Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

tìm hiểu khả năng thích ứng với lũ lụt của người dân xã đức bồng-vũ quang-hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.42 KB, 59 trang )

PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Ngày nay biến đổi khí hậu đang là vấn đề được toàn nhân loại quan
tâm. Hậu quả của biến đổi khí hậu đe dọa đến cuộc sống của tất cả mọi
người, ở mọi quốc gia không phân biệt nước giàu hay nước nghèo. Cùng với
sự nóng lên của trái đất, diễn biến thời tiết diễn ra ngày một hết sức phức tạp.
Hệ quả là ngày càng có nhiều thiên tai xảy ra không chỉ về số lượng mà còn
cả về cường độ. Việt Nam, với khí hậu nhiệt đới gió mùa và nằm ở 1 trong 5
ổ bão lớn của thế giới đó là ổ bão Tây Thái Bình Dương, hàng năm phải đối
mặt với nhiều loại hình thiên tai thường xuyên xảy ra như áp thấp nhiệt đới,
bão, lũ, lũ quét, ngập lụt, sạt lở đất, hạn hán, xâm nhập mặn, nước dâng do
bão…Việt Nam còn chịu tác động của các yếu tố thiên tai khác như rét đậm,
rét hại, sương muối, sa mạc hóa các vùng cát ven biển, các vùng cát xâm lấn
diện tích canh tác và khu dân cư …. Theo số liệu thống kê trong hơn 30 năm
qua, thiên tai xảy ra ở khắp các khu vực trên cả nước gây ra nhiều tổn thất về
người, tài sản, cơ sở hạ tầng, về kinh tế, văn hóa, xã hội, tác động xấu đến
môi trường. Bình quân mỗi năm, thiên tai đã làm chết và mất tích khoảng
trên 700 người, bị thương hàng nghìn người, thiệt hại về kinh tế từ 1,0 - 1,5%
GDP. Đặc biệt, năm 1997 thiên tai đã cướp đi sinh mạng của 3.083 người
(trong đó chết 974 người, mất tích 2142 người), trận lũ lịch sử năm 1999 ở
các tỉnh duyên hải miền Trung đã làm chết và mất tích 899 người. [2]
Cùng với tình trạng biến đổi khí hậu chung của thế giới, những năm
gần đây khí hậu Hà Tĩnh cũng có những biến đổi bất thường, khiến cho nơi đã
có nhiều thiên tai này lại càng khốn khó hơn, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển kinh tế-xã hội của toàn tỉnh đặc biệt là lũ lụt. Lũ lụt không chỉ gây hại
các cơ sở hạ tầng, làm chậm sự phát triển mà còn ảnh hưởng đến sản xuất và
đời sống của người dân đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Khi mà lũ lụt diễn ra
ngày càng phức tạp và nguy hiểm hơn, người dân gặp nhiều khó khăn hơn
trong việc ứng phó với lũ lụt này thì việc "sống chung với lũ” là một đòi hỏi
cấp thiết và là một chiến lược được Chính phủ rất quan tâm. Vì vậy việc nâng


1
cao năng lực cho cộng đồng, huy động các nguồn lực, hỗ trợ người dân để
ứng phó với lũ lụt là rất quan trọng.
Nhằm để tìm hiểu những khó khăn của người dân, những diễn biến mới
của lũ lụt cũng như những biện pháp ứng phó của người dân đã phù hợp với
tình hình lũ lụt hiện nay hay chưa để từ đó có thể đưa ra những biện pháp
giúp người dân sử dụng một cách hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên tại
chổ, các cách ứng phó với lũ lụt tốt hơn, giúp cho cơ quan chính quyền, các tổ
chức có các cách thức hỗ trợ kịp thời để giảm thiểu tác hại của thiên tai. Xuất
phát từ các yếu tố trên chúng tôi chọn đề tài “Tìm hiểu khả năng thích ứng
với lũ lụt của người dân xã Đức Bồng-Vũ Quang-Hà Tĩnh” làm chủ đề cho
nghiên cứu thực tập tốt nghiệp.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Đánh giá thực trạng lũ lụt tại xã Đức Bồng-Vũ Quang-Hà Tĩnh trong
những năm gần đây và nhữmg thiệt hại do lũ lụt gây ra.
- Tìm hiểu khả năng ứng phó của người dân với lũ lụt.
- Đưa ra một số giải pháp giúp người dân ứng phó với lũ lụt
1.3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU VÀ CÁC GIẢ THUYẾT
1.3.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng lũ lụt ở Đức Bồng trong nhưng năm qua như thế nào?
- Những tác động của lũ lụt đến đời sống và sản xuất của người dân?
- Khả năng ứng phó với lũ lụt của người dân như thế nào?
- Những giải pháp nào có thể giúp người dân giảm thiểu những thiệt hại
do lũ lụt gây ra.
1.3.2. Giả thuyết nghiên cứu
Tình hình lũ lụt tại Đức Bồng trong những năm qua diễn ra rất phức tạp
và ngày càng nguy hiểm gây thiệt hại lớn cho địa phương. Người dân nếu
được hỗ trợ về kiến thức cũng như vật chất sẻ giảm thiểu được những thiệt hại
do lũ lụt gây ra.
2

PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
2.1.1. Biến đổi khí hậu
2.1.1.1. Khái niệm
Biến đổi khí hậu là “những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu”, là
những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra những ảnh
hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của
các hệ sinh thái tự nhiên và được quản lý hoặc đến hoạt động của các hệ
thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người.(Theo
công ước chung của LHQ về biến đổi khí hậu).
Biến đổi khí hậu do hiện tượng nhà kính bắt nguồn từ sự phát thải quá
mức vào khí quyển các khí có hiệu ứng nhà kính từ các hoạt động kinh tế xã
hội và xã hội của con người. [11]
Khí hậu là mức độ trung bình của thời tiết trong một khoảng thời gian
và không gian nhất định. Trong vòng 1000 năm trước đây, nhiệt độ bề mặt
trái đất tăng, giảm không đáng kể, có thể nói là ổn định. Thế nhưng, trong
vòng 200 năm trở lại đây, đặc biệt trong mấy chục năm vừa qua khi công
nghiệp phát triển, nhân loại bắt đầu khai thác than đá, dầu lửa, khí đốt và
cùng với các hoạt động công nghiệp tăng lên, con người thải vào bầu khí
quyển một lượng lớn khí CO2, NO2, CH4 làm bức xạ không thoát ra ngoài
được khiến cho nhiệt độ bề mặt trái đất tăng lên. [6]
Các biểu hiện của biến đổi khí hậu bao gồm
- Sự nóng lên của khí quyển và trái đất nói chung
- Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi
trường sống của con người và các sinh vật trên trái đất.
- Sự dâng cao của mực nước biển do tan băng dẫn tới sự ngập úng của
các vùng đất thấp, các đảo nhỏ trên biển.
- Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các
vùng khác nhau của trái đất tới nguy cơ đe dọa sự sống của các loài sinh vật,

