Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

tìm hiểu giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu trong hoạt động sản xuất lúa của người dân xã phú thanh, huyện phú vang, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (911.21 KB, 57 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Biến đổi khí hậu (BĐKH) hiện nay đang thay đổi theo chiều hướng xấu.
Nguyên nhân của sự biến đổi này là do nhiệt độ của bầu khí quyển tăng lên
dưới sự tác động của con người (90% là do con người gây ra, IPCC) [9]. Điều
này làm thay đổi các quy luật của khí quyển và những biểu hiện của thời tiết
trên phạm vi toàn cầu. Sự biến đổi này sẽ làm trầm trọng thêm mức độ tác
động của thiên tai tới cuộc sống và các hoạt động sản xuất. Hàng trăm triệu
người có thể phải lâm vào nạn đói, thiếu nước và lụt lội tại vùng ven biển do
trái đất nóng lên. Sử dụng kết quả thu được từ các mô hình kinh tế, Nicholas
Stern tính toán rằng nếu chúng ta không hành động, tổng chi phí và rủi ro do
BĐKH gây ra, tương đương với thiệt hại mỗi năm ít ra là 5% GDP toàn cầu
kể từ nay trở đi. Nếu xét đến rủi ro và tác động với biên độ rộng hơn thì thiệt
hại (hàng năm) được ước tính vào khoảng 20% GDP hoặc lớn hơn. Ngược lại,
chi phí cho hành động giảm phát thải khí nhà kính, nhằm tránh những tác
động xấu nhất của BĐKH, có thể chỉ giới hạn trong phạm vi 1% GDP hàng
năm. Biến đổi khí hậu sẽ tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới, những
nạn nhân nhạy cảm nhất bao gồm các quốc gia và các tầng lớp dân chúng
nghèo nhất, sẽ phải hứng chịu sớm nhất và nặng nề nhất, mặc dù họ lại góp
phần nhỏ nhất trong việc tạo ra các nguyên nhân BĐKH. Những phí tổn do
các hiện tượng thời tiết cực trị gây ra, trong đó phải kể đến lũ lụt, hạn hán,
bão, đã bắt đầu gia tăng ngay cả đối với những nước giàu [11].
Việt Nam là quốc gia nằm trên bán đảo lớn của Biển Đông thông ra
Thái Bình Dương, được đánh giá là một trong năm quốc gia bị ảnh hưởng
nhiều nhất bởi sự biến đổi khí hậu toàn cầu [7]. Trong khoảng 50 năm qua,
nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam tăng khoảng 0,7
0
C, mực nước biển đã
dâng khoảng 20 cm. Theo tính toán, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam có thể
tăng lên 3
0


C và mực nước biển có thể dâng 1 m vào năm 2100. Nếu mức nước
biển dâng 1 m, khoảng 40 ngìn km
2
đồng bằng ven biển nước ta sẽ bị ngập
hàng năm. Trong đó 90% diện tích thuộc các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long
bị ngập hầu như hoàn toàn. Và sẽ có khoảng 10% dân số bị ảnh hưởng trực
tiếp, tổn thất đối với GDP khoảng 10%. Nếu nước biển dâng 3 m sẽ có
khoảng 25% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất đối với GDP lên tới
25% [9]. Hậu quả của biến đổi khí hậu đối với Việt Nam rất nghiêm trọng, là
nguy cơ hiện hữu làm mòn đi khả năng thực hiện các mục tiêu xóa đói, giảm
nghèo cho việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững
của đất nước.
Thừa Thiên Huế là tỉnh thuộc miền Trung của Việt Nam, đây là vùng
thường xuyên chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu gây ra. Trong bối cảnh
đó, sự tác động của biến đổi khí hậu tại Thừa Thiên Huế càng trầm trọng hơn.
Trong số các lĩnh vực sản xuất của tỉnh thì sản xuất nông nghiệp là lĩnh vực
chịu tác động lớn nhất. Chỉ tính trong vòng 5 năm trở lại đây, tổng thiệt hại
trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh lên trên 1.000 tỷ đồng. Và ước
tính, tỉnh Thừa Thiên Huế sẽ mất đến 8,33% GDP nếu như nước biển dâng
lên 50 cm và khi nước biển dâng cao 1m vào năm 2100 thì trên 20% số diện
tích đất sản xuất nông nghiệp và rừng phòng hộ ven sông, ven biển sẽ bị mất
do ngập lụt và nhiễm mặn [2]. Với hơn 3/4 dân số sống ở nông thôn và 2/3
dân số phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp thì việc đối mặt với sự biến đổi
khí hậu như hiện nay là điều khó khăn đối với Thừa Thiên Huế [14]. Trong đó
trồng lúa là hoạt động sản xuất chịu tác động của biến đổi khí hậu mạnh nhất
tại các địa phương trong toàn tỉnh.
Trước thực trạng đó, việc thích ứng với biến đổi khí hậu nhằm giảm tác
động do biến đổi khí hậu gây ra cho hoạt động sản xuất lúa trở thành một vấn
đề cấp thiết nhằm duy trì sinh kế cho người dân. Để tìm ra được các giải pháp
thích ứng phù hợp thì việc tìm hiểu người dân đã và đang thích ứng như thế

nào đóng vai trò rất quan trọng.
Xuất phát từ vấn đề đó tôi tiến hành đề tài: "Tìm hiểu giải pháp thích
ứng với biến đổi khí hậu trong hoạt động sản xuất lúa của người dân xã
Phú Thanh, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế"
2
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Xác định các biểu hiện của biến đổi khí hậu tại điểm nghiên cứu
- Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu tới hoạt động sản xuất lúa của
người dân
- Tìm hiểu và đánh giá các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu của
người dân trong hoạt động sản xuất lúa
3
PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Biến đổi khí hậu và biểu hiện của biến đổi khí hậu
2.1.1. Một số khái niệm liên quan
2.1.1.1. Thời tiết
Là điều kiện hay trạng thái của không khí, đặc trưng bởi một tập hợp các
yếu tố khí tượng như: Nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm, áp suất không khí, lượng gió,
mây, ánh sáng mặt trời, xảy ra với địa điểm và thời gian nhất định [1].
2.1.1.2. Khí hậu
Là điều kiện trung bình của thời tiết trong khoảng thời gian nhất định
(thường là 30 năm, WMO) [1].
2.1.1.3. Các hiện tượng thời tiết cực đoan
Bao gồm các hiện tượng như lũ lụt, hạn hán, bão - áp thấp nhiệt đới, rét …
Lũ lụt là hiện tượng nước sông dâng lên cao trong khoảng thời gian nhất
định, sau đó giảm dần. Khi lũ lớn, nước lũ tràn qua bờ sông, bờ đê, chảy vào
vùng thấp trũng và gây ngập trên diện rộng thì được gọi là lụt [15].
Hạn hán trong sản xuất nông nghiệp được hiểu là thiếu độ ẩm đối với
một thời vụ hay thời kỳ sản xuất trung bình. Điều này xảy ra ngay cả khi mưa
ở mức trung bình, nhưng lại do điều kiện khác gây ra như: tính chất đất, kỹ

