Phần 1 ĐẶT VẤN ĐỀ 5
Phần 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 7
Phần 3 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 18
Phần 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 22
Phần 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 48
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Tình hình chung về dân số, lao động ở các thôn khảo sát 24
Bảng 3: Đặc điểm của các nhóm hộ khảo sát 26
Bảng 4: Tỷ lệ hộ nuôi xen ghép theo thời gian chuyển đổi 29
Bảng 5: Tỷ lệ hộ nuôi theo các hình thức 31
Bảng 6: Kết quả nuôi xen ghép của các hộ khảo sát 32
Bảng 7: Sản lượng các loại sản phẩm 34
Bảng 8: Thực hành mua bán đối với hộ nuôi tôm xen ghép 40
Bảng 9: Thực hành mua bán đối với hộ nuôi cua xen ghép 41
Bảng 10: Thực hành mua bán đối với hộ nuôi cá xen ghép 42
Bảng 11 : Thu nhập bình quân của hộ 45
Bảng 12 : Sự thay đổi chi tiêu của hộ 47
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ
2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
3
NTTS: Nuôi trồng thủy sản
KHKT: Khoa học kỹ thuật
UBND: Uỷ ban nhân dân
WTO: Word trade orgamization
KTTN : Khai thác tự nhiên
BQ: Bình quân
ĐVT: Đơn vị tính
4
Phần 1 ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Đầm Sam - Chuồn là một trong bốn hợp phần của hệ đầm phá Tam
Giang- Cầu Hai với tổng diện tích gần 3.000 ha nằm trong địa phận hành
chính 3 xã Phú An, Phú Xuân, Phú Mỹ và thị trấn Thuận An của huyện Phú
Vang.Với nguồn tài nguyên thủy sinh phong phú đây là nơi cung cấp nguồn
sống chủ yếu và trực tiếp cho cộng đồng dân cư ở trên và ven đầm phá thông
qua các hoạt động khai thác, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản.
Nghề nuôi trồng thủy sản có vai trò rất quan trọng trong việc gia tăng
thu nhập của hàng ngàn hộ dân đồng thời có ảnh hưởng rất lớn đến hệ sinh
thái vùng đầm Sam - Chuồn. Nhưng với sự bùng nổ của việc nuôi trồng và
khai thác không theo quy hoạch đã phá vỡ cảnh quan làm cho môi trường ô
nhiễm ngày càng nghiêm trọng. Do vậy mô hình nuôi xen ghép nhiều loại
cua, cá, tôm hiện nay đang là giải pháp bền vững và tối ưu cho các nhóm hộ
nuôi trồng. Với mô hình này thì bà con có thể tận dụng được nguồn thức ăn tự
nhiên và thể tích của thủy vực để đạt được năng suất cao với chi phí đầu tư
thấp, ngoài ra còn góp phần làm sạch môi trường ao nuôi, hạn chế dịch bệnh,
rủi ro. Các kết quả nghiên cứu cho thấy việc chuyển đổi sang mô hình nuôi
xen ghép đã mang lại hiệu quả cao, bền vững hơn so với mô hình nuôi chuyên
canh tôm, so với mô hình nuôi chuyên canh tôm thu nhập từ mô hình nuôi
xen ghép cao hơn khoảng 36% [4]
Do vậy trong những năm gần đây diện tích nuôi xen ghép không ngừng
được tăng lên. Chỉ tính 3 tháng đầu năm 2009 là 917 ha chiếm 36% diện tích
thả nuôi [11]. Và con số này chắc chắn còn tăng lên sẽ đặt ra vấn đề cho thị
trường thủy sản hiện nay. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến quy luật cung cầu
của thị trường, trong đó những người ngư dân được xem là tác nhân chính sản
xuất ra sản phẩm chỉ nhận được phần giá trị thấp. Vì thế việc tìm hiểu quá
trình tiêu thụ và đầu ra cho các sản phẩm này có vai trò quan trọng trong quá
trinh giải quyết những vướng mắc của thị trường gây tổn hại đến lợi ích người
nghèo-chính là những ngư dân.
5
Trong giới hạn cho phép của một đề tài thực tập và xuất phát từ yêu cầu
thực tế nói trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài " Tìm hiểu mạng lưới tiêu
thụ sản phẩm nuôi trồng thủy sản cùng Sam Chuồn - Phú Vang - Thừa
Thiên Huế "
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu quá trình chuyển đổi nuôi trồng thủy sản từ nuôi đơn canh
sang nuôi xen ghép
- Tìm hiểu chủng loại và sự thay đổi cơ cấu sản phẩm nuôi trồng thủy
sản ở vùng Sam Chuồn do phát triển nuôi xen ghép
- Xác định mạng lưới tiêu thụ sản phẩm nuôi xen ghép
6
Phần 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1.Quá trình hình thành nghề nuôi trồng thủy sản và các loại hình nuôi
trồng thủy sản trên đầm phá
+ Quá trình hình thành nghề nuôi trồng thủy sản trên vùng đầm phá [6]
Nghề nuôi trồng thủy sản nước lợ, mặn bắt đầu phát triển từ những năm
1975 trở lại đâytại hệ đầm phá. Hề đấm phá Tam Giang-Cầu Hai thông với
biển qua hai cửa Thuận An và Từ Hiền, tương tác giữa các nguồn nước ngọt
từ các sông hương, sông Ôlâu, sông Đại Giang… với nước biển theo chế độ
triều tạo ra nên độ mặn có biên độ biển động khá ổn định, là điều kiện tự
nhiên khá thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy sản nước lợ.