các hệ sinh thái và hoạt động của con người.
3
- Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển,
chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hóa khác
- Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và
thành phần của thủy quyển, sinh quyển, các địa quyển. [6]
Hiệu ứng nhà kính
Hiệu ứng nhà kính dùng để chỉ hiệu ứng xảy ra khi năng lượng bức xạ
của tia sáng mặt trời, xuyên qua các cửa sổ hoặc mái nhà bằng kính, được hấp
thụ và phân tán trở lại thành nhiệt lượng cho bầu không gian bên trong, dẫn
đến việc sưởi ấm toàn bộ không gian bên trong chứ không phải ở những chổ
được chiếu sáng. [5]
Có rất nhiều khí gây hiệu ứng nhà kính, gồm CO2, CH4, CFC, SO2,
hơi nước khi ánh sáng mặt trời chiếu vào Trái Đất, một phần được Trái Đất
hấp thu và một phần được phản xạ vào không gian. Các khí nhà kính có tác
dụng giữ lại nhiệt của mặt trời, không cho nó phản xạ đi, nếu các khí nhà kính
tồn tại vừa phải thì chúng giúp cho nhiệt độ Trái Đất không quá lạnh nhưng
nếu chúng có quá nhiều trong khí quyển thì kết quả là Trái Đất nóng lên. [5]
Mưa acid
Mưa acid là mưa do một số chất khí hòa tan trong nước mưa tạo thành
các acid khác nhau. Trong tự nhiên, có tính acid chủ yếu vì trong nước mưa
có CO2 hòa tan ( từ hơi thở động vật và có một ít Cl- (từ nước biển ) và có độ
pH dưới 5. là sự lắng đọng thành phần acid trong những cơn mưa, sương mù,
tuyết, băng, hơi nước [5]
Mưa acid ảnh hưởng trực tiếp hoặc giàn tiếp đến các ao hồ và hệ thủy
sinh vật. Mưa acid rơi trên mặt đất sẽ rữa trôi các chất dinh dưỡng trên mặt
đất và mang các kim loại độc xuống ao hồ. Khi có mưa acid các hợp chất
chứa nhôm trong đất sẽ phóng thích các ion nhôm và các ion này có thể hấp
thụ bởi rể cây và gây độc cho cây vì vậy mưa acid gây tác hại lên thảm thực
vật và đất. Ngoài ra mưa acid còn ảnh hưởng tiêu cực đến con người, vật liệu,

các công trình kiến trúc và khí quyển. [5]
Thủng tầng ozon
Ozon là một chất khí có trong trong thiên nhiên, nằm trên tầng cao khí
quyển của Trái Đất, ở độ cao khoảng 25km trong tầng bình lưu, gồm 3
4
nguyên tử oxy, hấp thụ phần lớn những tia tử ngoại từ mặt trời chiếu xuống
gây ra các bệnh về da. Chất khí ấy tập hợp thành một lớp bao bọc quanh hành
tinh thường được gọi là tầng Ozon.[5]
Lớp ozon ngăn cản phần lớn các tia cực tím có hại không cho xuyên
qua bầu khí quyển Trái Đất. Tầng ozon như lớp áo choàng bảo vệ Trái Đất
trước sự xâm nhập và phá hủy của tia tử ngoại. Tầng ozon là lớp lọc bức xạ
mặt trời, một phần lớp lọc này bị mất sẽ làm cho bề mặt Trái Đất nóng lên.
Chiếc áo choàng quý giá ấy bị “rách” cũng có nghĩa sự sống của muôn loài sẽ
bị đe dọa.[5]
2.1.1.2. Diễn biến và xu thế biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Thực trạng biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Theo số liệu quan trắc, biến đổi khí hậu ở Việt Nam có những điểm
đáng lưu ý sau:
- Nhiệt độ: Trong khoảng 50 năm qua (1951 - 2000), nhiệt độ trung
bình năm (TBN) ở Việt Nam đã tăng lên 0,7
0
C. Nhiệt độ TBN của 4 thập kỷ
gần đây (1961 - 2000) cao hơn TBN của 3 thập kỷ trước đó (1931 - 1960).
Nhiệt độ TBN của thập kỷ 1991 – 2000 ở Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh
đều cao hơn trung bình (TB) của thập kỷ 1931 – 1940 lần lượt là 0,8; 0,4 và
0,6
o
C. Năm 2007, nhiệt độ TBN ở cả 3 nơi trên đều cao hơn TB của thập kỷ
1931 – 1940 là 0,8 – 1,3
o

C và cao hơn thập kỷ 1991 – 2000 là 0,4 – 0,5
o
C.
- Lượng mưa: Trên từng địa điểm, xu thế biến đổi của lượng mưa TBN
trong 9 thập kỷ vừa qua (1911 – 2000) không rõ rệt theo các thời kỳ và trên
các vùng khác nhau, có giai đoạn tăng lên và có giai đoạn giảm xuống. Trên
cùng lãnh thổ Việt Nam, xu thế biến đổi của lượng mưa cũng rất khác nhau
giữa các khu vực.
- Mực nước biển: Theo số liệu quan trắc trong khoảng 50 năm qua ở các
trạm Cửa Ông và Hòn Dấu cho thấy, mực nước biển trung bình đã tăng lên
khoảng 20cm.
- Số đợt không khí lạnh (KKL) ảnh hưởng tới Việt Nam giảm đi rõ rệt
trong hai thập kỷ gần đây (cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI). Năm 1994 và
năm 2007 chỉ có 15-16 đợt KKL, bằng 56% trung bình nhiều năm. 6/7 trường
hợp có số đợt KKL trong mỗi tháng mùa đông (XI-III) thấp dị thường (0-1
5
đợt) cũng rơi vào 2 thập kỷ gần đây (3/1990, 1/1993, 2/1994, 2/1997,
11/1997). Một biểu hiện dị thường gần đây nhất về khí hậu trong bối cảnh
biến đổi khí hậu toàn cầu là đợt KKL gây rét đậm, rét hại kéo dài 38 ngày
trong tháng 1 và tháng 2 năm 2008 gây thiệt hại lớn cho sản xuất nông
nghiệp.
- Bão: Những năm gần đây, số cơn bão có cường độ mạnh nhiều hơn,
quỹ đạo bão dịch chuyển dần về các vĩ độ phía Nam và mùa bão kết thúc
muộn hơn, nhiều cơn bão có quỹ đạo di chuyển dị thường hơn.
- Số ngày mưa phùn TBN ở Hà Nội giảm dần trong thập kỷ 1981 – 1990
và chỉ còn gần một nửa (15 ngày/năm) trong 10 năm gần đây [7].
Xu thế biến đổi khí hậu ở Việt Nam
- Về nhiệt độ: Trên các khu vực, nhiệt độ TBN có thể tăng lên 2
o
C vào