thuật canh tác hay hệ thống kênh mương không đảm bảo [3].
Bão và áp thấp nhiệt đới là một xoáy thuận nhiệt đới phát triển mạnh
tạo nên một vùng gió lớn, xoáy mạnh và mưa to trải ra trên diện rộng [12].
Rét là hiện tượng thời tiết khi xuất hiện làm trời trở lạnh và thời tiết
xấu, nhiệt độ không khí giảm mạnh và thường kèm theo mưa nhỏ đến mưa vừa,
thời gian đặc trưng là vào thời kỳ gió mùa mùa đông nên còn gọi là "gió mùa
đông bắc" [16].
Trên đây là những hiện tượng thời tiết cực đoan điển hình, ngoài ra còn
có các hiện tượng khác như dông, mưa đá, sương muối
2.1.1.4. Biến đổi khí hậu
Theo báo cáo của uỷ ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC)
năm 2007, biến đổi khí hậu được hiểu là mọi thay đổi của khí hậu theo thời
gian do sự thay đổi tự nhiên hoặc kết quả hoạt động của con người [6], [3].
4
Với định nghĩa này, nguyên nhân của biến đổi khí hậu là do chính bản thân
của điều kiện tự nhiên, nội tại của nó hoặc là do bên ngoài tác động vào.
Còn nghiên cứu của tổ chức chiến lược quốc tế về giảm thiểu thiên tai
(ISDR, 2008), đã đưa ra khái niệm rõ ràng hơn về biến đổi khí hậu đó là: Biến
đổi khí hậu là sự biến động giữa năm này và năm khác được ghi nhận qua các
số liệu thống kê của các điều kiện bất thường như: Bão, lũ lụt, hạn hán bất
thường. Quan điểm ở đây về biến đổi khí hậu chính là sự ghi nhận lại những
hiện tượng bất thường theo thời gian. Mốc đánh dấu thời gian biến đổi khí
hậu từ 30 năm trở lên [3].
Theo Rex và đồng tác giả (2007), biến đổi khí hậu ở Việt Nam đó là gia
tăng nhiệt độ và ngày càng nóng trong mùa hè và nhiệt độ cực thấp và kéo dài
vào mùa đông, cũng như tần suất và cường độ của lụt, hạn, bão, rét hại và
mưa thất thường xảy ra trong năm [6].
2.1.1.5. Biến động khí hậu
Là những thay đổi của các yếu tố khí hậu hoặc các hiện tượng khí hậu
cực đoan không theo một xu thế nhất định (khoảng thời gian xem xét ngắn

hơn biến đổi khí hậu) [1].
2.1.2. Biểu hiện của biến đổi khí hậu trên thế giới và Việt Nam
2.1.2.1. Biểu hiện của biến đổi khí hậu trên thế giới
Sự thay đổi của khí hậu toàn cầu đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ.
Theo báo cáo đánh giá lần thứ 4 của IPCC, sự nóng lên toàn cầu của hệ thống
khí hậu hiện nay là chưa từng có và rất rõ ràng từ những quan trắc nhiệt độ và
đại dương trung bình toàn cầu, sự tan chảy của băng và tuyết trên phạm vi
rộng lớn và sự dâng lên của mực nước biển trung bình toàn cầu. Xu thế tăng
nhiệt độ trong chuỗi số liệu 100 năm (1906 - 2005) là 0,74
0
C. Xu thế tăng
nhiệt độ trong 50 năm gần đây là 0,13
0
C/1 thập kỷ, gấp 2 lần xu thế tăng của
100 năm qua [9].
Nhiệt độ trung bình ở Bắc cực đã tăng với tỷ lệ 1,5
0
C/100 năm, gấp 2
lần tỷ lệ tăng trung bình toàn cầu, nhiệt độ trung bình ở Bắc cực trong 50 năm
cuối thế kỷ 20 cao hơn bất kỳ nhiệt độ trung bình của 50 năm nào khác trong
500 năm gần đây và có thể là cao nhất, ít nhất là trong 1.300 năm qua.
5
Nhiệt độ trung bình ở đỉnh lớp băng vĩnh cửu ở Bắc bán cầu đã tăng 3
0
C
kể từ năm 1980. 11 năm trong số 12 năm gần đây (1995 - 2006) nằm trong số
12 năm nóng nhất trong chuỗi quan trắc bằng máy kể từ năm 1850 [9].
Mực nước biển trung bình toàn cầu đã tăng với tỷ lệ trung bình 1,8
mm/năm trong thời kỳ 1961 - 2003 và tăng nhanh hơn với tỷ lệ 3,1 mm/năm
trong thời kỳ 1993 - 2003. Tổng cộng, mực nước biển trung bình toàn cầu đã

tăng lên 0,31m trong 100 năm gần đây.
Chính sự tan băng ở Greenland, Bắc cực và Nam cực đã làm cho mực
nước biển tăng nhanh hơn trong thời kỳ 1993 - 2003. Ngoài ra, nhiệt độ trung
bình của đại dương toàn cầu tăng lên (ít nhất là tới độ sâu 3.000m) cũng góp
phần vào sự tăng lên của mực nước biển.
Số liệu vệ tinh cho thấy, diện tích biển băng trung bình năm ở Bắc Cực
đã thu hẹp 2,7%/thập kỷ. Riêng mùa hè giảm 7,4%/thập kỷ. Diện tích cực đại
của lớp phủ băng theo mùa ở Bắc bán cầu đã giảm 7% kể từ năm 1990, riêng
trong mùa xuân giảm tới 15% ([9].
Trong thế kỷ 20, trung bình mực nước biển dâng tại Châu Á là 2,4
mm/năm và chỉ riêng thập kỷ vừa qua là 3,1 mm/năm, và dự báo tiếp tục tăng
cao hơn trong thế kỷ 21 ít nhất từ 2,8-4,3 mm/năm. Trong thế kỷ 21, bão nhiệt
đới sẽ tăng lên cả về số lượng và cường độ (từ 10-20%), hiện tượng El Nino
và La Nina cũng hoạt động mạnh hơn cả về tần suất và cường độ. Mưa lớn sẽ
xảy ra nhiều hơn và kéo theo hậu quả là lũ lụt xảy ra triền miên tại nhiều nơi
trên thế giới. Mùa đông sẽ ngắn lại và số ngày lạnh sẽ ít hơn so với trước đây.
Những đợt nắng nóng sẽ khốc liệt hơn vào mùa hè ở nhiều nơi trên thế giới
dẫn đến hạn hán và đói nghèo, nhất là châu Phi và châu Á. Các vùng nhiệt đới
và duyên hải, đặc biệt là các nước đang phát triển sẽ chịu những hậu quả nặng
nề nhất do BĐKH gây ra [5].
2.1.2.2. Biểu hiện của biến đổi khí hậu tại Việt Nam
Nằm trong vùng nhiệt đới của Bắc bán cầu, một phần từ những thay đổi
chung của khí hậu toàn cầu, Việt Nam có một số thay đổi của khí hậu cụ thể.
Nhiệt độ không khí trung bình năm đã tăng trung bình 0,7
0
C. Số đợt
không khí lạnh ảnh hưởng đến Việt Nam giảm rõ rệt trong 2 thập kỷ gần đây,
từ 29 đợt mỗi năm trong các thập kỷ 1970-1980 xuống còn 24 đợt mỗi năm
6
trong thập kỷ 1990, đặc biệt trong các năm 1994 và 2007, chỉ có 15 - 16 đợt