Từ năm 1977 đến năm 1978 rong câu bắt đầu được trồng thí nghiệm
trên diện tích 6 ha tại xã Phú Tân, huyện Phú Vang, mở ra nghề mới, nghề
nuôi trồng thủy sản tại đầm phá. Năm 1980 diện tích trồng rau câu tăng lên 50
ha. Năm 1986 nhờ có sự tại trợ của UNDP thông qua dự án VIE 86/010 diện
tích trồng rau câu tăng vọt đạt 300 ha tại hai điểm: vùng Sam Chồn huyện
Phú Vang và huyện Phú Lộc. Năm 1989 đạt 400 ha. Từ đầu ngững năm 1993
diện tích chững lại và có xu hướng không ổn định, thoái trào. Trong thập niên
gần đây do nghề nuôi tôm sú phát triển mạnh, mang lại diện tích cao hơn nên
nhiều diện tích trồng râu câu chuyển sang nuôi tôm, bắt đầu năm 1997 đã
không còn diện tích trồng rau câu chuyên canh. Tuy vậy, hàng năm vẫn thu
hoạch một lượng nhất định rong câu tự nhiên. Cho đến nay, ngoài việc trồng
rong câu nhiều đối tượng nuôi trồng được đưa vao vùng dầm phá ven biển
như: cua, tôm rảo, tôm sú, cá dìa, cá mú, cá rô phi đơn tính, ốc hương…tuy
nhiên chỉ có đối tượng tôm sú thực sự đáng kể.
Việc nuôi tôm đầu tiên dược ghi nhận năm 1981, bắt đầu bằng một đề
tài nuôi tôm rảo với nguồn giống tự nhiên tại vùng Tân Canh, cũng của xã
Phú Tân. Năm 1994 một đề tài nuôi tôm sú với hình thức chắn rào tại khu vực
Cồn Tè, xã Hương Phong, huyện Hương Trà. Trung tâm Nuôi Trồng Thủy
Sản Thừa Thiên Huế sau đó được thành lập với nhiệm vụ sinh sản nhân tạo
giống tôm sú, tôm thịt thử nghiệm. năm 1989, nuôi thử nghiệm giống tôm sú
7
đầu tiên tại tỉnh nhà ở trại gống Thuận An, đồng thời so sánh với giống tôm
bạc. Kết quả nuôi tôm sú khả quan hơn và bắt đầu phát triển đại trà việc dào
ao nuôi tôm từ đó.
Năm 2000 là một năm trúng lớn của nghề nuôi tôm của đầm phá Thừa
Thiên Huế do điều kiện tự nhiên thuận lợi(không hiểu do có trận lũ lớn năm
1999 cuốn đi nhiều chất tự động và mở rộng các cửa biển làm thông thoàng
dòng chảy, trao đổi nước), hơn nữa giá cả tôm sú cao đột biến do các quốc gia
khác nuôi tôm mất mùa (bình quân các năm tăng từ 30 đến 50 ngàn đồng/kg).
do thấy sự lợi nhuận quá lớn nên phong trào đào hồ nuôi tôm từ cuối năm
2000 đến năm 2001, diện tích ao hồ được nghi nhận tăng tử 1.850 ha vụ năm
2000 lên đến 2787 ha vụ năm 2001, việc phát triển nhanh như vậy đã tác động
xấu về mặt môi trường, dịch bệnh và về mặt kỷ thuật giồng, vốn…cung ứng
có nhiều vấn đề không đồng bộ. Từ năm 2004, sau trận dịch bệnh tôm sú lớn,
nghề nuôi tôm sú từ đó gặp nhiều khó khăn hơn. Gần đây những người nuôi
tôm sú ở những vùng biệt lập đã chuyển đối tượng sang nuôi tôm chân trắng,
thu được kết quả nhất định.
Song song với việc phát triển nuôi tôm, từ năm 1982-1983 tại vùng
Sam Chuồn bắt đầu xuất hiện việc nuôi giữ cua chưa đạt tiêu chuẩn thương
phẩm, nhằm làm tăng giá trị của đối tượng khai thác tự nhiên. Năm 1990,
trung tâm Nuôi tôm Phú Xuân mới bắt đầu việc nuôi cua tương đối bài bản.
Trong những năm này, vùng đầm Sam Chuồn, Thừa Thiên Huế trở thành
điểm trung chuyển cua lớn từ Nam Bộ ra phía Bắc, bàn qua biên giới Trung
Quốc. Càng về sau phương tiện chuyên chở bằng máy bay đã thuận lợi việc
trung chuyển cua không còn nữa.
Hiện nay cua là đối tượng nuôi đầy tiềm năng, nhưng đa phần chỉ tận
dụng vùng ao hồ sau vụ nuôi tôm. Tuy nhiên, một hai năm gần đây với việc
dịch bệnh tôm thất thường thì nghề nuôi tôm trong hệ thồng vây chắn sáo là
cứu cánh cho nhiều hộ ngư dân vùng đầm phá.
Về nhuyễn thể, từ năm 1990 bắt đầu có một vài hộ ngư dân biết cắm
cọc để thu giống vẹm xanh, hàu để nuôi tự nhiên. Sau năm 2000 nghề nuôi
nhuyễn thể phát triển mạnh ở cùng đầm Lăng Cô và sau đó một phần vùng
đấm Cầu Hai.
8
+ Sơ lược các loại hình và kỹ thuật nuôi trồng thủy sản [6]
1) Nuôi tôm bằng ao đất có bốn phương thức chính: quảng canh cải
tiến, bán thâm canh thấp triều, bán thâm canh cao triều và nuôi công nghiệp.
- Phương thức nuôi thâm canh cải tiến: Đây là phương thức nuôi với
mật độ thấp, năng suất thuộc lại trung bình thấp từ 600-1200 kg/ha/vụ mật độ
từ 5-7 con/m2, phương thức nay nuôi khá an toàn do mức đầu tư giống, thức
ăn, sử dụng nguồn nước để thay ở mức độ thấp, ít gây biến đổi môi trường
làm mất canh bằng sinh thái.
