Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

tìm hiểu thực trạng chuyển dịch cơ cấu cây trồng tại xã hồng thái, huyện a lưới, tỉnh thừa thiên huế năm 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (667.63 KB, 37 trang )

PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài.
Nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng trong quá trình phát triển của
mỗi quốc gia, Trong những năm gần đây kinh tế Việt Nam có nhiều chuyển biến
tích cực nhờ những điều chỉnh thích hợp với quá trình hội nhập. Trong sự
chuyển biến đó, có sự chuyển biến rõ nét của nông nghiệp và nông thôn, từ chỗ
thiếu lương thực phải nhập khẩu, đến nay nước ta đảm bảo được an toàn, an ninh
lương thực, sản phẩm nông nghiệp ngày càng đa dạng và phong phú.
Huyện A Lưới là huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa diện tích đất tự
nhiên của huyện là 122.463,60 ha và dân số là 42.262 người (năm 2010). A
Lưới có rất nhiều dân tộc chung sống trên một địa bàn, trong đó dân tộc ít
người chiếm trên 75% dân số toàn huyện. Là khu vực có địa hình phức tạp, A
Lưới có 21 đơn vị hành chính bao gồm 1 thị trấn và 20 xã phân bố kéo dài
dọc biên giới Việt-Lào.
Tuy nhiên do tình trạng du canh du cư trước đây khá phổ biến, việc
khai thác tài nguyên thiên nhiên còn mang tính tự phát chưa có cơ sở khoa
học và chưa được hoạch định một cách rõ ràng nên không những làm cho đời
sống nhân dân thiếu ổn định, kinh tế khó khăn mà còn làm cho đất đai ngày
càng bạc màu, tài nguyên cạn kiệt và hủy hoại môi trường. Nhận thức thâm
canh cây trồng của người dân còn thấp, chưa mạnh dạn đầu tư phát triển nông
nghiệp, tiềm lực lao động chưa được khai thác, việc chuyển đổi cơ cấu cây
trồng hợp lý nhằm phát triển nền nông nghiệp trên địa bàn là rất cần thiết.
Trước tình hình đó, việc tìm hiểu thực trạng chuyển đổi cơ cấu cây
trồng để tìm các giải pháp và định hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tăng giá trị sản lượng và hiệu quả kinh tế trên
một đơn vị diện tích canh tác cao nhất phù hợp với lợi thế kinh tế của tiểu
vùng khí hậu sinh thái, điều kiện kinh tế và xã hội, nhằm hạn chế những bất
lợi, tăng sản phẩm cho xã hội, cải thiện đời sống cho người sản xuất. Vì vậy
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu thực trạng chuyển dịch cơ cấu cây
trồng tại xã Hồng Thái, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2011” nhằm


1
có cơ sở để đưa ra các biện pháp thay đổi cơ cấu cây trồng tại xã Hồng Thái
để nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
 Tìm hiểu tình hình sản xuất nông nghiệp (trồng trột) tại xã Hồng Thái.
 Tìm hiểu thực trạng cơ cấu cây trồng trên địa bàn nghiên cứu.
2
PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận.
2.1.1 Khái niệm cơ cấu cây trồng,
Cơ cấu cây trồng là tổng thể các loại cây trồng với vị trí , tỷ trọng tương
ứng của chúng và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành ở một vùng
lãnh thổ xác định trong một thời kỳ nhất định [6].
2.1.2 Nội dung và vai trò của chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
* Nội dung chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
Nội dung chuyển dịch cơ cấu cây trồng rất đa dạng tùy thuộc vào điều
kiện tự nhiên và kinh tế của mỗi vùng. Nhìn chung khi tiến hành chuyển dịch
cơ cấu cây trồng, các địa phương tập trung vào hai nội dung sau:
- Nội dung thứ nhất là xác định chiến lược, phương hướng phát triển
của ngành trồng trọt trong một thời kỳ nhất định. Ngành trồng trọt là một bộ
phận hợp thành trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp của một vùng lãnh thổ được
xác định. Phương hướng chiến lược phát triển ngành trồng trọt là cơ sở xác
định cơ cấu cây trồng. Vì thế khi đánh giá hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu
cây trồng phải xem xét cơ cấu cây trồng đã góp phần triển khai thực hiện.
- Nội dung thứ hai là xác định qui mô, cơ cấu các loại cây trồng và cơ
cấu đất đai thích hợp Cũng như lựa chọn các công thức luân canh, qui trình
sản xuất trên từng khu vực ruộng đất cụ thể (như đối với khu vực ruộng đất có
thể trồng 3 vụ thì phải xác định rõ chủng loại, thứ tự các loại cây trồng luân
canh ra sao) để thực hiện cơ cấu cây trồng.