mỗi năm [10].
Số cơn bão hoạt động trên Biển Đông và ảnh hưởng đến Việt Nam có xu
thế giảm trong 4 thập kỷ qua: Ở Việt Nam, từ 74 cơn trong thập kỷ 1960 xuống
còn 68 cơn trong thập kỷ 1990, số cơn bão mạnh có chiều hướng tăng lên, mùa
bão kết thúc muộn hơn, quỹ đạo bão có vẻ dị thường hơn và số cơn bão ảnh
hưởng tới khu vực Nam Bộ có phần tăng lên trong những năm gần đây.
Số ngày mưa phùn ở miền Bắc giảm một nửa, từ trung bình 30 ngày
mỗi năm trong thập kỷ 1960 xuống còn 15 ngày mỗi năm trong thập kỷ 1990.
Lượng mưa biến đổi không nhất quán giữa các vùng. Riêng trong hai thập kỷ
gần đây, lượng mưa năm ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh có xu hướng giảm đi,
trong khi ở Đà Nẵng có xu hướng tăng lên. Hạn hán có xu hướng mở rộng ở
hầu hết các vùng, đặc biệt là cực Nam Trung Bộ, dẫn đến gia tăng hiện tượng
hoang mạc hóa. Mực nước biển trung bình đã tăng 25 - 30cm trong khoảng 50
năm qua [10].
Hiện tượng El Nino và La Nina ảnh hưởng đến nước ta mạnh mẽ hơn
trong vài thập kỷ gần đây, gây ra nhiều kỷ lục có tính dị thường về thời tiết
như nhiệt độ cực đại, nắng nóng và hạn hán gay gắt trên diện rộng, cháy rừng
khi có El Nino, điển hình là năm 1997 – 1998, mưa lớn, lũ lụt và rét hại khi
có La Nina như năm 2007 [14].
2.1.2.3. Biểu hiện của biến đổi khí hậu ở Thừa Thiên Huế
Tại Thừa Thiên Huế, sự thay đổi khí hậu còn đậm nét hơn các nơi khác.
Nhiệt độ trung bình năm ở Thừa Thiên Huế trong mấy thập kỷ qua không có
dấu hiệu tăng lên rõ rệt, tuy nhiên trong những thập kỷ gần đây thường xảy ra
nhiều đợt nắng nóng hoặc rét đậm. Trong đó xu hướng tăng nhiệt độ ở vùng
núi có chiều hướng tăng nhanh hơn vùng ven biển. Cường độ mưa tăng rõ rệt,
trong vòng 50 năm trở lại đây, lũ lụt xảy ra thường xuyên hơn nửa đầu thế kỷ
trước [8]. Cường độ mưa sẽ tăng khoảng 5 - 10%, sự dị thường dẫn đến lũ lụt,
hạn hán và xâm nhập mặn sẽ nhiều hơn [9].
Từ năm 1952 đến 2008 đã có 36 cơn bão ảnh hưởng trực tiếp đến Thừa
Thiên Huế. Không những thế, mực nước biển và đỉnh lũ lần sau luôn cao hơn

lần trước, mùa bão thường đến sớm và kết thúc muộn [8]. Dòng chảy lũ có xu
7
thế tăng do cường độ mưa tăng. Mực nước biển sẽ tiếp tục dâng cao thêm
khoảng 30 - 90 cm đến cuối thế kỷ này so với hiện nay. Trung bình hàng năm
ở Thừa Thiên Huế chịu ảnh hưởng của 4 - 5 trận lũ trên báo động II và 2 - 3
trận lũ trên báo động III. Những năm chịu ảnh hưởng của La nina số lượng lũ
tăng lên và đỉnh lũ cao hơn rõ rệt như những năm 1975, 1995, 1998 và 1999.
Trong khi đó những năm chịu ảnh hưởng của hiện tượng El nino ít lũ hơn và
đỉnh lũ thấp như các năm 1982, 1987, 1991, 1994 và 1997 [9].
2.2. Tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp
Biến đổi khí hậu (BĐKH) tác động lên tất cả các lĩnh vực như tài
nguyên, môi trường, kinh tế -xã hội và sức khoẻ con người trên phạm vi toàn
cầu. Nhưng trong đó sản xuất nông nghiệp là lĩnh vực chịu tác động mạnh
nhất của BĐKH vì tính chất phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, khí hậu cao.
Tuy nhiên, mức độ tác động của BĐKH có khác nhau tuỳ thuộc vào những
đặc trưng về điều kiện địa lý, trình độ phát triển và các hành động ứng phó
của từng vùng, miền và từng quốc gia cụ thể [14].
Theo báo cáo đánh giá thứ 4 của IPCC cho thấy, tác động chính của
biến đổi khí hậu lên cây lương thực và những loại cây khác khi nhiệt độ, bức
xạ thay đổi là năng suất. Sự tác động này phụ thuộc vào thời gian và mức độ
khí hậu biến đổi. Ở vùng nhiệt đới, nhiệt độ trung bình tăng lên ảnh hưởng
xấu tới năng suất của phần lớn cây ngũ cốc. Biến đổi khí hậu làm cho nhu cầu
tưới tiêu lớn hơn nhiều và làm phát sinh dịch bệnh trên cây trồng và động vật
nuôi cũng như xói mòn đất và sa mạc hoá. Theo kết luận của Hội nghị về
nông nghiệp và biến đổi khí hậu tại Hyderabad (Ấn Độ, 11/ 2010) thì biến đổi
khí hậu đã, đang và sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nông nghiệp gồm thủy lợi, trồng
trọt và chăn nuôi, làm giảm chất lượng của lương thực cùng các loại thực
phẩm khác trên bàn ăn của mọi gia đình. Điều này cảnh báo rằng trong tương
lai hàng tỷ người nghèo trên thế giới, dù là ở các nước sản xuất hay tiêu thụ,
sẽ phải chịu gánh nặng về lương thực thực phẩm [5].

Việt Nam là một nước nông nghiệp truyền thống với 75% dân số sống
bằng nông nghịệp và 70% lãnh thổ là nông thôn với cuộc sống người dân còn
phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên mà chủ yếu là khí hậu. Trong bối cảnh
8
biến đổi khí hậu toàn cầu, Việt Nam là một trong những nước bị tác động
mạnh nhất.
Trong 10 năm gần đây, hạn hán đã hoành hành gây hậu quả nặng nề đối
với sản xuất nông lâm nghiệp của nhiều địa phương, đặc biệt là miền Trung
và Tây nguyên, theo số liệu thống kê các tỉnh, đợt hạn từ cuối năm 1997 đến
tháng 4/1998, thiệt hại của các tỉnh miền Trung riêng về nông nghiệp đã lên
1.400 tỷ đồng. Trong 5 năm gần đây, các tỉnh đồng bằng Sông Hồng liên tục
phải đối phó với tình trạng hạn hán gay gắt trong vụ đông xuân do mực nước
Sông Hồng liên tục xuống thấp dưới mức lịch sử trong vòng 100 năm qua.
Theo một báo cáo của ngân hàng thế giới (WB), trong trường hợp mực nước
biển dâng lên 1 m, trên 7% diện tích đất nông nghiệp của Việt Nam bị ngập
lụt. Với mức độ ảnh hưởng như vậy, nếu chỉ tính riêng thiệt hại do mất đất
sản xuất tại vùng bị ngập thì ước tính tổng sản lượng lương thực của nước ta
sẽ giảm khoảng 12% (xấp xỉ 5 triệu tấn) [2].
Thừa Thiên Huế là tỉnh ven biển của Việt Nam có nền sản xuất chủ yếu
là nông nghiệp. Trước sự diễn biến phức tạp của biến đổi khí hậu đã làm ảnh
hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Chỉ tính trong vòng 5 năm trở
lại đây, tổng thiệt hại trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh lên trên
1.000 tỷ đồng. Và ước tính, tỉnh Thừa Thiên Huế sẽ mất đến 8,33% GDP nếu
như nước biển dâng lên 50 cm và khi nước biển dâng cao 1m vào năm 2100
thì trên 20% số diện tích đất sản xuất nông nghiệp và rừng phòng hộ ven
sông, ven biển sẽ bị mất do ngập lụt và nhiễm mặn [2].
Sản xuất nông nghiệp hiện nay vẫn chủ yếu dựa trên các hộ cá thể, quy
mô nhỏ, trình độ khoa học kỹ thuật chưa cao. Đây là một thách thức lớn dưới
tác động của biến đổi khí hậu. Sản xuất nông nghiệp của chúng ta hiện nay
còn phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết, khí hậu. Khi tính biến động và dị thường