- Phương thức nuôi bán thâm canh: mật độ thả giống vừa phải 10-30
con/m2, năng suất trung bình 2-3 tấn/ha. Phương thức này hiện được nuôi ở
các vùng thấp triều lẫn các vùng cao triều ven phá. Đầu tư trang bị vừa phải,
thỉnh thoảng sử dụng thuốc và hóa chất, cho ăn đầy đủ thức ăn.
- Nuôi tôm công nghiệp (nuôi cao triều, nuôi thâm canh): Là hình thức
nuôi có đầu tư cao về chi phí, ao hồ phải đào đắp chắc chắn diện tích từ
5.000-10.000m2, thả giống với mật độ cao từ 30-60 con/m2, có đầu tư trang
thiết bị như quạt nước, hệ thống gom chất thải bùn đáy, cho ăn đầy đủ và định
kỳ sử dụng thuốc, hóa chất xử lý môi trường để phòng bệnh…nuôi tôm công
nghiệp cho năng suất cao từ 3-5 tấn/ha.
2) Đây là một lại hình nuôi tôm đặc trưng ở vùng đầm Sam Chuồn,
huyện phú Vang. Người dân cắm đăng bằng sáo mùng(có 2 lớp) với khoảng
cách giữa hai lớp từ 1 đấn 2 m, sau có cải tạo xử lý cá tạp bằng cánh dùng sáo
để “thẩy”, xiết để bắt hết cá tạp trong ao, phương pháp diệt tạp này không
được triệt để, không bắt hết toàn bộ cá tạp, vật giữ ở trong sáo.
Giống ở lạo hình nuôi sáo chắn, với kính thước lớn thường là 6-
8cm/con và thời gian nuôi ngắn từ 2 tháng đến 3 tháng là thu hoạch. Mạch độ
nuôi từ 3-5 con/m2.
Trong nuôi sào chắn, lượng nước trao đổi là ngò các dòng chảy hay
nước lên xuống của thủy triều; quá trình trao đổi được trao đổi trực tiếp với
smôi trường bên ngoài. Quá trình nuôi tôm không sử dụng các khoáng hay
hóa chất có tính độc hại để xử lý môi trường hay dịch bệnh.
Đây là một loại hình nuôi tôm có nhiều ưu điểm, ít gây biến đổi môi
trường sinh thái niếu người nuôi tuân thủ các yêu cầu cần thiết, tuy nhiên
9
trong thực tế ở các loại hình này, người nuôi thường không thả đúng mùa vụ
(thả sớm hơn lịch mùa cụ khuyến cáo), giống thả quá dày trên 8-10 con/m2.
Giồng không đảm bảo chất lượng, mang mầm bệnh, hoặc cho ăn thêm thức ăn
tươi(tôm vụn, cá tạp…), xây dựng khu nuôi không hợp lý(chắn dòng chảy,
cản trở giao thông), mật độ các đăng sao quá dày, thiếu quy hoạch…đã ảnh
hưởng xấu đến môi trường, làm môi trường ô nhiễm nặng, nhất là khi tôm bị
dịch bệnh, nguy cơ lây nhiễm càng lớn hơn, khó ngăn ngừa so với các mô
hình nuôi tôm ở trên.
3) Nuôi cá: Nuôi các trên vùng Thừa Thiên Huế hiện nay phổ biến có
ba loại hình phổ biến đó là nuôi lồng, nuôi ao, nuôi hỗn hợp các đối tượng
(cá,tôm, cua, rong câu).
- Phương thức nuôi ao (nuôi đơn): khi nuôi bán thâm canh mật độ nuôi
từ 2-3 con/m
2
, năng suất sản lượng sẽ nâng cao lên, quá trình thải loại thức ăn
dư thừa, phân cá cũng sẽ tăng, do đó mức độ ô nhiễm sẽ càng lớn.
- Phương thức nuôi lồng: các loại đang được nuôi nhiều ở đầm phá là
cá Mú, cá Hồng, cá Dìa. Với cá Mú, các Hồng hệ số thức ăn thường là 3 đến
5 (để có 1.000 kg sản lượng thịt cá chúng ta phải tốn một lượng thức ăn tươi
từ 3.000-5.000). Tương tự như vậy, khi nuôi cá Dò hệ số thức ăn lên đến 8-
10.
- Phương thức nuôi hỗn hợp: đây là kiểu nuôi xen ghép nhiều loại đối
tượng với nhau, với mật độ nuôi rất thấp và thành phần nuôi ghép hợp lý để
chúng có thể sử dụng tối đa lượng thức ăn tự nhiên sẵn có trong ao và tận
dụng các nguồn thải ra của các loại này để nuôi loại khác; như nuôi cá rô phi
đơn tính, cá dìa, cá đối, trồng rong câu. Hình thức nuôi hạn chế tối đa việc ấp
thức ăn nên hầu như không gây nên những biển đổi về nguồn nước môi
trường.
4) Nuôi cua: Nghề nuôi cua trên đầm phá hiện nay có 3 hình thức nuôi
phổ biến, đó là nuôi bằng lồng, nuôi đơn và nuôi xen ghép kết hợp với nhiều
đối tượng. Trong nuôi lồng hay nuôi đơn (chỉ nuôi cua) hệ số thức ăn là 3-4,
nguồn thức ăn là tôm cá tạp thu dược trong khai thác tự nhiên, hai dạng nuôi
này khi nuôi với mật độ cao, quy mô lớn vượt quá giới hạn cho phép cũng sẽ
làm cho môi trường bị ô nhiễm như nuôi tôm sú.
10
5) Trồng rong câu và các loại rong biển.
Sau năm 1975, nghề trồng rau câu của đầm phá của Tỉnh ta đã có
những bước phát triển mạnh. Hiện nay, các vùng ven biển, đầm phá đã dựa
vào trồng nhiều giống rong mới như rong cức, rong sụn… Việc trồng rong
câu, yêu cầu về kỷ thuật không đòi hỏi quá cao, cơ bản là phải đảm bảo được
yếu tố môi trường sống cho rong như độ mặn, pH… Ngoài yếu tố tự nhiên,
người trồng rong có thể phải cày xới đất, bón thêm phân chuồng và một lượng
phân vô cơ NPK (khi cần thiết).