năm 2050. Dự tính đến năm 2100 nhiệt độ sẽ tăng lên 3
o
C.
- Về lượng mưa: Lượng mưa mùa mưa ở các khu vực, trừ Trung Bộ, đều
tăng 0-5% vào năm 2050, riêng Trung Bộ là 0-10%. Lượng mưa mùa khô ở
các vùng Tây Bắc, Đông Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ, Đông Bắc, Đồng bằng Bắc
Trung Bộ, Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ có thể tăng hay giảm 5%, riêng ở
Bắc và Trung Trung Bộ tăng 0-5%. Đáng chú ý là ở những vùng thường xảy
ra hạn hán vào mùa khô, hạn hán có nhiều khả năng tăng lên cả về cường độ
và diện tích.
- Về mực nước biển: Trung bình trên toàn dải bờ biển Việt Nam, mực
nước biển có thể tăng lên 40cm vào năm 2050 và ước tính có thể tăng lên
100cm vào năm 2100. [7].
2.1.1.3. Tác động của biến đổi khí hậu
Tác động đối với nông nghiệp và an ninh lương thực
BĐKH có tác động đến sinh trưởng, năng suất cây trồng, thời vụ gieo
trồng, làm tăng nguy cơ lây lan sâu bệnh hại cây trồng. BĐKH ảnh hưởng đến
sinh sản, sinh trưởng của gia súc, gia cầm, làm tăng khả năng sinh bệnh,
truyền dịch của gia súc, gia cầm. Ngành nông nghiệp đối mặt với nhu cầu lớn
về phát triển giống cây trồng và vật nuôi nhằm giảm thiểu rủi ro do BĐKH và
các hiện tượng khí hậu cực đoan.
6
Vì sự nóng lên trên phạm vi toàn lãnh thổ, thời gian thích nghi của cây
trồng nhiệt đới mở rộng và của cây trồng nhiệt đới bị thu hẹp lại. Ranh giới
của cây trồng nhiệt đới dịch chuyển về phía núi cao hơn và các vĩ độ phía
Bắc. Phạm vi thích nghi của cây trồng nhiệt đới dịch chuyển về phía núi cao
và các vĩ độ phía Bắc. Phạm vi thích nghi của các cây trồng nhiệt đới bị thu
hẹp lại. Vào những năm 2070, cây nhiệt đới ở vùng núi chỉ có thể sinh trưởng
ở những độ cao trên 100 – 500m và lùi xa hơn về phía Bắc 100 – 200km so
với hiện nay. BĐKH có khả năng làm tăng tần số, cường độ, tính biến động

và tính cực đoan của các hiện tượng thời tiết nguy hiểm như bão, tố, lốc, các
thiên tai liên quan đến nhiệt độ và mùa như thời tiết khô nóng, lũ, ngập úng
hay hạn hán, rét hại, xâm nhập mặn, sâu bệnh, làm giảm năng suất và sản
lượng cây trồng vật nuôi. BĐKH gây nguy cơ thu hẹp diện tích đất nông
nghiệp. Một phần đáng kể diện tích đất nông nghiệp ở vùng đất thấp đồng
bằng ven biển, đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long bị ngập mặn do nước
biển dâng, nếu không có biện pháp ứng phó thích hợp[7].
Tác động đối với sức khoẻ con người
Nhiệt độ tăng làm tăng tác động tiêu cực đối với sức khoẻ con người,
dẫn đến gia tăng một số nguy cơ đối với tuổi già, người mắc bệnh tim mạch,
bệnh thần kinh. Tình trạng nóng lên làm thay đổi cấu trúc mùa nhiệt hàng
năm. Ở miền Bắc, mùa đông sẽ ấm lên, dẫn tới thay đổi đặc tính trong nhịp
sinh học của con người.
BĐKH làm tăng khả năng xảy ra một số bệnh nhiệt đới: sốt rét, sốt xuất
huyết, làm tăng tốc độ sinh trưởng và phát triển nhiều loại vi khuẩn và côn
trùng, vật chủ mang bệnh, làm tăng số lượng người bị bệnh nhiễm khuẩn dễ
lây lan…Thiên tai như bão, tố, nước dâng, ngập lụt, hạn hán, mưa lớn và sạt
lở đất v.v… gia tăng về cường độ và tần số làm tăng số người bị thiệt mạng
và ảnh hưởng gián tiếp đến sức khoẻ thông qua ô nhiễm môi trường, suy dinh
dưỡng, bệnh tật do những đổ vỡ của kế hoạch dân số, kinh tế - xã hội, cơ hội
việc làm và thu nhập. Những đối tượng dễ bị tổn thương nhất là những nông
dân nghèo, các dân tộc thiểu số ở miền núi, người già, trẻ em và phụ nữ. [7]
7
2.1.2. Lũ lụt
2.1.2.1. Khái niệm
Lũ là hiện tượng dòng nước do mưa lớn tích lũy từ nơi cao tràn về dữ
dội làm ngập lụt một khu vực hoặc một vùng trũng, thấp hơn. Nếu mưa lớn,
nước mưa lại bị tích lũy bởi các chướng ngại vật như đất đá, cây cối cho đến
khi lượng nước vượt quá sức chịu đựng của vật chắn, phá vỡ vật chắn, ào
xuống rất nhanh, cuốn theo đất đá, cây cối và quét đi mọi vật có thể quét theo

dòng chảy thì được gọi là lũ quét (hay lũ ống), thường diễn ra rất nhanh. [8]
Lụt là hiện tượng nước ngập quá mức bình thường, ảnh hưởng đến đời
sống và sản xuất. Lụt xảy ra khi nước lũ dâng cao tràn qua sông, suối, ao, hồ,
đê đập vào các vùng trũng, làm ngập nhà cửa, cây cối, ruộng đồng.[13]
Cấp báo động mực nước lũ sử dụng ở Việt Nam
Dưới đây mô tả các cấp nước lũ báo động chính thức được văn phòng
thường trực ban chỉ đạo phòng chống lụt bão trung ương sử dụng.
- Báo động cấp 1: Có khả năng xảy ra lũ, nước sông dâng cao, đe dọa phần
bờ cao, gây ngập ở các vùng đất rất thấp.
- Báo động cấp 2: Tình trạng lũ nguy hiểm, lũ gây ngập tại những vùng bằng
phẳng, trừ những thị trấn và thành phố được bảo vệ trước sự tấn công của
nước lũ, dòng chảy trong sông với vận tốc lớn gây nguy hiểm cho bờ sông và
làm xói lở đê, chân cầu có nguy cơ bị nguy hiểm do bị xói lở.
- Báo động trên cấp 3: Tình trạng lũ khẩn cấp, lũ không thể kiểm soát được
trên diện rộng, đê bị vỡ là điều khó tránh khỏi và có thể không kiểm soát
được, thiệt hại về cơ sở hạ tầng là nghiêm trọng. [3]