của thời tiết và khí hậu tăng sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sản xuất nông nghiệp,
nhất là trồng trọt [14].
Như vậy, biến đổi khí hậu toàn cầu đã, đang và sẽ gây tác động tới
tất cả các quốc gia và khu vực trên thế giới với từng mức độ khác nhau.
Trong các lĩnh vực sản xuất thì nông nghiệp đang là ngành chịu tác động
9
mạnh nhất khi biến đổi khí hậu xảy ra và sẽ đe dọa đến tình hình an ninh
lương thực thế giới.
2.3. Ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu
2.3.1. Khái niệm ứng phó với biến đổi khí hậu
Ứng phó với biến đổi khí hậu là các hoạt động của con người nhằm hạn
chế mức độ tác động và giảm nhẹ tổn thương do biến đổi khí hậu gây ra [17].
2.3.2. Khái niệm thích ứng với biến đổi khí hậu
Thích ứng với biến đổi khí hậu là sự điều chỉnh hệ thống tự nhiên hoặc
con người đối với hoàn cảnh hoặc môi trường thay đổi, nhằm mục đích giảm
khả năng bị tổn thương do dao động và biến đối khí hậu hiện hữu hoặc tiềm
tàng và tận dụng các cơ hội do nó mang lại [1].
Khi xem xét thích ứng trên phương diện thời gian, Osbahr (2008) cho
rằng các hành động để điều chỉnh các hệ thống sản xuất hiện tại khi có biến
đổi khí hậu xảy ra trong một thời gian dài thì được gọi là thích ứng với biến
đổi khí hậu [6].
2.3.3. Các loại thích ứng với biến đổi khí hậu
Để hiểu tốt hơn sự đa dạng của phạm vi thích ứng và phát triển khung
phân tích, thích ứng có thể được chia thành các loại thích ứng khác nhau.
Thích ứng có thể bao gồm phản ứng lại, phòng ngừa trước, tự chủ, và có kế
hoạch [6].
Thích ứng qua các hoạt động phản ứng trở lại bao gồm cơ quan, cá nhân,
cây trồng và động vật có thể đối phó với biến đổi khí hậu sau khi nó xảy ra.
Thích ứng qua các hoạt động đề phòng trước là có tính toán để đưa ra
các quyết định chuẩn bị cho tiềm năng tác động của biến đổi khí hậu. Các

hoạt động thích ứng mang tính chất phòng ngừa trước yêu cầu phải có sự nhìn
nhận trước sự việc và có kế hoạch trong khi đó thích ứng phản ứng không đòi
hỏi nhưng nó có thể bao gồm cả việc dự đoán trước và đưa ra kế hoạch.
Thích ứng theo phương thức tự chủ như là các điều chỉnh một cách tự nhiên
hoặc các điều chỉnh không do tác động bên ngoài trong việc đối mặt với BĐKH,
có nghĩa là không có sự can thiệp trực tiếp của chính quyền hay con người.
10
Thích ứng có kế hoạch đòi hỏi có các hành động chiến lược dựa vào kiến
thức của BĐKH và hành động cần thiết để có thể ứng phó tốt hơn khi có sự
thay đổi. Tiềm năng của thích ứng có kế hoạch bao gồm chia sẽ thiệt hại, điều
chỉnh lại những đe dọa, ngăn chặn hoặc giảm tác động của biến đổi khí hậu.
Tóm lại, hiểu được khái niệm thích ứng và các loại thích ứng nhằm mục
đích nghiên cứu thích ứng với BĐKH, điều này là rất quan trọng và cần thiết,
nó có thể cung cấp rất nhiều cơ hội để giảm thiểu tác động của BĐKH, giảm
tính dễ bị tổn thương và rủi ro cho con người, môi trường và tự nhiên trong
bối cảnh BĐKH đang xảy ra.
2.3.4. Một số giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu trong sản xuất
nông nghiệp.
Thích ứng trong sản xuất nông nghiệp có rất nhiều hình thức bao gồm
thay đổi mùa vụ sản xuất, chọn loài hoặc giống cây trồng vật nuôi, phát triển
các giống mới, cải thiện nguồn cung cấp nước và hệ thống thủy lợi, kỹ thuật
trên đất trồng trọt điều chỉnh và quản lý đầu vào, cải thiện các điều kiện thời
tiết và mùa vụ thông qua dự báo [6].
Giống cây trồng và vật nuôi
Đối tượng của sản xuất nông nghiệp chủ yếu là cây trồng và vật nuôi.
Việc có được cây và con giống tốt là điều kiện quan trọng để phát triển sản
xuất nông nghiệp. Giống cây trồng và vật nuôi là yếu tố quan trọng và yếu tố
quyết định năng suất, chất lượng cũng như khả năng chống chịu với thay đổi
của các tác nhân tác động thông qua yếu tố gen di truyền. Vì vậy, trong bối
cảnh biến đổi khí hậu, thích ứng trên phương diện giống cây trồng và vật nuôi

là thích ứng đầu tiên để đảm bảo sản xuất nông nghiệp tiếp tục.
Trong điều kiện nhiệt độ không khí có xu hướng ngày càng tăng, sự gia
tăng các hiện tượng bất thường về các hiện tượng thời tiết cực đoan, gia tăng
mực nước biển, thay đổi môi trường dẫn đến việc xuất hiện nhiều dịch bệnh đã
và đang gây ra những khó khăn đối với sản xuất nông nghiệp và đảm bảo an
ninh lương thực. Việc sử dụng nhiều giống chịu hạn, chịu nhiệt trong vùng bị
khó khăn của nguồn nước; sử dụng nhiều giống kháng với sâu hại và dịch
bệnh; sử dụng nhiều giống chịu mặn; giới thiệu giống năng suất cao và chín
sớm ở các vùng lanh. Trong lĩnh vực chăn nuôi: sử dụng giống vật nuôi có khả
11
năng chịu đựng lớn với biến đổi khí hậu và năng suất cao, sử dụng các giống cỏ
tự nhiên. Trong lĩnh vực thủy sản: sử dụng giống chịu đựng nhiệt độ nước cao.
Đây là những giải pháp thích ứng tốt trong điều kiện biến đổi khí hậu
Lựa chọn cây trồng và các loại cây có khả năng chịu đựng với nhiệt độ
cao, hạn hán, độ mặn cao trong đât, kháng cự được với sâu bệnh là các lựa
chọn thích ứng với biến đổi khí hậu mà tổ chức lương thực thế giới đưa ra.
Đa dạng hóa các nguồn gen của vật nuôi là rất quan trọng đối với an
ninh lương thực và phát triển nông thôn. Nó cho phép nông dân lựa chọn các
loại giống mới để đối phó và thích nghi với môi trường ngày một thay đổi
như hiện nay. Bên cạnh đó, lựa chọn nhiều giống vật nuôi thông qua các hình
thức đa dạng hóa trong chăn nuôi cũng là một hình thức ứng đối với lĩnh vực
giống chăn nuôi hiện nay.
Như vậy, để thích ứng với biến đổi khí hậu trong hoạt động sản xuất
nông nghiệp. Chúng ta cần chọn những giống có khả năng thích ứng tốt trước
tác động của biến đổi khí hậu. Đặc biệt là những giống có nguồn gốc bản địa,
đã trãi qua một thời gian dài chuyển đổi để thích ứng trong những điều kienj
sản xuất khó khăn. Mặt khác trong quá trình nghiên cứu thích ứng với biến
đổi khí hậu trong lĩnh vực giống cây trồng và vật nuôi cần phải nghiên cứu
từng loại giống thích ứng trong mỗi vùng và điều kiện cụ thể [9].
Phương thức sản xuất