* Vai trò của chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
Vai trò của chuyển dịch cơ cấu cây trồng có một ý nghĩa quan trọng
trong việc phá vỡ thế độc canh nông nghiệp, từng bước phát triển nền công
nghiệp hàng hóa, đẩy mạnh phân công lao động trên địa bàn nông thôn. Bên
cạnh đó góp phần nâng cao mức độ hiệu quả sử dụng các nguồn lực như: lao
động, đất đai và tai nguyên thiên nhiên khác, vốn, khoa học công nghệ, truyền
thống nghề nghiệp. Mở ra khả năng ứng dụng nhanh và có hiệu quả các tiến
bộ khoa học, công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế
3
quốc dân. Góp phần bảo vệ tôn tạo lại môi trường sinh thái trong sạch, bền
vững. Tạo khả năng và điều kiện để chúng tham gia có hiệu quả vào quá trình
hợp tác và phân công lao động quốc tế, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Tạo bước đột phá chuyển dịch cơ cấu chung, khai thác nội lực, nhất là nguồn
lực tại chỗ về lao động, đất đai và tài nguyên khác.
2.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu cây trồng.
* Điều kiện tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên có tác động rất lớn đến cơ cấu cây trồng, điều kiện tự
nhiên gồm có: vị trí địa lý, đất đai, khí hậu, các nguồn tài nguyên… mỗi vùng
miền có một vị trí địa lý, đất đai, điều kiện khí hậu khác nhau và nó cũng tạo
điều kiện thuận lợi hay khó khăn cho phát triển sản xuất đối với cơ cấu cũng
như chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Do đó, trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất
nông nghiệp những ưu thế vị trí địa lý, chất đất, nguồn nước trở thành những
yếu tố cấu thành thuận lợi quan trọng.
4
* Điều kiện kinh tế - xã hội.
Cơ sở vật chất kỹ thuật: Cơ sở vật chất kỹ thuật tác động tới năng suất,
chất lượng, hiệu quả sản xuất nông nghiêp, từ đó có tác động đến việc phân
công lao động, do đó nó có tác không nhỏ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
cũng như cơ cấu cây trồng. Cơ sở vật chất kỹ thuật gồm có: Kết cấu hạ tầng
kỹ thuật, chất lượng, số lượng…

Vốn đầu tư: Nhờ có vốn đầu tư mới có thể giải quyết được vấn đề nâng
cao nguồn lực lao động, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng các
thành tựu của khoa học công nghệ.
Thị trường: Thị trường qui định về số lượng và chủng loại sản phẩm
hàng hóa nông sản cũng như hàng hóa dịch vụ do đó ảnh hưởng đến quy mô,
khả năng đầu tư, bố trí các loại cây trồng.
Tập quán sản xuất: Mỗi vùng có một tập quán sản xuất riêng do đó
việc bố trí cây trồng, trồng các loại cây phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, nhu
cầu sử dụng các loại cây đó cũng như thói quen canh tác sử dụng đất đai để
trồng trọt của người dân.
Sự tác động của Nhà nước: Vai trò của Nhà nước trong chuyển dịch
cơ cấu cây trồng thường thể hiện ở nhiều mặt: ban hành các chủ trương, chính
sách về nông nghiệp nông thôn…Ngành trồng trọt gắn liền với từng vùng sinh
thái, trải rộng trên không gian nên vai trò của các cấp tỉnh, huyện, xã có ý
nghĩa rất quan trọng.
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Một số nghiên cứu về cơ cấu và hệ thống cây trồng trên thế giới.
Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, điều kiện tự nhiên khác nhau sẽ
dẫn đến cơ cấu cây trồng cũng khác nhau để phù hợp và thích ứng với điều
kiện đó. Do vậy trong những năm gần đây chuyển biến cơ cấu cây trồng trên
thế giới có nhiều biến đổi tuỳ theo điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế xã
hội khác nhau của mỗi nước mà có hướng bố trí cơ cấu cây trồng phù hợp.
Nước Mỹ Là một nước có nền nông nghiệp tiên tiến và có cơ cấu cây
trồng tương đối hợp lí, hàng năm diện tích dành cho trồng đậu tương là 46
triệu ha, chiếm 33% tổng diện tích canh tác; trồng ngô 25 triệu ha, chiếm 20%
5
tổng diện tích canh tác; 1,3 triệu ha trồng lúa và số còn lại dành cho các loại
cây khác.
Ở Nhật Bản do điều kiện đất đai ít nên việc phát triển nông nghiệp rất
khó khăn. Khoảng 61% diện tích là vùng đồi núi, tỷ lệ đất nông nghiệp chiếm

