô chuồng lợn nái và 3 ô chuồng lợn thịt.
Khi nuôi có lãi gia đình chị đã đầu tư và mở rộng thêm quy mô sản xuất, đến nay
tổng đàn lợn tăng lên đáng kể và gia đình chị đã trở thành một trong 7 gia trại nuôi
lợn đầu tiên ở xã Quảng Lợi, với 7 con lợn nái, sinh 2 lứa/năm, 10 con/lứa/mẹ, sản
lượng lợn con là 8,4 tạ/năm, cho thu nhập tiền mặt 12,6 triệu lãi ròng 6,2 triệu.
Hiện nay, nắm bắt tình hình thị trường có nhu cầu về lợn thịt cao, gia đình đã
tích lũy và học hỏi được nhiều kinh nghiệm sản xuất qua bạn hàng. Đồng thời chị
đã liên kết được với các lò mổ để giải quyết đầu ra cho sản phẩm. Bởi vậy năm
2005, chị đã mạnh dạn tăng qui mô nuôi lơn thịt lên 40 con/lứa và 3 lứa/năm, nuôi
theo phương thức công nghiệp. và trong năm sản lượng xuất chuồng khoảng 72 tạ,
cho thu tiền mặt là 93,6 triệu, lãi ròng từ 25-30 triệu. Như vậy bình quân gia đình
chị có thể thu tiền mặt từ chăn nuôi lợn khoảng 100 triệu và lãi ròng khoảng 30-35
triệu.
Trong vòng 5 năm đầu tư vào sản xuất lợn, gia đình chị đã trả hết nợ ban đầu, và
có đủ điều kiện để cho con đi học đại học, mua sắm thêm được nhiều dụng cụ gia
đình như xe máy, ti vi, tủ, bàn…và đặc biệt gia đình chị đã có vốn tích lũy để đầu tư
25

×