Thích ứng trong phương thức sản xuất bao gồm thay đổi cơ cấu cây
trồng trên một đơn vị diện tích hay liên kết các loại cây trồng và vật nuôi
trong một hệ thống sản xuất.
Việc thay thế phương thức sản xuất đọc canh và nuôi đơn con bằng các
phương thức kết hợp giữa cây trồng và vật nuôi trong một trang trại cũng như
thay đổi phương thức sản xuất quá chú trọng vào đầu tư phân bón và kỹ thuật
công nghệ cao bằng các kiến thức bản địa dường như thích hợp trong điều
kiện biến đổi khí hậu đặc biệt là đối với nông dân có điều kiện kinh tế thấp.
Để thích ứng với các biến đổi khí hậu, các vùng khác nhau phải có cách
bảo tồn trong nông nghiệp, chất hữu cơ trong đất và đối phó với các rủi ro
trong sản xuất. Vì vậy các phương thức sản xuất như kết hợp chặt chẽ trong
việc luân canh cây trồng, nông lâm kết kết hợp, liên kết giữa trồng trọt và
12
chăn nuôi, hệ thống cá - cây, hệ thống cây trồng theo theo ruộng bậc thang và
các hệ thống canh tác kết hợp khác đa được áp dụng rộng rãi tại nhiều vùng
được xem là thích ứng trong phương sản xuất.
Phương thức sản xuất kết hợp giữa nông nghiệp - lâm nghiệp theo hệ
thống là một hình thức thích ứng tốt với biến đổi khí hậu ở khu vực vùng
miền núi và các vùng cát nội đồng thông qua thay đổi tiểu khí hậu, cải thiện
có hiệu quả sử dụng đất, nguồn nước và khí hậu, đóng góp vào cải thiện độ
phì nhiêu của đất, giảm sự phát thải khí CO
2
và tăng sự cố định CO
2
. Sự kết
hợp giữa cây lâm nghiệp, cây trồng và chăn nuôi trong một hệ thống nhằm
giảm tính rủi ro khi biến đổi khí hậu tác động đồng thời các thành phần trong
hệ thống canh tác bổ trợ cho nhau [9].
Thời vụ sản xuất
Thời vụ sản xuất của hệ thống cây trồng và vật nuôi phụ thuộc vào

nhiều yếu tố thời tiết khí hậu vì vậy hệ thống thông tin dự báo các điều kiện
thời tiết và khí hậu liên quan đến biến đổi khí hậu là rất cần thiết để xác định
thời vụ thích hợp cho mỗi loại cây trồng và vật nuôi. Vì vậy các cách tiếp cận
kết hợp giữa khoa học khí tượng/khí hậu và khoa học cây trồng/vật nuôi xuất
hiện là cách duy nhất để thích ứng với biến đổi khí hậu trong tương lai.
Nông dân ở khu vực Đông Nam Á đã trãi qua thời gian dài để điều
chỉnh trong thực hành quản lý sản xuất và trong đó thay đổi, luồn lách thời vụ
sản xuất được xem như là một hình thức trong thích ứng với biến đổi khí hậu.
Thông qua hệ thống cảnh báo về những biến đổi khí hậu trong tương lai,
người dân nhiều vùng đã từ đó tự điều chỉnh mùa vụ sản xuất phù hợp với
những thay đổi đó. Xác định thời gian thực hiện các hoạt động canh tác tốt
trong điều kiện khí hậu mới thông qua cải tiến thời điểm gieo để bù lại sự
thiếu hụt độ ẩm trong suốt thời gian mùa khô. Thay đổi thời gian cho mùa vụ
gieo trồng, bảo vệ cây trồng vật nuôi và quan trọng nhất là xác định được thời
điểm để thu hoạch sản phẩm nông nghiệp ngoài đồng tránh được lũ lụt xảy ra.
Mặt khác, thay đổi thời gian cho mùa vụ sản xuất liên hệ với thay đổi nhiệt độ
và lượng mưa của mùa vụ trước và các dự báo cho mùa vụ sau. Nhiều nghiên
cứu của nhiều tác giả cho thấy hình thức thích ứng này bao gồm xác đinh lịch
thời vụ các hoạt động sản xuất của cây trồng và vật nuôi như thời điểm bón
13
phân hóa học, chăn thả gia súc, bố trí và phân bổ hệ thống thủy lợi, thu hoạch
che phủ cho cây, gieo trồng và làm đất. Bố trí mùa vụ thích hợp trong việc
thực hành các hoạt động sản xuất của mùa vụ tăng trưởng của cây trồng và
vật nuôi làm tăng tiềm năng tối đa năng suất cây trồng và vật nuôi trong điều
kiện thiếu hụt độ ẩm và căng thẳng về nhiệt [9].
Kỹ thuật canh tác
Chấp nhận đổi mới kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp bao gồm trồng
trọt và chăn nuôi là một trong những chủ trương trong chiến lược thích ứng
với biến đổi khí hậu đề cập đến nhiều nhất. Thích ứng trong lĩnh vực này tập
trung vào những đặc điểm của hệ thống sản xuất; đặc tính của người sản xuất để

xác định được mức độ ảnh hưởng của các quyết định của họ khi đưa ra các lựa
chọn thích ứng. Thích ứng trong lĩnh vực kỹ thuật canh tác rất phong phú và
đa dạng tùy thuộc vào loại biến đổi khí hậu, điều kiện kinh tế - xã hội - tự
nhiên của vùng cũng như nhận thức của người dân, điều này được thể hiện rõ
thông qua kiến thức bản địa. Kiến thức bản địa là cái cơ bản nhất để đưa ra
các quyết định ở các cáp độ địa phương trong nhiều cộng đồng nông thôn. Nó
không chỉ có giá trị văn hóa mà nó còn là cơ sở cho các nhà khoa học và cac
nhà lập kế hoạch để cải thiện các điều kiện ở cộng đồng nông thôn. Kết hợp
chặt chẽ giữa kiến thức bản địa trong các chính sách cho biến đổi khí hậu có
thể dẫn đến phát triển hiệu quả, sự tham gia của cộng đồng và đạt được tính
bền vững [9].
14
PHẦN III: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Nội dung nghiên cứu
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của điểm nghiên cứu và các hộ
điều tra
3.1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của điểm nghiên cứu
a. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý
- Thời tiết, khí hậu
- Thủy văn
- Diện tích đất đai
b. Điều kiện kinh tế - xã hội
- Dân cư địa phương
- Lực lượng lao động
- Các ngành kinh tế
- Thu nhập của hộ
3.1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của các hộ điều tra
- Số nhân khẩu
- Số lao động