khoảng 14% tổng diện tích đất cả nước, diện tích bình quân 350 m
2
/người,
xếp vào loại thấp nhất thế giới, nhưng họ đã dựa vào nền khoa học tiên tiến,
có kỹ thuật canh tác sáng tạo đã tạo được một nền nông nghiệp vững mạnh
với cơ cấu cây trồng hoàn thiện đạt năng suất cao. Năm 1987 Chính phủ Nhật
Bản đã triển khai xây dựng một nền nông nghiệp đặc thù chuyên canh theo
hướng sản xuất hàng hoá trên cơ sở nguyện vọng của nhân dân.
Còn ở Philippin trên những vùng chủ động nước trước kia người ta chỉ
trồng 2 vụ/năm, nhưng trong những năm gần đây nhờ sự tiến bộ của khoa học
kỹ thuật đã chọn tạo giống mới, họ đã chuyển sang trồng 3-4 vụ/năm với các
công thức luân canh phù hợp tạo nên một cơ cấu cây trồng tương đối hợp lí
như sau:
(1) Là thực hiện luân canh ba vụ giữa cây Lúa - Đậu – Khoai.
(2) Là thực hiện luân canh ba vụ giữa cây Lúa - Lúa - Đậu tương.
(3) Là thực hiện luân canh bốn vụ giữa cây Lúa - Lúa miến gieo – Lúa
miến gốc I – Lúa miến gốc II.
(4) Là thực hiện luân canh bốn vụ giữa cây Lúa – Khoai lang – Đậu
tương – Ngô đường [3].
2.2.2. Một số nghiên cứu về cơ cấu và hệ thống cây trồng ở Việt Nam
Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác đã áp dụng các chiến
lược phát triển trong nông nghiệp như tập trung vào việc nghiên cứu cải tạo
giống có năng suất cao, phẩm chất tốt. Để đạt được kết quả đó trong mấy năm
qua chúng ta đã có nhiều biện pháp như: thay đổi giống mới vào sản xuất,
chuyển đổi cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp. Trong canh tác sử dụng đất thì
tiến hành luân canh, xen canh, gối vụ, tăng vụ. Trong sản xuất nông nghiệp thì
đẩy nhanh áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm thay đổi nền
nông nghiệp nước ta, tăng thêm sản phẩm từ sản xuất nông nghiệp. Để đạt được
kết quả trong sản xuất nông nghiệp thì nước ta cần có cơ cấu cây trồng phù hợp
cho từng vùng, vì điều kiện tự nhiên nước ta có những vùng có những đặc trưng

6
riêng về các mặt đất đai, khí hậu, kinh tế, chính trị xã hội và lao động. Bố trí cơ
cấu cây trồng phù hợp sẽ phát huy, khai thác triệt để tiềm năng đất đai, khí hậu,
nhân lực…tạo ra năng suất, sản lượng và chất lượng cao. Sự đa dạng hoá cây
trồng tạo nhiều sản phẩm trên một đơn vị diện tích canh tác, tránh được những
bất lợi của điều kiện tự nhiên, môi trường, hạn chế những rủi ro do biến động giá
cả thị trường cho người lao động.
Tuy nhiên, bố trí hệ thống cây trồng thích hợp còn tuỳ thuộc vào nhiều
yếu tố như: tập quán canh tác, trình độ khoa học kỹ thuật, thị trường tiêu
thụ…Như ở đồng bằng Bắc bộ và đồng bằng Nam bộ thuận tiện cho việc phát
triển nông nghiệp vì có hệ thống sông dài, rộng, địa hình bằng phẳng, ít bị sói
mòn, rửa trôi, đất đai màu mở nên cơ cấu cây trồng đa dạng và năng suất cao
hơn. Vùng miền Trung là vùng có điều kiện thiên nhiên, địa hình phức tạp
nên cơ cấu cây trồng ít đa dạng, năng suất thấp.
* Miền Bắc là vùng có cơ cấu cây trồng đa dạng nhất nước ta, giữa các
vùng ở miền Bắc có cơ cấu cây trồng khác nhau. Trong những năm gần đây
hệ số sử dụng đất được tăng lên, trước kia theo tập quán chỉ trồng 1 màu – 1
lúa, nay đã tăng thêm 2 màu – 1 lúa, có nơi còn trồng xen rau.
Những vùng luân canh Ngô – lúa ở Cao Bằng có công thức luân canh
phục vụ cho rãi vụ đối với từng chân đất để đáp ứng năng suất.
Ngô sớm – Lúa mùa sớm.
Ngô chính vụ - Lúa mùa chính vụ.
Ngô muộn – Lúa mùa muộn
Năm 1990 tác giả Dương Hữu Tuyên đã nghiên cứu các hệ thống canh
tác cây trồng 3 vụ, 4 vụ/năm ở vùng trồng lúa đồng bằng sông Hồng, trong đó
tác giả đề cập đến cơ cấu cây trồng trên đất lúa như sau:
(1) Hai vụ lúa truyền thống: Lúa xuân – Lúa mùa muộn.
(2) Hai vụ lúa – Một vụ mùa đông như đậu tương, khoai lang, khoai tây.
(3) Thuốc lá xuân – Đậu tương hè – Lúa mùa muộn – Khoai tây.
Tác giả cũng đề cập tăng năng suất, hiệu quả của các công thức trên