2.1.2.2. Tổng quan lũ lụt ở Việt Nam
Tại tất cả các vùng trong nước, hàng năm lượng nước trong khoảng 3
tháng mùa lũ chiếm 75 - 85% tổng lượng nước trong năm. Cùng với đó là
mùa khô kéo dài từ 5 - 6 tháng. Trong mùa này, lượng dòng chảy trên rất
nhiều con sông chỉ vào cỡ 15 - 20% tổng lượng dòng chảy năm.[16]
8
Trong bối cảnh chung cả nước, sự phân bố nước không đều theo không
gian và thời gian làm cho tình trạng thiếu nước về mùa khô và lũ lụt với lưu
lượng lớn, có sức tàn phá mạnh mẽ trở nên đặc biệt trầm trọng tại một số nơi.
Tỷ lệ giữa lưu lượng tối đa và lưu lượng tối thiểu của một số con sông lên tới
1.000, thậm chí ở một số địa phương con số đó lên đến 10.000 lần.[16]
Một số trận lũ từ năm 1986 – 2002
Năm Nơi xảy ra lũ

108
6
Lũ đặc biệt lớn xảy ra trên sông Kỳ Cùng (Lạng Sơn), sông Trà Khúc
(Sơn Giang)
1987 Sông An Lão (An Hòa), sông Vệ (An Chỉ)
1990 Sông Bến Đá (Cần Đăng), Nậm La (Thị xã Sơn La – lũ quét nghiêm
trọng)
1992 Sông Kiến Giang (Kiến Giang), sông Bến Hải (Gia Vòng)
1993 Sông Đà Rằng (Củng Sơn), sông Srepok (Bản Đôn), sông Gianh
1996 Sông Đà (Hòa Bình), Sông Lũy, Dakbla (Kon Tum), Sông Mã (Cẩm
Thủy)
1998 Sông Thu Bồn (Thành Mỹ, Nông Sơn), Eakrong (Cầu 14A)
1999 Sông Hương (Kim Long), sông Trà Khúc (cầu Trà Khúc), sông Vệ
(An Chỉ)
200
0
Đồng bằng sông Cửu Long (Tân Châu, Châu Đốc), sông Bé (Phước
Hòa), Eakrong (Cầu 14A), Srepok (Bản Đôn)
200
1
Sông Cầu (Cầu Gia Bảy)
200
2
Sông Ngàn Phố (Sơn Diệm – lũ quét ác liệt, diện rộng)
200
3
Lũ lớn trên một số sông ở Trung và Nam Trung Bộ
Nguồn: Ngô Đình Tuấn, 2003
2.1.3. Thích ứng với biến đổi khí hậu
Thích ứng là sự điều chỉnh hệ thống tự nhiên hoặc con người đối với

hoàn cảnh hoặc môi trường thay đổi nhằm mục đích giảm khả năng bị tổn
9
thương do dao động và biến đổi khí hậu hiện hữu hoặc tiềm tàng hoặc tận
dụng các cơ hội do nó mang lại. [4]
Thích ứng là một khái niệm rất rộng, là một quá trình qua đó con người
làm giảm những tác động bất lợi của khí hậu đến sức khỏe và đời sống và tận
dụng những cơ hội thuận lợi mà môi trường khí hậu mang lại. Thích ứng có
nghĩa là điều chỉnh, hoặc thụ động hoặc phản ứng tích cực hoặc có phòng bị
trước được đưa ra với ý nghĩa giảm thiểu và cải thiện những hậu quả có hại
của BĐKH. Thích ứng còn có nghĩa là tất cả những phản ứng đối với BĐKH
nhằm làm giảm tính dễ bị tổn thương. Cây cối, động vật, và con người không
thể tồn tại một cách đơn giản như trước khi có BĐKH nhưng hoàn toàn có thể
thay đổi các hành vi của mình để thích ứng và giảm thiểu các rủi ro từ những
thay đổi đó.[12]
Thích nghi với khí hậu là một quà trình, qua đó con người làm giảm
những tác động bất lợi của khí hậu về sức khỏe và đời sống, và sử dụng
những cơ hội thuận lợi mà môi trường khí hậu mang lại. [10]
Tính thích nghi đề cập đến mức độ điều chỉnh có thể trong hành động, xử lý,
cấu trúc của hệ thống đối với những biến đổi dự kiến có thể xảy ra của khí
hậu. Sự thích nghi có thể là tự phát hay được lập kế hoạch, và có thể được thể
hiện thích ứng với những biến đổi trong nhiều điều kiện khác nhau. [10]
Ứng phó với lũ lụt là các hoạt động thực hiện ngay sau khi lũ lụt xảy ra.
Các hoạt động này nhằm cứu tính mạng và cuộc sống của con người. Các
hoạt động ứng phó bao gồm hỗ trợ khẩn cấp cho những người bị ảnh hưởng
bởi lũ lụt, sơ tán người dân trong cộng đồng, cung cấp nhà ở và chăm sóc y tế
và các hoạt động giảm bớt khả năng hoặc phạm vi của những thiệt hại phát
sinh như tổ chức các nhóm dân phòng hoặc dùng bao cát để chặn nước lũ. [4]
2.1.4. Thích ứng với biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, mặc dù mục tiêu ưu tiên của đất nước là đạt được sự tăng
trưởng kinh tế nhanh, nhưng chính phủ Việt Nam cũng nhận thức được rằng,

kiểm soát và giảm hậu quả của thiên tai cũng là một vấn đề then chốt và đã
phát triển một kế hoạch hành động cho việc phòng, chống và giảm nhẹ thiên
tai và chương trình nghị sự quốc gia. Tuy nhiên, kế hoạch hoạt động đó mới
chỉ tập trung vào những điều kiện khí hậu khắc nghiệt của khí hậu trước mắt
10
hơn là phản ứng với BĐKH tương lai, kể cả những thiên tai và những bất ổn
có thể làm tổn hại đến sự phát triển bền vững lâu dài của đất nước. [14]
Việt Nam đang tiếp tục thực hiện các hoạt động nghiên cứu về thích
ứng với BĐKH. Các hoạt động này nhằm trả lời những câu hỏi: Những khu
vực nào của đất nước sẽ phải chịu ảnh hưởng nhiều nhất của BĐKH; Những
ngành kinh tế nào sẽ chịu ảnh hưởng xấu; Có những hoạt động nào thu được
lợi ích từ những hậu quả tiềm năng của BĐKH; Những biện pháp nào có thể
giảm được nhiều nhất tính dễ bị tổn thương; và làm thế nào để lồng ghép sự
thích ứng vào những chiến lược phát triển ưu tiên khác.[14]
Những biện pháp truyền thống đối phó với BĐKH như xây dựng hệ
thống đê, mương, các công trình điều tiết và phân lũ, dự báo thời tiết … đang
được khai thác tích cực. Tuy nhiên, những chiến lược thích ứng với BĐKH
hiện nay sẽ thay đổi khái niệm về sự thích ứng từ bị động đối phó thành chủ
động phòng ngừa, đưa những ảnh hưởng tiềm ẩn của BĐKH như là một chỉ
dẫn quan trọng cho việc hoạch định chính sách, khác với kiểu thích ứng
“trông và chờ” truyền thống. Trọng tâm nhất của những phương án thích ứng
được nhằm vào những lĩnh vực dễ bị ảnh hưởng nhất của đất nước do BĐKH
trong tương lai, bao gồm cả tài nguyên nước, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy
sản, năng lượng, giao thông vận tải, y tế, vùng ven biển…[14]
Những lựa chọn thích ứng cụ thể có thể là rất đa dạng ở những lĩnh vực
và cấp độ khác nhau và phụ thuộc rất nhiều vào những chính sách ưu tiên
cũng như nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực hiện có. Nhìn
chung, một “chính sách đưa việc thích ứng vào trong kế hoạch phát triển quốc
gia” ở cấp trung ương có thể dẫn đến sự thành công trong xây dựng những
chiến lược thích ứng ở địa phương, khu vực nhằm củng cố khả năng thích ứng