- Các nguồn thu nhập
- Thu nhập bình quân của hộ/năm
3.2.2. Mối quan hệ giữa hoạt động sản xuất lúa với các hiện tượng thời
tiết, khí hậu tại điểm nghiên cứu
- Các hiện tượng thời tiết, khí hậu tại điểm nghiên cứu
- Mối quan hệ giữa hiện tượng thời tiết, khí hậu với hoạt động sản xuất lúa
- Hiện tượng thời tiết, khí hậu tác động mạnh nhất
3.2.3. Biểu hiện của biến đổi khí hậu tại điểm nghiên cứu
Các biểu hiện của biến đổi khí hậu tại điểm nghiên cứu:
- Tần suất
- Cường độ
- Thời gian trung bình
- Thời gian xuất hiện
- Tính bất thường
15
3.2.4. Tác động của biến đổi khí hậu đến hoạt động sản xuất lúa của
người dân
- Diện tích đất trồng lúa
- Năng suất, chất lượng lúa
- Lịch thời vụ trồng lúa
- Tình hình sâu bệnh hại lúa
- Chi phí đầu tư trồng lúa
- Các loại nông cụ, máy móc phục vụ sản xuất bị thiệt hại
3.2.5. Các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu của cộng đồng và nông
hộ trong hoạt động sản xuất lúa tại điểm nghiên cứu
* Ở cấp cộng đồng:
- Các giải pháp ứng phó
- Mức độ phù hợp
* Ở cấp nông hộ:
- Các giải pháp ứng phó

- Mức độ phù hợp
- Sản lượng lúa thu lại
3.2.6. Các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu của cộng đồng và
nông hộ trong hoạt động sản xuất lúa tại điểm nghiên cứu
* Ở cấp cộng đồng:
- Các công trình, phương tiện hỗ trợ
- Nâng cao năng lực về phòng chống BĐKH
- Hiệu quả của các giải pháp
* Ở cấp nông hộ:
- Các giải pháp thích ứng
- Mức độ áp dụng và phù hợp của các giải pháp
- Tình hình an ninh lương thực
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp chọn điểm
Điểm nghiên cứu được chọn là xã Phú Thanh, huyện Phú Vang, tỉnh
Thừa Thiên Huế. Đây là xã sản xuất nông nghiệp chủ yếu, trong đó có diện
tích trồng lúa lớn. Hơn thế nữa đây là một trong những xã thuộc vùng bãi
ngang ven biển, có địa hình thấp trũng, thường xuyên chịu ảnh hưởng của
hiện tượng lũ lụt.
16
Hình 1: Bản đồ hành chính xã Phú Thanh
3.3.2. Phương pháp thu thập thông tin
• Thu thập dữ liệu thứ cấp
- Tập hợp và tham khảo các sách báo, báo cáo khoa học, tài liệu nghiên
cứu, tạp chí, thông tin trên mạng internet liên quan đến những biểu hiện, tác
động và các giải pháp thích ứng với BĐKH.
- Thu thập dữ liệu thứ cấp tại xã bao gồm các báo cáo về tự nhiên- kinh
tế xã hội năm 2009-2010
17
Điểm nghiên cứu

- Các báo cáo về công tác phòng chống thiên tai; các báo cáo hàng năm,
báo cáo nghiên cứu về BĐKH tới sản xuất nông nghiệp đã công bố cấp tỉnh,
huyện và xã…
Việc thu thập các dữ liệu thứ cấp nhằm mục đích thu thập các thông tin
chung cơ bản về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và thông tin về tình hình
thiên tai của điểm nghiên cứu
• Thảo luận nhóm
Nghiên cứu này đã tiến hành thảo luận 2 nhóm với các đối tượng khác nhau:
(1) Thảo luận nhóm với: 1 thôn trưởng, hội trưởng hội người cao tuổi xã
và 7 người am hiểu có kinh nghiệm lâu năm tại địa phương. Nội dung của
cuộc thảo luận nhóm này là:
Thứ nhất: Xác định biểu hiện sai khác của các hiện tượng thời tiết, khí
hậu tại địa phương qua thời gian, phương pháp hồi cố được sử dụng.
Thứ hai: Xác định hiện tượng thời tiết, khí hậu tác động mạnh nhất đến
sản xuất lúa tại địa phương. Công cụ cho điểm được sử dụng để xếp hạng.
Thứ ba: Xác định đặc điểm tự nhiên, hệ thống sản xuất và những vùng
trồng lúa thường xuyên chịu tác động mạnh của BĐKH. Phương pháp phân
tích bản đồ địa chính được sử dụng để xác định.
Thứ tư: Tìm hiểu các giải pháp công trình và phi công trình để ứng phó
và thích ứng với BĐKH trong hoạt động sản xuất lúa của địa phương. Liệt kê
và phân tích là các phương pháp được sử dụng để thu thập thông tin.
(2) Thảo luận nhóm với: 8 người dân (4 nam, 4 nữ) có độ tuổi từ 60-70
có kinh nghiệm sản xuất lúa lâu năm tại địa phương.
Mục đích của thảo luận nhóm này là:
Thứ nhất: Xác định các biểu hiện của sự thay đổi của lũ lụt tại địa
phương. Phương pháp hồi cố được sử dụng.
Thứ hai: Xác định mức độ tác động của lũ lụt lên các mặt trong hoạt
động sản xuất lúa của người dân. Phương pháp liệt kê và sử dụng công cụ thẻ
màu để xác định mức độ tác động trong nội dung này.
Thứ ba: Xác định các giải pháp ứng phó và thích ứng với lũ lụt của nông

hộ và mức độ phù hợp trong hoạt động sản xuất lúa. Bằng cách liệt kê và
phân tích đánh giá giải pháp để thu thập thông tin trong nội dung này.
18
• Phỏng vấn sâu
Bao gồm: Chủ tịch hội nông dân xã, chủ tịch hội người cao tuổi xã và một
số người am hiểu, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất lúa tại địa phương.
Để khẳng định lại và thu thập thông tin sâu về: thực trạng của lũ lụt xảy
ra ở địa phương; tác động của lũ lụt tới hoạt động sản xuất lúa và các giải
pháp ứng phó và thích ứng của cộng đồng và nông hộ đã và đang thực hiện
• Chọn hộ và phỏng vấn hộ
Tiến hành phỏng vấn bán cấu trúc các hộ theo phiếu điều tra, gồm 30 hộ.
Để thu thập một số thông tin về thu nhập, nhân khẩu, số lượng lao động, các
ngành nghề; Tình hình thiệt hại do tác động của lũ lụt trong hoạt động sản
xuất lúa; Tìm hiểu các giải pháp ứng phó và thích ứng và khả năng thích ứng
của các giải pháp đó trước tác động của lũ lụt lên hoạt động sản xuất lúa mà
nông hộ đã và đang áp dụng.
Cách chọn hộ: Các hộ được chọn có định hướng để tham gia phỏng vấn.
Các hộ được lựa chọn gồm hộ có diện tích sản xuất lúa thường xuyên bị ảnh
hưởng của lũ lụt và các hộ có kinh nghiệm lâu năm trong sản xuất nông
nghiệp tại địa phương (ít nhất là 15 năm)
• Quan sát
Phương pháp quan sát được sử dụng để nhận biết: Tình hình sản xuất lúa
trên đồng ruộng, tình hình thiệt hại do lũ lụt lên hoạt động trồng lúa, các công
trình đã có hoặc đang diễn ra để ứng phó và thích ứng với lũ lụt tại địa phương
3.3.3 Phương pháp xử lý thông tin
- Tất cả các số liệu định lượng được mã hoá, nhập và xử lý thống kê bằng
các phép tính trên phần mềm Excel
- Phương pháp phân tích định tính được sử dụng để phân tích thực trạng
nhận thức của người dân trong thích ứng với lũ lụt
19