một số vùng đã sớm đưa các kiến thức này vào sản xuất và hiệu quả tăng lên
rõ rệt như: cơ cấu hai vụ lúa – một cây vụ đông.
7
Các tác giả Đào Xuân Thụ, Đào Nguyên Hải trường Đại học Nông
nghiệp I đã nghiên cứu về “Đánh giá triển vọng sinh thái học bạc màu Hà Nội
thuộc vùng đồng bằng sông Hồng”, trong đó các tác giả đã nghiên cứu cơ cấu
cây trồng trên đất lúa và có kết quả như sau:
Trên đất có 2 vụ lúa: Lúa vụ xuân – Lúa vụ mùa – Ngô đông xuân hoặc
khoai lang đông xuân hoặc ớt đông xuân.
Trên chân đất 3 vụ: Lúa xuân – Lúa mùa sớm – Cây vụ đông hoặc Lạc
xuân – Lúa mùa sớm – Cây vụ đông.
Tác giả Nguyễn Minh Thụ trường Đại học Nông nghiệp I “Nghiên cứu
biện pháp kỹ thuật hợp lý trên đất bạc màu”, tác giả đã nghiên cứu trên vùng
đất Đông Anh ngoại thành Hà Nội với các cơ cấu:
(1) Lúa xuân – Đậu tương hè – Thuốc lá – Khoai tây.
(2) Lúa xuân – Lúa mùa cực sớm – Cây vụ đông.
(3) Khoai lang xuân – Đậu tương thu – Cây vụ đông.
* Ở miền Nam nói chung có cơ cấu cây trồng đơn giản hơn miền Bắc vì
ở đây có những vùng ngập lụt kéo dài nên không thể gieo trồng quanh năm
như ở miền Bắc. Ở đồng bằng sông Cửu Long lúa là cây trồng chính, tuỳ vào
đặc điểm của đất mà cây trồng và giống cây trồng khác nhau. Đối với đất
phèn nhẹ có hệ thống tưới tiêu: Lúa cao sản (đông xuân) – Hoa màu (xuân hè)
– Lúa cao sản (hè thu), còn ở vùng nước trời với vùng nước ngập dưới 50 cm
có các công thức luân canh sau:
(1) Lúa cao sản hè thu – Lúa mùa lấp vụ thu đông – Hoa màu đông xuân.
(2) Lúa cao sản hè thu – Lúa trung mùa cao sản thu đông – Hoa màu
đông xuân.
* Ở miền Trung do điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt nên cơ cấu cây
trồng đơn giản hơn các vùng khác. Vùng Bắc Trung bộ mùa mưa thường đến
chậm hơn ở miền Bắc nên giai đoạn đầu của vụ mùa đất thường khô, đến

tháng 9 dương lịch thì mưa to ngập nước. Nếu trồng màu thì hoa màu sẽ chết
nhưng nếu trồng lúa thì đúng vào giai đoạn thiếu nước nên người dân đã vận
dụng các chu kỳ luân canh như: Khoai lang ( hoặc ngô) – Lúa, sắn – Lúa gieo
khô, thuốc lá hoặc rau – Lúa gieo khô.
8
Năm 1998, Trung tâm nghiên cứu Nông nghiệp Duyên Hải Nam Trung
bộ thuộc Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam khi nghiên cứu về
sản xuất lúa bền vững ở Nam Trung bộ đã có một số phát hiện mới đó là Nam
Trung bộ sản xuất hai vụ lúa trung ngày cho tổng sản lượng ổn định và cao
hơn sản xuất ba vụ lúa ngắn ngày. Tổng sản lượng hai vụ lúa trung ngày đạt
12-14 tấn/ha, thêm vụ lúa chét nữa có thể đạt 14-15 tấn; trong khi đó nếu
trồng ba vụ chỉ đạt 11-13 tấn/ha. Cho nên công thức luân canh trên đất lúa:
Lúa đông xuân – Lúa hè thu – Lúa chét hoặc bỏ hoang.
9
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG &
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các hộ chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở xã Hồng Thái, huyện A Lưới,
tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2011.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi các nội dung liên quan đến cơ
cấu cây trồng của xã Hồng Thái, huyện A Lưới năm 2011.
3.3. Nội dung nghiên cứu
 Tìm hiểu tiểu vùng sinh thái của địa phương phân tích những
thuận lợi và khó khăn của điểm nghiên cứu làm cơ sở cho việc định hướng
chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp.
 Tìm hiểu tình hình sản xuất nông nghiệp (trồng trọt) tại xã Hồng
Thái.
 Tìm hiểu thực trạng cơ cấu cây trồng của địa phương và những

lợi ích mà nó mang lại chủ yếu là lợi ích kinh tế và môi trường.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Thu thập số liệu thứ cấp
Thông tin thứ cấp được tìm hiểu từ các tài liệu: niên giám thống kê
huyện A Lưới năm 2010, báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm
của xã Hồng Thái; báo cáo về tình hình chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở địa
bàn xã, tài liệu sách báo, tạp chí, đề tài nghiên cứu liên quan. Qua đó thu được
một số thông tin sau: tình hình chung của địa phương “về dân số, kinh tế, văn
hoá, xã hội”; Diện tích đất trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản; Các loại
cây trồng chính của địa phương; Các loại cây trồng được bố trí trên vụ; Lịch
thời vụ; Những khó khăn thuận lợi của địa phương trong việc chuyển dịch các
loại cây trồng.
10
3.4.2.Thu thập thông tin sơ cấp
Phỏng vấn sâu người am hiểu :phỏng vấn phó chủ tịch xã, 3 trưởng
thôn, hội nông dân, cán bộ khuyến nông viên thôn. Qua đó thu thập các thông
tin sau: tình hình canh tác sử dụng đất, cơ cấu cây trồng, diện tích – năng suất
của một số cây trồng chính tại địa phương, cơ cấu thu nhập của người dân từ
các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Phỏng vấn hộ: Phỏng vấn 40 hộ sản xuất nông nghiệp trên 3 thôn được
chọn ngẫu nhiên theo danh sách có sẵn. Qua đó thu thập các thông tin sau: cơ
cấu cây trồng của nông hộ, diện tích – năng suất của một số cây trồng chính
của nông hộ, chi phí đầu tư cho một số cây trồng chính của nông hộ qua đó đánh
giá hiệu quả kinh tế mà cây trồng đó đem lại từ đó xem xét cơ cấu cây trồng đó
đã hợp lí hay chưa, những thuận lợi và khó khăn của nông hộ trong sản suất
nông nghiệp.
3.4.3. Xử lý số liệu
Số liệu sau khi thu thập từ 40/316 hộ được tổng hợp và xử lý thông qua
phần mềm tính toán Microsoft Excel 2003.
11

PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội của vùng thực hiện.
4.1.1. Diều kiện tự nhiên của địa bàn nghiên cứu.
* Địa hình: xã Hồng Thái bị chia cắt bởi các đồi núi, và sông nhỏ (đặc
biệt là sông A Sáp). Địa hình tạo nên một thung lũng tương đối có độ dốc
thoai thoải thuận lợi cho việc phát triển cây công nghiệp ngắn ngày và dài
ngày cũng như phát triển việc trồng rừng.
* Đặc điểm địa chất: điều kiện địa chất khu vực xã Hồng Thái cũng
như của huyện A Lưới phức tạp do có sự xuất hiện của nhiều loại hệ tầng địa
chất, phân bố tại nhiều khu vực, nhiều loại đá với nhiều nguồn gốc, bị uốn
nếp, vò nhàu đồng thời có rất nhiều đới phá hủy kiến tạo bậc III và IV.
* Đặc điểm khí hậu: mùa nắng bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 9, mùa
mưa từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 21
0
C.
Nhiệt độ cao nhất là 38,5
0
C, thấp nhất là 10
0
C. Lượng mưa bình quân là 3.120
mm, thấp nhất là 2.520 mm, cao nhất là 4.570 mm. Số ngày mưa trong năm là
210 ngày, thường tập trung vào tháng 10, tháng 11, và tháng 12. Độ ẩm trung
bình là 68%. Hướng gió chính là Tây Bắc thổi từ tháng 4 đến tháng 9. Hướng
gió Đông Bắc thổi từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau [7].
* Tài nguyên đất: tài nguyên đất của xã Hồng Thái có : tổng quỹ đất tự
nhiên là 6.927,10 ha. Trong đó đất nông nghiệp 6.209,36 ha (chiếm 89,64%),
đất phi nông nghiệp 600,50 ha (chiếm 8,67 %), đất chưa sử dụng 117,24 ha
(chiếm 1,69 %). Đất ở Hồng Thái chủ yếu là loại đất đỏ gần giống với đất đỏ
Bazan ở Đắk Lắk. Ngoài ra còn có các loại đất vàng nâu trên đất tụ, phù sa

không bồi tụ, đất vàng nhạt phát triển trên đá cát, và một ít đất xám bạc màu.
Ở ven sông, suối, tầng đất dày trên 80 cm, thành phần cơ giới thịt nhẹ đến thịt
trung bình, khá thuận lợi cho việc phát triển kinh tế vườn.
12
4.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội
* Dân số và lao động: mật độ bình quân dân số trên toàn huyện là 35
người/km
2
, trong lúc đó mật độ tại vùng nghiên cứu là 20 người/km
2
, xã Hồng
Thái có tổng số 321 hộ với 1.393 nhân khẩu, trong đó có là 627 người trong độ
tuổi lao động, trong đó có 340 nữ. Sự cân đối giữa nguồn nhân khẩu, nguồn lao
động hiện có với tư liệu sản xuất hiện nay cho thấy lao động hiện nay đang
thiếu việc làm, nảy sinh hiện tượng chia việc làm do đó năng suất lao động
không cao.
Tổng số lao động của xã Hồng Thái là 627 người, trong đó lực lượng
lao động theo thời vụ chiếm khoảng 80%. Theo kết quả điều tra, lao động chủ
yếu là sản xuất nông nghiệp. Cuộc sống khó khăn nên sức khỏe người dân
hạn chế, ảnh hưởng đến tình trạng việc làm. Mặt khác trình độ dân trí, trình
độ chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề chưa cao. Số lao động được đào tạo ngành
nghề chính quy còn ít. Những hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến qúa
trình phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn xã.
* Đặc điểm chung về phát triển kinh tế xã hội và các ngành kinh tế
chủ yếu của xã Hồng Thái:
Xã Hồng Thái có điều kiện phát triển kinh tế tổng hợp: nông lâm
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Những năm gần đây cùng với sự phát
triển kinh tế của huyện, tỉnh, sự đầu tư của các dự án, nền kinh tế xã tăng
trưởng với tốc độ tương đối khá, cơ cấu chuyển dịch đúng hướng, đầu tư có
trọng điểm, tạo chuyển biến mới về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.