của đất nước trong mối liên kết với những ưu tiên khác.[14]
2.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ ỨNG PHÓ VỚI LŨ LỤT
Ứng dụng mô hình MIKE FLOOD tính toán ngập lụt hệ thống
sông Nhật Lệ tỉnh Quảng Bình.
Mô hình MIKE FLOOD được phát triển bởi Viện thủy lực Đan Mạch
(DHI) nhằm tính toán ngập lụt cho lưu vực sông Nhật Lệ, tỉnh Quảng Bình
thông qua việc hiệu chỉnh và kiểm định với trận lũ năm 1999 và 2000. Mô
11
hình MIKE FLOOD là mô hình thủy động lực học dòng chảy kết nối 1&2
chiều có khả năng mô phỏng mực nước và dòng chảy trên sông, vùng cửa
sông, vịnh và ven biển, cũng như mô phỏng dòng không ổn định hai chiều
ngang trên đồng bằng ngập lụt. Kết quả của việc ứng dụng mô hình này là đã
ứng dụng tính toán ngập lụt cho khu vực hạ lưu sông Nhật Lệ đã được hiệu
chỉnh và kiểm định và kết quả đánh giá đạt 85% đạt loại tốt theo chỉ tiêu
Nash. Riêng với diện ngập lụt so sánh theo số liệu thống kê đạt loại khá
(73.6%). Điều này chứng tỏ mô hình đã mô phỏng tương đối tốt quá trình
ngập lụt trên lưu vực sông Nhật Lệ và mô hình có thể được sử dụng trong
thực tế phục vụ công tác cảnh báo, dự báo, phòng chống giảm nhẹ thiên tai
nói chung và lũ lụt nói riêng. [1]
Gia cố nhà để giảm nhẹ thiệt hại về kinh tế do lũ lụt gây ra tại miền
Trung
Từ năm 1999, dự án của tổ chức Hội thảo phát triển Pháp (DWF), đã
triển khai phương pháp gia cố nhà dân và những công trình công cộng nhỏ để
giảm nhẹ thiệt hại về kinh tế do lụt bão gây ra tại tỉnh Thừa Thiên Huế.Tổ
chức DWF đã phối hợp với hàng trăm gia đình để gia cố những ngôi nhà họ
đang ở. Vì từng ngôi nhà có cấu trúc khác nhau nên việc khảo sát nhà được
tiến hành một cách cẩn thận. Việc khảo sát đánh giá tập trung vào 10 nguyên
tắc cơ bản trong xây dựng nhà chống bão lụt do tổ chức DWF đưa ra. Hợp
đồng gia cố nhà sẻ được kí kết dựa trên sự thỏa thuận giữa hai bên, chủ nhà
và DWF, trong đó nêu rõ chi tiết những công việc cần phải làm để gia cố nhà

cho an toàn và xác định rõ phần đóng góp từ phía gia đình và từ phía dự án.
Nhờ sự hỗ trợ của DWF giúp gia cố hàng trăm công trình qua cơn bão số 6
Xangsane tháng 10 năm 2006, Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã ban
hành công văn khuyến khích người dân áp dụng kỹ thuật này [9].
Bình nước lọc và việc cung cấp nước sạch cho những xã bị ảnh hưởng
bởi thiên ta
Dự án của tổ chức CARE quốc tế tại Việt Nam ở huyện Vĩnh Hưng
tỉnh Long An đã giới thiệu một loại bình đơn giản để lọc nước, đặc biệt thích
hợp trong mùa lũ. Bình lọc nước nhựa gồm 2 khoang chứa. Nó thường được
sử dụng trong các hộ gia đình để lọc nước bằng cách lọc từ khoang này sang
12
khoang khác thông qua một lõi sứ và có 5 lớp gồm (1) than và than hoạt tính;
(2) khoáng chất zeolit; (3) cát silic; (4) lợp nhựa tổng hợp trao đổi ion; (5) cát
khoáng. Bình lọc có dung tích 14 lít, giúp ngăn vi khuẩn, bụi, bùn đất và bổ
sung thêm một số khoáng chất. Vi khuẩn vẩn còn lưu lại bên ngoài các lớp lọc
hay bên ngoài các lớp cấu sứ sẽ được khử bằng than hoạt tính khi tiếp xúc với
nước và giải phóng ra một lượng ion kim loại đã được biến đổi. Những ion
này tấn công vào hệ thống tế bào vi khuẩn và trung tính hóa vi khuẩn. Nhờ
thiết bị này, người dân có điều kiện được sử dụng nước an toàn hơn để nấu
ăn.
Trong vùng dự án chỉ những hộ được chọn mới được sử dụng bình lọc.
Để đảm bảo quá trình lựa chọn người hưởng lợi được công bằng, ban quản lý
ấp dự thảo một danh sách các hộ gia đình và nộp lên Ủy ban nhân dân xã đã
bầu và chọn những hộ hưởng lợi phù hợp nhất.[1]
13
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Những hộ dân sản xuất nông nghiệp thuộc xã Đức Bồng, huyện Vũ
Quang, tỉnh Hà Tĩnh.

3.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Điều kiện kinh tế-xã hội, tình hình lũ lụt tại Đức Bồng
+ Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ở xã Đức Bồng
+ Đặc điểm các loại thiên tai ở Đức Bồng
+ Đặc điểm của lũ lụt tại xã Đức bồng
+ Những thiệt hại do lũ lụt gây ra cho Đức Bồng từ 2006-2010
Những ảnh hưởng của lũ lụt đến sản xuất và đời sống của người dân
+ Ảnh hưởng của lũ lụt đến việc sản xuất lúa.
+ Ảnh hưởng của lũ lụt đến hoạt động tạo thu nhập
+ Ảnh hưởng của lũ lụt đến nhà ở.
+ Ảnh hưởng của lũ lụt đến nguồn nước sinh hoạt
+ Ảnh hưởng của lũ lụt đến việc sử dụng nhà vệ sinh của người dân
Khả năng thích ứng của ngưòi dân với lũ lụt
+ Thích ứng trong việc lựa chọn vật nuôi
+ Thích ứng trong trồng trọt
+ Thích ứng trong việc gia cố nhà
+ Sự chuẫn bị của người dân trước khi lũ đến
+ Những hoạt động trong và sau khi lũ
Các giải pháp giúp người dân ứng phó với lũ lụt
+ Những nguyên nhân gây ra lũ lụt
+ Những nhu cầu, nguyện vọng của người dân
+ Giải pháp đối với người dân để ứng phó với lũ lụt
14
+ Giải pháp đối với chính quyền để ứng phó với lũ lụt
3.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.3.1. Thông tin thứ cấp
- Tình hình kinh tế -xã hội năm 2010, các điều kiện địa hình, khí hậu,
các hoạt động sản xuất của xã Đức Bồng từ báo cáo kinh tế - xã hội của xã
trong năm 2010
- Thực trạng lũ lụt tại địa phương trong những năm gần và những thiệt