PHẦN IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Đặc điểm chung của điểm nghiên cứu
Xã Phú Thanh - huyện Phú Vang là một xã đồng bằng ven biển và đầm
phá của tỉnh Thừa Thiên Huế và là xã còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên xã cũng có một số nét đặc trưng riêng.
4.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của điểm nghiên cứu
a, Điều kiện tự nhiên:
Xã Phú Thanh là xã thuộc bãi ngang ven biển nằm ở hạ lưu con sông
Hương và gần đầm phá Tam Giang - Cầu Hai. Là một xã nằm về phía Tây
Bắc của huyện Phú Vang, cách trung tâm huyện 25 km theo tỉnh lộ 2 và cách
thành phố Huế 10 km về phía Đông.
Với vị trí địa lý như vậy, xã Phú Thanh là khu vực nằm trong vành đai
nhiệt đới bán cầu và là khu vực chịu ảnh hưởng của gió mùa Châu Á. Do đó,
xã Phú Thanh cũng như các xã khác của huyện Phú Vang đều chịu sự chi phối
chung của khí hậu nội chí tuyến nhiệt đới gió mùa có ảnh hưởng của khí hậu
đại dương. Nhiệt độ trung bình hàng năm đạt 25
0
C, lượng mưa trung bình
năm khoảng 2.550 mm. Điều kiện nhiệt độ và lượng mưa này rất thích hợp
cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trồng trọt.
Thời tiết của xã chia thành 2 mùa rõ rệt. Trong đó, mùa khô bắt đầu từ
tháng 3 đến tháng 8, mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 12, riêng tháng 11
là tháng có lượng mưa nhiều nhất chiếm tới 30% lượng mưa cả năm. Trong 4
tháng này là thời gian mưa lũ chính vụ. Ngoài ra, còn có xuất hiện lũ Tiểu
mãn trong khoảng tháng 5 đến 6 dương lịch. Trận lũ này tuy không lớn nhưng
nó xuất hiện giai đoạn cây trồng chuẩn bị thu hoạch nên nó đã gây thiệt hại
đáng kể về sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là cây lúa.
Là một xã có địa hình thấp trũng nhất của huyện Phú Vang, chịu ảnh
hưởng của 2 con sông: Sông Hương và sông Phổ Lợi (hay còn gọi là đầm
nậy). Đặc biệt sông Hương, chảy qua xã với chiều dài trên 4 km, lòng sông

rộng và sâu, tốc độ dòng chảy lớn. Ngoài việc cung cấp nước cho sản xuất và
sinh hoạt của người dân trong xã, sông Hương cũng là một yếu tố góp phần
gây nên hiện tượng ngập lụt cao.
20
Xã Phú Thanh là xã có diện tích tương đối hẹp nhất của huyện Phú
Vang, tổng diện tích đất tự nhiên là 771,2 ha (chiếm 2,75% tổng diện tích tự
nhiên toàn huyện) với dân số khoảng 4.879 người. Đây là xã thuộc vùng bãi
ngang ven biển, có địa hình thấp trũng, diện tích đất ngập nước nhiều. Do đó,
tình trạng sử dụng đất của xã Phú Thanh có những đặc trưng nhất định thể
hiện qua bảng 1.
Bảng 1: Tình trạng sử dụng đất của xã Phú Thanh
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
Tổng diện tích Ha 771,2 100
1. Đất nông nghiệp Ha 399,4 51,8
1.1. Đất sản xuất nông nghiệp Ha 391,4 98*
1.1.1. Đất trồng lúa Ha 361,8 92,3**
1.1.2. Đất trồng cây hàng năm khác Ha 23,2 6**
1.1.3. Đất trồng cây lâu năm Ha 6,4 1,7**
1.2. Đất nuôi trồng thủy sản Ha 8 2*
2. Đất phi nông nghiệp Ha 159,4 20,7
2.1. Đất ở Ha 47,4 29,7+
2.2. Đất chuyên dùng Ha 41 25,7+
2.3. Đất tôn giáo tín ngưỡng Ha 3,6 2,3+
2.4. Đất nghĩa trang, nghĩa địa Ha 29,4 18,4+

2.5. Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng Ha 38 24+
3. Đất chưa sử dụng Ha 212,4 27,5
Chú ý: "*" phần trăm đối với đất nông nghiệp
"**" phần trăm đối với đất sản xuất nông nghiệp
"+" phần trăm đối với đất phi nông nghiệp
(Nguồn: Số liệu thống kê của xã Phú Thanh, 2010)
21
Qua bảng 1 cho thấy, diện tích đất nông nghiệp của xã chiếm tới 51,8%
tổng diện tích đất tự nhiên, đất phi nông nghiệp chiếm 20,7% và đất chưa sử
dụng là 27,5%. Như vậy, hoạt động sản xuất của đa số dân cư chủ yếu dựa
vào sản xuất nông nghiệp là chính. Trong đó, hoạt động sản xuất lúa chiếm
diện tích lớn nhất với 92,3% tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp của toàn
xã. Đây được xem là hoạt động sinh kế chính của người dân trong xã.
b, Điều kiện kinh tế - xã hội
Tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP năm 2010 là 11,6% đạt 96,6% mục
tiêu của năm. Trong số các hoạt động sản xuất của địa phương, hoạt động sản
xuất lúa được đa số người dân tham gia, với 82,5% số hộ tham gia sản xuất.
Tiếp đến là hoạt động chăn nuôi, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản và ngành
nghề khác.
Bảng 2: Một số đặc điểm về kinh tế - xã hội của điểm nghiên cứu
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
Dân số Khẩu 4.879 -
Tổng số hộ Hộ 943 100
Phân theo ngành nghề