Mặc dù mức sống của bà con có tăng lên nhưng nhìn chung cuộc sống
còn nhiều khó khăn, tỷ lệ đói nghèo còn khá cao so với sự phát triển chung
của xã hội. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đói nghèo, trước hết do điều
kiện tự nhiên khó khăn, đất đai nghèo dinh dưỡng, xói mòn, khí hậu thời tiết
khắc nghiệt, mưa lũ thường xuyên. Hai là, trình độ người dân còn thấp, thiếu
vốn, số ít chưa biết sử dụng đồng vốn một cách hợp lý, đông con, lực lượng
lao động chưa qua đào tạo. Người dân chưa biết nắm bắt cơ hội đầu tư phát
triển kinh tế cá thể. Ba là điều kiện kinh tế xã hội chưa phát triển như cơ sở hạ
tầng yếu kém, một số dịch vụ chưa phát triển.
4.2. Tình hình sản xuất nông nghiệp (trồng trọt) tại xã Hồng Thái.
13
Hồng Thái là một xã vùng miền núi của huyện A Lưới do có những đặc
thù riêng về địa hình và khí hậu nên hoạt động sản xuất nông nghiệp đặc biệt
là trồng trọt gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng trong điều kiện hiện tại thì sản
xuất nông nghiệp vẫn là một hướng đi chính và quyết định trong quá trình
định canh định cư và vươn lên có cuộc sống tốt hơn cho người dân nơi đây.
Nắm bắt tình hình chung cũng như những điều kiện hiện tại ở địa phương,
chính quyền và người dân nơi đây đã từng bước khắc phục khó khăn để tiến
hành phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung và hoạt động trồng trọt nói
riêng. Trên thực tế thì trong những năm gần đây hoạt động trồng trọt của xã
nhìn chung đã có nhiều chuyển biến, Hàng loạt cây trồng khác nhau đã được
người dân đưa vào thử nghiệm và cho kết quả bước đầu khá khả quan.
4.2.1. Cây lương thực, thực phẩm
Cây lương thực được người dân đưa vào trồng khá đa dạng và cho năng
suất tương đối ổn định. Tình hình sản xuất một số cây lương thực chính của
xã được thể hiện ở bảng 1.
Bảng 1: Diện tích, năng suất, sản lượng một số cây lương thực chính
của xã Hồng Thái trong 3 năm (2008 – 2010).
Loại cây
2008 2009 2010

DT
(Ha)
NS
(Tạ/ha)
SL
(Tấn)
DT
(Ha)
NS
(Tạ/ha)
SL
(Tấn)
DT
(Ha)
NS
(Tạ/ha)
SL
(Tấn)
Lúa 56,0 33,0 185,0 59,0 32,8 193,3 64,0 31,9 204,4
Ngô 46,0 39,1 180,0 44,0 39,3 172,8 20,0 36,0 72,0
Khoai lang 6,0 32,0 19,2 6,0 34,0 20,4 4,0 32,5 13,0
Sắn 75,0 95,0 712,5 60,0 95,0 570,0 60,0 135,0 810,0
Rau các loại 6,0 63,0 37,8 7,0 63,9 44,7 8,0 66,6 53,3
Đậu các loại 4,0 4,9 1,9 3,5 4,8 1,7 2,5 4,8 1,2
Nguồn: Niên giám thống kê huyện A Lưới, năm
2010
Qua bảng 1 ta có thể thấy, nhìn chung về số lượng các loại cây lương
thực được người dân ở đây đưa vào tiến hành gieo trồng khá đa dạng bao gồm
lúa, ngô, khoai, sắn, đậu, lạc và nhiều loại cây khác. Nhưng ta có thể thấy
14