hại về người và tài sản do lũ lụt gây ra từ năm 2006-2010 từ báo cáo thiệt hại
do lũ lụt gây ra tại địa phương của trưởng ban phòng chồng lụt bão xã từ năm
2006-2010
- Những hoạt động của chính quyền địa phương trong việc giúp người
dân phòng chống lụt bão
3.3.2. Thông tin sơ cấp
Phỏng vấn hộ
Các tiêu chí và cách chọn mẫu
- Nghiên cứu được tiến hành trên 60 hộ bao gồm 30 hộ nghèo 15 hộ
khá và 15 hộ cận nghèo, các hộ được chọn phải là những hộ tham gia sản xuất
nông nghiệp, nằm trong vùng lũ lụt và chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của Đức
Bồng (đó là thôn 1,2,3 Bồng Thắng gần sông Ngàn Sâu)
Cách chọn: Lập danh sách các hộ của 3 thôn sau đó chọn ngẫu nhiên không
lặp lại 30 hộ nghèo trong 109 hộ, 15 hộ cận nghèo trong tổng 74 hộ và 15 hộ
khá trong tổng 46 hộ.
Nội dung cần thu thập :
- Tình hình lũ lụt tại địa phương trong những năm gần đây và thiệt hại
của hộ do lũ lụt gây ra trong từng năm
- Các hoạt động sản xuất, các nguồn thu nhập chính của hộ và khả năng
thích ứng với lũ lụt mà người dân thường áp dụng
15
- Những khó khăn gặp phải khi lũ đến và những nguyện vọng của
người dân
Phỏng vấn người am hiểu
Đối tượng phỏng vấn: Phó chủ tịch xã, chủ tịch hội nông dân, một số
trưởng thôn, hội trưởng hội phụ nữ, đoàn thanh niên, trưởng ban phòng chống
lụt bão xã, một số trưởng thôn.
Mục đích :
- Tìm hiểu các nguyên nhân gây ra lũ lụt ở Đức Bồng
- Tìm hiểu các cách ứng phó với lũ lụt của người dân

- Xác định các giải pháp giúp người dân ứng phó
Nội dung phỏng vấn :
- Tìm hiểu những diễn biến của lũ lụt trong những năm gần đây của xã Đức
Bồng
- Tìm hiểu những nguyên nhân gây ra lũ lụt
- Những biện pháp phòng chống lũ truyền thống
3.3.2.3. Thảo luận nhóm
Mục đích :
- Tìm hiểu khả năng ứng phó với lũ lụt của người dân
- Xác định nguyên nhân và các giải pháp để ứng phó với lũ
- Xác định những biện pháp mà địa phương sử dụng để đối phó với lũ
Phương pháp tiến hành: Thảo luận nhóm với sự tham gia của người dân
với số lượng 8 người 5 nam và 3 nữ.
Nội dung thu thập: Những khó khăn mà địa phương và người dân gặp
phải, và một số giải pháp giúp người dân ứng phó với lũ lụt.
Một số công cụ được sử dụng trong thảo luận nhóm
16
- So sánh cặp đôi để sắp xếp thứ tự các ưu tiên và xác định vấn đề mà
người dân quan tâm nhất
- Phân tích SWOT để đưa ra những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách
thức
3.3.3. Tổng hợp và xử lý số liệu
Những số liệu thu thập được tổng hợp lại và sử dụng phần mềm
EXCEL, SPSS 16.0 để xử lý số liệu.
17
PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ –XÃ HỘI XÃ ĐỨC BỒNG
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý

Đức Bồng là một xã miền núi nằm ở phía Bắc huyện Vũ Quang, tỉnh
Hà Tĩnh cách thành phố Hà Tĩnh 70km về phía Đông Nam.
- Phía Bắc giáp huyện Đức Thọ
- Phía Nam giáp thị trấn Vũ Quang
- Phía Đông giáp xã Đức Hương
- Phía Tây giáp xã Đức Lĩnh
Địa bàn xã có hơn 2 km sông Ngàn Sâu chảy qua, có đường tỉnh lộ 5 và
đường Ân Phú-Cửa Rào đi qua, giáp với thị trấn. Đây là điều kiện thuận lợi
cho việc đi lại, giao lưu buôn bán, trao đổi hàng hoá.
4.1.1.2. Khí hậu, thời tiết
Nằm trong khu vực miền Trung, phía Bắc Đèo Ngang khí hậu của Đức
Bồng thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa, tuy nhiên do ảnh hưởng của vị trí địa
lý nên ngoài những đặc điểm chung, khí hậu nơi đây có những nét đặc thù
riêng của một vùng đồi núi.
Mang tính chất chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa nên Đức Bồng có
hai mùa gió trong năm: gió mùa mùa đông (từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau,
chịu tác động của gió mùa Đông Bắc) và gió mùa mùa hạ (bắt đầu từ tháng 4
đến tháng 9, chịu tác động của gió Tây thổi từ vùng thượng Lào, có đặc điểm
là khô và nóng). Nhiệt độ trung bình hằng năm là 24,5
0
C, nhiệt độ cao nhất là
40,2
0
C (tháng 7), thấp nhất là 8,6
0
C (tháng 1). Do ảnh hưởng của gió mùa
Đông Bắc nên có những mùa đông nhiệt độ thấp xuống dưới 10
0
C. [15]
4.1.1.3. Mưa

18
Mưa là nguyên nhân chính của lũ. Tổng lượng mưa trong năm khá lớn,
trung bình 2304,5 mm/năm, mưa tập trung vào tháng 8 và tháng 9, mưa ít
nhất vào các tháng 2, 3,5. Riêng lượng mưa tháng 8, 9 chiếm gần 1/2 lượng
mưa cả năm, vì vậy thường gây lũ lụt cho vùng. Độ ẩm tương đối cao, trung
bình 85%, các tháng mùa đông trung bình 92%, thời kỳ khô kéo dài 4-5
tháng, từ tháng 4 đến tháng 8, độ ẩm trung bình 70%. [15]
4.1.1.4. Địa hình, đất đai
- Địa hình: Là xã thuộc huyện miền núi Vũ Quang, nằm ở sườn phía
Đông của dãy Trường Sơn Bắc ở độ cao trung bình 700m so với mực nước
biển. Địa hình đồi núi chiếm phần lớn diện tích đất tự nhiên phân hoá tương
đối phức tạp, không bằng phẳng, bị chia cắt bởi nhiều sông suối. Vì vậy, giao
thông thuỷ lợi còn nhiều khó khăn.
- Đất đai: Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, đóng vai trò hết sức quan
trọng và cần thiết cho mọi hoạt động sản xuất. Trong sản xuất nông nghiệp,
đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất
cây trồng và chất lượng sản phẩm.
19
Bảng1. Tình hình sử dụng đất xã Đức Bồng qua 3 năm từ 2008-2010
Loại đất sử dụng
Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
Diện tích
(ha)
Tỷ lệ
(%)
Diện
tích (ha)
Tỷ lệ
(%)
Diện