Quá trình tròng rong câu đã cho thấy, với đặc tính dinh dưỡng của nó,
rong câu có tác dụng hấp thụ, lấy cả nguồn mùn bả hữu cơ, các chất mặn lơ
lửng trong nước, giúp cho việc làm sạch môi trường. Hiện nay nghề này
không đem lại hiệu quả kinh tế cao như nhiều nghề khác nên người dân không
còn phát triển như trước đây, tuy nhiên xét trên phượng diện lợi ích lâu dài và
tổng thể, để đảm bảo môi trường chúng ta cần có những giải pháp và chính
sách phù hợp để phục hồi, bố trí hợp lý các vùng trồng rong câu, hình thành
các thảm thực vật trên đầm phá để tạo nên môi trường sinh thái cho các loại
thủy sinh vật sinh trưởng, phát triển.
2.2 Tiêu thụ sản phẩm nuôi trồng thủy sản
2.2.1 Khái niệm về tiêu thụ sản phẩm và những đặc điểm trong tiêu thụ
thủy sản
+Khái niệm về tiêu thụ sản phẩm
Theo nghĩa rộng : Tiêu thụ sản phẩm là một quá trình kinh tế bao gồm
nhiều khâu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau như: Nghiên cứu thị trường, xác
định nhu cầu khách hàng, đặt hàng và tổ chức sản xuất thực hiện các nghiệp
vụ tiêu thụ, xúc tiến bán hàng nhằm mục đích đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
Theo nghĩa hẹp: Tiêu thụ là tất cả cá hoạt động liên quan đến sự lưu chuyên
của hàng hóa và dịch vụ từ người cung cấp đến tay người tiêu dùng cuối cùng
để thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng thông qua trao đổi hàng hóa và dịch
vụ trên thị trường.
11
Tiêu thụ sản phẩm đơn giản được cấu thành từ người bán người mua
hàng hoá, tiền tệ, khả năng thanh toán, sự sẵn sàng mua và bán Nhằm tối da
hoá lợi nhuận mỗi bên.
+ Những đặc điểm trong tiêu thụ thủy sản
Cũng giống như những loại sản phẩm khác, , sản phẩm ngành nuôi
trồng thủy sản là sản phẩm hàng hóa vì vậy tiêu thụ thủy sản nuôi trồng cũng
tuân theo những quy luật trên. Tuy nhiên do sản xuất thủy sản có những đặc
điểm riêng chi phối tới quá trình tiêu thụ sản phẩm thủy sản. Những đặc điểm
đó là:
- Gía cả dễ biến động nhanh: Giá cả của sản phẩm thủy sản có thể thay
đổi đáng kể và đột ngột trong trong một thời gian ngắn. Mức độ biến động giá
do cung cầu điều phối kém hoặc do không thể bảo quản lâu mà phải bán ngay.
Do đó giá của sản phẩm thủy sản có xu hướng giảm nhiều vào cuối ngày
hoặc khi có một lượng thủy sản lớn đột ngột xâm nhập làm cung vượt quá cầu
thị trường
- Tính thời vụ: Không như các sản phẩm công nghiệp, nguồn cung sản
phẩm thủy sản thường tập trung vào vụ thu hoạch và một hai tháng tiếp theo.
Giá sản phẩm thủy sản trong mùa vụ thụ hoạch thường rất thấp do thừa cung
nhưng sau đó lại tăng lên cho đến vụ thu hoạch sau.
- Giao động mạnh về giá giữa các năm : Giá thủy sản nuôi trồng có thể
dao động mạnh giữa các năm. Điều kiện tự nhiên, dịch bệnh là nguyên nhân
chủ yếu gây ra dao động giá do tác động của nó tới cung. Phản ứng của nông
dân đối với những hiện tượng trên càng làm giá cả biến động nhanh hơn.
- Tính rủi ro cao: Tính dễ biến động của giá là nguyên nhân chính của
rủi ro. Một yếu tố rủi ro khác là hao hụt sản phẩm do thối hỏng. Sản phẩm
thủy sản có thể bị ươn do quá trình bảo quản không tốt, do vận chuyển quá
lâu Những yếu tố này đều dẫn ảnh hưởng đến thu nhập của nông dân.
- Chi phí giao dịch và chi phí tiếp thị cao: Chênh lệch giá bán từ người
sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng thường rất cao.
- Thiếu thông tin: Do hạn chế về điều kiện tự nhiên nên hầu như các hộ
nông dân có sự hạn chế kiến thức và hiểu biết về phương thức hoạt động của
thị trường, thông tin về cầu và giá cả
12
- Cung kém co giãn theo giá : Nói chung lượng cung thủy sản nuôi
trồng không đáp ứng nhanh với giá cả, đặc biệt trong ngắn hạn. Nói cách
khác, nông dân cần nhiều thời gian đề điều chỉnh sản xuất sao cho đáp ứng
với sự thay đổi giá.
- Độ co giãn của cầu theo giá lớn
2.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm
Thị trường tiêu thụ nghiên cứu: Thị trường tiêu thụ chính là nghiên cứu
mối quan hệ cung - cầu, giá cả sản phẩm hàng hoá trong một không gian, thời
gian nhất định. Thị trường tiêu thụ là nhân tố tác động mạnh đến sản xuất của
các doanh nghiệp bởi các quy luật cạnh tranh, qui luật cung cầu. Thị trường là
đối tượng sản xuất đồng thời cũng là điều tiết sản xuất.