rằng lúa, ngô và sắn vẫn là những cây trồng chủ lực của người dân nơi đây, đó
cũng là 3 loại cây chiếm diện tích lớn nhất. Việc tập trung sản xuất các loại
cây này sẽ cho phép đảm bảo nguồn lương thực cho người dân địa phương
trước khi hướng tới việc cung cấp cho các thị trường khác. Theo thống kê
trong vòng 3 năm trở lại đây của xã (từ 2008 – 2010) thì diện tích lúa đã tăng
từ chỗ 56 ha năm 2008 lên 64 ha năm 2010 dẫn tới việc sản lượng lúa tăng lên
khá đáng kể từ 185 tấn lên 204,4 tấn năm 2010. Tuy nhiên bên cạnh sự tăng
lên về diện tích lúa thì diện tích ngô lại giảm từ 46 ha năm 2008 xuống còn 20
ha vào năm 2010, sự giảm sút về diện tích đã làm giảm mạnh sản lượng ngô
từ 180 tấn năm 2008 xuống còn 72 tấn năm 2010. Và tương tự là sắn từ 75 ha
năm 2008 giảm xuống còn 60 ha năm 2010, tuy nhiên sản lượng của cây sắn
chỉ giảm trong năm đầu tiên từ 712,5 tấn năm 2008 xuống còn 570 tấn năm
2009 nhưng đến năm 2010 tuy diện tích vẫn giữ nguyên 60 ha nhưng sản
lượng lại tăng lên 810 tấn. Điều này cho thấy đã có những chuyển biến tích
cực trong kỹ thuật canh tác của người dân. Bên cạnh sự sụt giảm về diện tích
một số loại cây chủ yếu thì diện tích của một số loại rau dùng cho cuộc sống
hằng ngày của các hộ dân có tăng nhẹ từ 6 ha năm 2008 lên 8 ha năm 2010.
4.2.2. Cây công nghiệp, cây ăn quả và cây lâm nghiệp
Ngoài việc trồng các loại cây lương thực thực phẩm, với những điều
kiện sẵn có của địa phương cùng với sự hỗ trợ của các dự án, người dân nơi
đây đã tiến hành trồng thêm các loại cây công nghiệp, cây ăn quả và cây lâm
nghiệp như cà phê, chuối, mít, cam, chanh, bưởi, keo, tràm, bạch đàn nhằm
tạo thêm sinh kế, cải thiện điều kiện cuộc sống. Song do trình độ canh tác còn
hạn chế, điều kiện kỹ thuật phục vụ cho sản xuất còn thấp, sản xuất theo
phương thức tự cung tự cấp, manh mún nhỏ lẻ nên nhìn chung hiệu quả mang
lại chưa cao. Theo thống kê của xã thì hiện nay toàn xã có 276,14 ha cà phê,
và một số loại cây ăn quả nhưng mức độ sinh trưởng và phát triển chậm, năng
suất không cao do người dân đầu tư chăm sóc chưa xứng tầm. Còn về diện
tích trồng cây lâm nghiệp thì hiện nay vẫn chủ yếu trồng các loại cây thuần
loài như keo, tràm hay bạch đàn trên đất được nhận theo chính sách giao đất

giao rừng. Diện tích này hiện nay rất lớn (khoảng hơn 4000 ha) và vẫn tiếp
tục tăng tuy nhiên do điều kiện chăm sóc và khai thác khó khăn nên hiệu quả
15
vẫn còn hạn chế. Các mô hình trồng rừng hỗn hợp đang được đưa vào thử
nghiệm để thay thế cho các diện tích này sau khi đã khai thác. Bên cạnh đó,
hiện nay tại xã cũng đang dần xuất hiện một số mô hình như VAC, VACR với
sự hỗ trợ từ chính quyền cũng như các dự án. Đây hứa hẹn sẽ là một hướng đi
mới cho lĩnh vực canh tác trên diện tích đất dốc của xã. Nhìn chung, hệ thống
cây trồng của xã tuy đa dạng nhưng lại chưa được đầu tư đúng mức. Sản xuất
còn dàn trải, chưa xuất hiện những loại cây mang tính chủ lực, làm nền tảng
cho sự phát triển của xã. Tiềm năng về đất đai vẫn chưa được khai thác một
cách đúng mức và hiệu quả.
4.2.3. Thời vụ một số cây trồng chính tại xã Hồng Thái.
Việc nắm bắt thời vụ của các loại cây trồng sẽ là cơ sở cho việc lựa
chọn và bố trí cây trồng được hợp lí hơn, tận dụng được tối đa quỹ đất hiện
có, từ đó tạo tiền đề cho việc định hướng hay chuyển đổi cơ cấu cây trồng.
Thời vụ cây trồng là một yếu tố đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng đến quá
trình sinh trưởng, năng suất và sản lượng cây trồng. Bố trí thời vụ gieo trồng
hợp lý sẽ tránh được các yếu tố bất lợi như nhiệt độ qúa cao hoặc qúa thấp,
thời kỳ bão lụt, thời kỳ khô hạn; bố trí thời vụ gieo trồng hợp lý sẽ sử dụng
được tối đa nguồn nhân lực sẵn có. Trên cơ sở thực tế về tình hình một số thời
kỳ bất lợi cho hoạt động trồng trọt của địa phương như: thời kỳ khô hạn tập
trung vào các tháng 6, 7 và 8; thời kỳ bão lụt tập trung chủ yếu từ tháng 9 đến
tháng 11. Thời kỳ gió Tây Nam tập trung từ khoảng tháng 6 đến tháng 8 và
thời kỳ gió mùa Đông Bắc tập trung vào cuối tháng 11 đến cuối tháng 01 năm
sau. Kết hợp với đặc điểm của từng loại cây, chính quyền địa phương và
người dân của xã đã bố trí lịch thời vụ của một số cây trồng chủ yếu tại địa
phương như sau:
Đối với vụ lúa Đông - Xuân bố trí gieo sạ sao cho lúa trổ sau Lập Xuân
sẽ tránh được khí hậu lạnh, sương mù, ẩm độ và nhiệt độ thấp, ít bệnh đạo ôn,