tích (ha)
Tỷ lệ
(%)
Tổng diện tích
đất
1371,95 100 1371,95 100 1371,95 100
1. Đất nông
nghiệp
224,54 16,36 223,83 16,31 222,38 16,21
1.1. Đất trồng
cây hằng năm
129,01 9,40 128,71 9,38 128,18 9,34
1.2. Đất trồng
cây lâu năm
95,53 6,96 95,12 6,93 94,20 6,87
2. Đất lâm nghiệp 561,16 40,90 540,28 39,38 491,60 35,83
3. Đất phi nông
nghiệp
292,34 21,30 293,26 21,38 293,86 21,42
3.1. Đất nhà ở 19,41 1,41 20,54 1,50 21,16 1,54
3.2. Đất chuyên
dùng
183,88 13,40 183,60 13,38 183,31 13,36
3.3. Đất sông
suối và mặt nước
89,05 6,49 89,12 6,50 89,39 6,52
4. Đất chưa sử
dụng
293,91 21,42 314,58 22,93 364,11 26,54
Nguồn: Thống kê xã Đức Bồng, 2010

Số liệu bảng 1 cho thấy trong 3 năm 2008, 2009, 2010 diện tích của các
loại đất có sự biến động, đất lâm nghiệp giảm từ 561,16 ha năm 2008 xuống
còn 491,60 ha năm 2010 thì đất chưa sử dụng lại tăng lên từ 293,91 ha năm
20
2008 lên 364,11 ha năm 2010 điều này nói lên một thực tế rằng nạn phá rừng
ở Đức Bồng đang xảy ra mạnh, đất bỏ hoang còn nhiều trong. Tiềm năng đất
đai của xã tương đối lớn nhưng hiện tại mới khai thác sử dụng được gần 75%,
trong đó chủ yếu là đất lâm nghiệp, đất sản xuất nông nghiệp chỉ chiếm một
phần nhỏ, mặt khác chất lượng và hiệu quả sản xuất của các hộ nông dân còn
rất yếu kém. Đất nông nghiệp có xu hướng giảm xuống qua mỗi năm trong đó
chủ yếu là giảm diện tích đất hằng năm, nguyên nhân chính là do chuyển đổi
sang đất nhà ở, đất chuyên dụng. Diện tích đất lâm nghiệp giảm, trở thành
những vùng đất trống đồi núi trọc, làm cho đất chưa sử dụng tăng lên. Diện
tích đất chưa sử dụng năm 2010 là 364,11 ha nhiều hơn đất nông nghiệp điều
đó nói lên một thực tế rằng nguồn tài nguyên đất đai ở Đức Bồng đang bị bỏ
quên một cách phung phí, nếu được khai thác tốt thì sẽ tạo ra nhiều việc làm
cho lao động địa phương.
4.1.1.5. Tài nguyên thiên nhiên
- Tài nguyên đất: Đất đai của xã chủ yếu thuộc nhóm đất feralit (đỏ
vàng), chiếm đại bộ phận diện tích. Ngoài ra còn có đất dốc tụ ở các thung
lũng, đất phù sa ven sông suối, đất nâu vàng trên phù sa cổ , các loại đất này
chiếm diện tích nhỏ và phân bố rải rác. Vì vậy diện tích đất trồng lúa và màu
rất hạn chế và độ màu mỡ thấp. Xã có tiềm năng lớn về đất lâm nghiệp, đây
chính là tiền đề để phát triển cây lâm nghiệp cũng như kết hợp chăn nuôi trâu,
bò. Đây là hướng đi phù hợp với điều kiện của xã.
- Tài nguyên nước: Xã có mật độ sông suối tương đối dày đặc. Đặc biệt
là có hơn 2 km sông Ngàn Sâu chảy qua và một số hồ tự nhiên có trữ lượng
nước tương đối lớn. Nếu hệ thống thuỷ lợi được đầu tư tốt sẽ cung cấp đầy đủ
nước tưới cho cây trồng trên toàn xã.
4.1.2. Điều kiện kinh tế-xã hội

4.1.2.1. Tình hình dân số và lao động
Dân số và lao động là một chỉ số đánh giá tiềm năng phát triển của một
địa phương. Lao động ở địa phương chủ yếu là lao động phổ thông, có tay
nghề thấp nên chủ yếu lao động bằng chân tay nhưng địa phương biết cách
khai thác tốt thì đó sẽ là một lợi thế không nhỏ. Qua quá trình tìm hiểu chúng
tôi đã thu được một số kết quả về dân số, lao động cũng như sự tham gia vào
21
các hoạt động sản xuất của người dân xã Đức Bồng và được trình bày ở bảng
2.
Bảng 2: Dân số và cơ cấu lao động của xã Đức Bồng qua các năm 2008-2010
Chỉ tiêu
Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
1. Tổng dân số
(người)
3389 100 3411 100 3457 100
2. Tổng số hộ (hộ)
862 100 879 100 900 100
Hộ sản xuất nông

nghiệp
701 81,32 697 79,29 695 77,22
Hộ sản xuất phi
nông nghiệp
161 18,68 182 20,71 205 22,78
3. Tổng số lao
động
1810 100 1833 100 1851 100
Lao động nam
851 47,02 843 45,99 856 46,25
Lao động nữ
959 52,98 990 54,01 995 53,75
Lao động nông
nghiệp
1450 80,11 1434 78,23 1415 76,45
Lao động phi
nông nghiệp
360 19,89 399 21,77 436 23,55
Nguồn: Thống kê xã Đức Bồng, 2010
Qua bảng 2 cho thấy, dân số trên địa bàn xã trong 3 năm qua có sự biến
động không đáng kể, dao động ở mức khoảng 50 người. Dân số trẻ, tiềm năng
lao động lớn, số người trong độ tuổi lao động 1851 lao động chiếm 53.5%
tổng dân số toàn xã, đây là lợi thế rất lớn để phát triển những ngành nghề cần
nhiều lao động như ngành nông nghiệp nhưng khi mà khoa học kỹ thuật ngày
22
càng phát triển, máy móc được đưa vào sản xuất thì số người thất nghiệp tăng
lên, vì vậy đòi hỏi chính quyền các cấp cần tìm hướng đi mới để tạo công ăn
việc làm cho người dân. Sản xuất nông nghiệp trong 3 năm qua có xu hướng
giảm từ 81,32% năm 2008 xuống còn 77.22% năm 2010 thay vào đó các các
nghành phi nông nghiệp tăng lên như các ngành dịch vụ, vận tải nhưng