Chất lượng sản phẩm: Trong nền kinh tế thị trường chất lượng sản phẩm
là vấn đề cơ bản quyết định khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Sản phẩm của doanh nghiệp được người tiêu dùng chấp nhận khi chất lượng
sản phẩm đảm bảo. Chất lượng sản phẩm ngày càng nâng cao sẽ làm tăng giá
trị sử dụng, thời gian sử dụng của sản phẩm trên thị trường cạnh tranh, sản
phẩm tiêu thụ rộng hơn, nhiều hơn và ngược lại sẽ mất dần sức cạnh tranh
trên thị trường, sẽ bị đánh bại và nhanh chóng dẫn đến phá sản.
Giá sản phẩm: Đây cũng là yếu tố ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ sản
phẩm bởi người tiêu dùng quyết định xem giá cả của mặt hàng có phù hợp với
ý tưởng của họ hay không? Do đó khi định giá doanh nghiệp phải xem xét
vấn đề này kĩ càng để đưa ra mức giá thích hợp, thuyết phục người tiêu dùng,
phản ánh đúng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Nhân tố vốn: Là một nhân tố quan trọng trong quá trình mở rộng sản
xuất kinh doanh và trong quá trình cạnh tranh của doanh nghiệp
Nhân tố con người: Con người hết sức quan trọng trong quá trình sản xuất
kinh doanh nói chung và đối với khâu tiêu thụ nói riêng. Đối với doanh
nghiệp thể hiện qua trình độ quản lý, điều hành.
Nhân tố chính sách và pháp luật của Nhà nước: Môi trường chính sách
có thể tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp này phát triển song kìm hãm
doanh nghiệp khác, từ đó ảnh hưởng rất lớn đến tiêu thụ. Môi trường hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp ở nước ta có sự quản lý của Nhà nước,
13
đường lối phát triển kinh tế có sự can thiệp của Đảng. Các công cụ của Đảng
và Nhà nước ta đề ra như : Chính sách tín dụng ngân hàng, chính sách xuất
nhập khẩu đã trực tiếp, gián tiếp tác động đến sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.[1]
2.3 Tình hình tiêu thụ thủy sản ở Việt Nam
Ngành thủy sản trong những năm gần đây đã sự tăng trưởng vượt bậc
về diện tích, sản lượng là giá trị sản lượng. Năm 2009 giá trị kim ngạch xuất
khẩu của cả nước đạt 4,2 tỷ USD. Tuy nhiên nếu chỉ căn cứ từ phần trăm tăng
trưởng thì không hợp với xu thế kinh doanh hiện nay. Trong điều kiện kinh tế
Việt Nam gia nhâp WTO, các rào cản về thuế quan đã được bãi bỏ nhưng các
rào cản phi thuế quan như an toàn vệ sinh thực phẩm, vấn đề truy xuất nguồn
xuất sứ của sản phẩm, vấn đề chống bán phá giá được các nước nhập khẩu sử
dụng như một công cụ bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các nhà sản xuất thủy
sản tại nước nhập khẩu đã đặt nhiều thách thức cho các nhà sản xuất thủy sản
ở Việt Nam. Bởi vậy làm thế nào để sản xuất và tiêu thụ thủy sản ổn định,
bền vững , nâng cao giá trị gia tăng mới là mục tiêu thực sự mà ngành thủy
sản phải nghĩ đến.
Trong phạm vi cả nước , sản xuất và tiêu thụ thủy sản nước ta còn biểu
hiện nhiều mặt hạn chế:
- Nuôi trồng thủy sản còn manh mún, tự phát, không xuất phát từ nhu
cầu thị trường. Do vậy đã làm cho giá cả dễ biến động, biên độ lợi nhuận của
tất cả các tác nhân tham gia vào chuỗi tiêu thụ dần bị thu hẹp.
- Mặc dù khối lượng thủy sản tiêu thụ trong nước có xu hướng tăng
nhưng tiêu thụ trong nước lại ít được các doanh nghiệp quan tâm. Bởi vì lợi
nhuận sản xuất trong nước thường thấp hơn so với xuất khẩu
- Mối quan hệ hợp tác giữa người NTTS và cá đơn vị tiêu thụ thủy sản
không chặt chẽ làm cho người sản xuất không đáp ứng nhu cầu thị trường cả
về số lượng và chất lượng, hiện tượng tranh mua, tranh bán thường xuyên
diễn ra làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của cả hai bên.
- Ở khu vực miền Trung, hoạt động tiêu thụ thủy sản chủ yếu phụ thuộc
vào các tư thương nên việc bị ép giá là điều rất dễ thấy. Điều này diễn ra
thường xuyên sẽ làm ảnh hưởng đến thu nhập của người dân. Do đó việc cần
14
thiết là tạo nên mối liên kết bền vững giữa các nhà máy chế biến, các hộ
NTTS, các cơ sở sản xuất dịch vụ các yếu tố đầu vào cho nhà sản xuất, ngân
hàng, các công ty bảo hiểm nhằm đảm bảo sự ổn định, bền vững và giá trị gia
tăng cao cho nghề NTTS.
- Trong khi diện tích và sản lượng NTTS không ngừng tăng lên thì cơ
sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất và tiêu thụ thủy sản vẫn còn yếu kém, điều
này còn dẫn đến tình trạng dịch bệnh diễn ra hàng loạt. Hơn nữa hệ thống các
kho lớn để trữ hàng còn thiếu đã gây không ít khó khăn cho người sản xuất
khi vào mùa thu hoạch.
- Hiểu biết của các đơn vị NTTS, các cơ sở thu mua và chế biến thủy
sản về vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm còn rất hạn chế. Đây sẽ là trở ngại
lớn khi xuất khẩu thủy sản cũng như tiêu thụ thủy sản trong nước.