Số hộ sản xuất lúa Hộ 778 82,5
Số hộ nuôi trồng, đánh bắt thủy sản Hộ 113 11,9
Số hộ chăn nuôi Hộ 323 34,3
Số hộ làm ngành nghề khác Hộ 98 10,3
Phân theo nhóm hộ
Hộ nghèo Hộ 106 11,2
Hộ cận nghèo Hộ 120 12,7
Hộ trung bình Hộ 415 44,1
Hộ khá Hộ 302 32
(Nguồn: Số liệu thống kê của xã Phú Thanh, 2010)
22
Hoạt động trồng lúa của xã sản xuất một năm 2 vụ: Đông Xuân và Hè
Thu, tổng diện tích gieo trồng cả năm 673 ha, năng suất bình quân cả năm là
58 tạ/ha, tổng sản lượng lương thực có hạt cả năm 3.895 tấn tăng 201 tấn so
với năm 2009 (đạt 3.694 tấn). Ngoài diện tích trồng lúa, xã còn có diện tích
trồng hoa màu chủ yếu là (lagim, hoa cúc ) được trồng quanh năm trong
vườn nhà nhằm phục vụ gia đình và số ít để bán.
Tình hình chăn nuôi của xã năm 2010 có những thay đổi so với năm
2009. Tổng đàn trâu có 87con, tăng 9 con; tổng đàn bò 170 con, tăng 10 con;
tổng đàn lợn 2.000 con, giảm 800 con và tổng đàn gia cầm có 18.000 con,
giảm 1000 con so với cùng kỳ năm 2009.
Ngành thủy sản của địa phương đang còn phát triển chậm. Trong đó sản
lượng nuôi trồng thủy sản năm 2010 là 2 tấn chỉ đạt 50% chỉ tiêu đặt ra và
giảm 0,6 tấn so với năm 2009, còn tổng sản lượng đánh bắt thủy sản tự nhiên
đạt 5 tấn giảm 2 tấn so với năm 2009.
Công nghiệp và dịch vụ cũng giữ vai trò quan trọng nhưng chưa thực sự
phát triển. Về dịch vụ chủ yếu là dịch vụ của 2 Hợp tác xã kinh doanh dịch vụ
cá thể như dịch vụ nông nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải. Còn công
nghiệp chủ yếu là khai thác vật liệu xây dựng, mộc dân dụng, mộc mỹ nghệ,
hàn gò [13].

Về xã hội, tỷ lệ hộ nghèo của xã năm 2010 là 11,2% đã đạt 101% mục
tiêu đề ra của năm, số hộ cận nghèo là 12,7%, hộ trung bình là 44,1% còn hộ
khá là 32%. Sinh kế của những hộ này chủ yếu là sản xuất lúa, đánh bắt thủy
sản, ngoài ra họ còn đi làm thuê, buôn bán nhỏ Đặc biệt những hộ nghèo và
cận nghèo có nguồn thu nhập chính và phụ thuộc mạnh nhất vào việc sản xuất
lúa. Vấn đề giải quyết việc làm cho người dân cửa xã Phú Thanh còn gặp
nhiều khó khăn. Phần lớn thanh niên đang trong độ tuổi lao động đều thất
nghiệp, một số ở nhà phụ giúp gia đình làm nông, và có hơn 50% thanh niên
đi làm ăn ở các tỉnh phía Nam.
Như vậy, xã Phú Thanh là một xã có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
còn khó khăn bởi thời tiết, mức độ phụ thuộc vào ngành nông nghiệp nhờ trời
cao, thu nhập của các hộ chủ yếu dựa vào hoạt động trồng lúa. Do vậy, khả
năng bị tổn thương lũ là rất cao.
23
4.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của các hộ điều tra
Đề tài nghiên cứu tiến hành trên 30 hộ dân đại diện, phân bố trong toàn
xã. Các hộ được điều tra có một số đặc điểm nhất định được mô tả ở bảng 2.
Bảng 3: Một số đặc điểm về các hộ điều tra
Chỉ tiêu Đơn vị tính Số lượng (n=30)
Số nhân khẩu/hộ Khẩu 5,7
Số lao động/hộ Lao động 3,1
Thu nhập bq/hộ/năm Ngìn đồng 32.572
( Nguồn: Phỏng vấn hộ, 2011)
Từ kết quả bảng 3 cho thấy:
Số nhân khẩu/hộ trung bình của các hộ điều tra tương đối cao khoảng 6
khẩu/hộ. Số lao động/hộ của các hộ điều tra ở mức trung bình, có khoảng 3
lao động/hộ. Thu nhập bình quân/hộ/năm của các nhóm hộ điều tra tương đối
thấp (32.572 ngìn đồng).
Với số nhân khẩu/hộ tương đối cao nhưng số lao động/hộ ở mức trung
bình, cho thấy số người sống phụ thuộc là không ít. Do đó nó sẽ làm cho cuộc

sống và thu nhập của các hộ khó khăn hơn. Điều này được minh chứng qua
thu nhập bình quân/hộ/năm của các hộ điều tra bình quân là 32.572 ngìn
đồng/hộ. Mức thu nhập này của các hộ điều tra thấp hơn nhiều so với tổng thu
nhập toàn xã (58.900 ngìn đồng).
Sinh kế của các nhóm hộ điều tra kém đa dạng. Họ sống chủ yếu dựa
vào nông nghiệp là chính như trồng lúa, chăn nuôi, đánh bắt thủy sản và 1 số
nghề phụ khác có thu nhập tương đối thấp. Tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ
có số lượng hộ tham gia còn rất ít. Đối với mỗi nhóm hộ thì mỗi hoạt động
tạo thu nhập giữ một vai trò nhất định trong toàn bộ sinh kế của hộ.
24
Bảng 4: Nguồn thu quan trọng nhất của các hộ điều tra năm 2010
Thứ tự Nguồn thu
Số lượng hộ
(n=30)
Tỷ lệ
(%)
1 Lúa
30 100
2 Đánh bắt thủy sản
9 30
3 Thợ nề
2 6,6
4 Làm thuê
7 23,3
(Nguồn: Phỏng vấn hộ năm 2011)
Ngoài những nguồn thu được liệt kê trong bảng 4, hoạt động chăn nuôi,
buôn bán, trồng rau màu cũng mang về cho nông hộ nguồn thu đáng kể.
Nhưng xét trong mối quan hệ với các nguồn thu khác, thì chúng lại không giữ
vai trò quan trọng nhất. Từ kết quả bảng 4 cho thấy, hoạt động tạo thu nhập
quan trọng nhất của các hộ là trồng lúa với 100% số hộ tham gia sản xuất, thứ

2 là đánh bắt thủy sản , tiếp đến là làm thuê và thợ nề.
Như vậy cho thấy, đặc điểm kinh tế - xã hội của các hộ điều tra tại điểm
nghiên cứu còn khó khăn. Hoạt động trồng lúa có thể coi là nguồn sinh kế
chính của người dân địa phương. Nhưng trồng lúa lại là hoạt động nhờ trời,
mang tính chất phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên cao. Chúng dễ bị tác động
bởi điều kiện bên ngoài như lũ lụt, hạn hán, rét Do đó, đòi hỏi các nông hộ
phải nâng cao khả năng canh tác để thích ứng với các hiện tượng đó.
4.2. Mối quan hệ giữa hoạt động sản xuất lúa với các hiện tượng thời tiết
và khí hậu tại điểm nghiên cứu
Xã Phú Thanh là xã ven biển có địa hình thấp trũng, diện tích ngập
nước nhiều. Do đó, hoạt động sản xuất chủ yếu của xã là sản xuất lúa nước,
chiếm hầu hết diện tích của đất nông nghiệp. Ngoài ra còn có trồng hoa màu,
chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản nhưng với số lượng rất ít không đáng kể. Sản
xuất lúa là hoạt động có tính chất nhờ trời cao, phụ thuộc mạnh vào điều kiện
thời tiết và khí hậu của vùng nên khả năng bị tác động bởi các hiện tượng đó
là rất lớn. Do đặc điểm địa lý, xã Phú Thanh trở thành một vùng hội tụ đầy đủ
các hiện tượng của thời tiết và khí hậu tạo nên như lũ lụt, hạn hán, rét, bão,
25

×