không làm giảm vai trò của nông nghiệp đối với nền kinh tế của xã.
Về nghề nghiệp, sản xuất nông nghiệp chính là nghề chính của người
dân trong xã. Năm 2010 có 695 hộ trên tổng số 900 hộ dân của xã tham gia
sản xuất chiếm 77.22%. điều đó cho thấy sản xuất nông nghiệp quan trọng đối
với địa phương như thế nào, vì vậy nâng cao năng suất cây trồng, giảm nhẹ
những thiệt hại do thiên tai là nhiệm vụ được chính quyền và người dân đưa
lên hàng đầu.
4.1.2.2. Cơ sở hạ tầng
Trước khi tách ra khỏi huyện Đức Thọ để trở thành xã của huyện mới
Vũ Quang, cơ sở hạ tầng của xã hầu như không có gì đáng kể. Nhưng được sự
quan tâm đầu tư của chính quyền các cấp và sự đóng góp của người dân đến
nay cơ sở hạ tầng trên địa bàn xã có những chuyển biến tích cực. Nhìn chung
xã đã có đầy đủ các cơ sở vật chất kỹ thuật so với trước, trong sản xuất nông
nghiệp đã xuất hiện máy cày, máy bừa, máy tuốt lúa các hệ thống điện,
đường, trường, trạm phát triển hơn trước.
- Về giao thông, thuỷ lợi: Xã có tỉnh lộ 5 đi qua nối liền với thị trấn Vũ
Quang và huyện Đức Thọ. Có tuyến đường Ân Phú-Cửa Rào đi qua, dễ dàng
giao lưu với 6 xã vùng hạ của huyện Vũ Quang. Đến nay toàn xã đã có hơn
20 km đường nhựa và bê tông, trong đó có hơn 7 km đường tỉnh lộ 5. Hằng
năm, xã đầu hàng chục triệu đồng với hàng trăm ngày công của nhân dân để
nâng cấp hệ thống giao thông của xã. Cùng với đó, hệ thống thuỷ lợi cũng
được đầu tư để cung cấp nước cho cây trồng trên địa bàn xã. Hiện nay, xã đã
xây đựng được gần 5 km kênh mương bê tông và hồ chứa nước Đập Trấm. Và
đang tiếp tục đầu tư xây dựng nhiều km kênh mương bê tông khác.
- Về điện nước: Toàn xã có 5 trạm biến áp, 13/13 thôn có điện lưới
quốc gia, 100% hộ dân đã có điện thắp sáng và 95% hộ dân được sử dụng
nước sạch bằng hệ thống giếng đào và giếng khoan.
23
- Về hệ thống thông tin văn hoá: Hệ thống truyền thanh được đầu tư
đầy đủ và đồng bộ trên toàn xã. Bên cạnh đó, bưu điện văn hoá xã còn là địa

chỉ tin cậy của người dân trong xã về hoạt động thư tín, các loại sách báo
phục vụ sản xuất nông nghiệp. Đến năm 2010 tỷ lệ hộ có ti vi trên toàn xã là
85%, bình quân có 20 điện thoại/100dân.
- Về giáo dục, y tế: Nhờ hệ thống mạng lưới trường học được đầy tư
tương đối đồng bộ mà chất lượng dạy và học được nâng lên, cơ sở vật chất
phục vụ dạy và học được tăng cường. Hiện nay, xã có 1 trường tiểu học đạt
chuẩn quốc gia và một trường mầm non công lập. Phổ cập tiểu học đúng độ
tuổi và hoàn thành phổ cập THCS vững chắc và đang tiến hành xây dựng phổ
cập THPT.
Trạm y tế xã được được nâng cấp về cơ sở vật chất đảm bảo khám chữa
bệnh ban đầu cho người dân. Trong năm 2010, đã tổ chức khám và điều trị
cho 2740 lượt người, làm tốt công tác phòng dịch và không để dịch lây lan
trên địa bàn. Tổ chức xử lý vệ sinh nguồn nước cho 608 giếng bị ngập và tiêm
chủng đạt tỷ lệ khá cao sau 2 đợt lũ lịch sử vừa qua.
4.2.1.3. Các nguồn thu nhập của xã
Năm 2010, theo báo cáo của UBND xã bình quân thu nhập trên đầu
người của xã đạt 5.5 triệu đồng/người/năm. Tổng nguồn thu của xã đạt hơn 19
tỷ đồng trong đó sản xuất nông nghiệp vẫn đóng một vai trò hết sức quan
trọng. Các nguồn thu nhập chính của xã chủ yếu từ trồng trọt, chăn nuôi và
xây dựng cơ bản.
+ Về trồng trọt : Trồng trọt là chính là ngành mũi nhọn, thu hút nhiều
lao động và là nguồn tạo ra thu nhập chính cho người dân trong xã. Nhưng vì
cây trồng rất dể bị tác động bởi các yếu tố tự nhiên vì vậy việc đánh giá cơ
cấu cây trồng cũng như quy mô rất quan trọng. Cơ cấu cây trồng, năng suất
cũng như diện tích của một số cây trồng chủ yếu của Đức Bồng được trình
bày ở bảng 3 dưới đây.
24
Bảng 3: Diện tích và năng suất một số cây trồng chính ở Đức Bồng năm 2010
Cây trồng Diện tích gieo trồng (ha) Năng suất (tạ/ha)
Lúa

135
56
Ngô
16
30
Lạc
40
20.93
Đậu
83
10
Khoai lang
6
45
Sắn
10
45
Rau
6
60
Cây ăn quả
25
50
Nguồn: UBND xã Đức Bồng, 2010
Số liệu bảng 3 cho thấy, lúa là cây trồng chính của xã với diện tích 135
ha cao hơn rất nhiều so với những cây trồng khác như ngô, lạc, khoai lang,
đậu và năng suất lúa ở đây cũng tương đối cao, bình quân đạt 56 tạ/ha. Nếu
như hạn chế được những tác động của tự nhiên cũng như đầu tư thích đáng thì
nó sẽ đem lại một nguồn thu nhập không nhỏ cho người dân trong xã. Sau cây
lúa là cây đậu, đậu là cây dễ trồng thời gian sinh trưởng ngắn, và khả năng

chống chịu tốt nên phù hợp với nhiều loại đất khác nhau do đó đậu cũng được
trồng với một diện tích khá lớn 83 ha. Một số cây trồng nữa cũng được trồng
tại địa phương như lạc, ngô, khoai, sắn nhưng chủ yếu người dân trồng để
phục vụ cho chăn nuôi. Ngoài ra, diện tích cây ăn quả trên toàn xã trong
những năm gần đây tăng lên rất đáng kể. Có hai loại cây ăn quả được người
dân trồng đó là cây cam và cây chanh. Hai loại cây trồng này rất phù hợp với
điều kiện đất đai và khí hậu tại địa phương nên chúng cho năng suất tương đối
cao trung bình đạt 50 tạ/ha. Những loại này đang được chuộng trên thị trường
do đó nó tạo ra một nguồn thu không nhỏ và tạo ra nhiều công ăn việc làm
cho người dân.
25

×