2.4 Tình hình nuôi trồng thủy sản ở Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế là một tỉnh duyên hải miền Trung có hệ thống đầm
phá ven biển rộng lớn gần 22.000 ha. Hệ thống đầm phá Tam Giang - Cầu
Hai chạy dọc suốt 5 huyện ven biển Thừa Thiên Huế là Phong Điền, Quảng
Điền, Hương Trà, Phú Vang, Phú Lộc. Ước tính có khoảng 300.000-350.000
người dân sinh sống ở đây và sinh kế của họ dựa vào đầm phá là chủ yếu. Với
nguồn tài nguyên sinh vật phong phú và đặc sắc đã tạo ra điều kiện thuân lợi
đế phát triển các ngành nghề nông, lâm, ngư nghiệp mà đặc biệt là nghề nuôi
trồng thủy sản . NTTS dần trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Tỉnh nói
chung và cả nước nói riêng.
15
Biểu đồ 1: Diện tích nuôi trồng thủy sản của các huyện ven phá năm 2009
Nguồn: Báo cáo tổng kết NTTS tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2009
Diện tích nuôi trồng thủy sản của Tỉnh tiếp tục được mở rộng qua các
năm. Trong năm 2009 tổng diện tích thả nuôi toàn Tỉnh đạt 5.705,54 ha trong
đó diện tích của 5 huyện ven phá là 3.835,64 ha chiếm 67,2 %. Trước năm
2006 do mới chuyển đổi từ nuôi độc canh tôm sang nuôi xen ghép nên người
dân không dám đầu tư nhiều do đó diện tích nuôi xen ghép là không đáng kể.
Nhưng sau năm 2006 thì mô hình nuôi xen ghép được ứng dụng và nhân rộng
trên toàn Tỉnh, diện tích nuôi xen ghép đã tăng một cách đáng kể. Trong 5
huyện ven phá thì Phú Vang là huyện có diện tích nuôi trồng và diện tích nuôi
xen ghép lớn nhất. Huyện Quảng Điền mặc dù có diện tích nuôi trồng thấp
hơn so với các huyện Phú Lộc và Phú Vang nhưng diện tích nuôi xen ghép lai
lớn, chiếm 99,3 % tổng diên tích nuôi trồng toàn huyện.
Với diện tích không ngừng tăng lên thì sản lượng của nuôi trồng thủy
sản toàn Tỉnh cũng ngày càng cao. Năm 2009, tổng sản lượng nuôi trồng thủy
sản của Tỉnh đạt 10.916,05 tấn, trong đó sản lượng thủy sản nước lợ là
6.373,9 tấn chiếm 58,4% . Sản lượng tôm các loại đạt : 4.927,8 tấn chiếm
45,2 % ( trong đó tôm chân trắng: 2.580,4 tấn, tôm sú: 2.347,4 tấn.). Sản
lượng cá nước lợ là 704 tấn chiếm 6,5 % tổng sản lượng . Sản lượng cua, ghẹ
là 208,6 tấn. Ngoài ra còn có sản lượng nhuyễn thể là 200 tấn.
16
Biểu đồ 2: Sản lượng nuôi trồng thủy sản các huyện đầm phá năm 2009
Nguồn: Báo cáo tổng kết NTTS tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2009
Biều đồ 2 cho thấy tôm vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các loại sản
phẩm , điều này cho thấy nghề nuôi tôm đến nay vẫn còn phát triển tương đối
mạnh. Trong 5 huyện kể trên thì Phong Điền là huyện có sản lượng tôm lớn
nhất. Tuy nhiên tỷ lệ các loài khác như cua, ghẹ, cá cũng dần tăng lên ở các
huyện. Như ở Phú Vang, sản lượng cá là 764 tấn chiếm 26,4 % tổng sản
lượng, sản lượng cua, ghẹ là 18,3 %. Có thể nói với việc chuyển đổi dần mô
hình nuôi đơn tôm sang các mô hình nuôi hỗn hợp khác nhau đã đem lại sự
thay đổi lớn về cơ cấu và chủng loại sản phẩm, làm cho thị trường đầu ra của
sản phẩm nuôi trồng thủy sản trở nên phong phú hơn.
17
Phần 3 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Các hộ NTTS đã chuyển đổi theo mô hình nuôi xen ghép, các tác nhân
thu gom, tác nhân bán buôn và tác nhân bán lẻ sản phẩm tại xã Phú An, Phú
Mỹ, Phú Xuân và thị trấn Thuận An- huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Vùng nghiên cứu là các thôn định cư ở các xã Phú An, Phú Mỹ, Phú
Xuân và thị trấn Thuận An- là các thôn có đời sống gắn bó chặt chẽ với vùng
đầm phá, sử dụng nguồn tài nguyên vùng Sam Chuồn - Phú Vang- Thừa
Thiên Huế.
Thời gian thực hiện từ 05/05/2010 đến 09/05/2010
3.3 Nội dung nghiên cứu
Đề tài được thực hiện với các nội dung cụ thể sau:
Đặc điểm của nhóm hộ khảo sát
Đặc điểm của quá trình chuyển đổi
- Thời gian chuyển đổi,
- Diện tích chuyển đổi theo thời gian.
- Số hộ chuyển đổi, hình thức chuyển đổi theo thời gian
- Tỷ lệ giữa các hình thức chuyển đổi
- Thuận lợi và khó khăn trong quá trình chuyển đổi
- Thay đổi của hộ do phát triển nuôi xen ghép: thay đổi về thu nhập,
thay đổi về chi tiêu
Sự thay đổi về chủng loại và cơ cấu sản phẩm trong quá trình nuôi xen
ghép
- Tỷ lệ các hộ theo các hình thức nuôi xen ghép
- Thành phần, tỷ lệ các loài qua mỗi năm
- Mức độ đầu tư cho mỗi loài
- Lợi nhuận từ mỗi loài
Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm
18
- Các tác nhân tham gia vào mạng lưới tiêu thụ sản phẩm.Vai trò của
mỗi tác nhân
- Các hoạt động mua bán, trao đổi trong mạng lưới tiêu thụ sản phẩm
- Sơ đồ tiêu thụ sản phẩm
- Số lượng kênh, khối lượng sản phẩm qua mỗi kênh và các tác nhân
3.4 Phương pháp nghiên cứu
3.4.1 Chọn điểm nghiên cứu
- Điểm nghiên cứu là 4 thôn Định cư ở các xã Phú An, Phú Mỹ, Phú
Xuân và thị trấn Thuận An.
- Mang tính đại diện cho cộng đồng có đời sống gắn bó chặt chẽ với
vùng Sam Chuồn đang tiến hành quá trình chuyển đổi và nuôi xen ghép.
3.4.2 Chọn mẫu
Tiêu chí chọn mẫu: Các tác nhân tham gia chuỗi giá trị sản phẩm nuôi
trồng thủy sản vùng Sam Chuồn
- Dung lượng mẫu: 51 hộ nuôi trồng thủy sản mô hình xen ghép
4 tác nhân thu gom
3 tác nhân bán buôn
4 tác nhân bán lẻ
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên không lặp được xác định trước
trong danh sách thôn xã.
3.4.3 Thu thập thông tin dữ liệu
- Thu thập thông tin thứ cấp
+ Thông tin thu được từ cấp cộng đồng, dựa vào các tài liệu, báo cáo
của các cơ quan chuyên ngành và các cấp: UBND Tỉnh, Phòng NN&PTNT,
Chi cục NTTS, UBND xã. Báo cáo liên quan đến thực trạng nuôi trồng thủy
sản tại các địa phương thuộc vùng Sam Chuồn.
+ Một số nghiên cứu liên quan đến tiêu thụ sản phẩm và chuỗi giá trị
+ Sử dụng tài liệu, sách báo, internet
- Thu thập thông tin sơ cấp
+ Phỏng vấn sâu : Sử dụng bảng hỏi bán cấu trúc kết hợp nói chuyện
với một số người am hiểu cộng đồng, cán bộ phụ trách về NTTS và
kinh tế tại địa phương để lấy các thông tin về: tình hình nuôi trồng thủy
19
sản của thôn, thị trấn, thời gian chuyển đổi từ mô hình nuôi tôm độc
canh sang mô hình nuôi xen ghép, số lượng các tác nhân trong mạng
lưới tiêu thụ sản phẩm.
+ Phỏng vấn các tác nhân tham gia vào mạng lưới tiêu thụ sản phẩm
nuôi trồng thủy sản bao gồm: hộ nông dân, tác nhân thu gom, tác nhân bán
buôn, tác nhân bán lẻ. Với mỗi đối tượng sẽ sử dụng mỗi bảng hỏi bán cấu
trúc đã chuẩn bị trước với nội dung như sau:
* Hộ nông dân :
Đặc điểm của hộ.
Diện tích, năng suất và sản lượng nuôi trồng thủy sản của hộ qua các
năm.
Thay đổi của hộ do phát triển nuôi xen ghép.
Quá trình mua bán giữa hộ và các tác nhân khác
* Tác nhân thu gom:
Thời gian thu gom
Khối lượng thu gom
Chi phí cho việc thu gom
Quá trình mua bán với các tác nhân khác
* Tác nhân bán buôn
Đối tượng mua sản phẩm
Khối lượng sản phẩm
Chi phí mua bán sản phẩm
Quá trình mua bán với các tác nhân khác
* Tác nhân bán lẻ:
Khối lượng, chi phí mua bán mỗi ngày
Quá trình mua bán với các tác nhân khác
+ Thảo luận nhóm được tiến hành ở 3 thôn: thôn Định Cư ( Phú An ),
thôn Định Cư ( Phú Mỹ ), thôn Thủy Diện ( Phú Xuân ). Gồm 5-7 hộ nông
dân nuôi trồng thủy sản. Thảo luận nhóm với mục đích xác định sơ đồ thị
trường, số lượng kênh, tác nhân, khối lượng hàng hóa bán qua mỗi kênh, các
khó khăn thuận lợi cho các tác nhân
20
3.4.3 Phân tích dữ liệu
- Phân tích định tính được sử dụng để phân tích các thông tin thu được
từ thảo luận nhóm liên quan đến mạng lưới tiêu thụ sản phẩm nuôi trồng thủy
sản.
- Phân tích định lượng: các số liệu sau khi thu thập được mã hóa và xử
lý bằng phần mềm Excel và phương pháp thống kê mô tả.
21
Phần 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Giới thiệu khu vực nghiên cứu
Thuỷ vực Sam Chuồn hiện nay được xem thuộc 4 đơn vị hành chính
của huyện Phú Vang là : thị trấn Thuận An, xã Phú An, xã Phú Mỹ và xã Phú
Xuân. Thật ra một phần cồn Dài thuộc địa giới hành chính xã Phú Thuân,
khoảng hơn 80 hecta. Tuy nhiên thực tế sản xuất cho thấy cư dân thuộc thị
trấn Thuận An đang hành nghề ở đây và khu vực này cũng quá cách biệt nên
hầu như Phú Thuận không có một động thái quản lý nào ở đây.[14]
Diện tích đầm ước khoảng 2365 hecta chiếm khoảng 34,6% diện tích
đầm phá của huyện. Hai xã Phú An và Phú Mỹ có tổng diện tích thủy vực
nằm trọn trong đầm Sam Chuồn, còn xã Phú Xuân và thị trấn Thuận An có
các diện tích thủy vực khác ngoài phần Sam Chuồn.
Hình 1: Địa giới hành chính khu vực Sam Chuồn
Nguồn : Google Earth
22
4.2 Thông tin chung về cộng đồng ngư nghiệp vùng nghiên cứu
Các thôn nghề ngư ở khu vực này chính là các cộng đồng có các hoạt
động sống gắn bó chặt chẽ với mặt nước đầm phá, sử dụng tài nguyên đầm
phá là nguồn thu nhập đảm bảo sự sinh tồn của họ, bao gồm các thôn Định Cư
(Phú An), Định Cư (Phú Mỹ), Thủy Diện (Phú Xuân), Tân Dương (Thuận
An). Cả bốn thôn trên đều được hình thành từ năm 1985 theo chính sách của
Nhà nước nhằm ổn định đời sống và tạo sinh kế bền vững cho cư dân vùng
Thủy Diện.
Vấn đề dân số và lao động ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế
của địa phương. Một mặt tạo ra tiềm lực để phát triển, mặt khác lại là yếu tố
cản trở sự phát triển khi vấn đề công ăn việc làm, đời sống nhân dân không
được đảm bảo.
Là những thôn nằm ở ven phá, thôn Định cư (Phú An), thôn Định cư
(Phú Mỹ), thôn Thuỷ diện (Phú Xuân) và Tân Dương (Thuận An) có những
nét tương đồng về đặc điểm sinh kế, tuy nhiên do điều kiện tự nhiên - kinh tế
- xã hội khác nhau nên mỗi xã cũng có những nét khác biệt nhất định được thể
hiện qua bảng sau
23
Bảng 1: Tình hình chung về dân số, lao động ở các thôn khảo sát
Các chỉ
tiêu
ĐVT Định cư
(Phú An)
Định cư
(Phú Mỹ)
Thuỷ Diện
(Phú Xuân)
Tân Dương
(Thuận An)
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Số hộ
toàn thôn
Hộ
287 100 141 100 180 100 121 100
Số hộ
NTTS
Hộ 167 58,2 120 85,1 120 66,7 109 90,1
Số hộ
KTTN
Hộ 116 40,4 20 14,2 30 16,7 8 6,6
Số hộ làm
nghề khác
Hộ 4 1,4 1 0.7 30 16.7 4 3.3
Số hộ
nghèo
Hộ 43 15 22 15,6 40 22,2 35 28,9
Số hộ
không
nghèo
Hộ 244 85 119 84.4 140 77.8 110 71,1
Tổng số
dân
Khẩu 1880 100 862 100,0 930 100,0 726 100
Tổng lao
động
Lao
động
895 47,6 327 37,9 470 50.5 380 52,3
Diện tích
nuôi bình
quân/hộ
Ha 1,28 - 1 - 2,25 - 1,24 -
Nguồn: UBND xã - Báo cáo KT- XH năm 2009
Thôn Định Cư (Phú An) là thôn đông dân nhất trong 4 thôn, có tổng số
hộ là 287 với 1880 dân ( bình quân 6,6 khẩu/hộ ). Các thôn còn lại thì số dân
không vượt quá 1000 khẩu. Thôn Tân Dương (Thuận An) là thôn có số dân
thấp nhất nhưng tổng số lao động lại chiếm tỷ lệ lớn nhất 52,3%.
24
Với đặc trưng về điều kiện tự nhiên, đất đai, mặt nước các hoạt động
ngành nghề chính ở Sam Chuồn chủ yếu vẫn là hoạt động sản xuất thủy sản,
tỷ lệ này chiếm trên 80% ở cả 4 thôn. Là thôn có tổng số hộ thủy sản đông
nhất nhưng số hộ chuyên NTTS ở thôn Đinh Cư (Phú An) lại thấp.Trong khi
đó số hộ KTTS lại chiếm đến 40,4% (116 hộ). Ba thôn Định Cư (Phú Mỹ),
Thủy Diện (Phú Xuân), Tân Dương (Thuận An) lại có nét khác biệt, số hộ
NTTS có tỷ lệ cao, tương đương là 85,1%, 66,7%, 90,1%. Trong khi số hộ
KTTN không quá 15% đối với hai thôn ở Phú Mỹ , Phú Xuân và 16,7% ở
Thuận An.
Bên cạnh ngư nghiệp thì trong cơ cấu ngành nghề của bốn thôn ngư
nghiên cứu còn có nông nghiệp và kinh doanh dịch vụ. Chỉ có duy nhất một
hộ ở thôn Định Cư (Phú Mỹ) làm nông nghiệp, còn các hộ khác chủ yếu là
kinh doanh dịch vụ. Dịch vụ là ngành nghề chính của 30 hộ ở thôn Thủy Diện
(Phú Xuân) chiếm tỷ lệ cao nhất 16,7% Tuy nhiên ở đây thì nghề dịch vụ thực
chất cũng dựa vào hoạt động sản xuất thuỷ sản để tồn tại và phát triển. Ngoài
ra mỗi hộ thường tiến hành làm thêm các nghề như: phụ thợ nề, làm thuê, đan
lát để tăng thêm thu nhập.Nhưng thực chất đời sống nhân dân vẫn rất khó
khăn, tỷ lệ hộ nghèo lớn, ở Định Cư (Phú An) là 43 hộ chiếm 15%, ở Định Cư
(Phú Mỹ) là 22 hộ chiếm 15,6% tổng số hộ trong xã, ở Thuỷ Diện (Phú Xuân)
là 40 hộ chiếm 22,2% và ở Tân Dương (Thuận An) là 35 hộ chiếm 28,9%.
Thuộc các xã ven đầm phá với diện tích mặt nước rộng là cơ sở cho
việc phát triển khai thác thuỷ sản và nuôi trồng thuỷ sản. Tận dụng những
điều kiện tự nhiên sẵn có, đặc trưng cơ bản thích hợp cho việc nuôi trồng thủy
sản nên diện tích nuôi trồng của các hộ dần được mở rộng.
Bình quân mỗi hộ ở các thôn đều có diện tích trên 1 hecta.Thôn Thủy
diện ( Phú Xuân) là thôn có diện tích nuôi trồng lớn nhất 270 hecta, tính trung
bình thì mỗi hộ có 2,25 hecta để nuôi trồng. Ở đây hộ có diện tích nuôi trồng
lớn nhất lên đến 7 hecta.
25