Không sạ trước ngày 05/12, đối với lúa 2 vụ/năm sạ từ 20/12 – 30/12.
Vụ Hè - Thu: Tránh khi lúa trổ gặp Tiểu Mãn, đối với chân đất 3
vụ/năm thì sạ từ 01 – 15/4, đối với chân đất 2 vụ/năm thì sạ 23/5 – 10/6 và
cho lúa trổ sau tiết Lập Thu.
16
Vụ 3 thì gieo sạ từ 7 – 15/7 và nhất thiết phải thu hoạch gọn trong
tháng 9 và chậm nhất 10/10.
Đối với cây sắn sau mùa mưa đất ráo đến đâu trồng đến đó, bố trí thời
vụ trồng từ ngày 01/12 đến 30/3 năm sau. Còn đối với cây ngô vụ Thu Đông
gieo trồng từ ngày 30/3 đến 20/4.
Đối với một số loại cây rau thì thời vụ nhìn chung ít biến động và tùy
vào điều kiện của từng năm và từng gia đình mà người dân bố trí thời điểm
trồng sao cho hợp lý và mang lại hiệu quả cao nhất.
Nhìn chung việc bố trí thời vụ hiện nay là tương đối hợp lý, tuy nhiên
trong giai đoạn hiện nay thì diễn biến thời tiết, khí hậu đang có nhiều biến
động bất thường nên cần thường xuyên nắm bắt để bố trí lại sao cho hợp lý
nhất, tránh để bị động.
4.3. Đặc điểm chung của các hộ được phỏng vấn.
Đề tài đã tiến hành phỏng vấn 40 hộ trong xã, đa số các hộ được điều
tra điều là dân tộc thiểu số chủ yếu là dân tộc Pa Cô, có trình độ dân trí thấp
do vậy việc nắm bắt cũng như áp dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật còn
nhiều hạn chế, việc tổ chức sản xuất vẫn còn mang nặng tính tập quán lạc hậu
dẫn đến việc năng suất của một số cây trồng chính là không cao. Các nông hộ
là người kinh có cơ cấu cây trồng khá phù hợp và tận dụng được quỹ đất một
cách có hiệu quả nên hiệu quả sản xuất có cao hơn. Nhìn chung diện tích đất
canh tác của các hộ tương đối lớn do có nhiều diện tích là đất rẫy, đất rừng
được giao khoán tuy nhiên hiệu quả kinh tế trên diện tích đất được giao là
không cao. Các hộ chủ yếu sản xuất vẫn còn rất lạc hậu, chủ yếu là dựa vào
sức người và còn rất thủ công, mức độ áp dụng máy móc và các tiến bộ kỹ
thuật còn rất thấp, khả năng áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất còn nhiều

hạn chế. Nhìn chung thì trang thiết bị phục vụ cho sản xuất nông nghiệp ở đây
rất nghèo nàn, người dân chủ yếu sử dụng các công cụ thô sơ làm bằng tay
như cắt bằng liềm, tuốt lúa bằng máy đạp chân và khi thu hoạch thì vận
chuyển về nhà bằng xe ba gác có trâu kéo.
Nhìn chung các hộ dân nơi đây đều gặp khó khăn chung trong sản xuất,
bên cạnh đó, về khách quan còn do ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu, điều kiện
nông hoá thổ nhưỡng…Tuy nhiên, với sự cố gắng khắc phục khó khăn của
17
các hộ nông dân, sự phân bố đầu tư ngày càng hợp lý nên năng suất ngày
càng được cải thiện. Như vậy việc nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng là
vấn đề đặt lên hàng đầu trong giai đoạn hiện nay nhằm đáp ứng cho việc tăng
trưởng kinh tế và phát triển nông thôn mới.
4.3.1. Tình hình dân số vào lao động xã Hồng Thái năm 2011.
Lực lượng lao động của các hộ có vai trò quan trọng đối với thu nhập
từ sản xuất nông nghiệp theo kết quả điều tra ở 40 hộ thì có 185 nhân khẩu
trong đó có 87 người trong độ tuổi lao động (chiếm 47,0 %), trong đó số lao
động nông nghiệp là 69 người (chiếm 37,3%). Tình hình số lượng, chất lượng
lao động và tỷ trọng lao động so với nhân khẩu được phản ánh qua bảng 2.
Bảng 2 : Tình hình dân số và lao động của các hộ năm 2011
Chỉ tiêu
Bình quân chung
Số lượng Tỷ lệ %
Bình quân số nhân khẩu/hộ 4,625 100
Bình quân số lao động chính/hộ 2,175 47.0
Bình quân số lao động nông nghiệp/hộ 1,725 37,3
Nguồn: Số liệu điều tra phỏng vấn hộ, năm 2011
Qua bảng 2 ta thấy, số nhân khẩu ở các gia đình ở đây là ở mức trung
bình với 4,625 khẩu/hộ và tỷ lệ số lao động chính trong gia đình cũng ở mức
trung bình khi chiếm 47% số lao động trong gia đình. Như vậy, số khẩu phụ
thuộc không quá lớn, gần như một lao động phải làm việc để nuôi thêm một

người khác trong gia đình. Còn tỷ lệ lao động nông nghiệp ở mức khá cao
trong khi đó diện tích đất canh tác thấp, hiệu quả sản xuất không cao cho nên
tình trạng lao động không có đất canh tác lớn từ thực tế đó dẫn đến tình trạng
chia đất ra để sản xuất khiến cho việc sản xuất không mang lại hiệu quả kinh
tế thu nhập thấp làm cho sinh kế của người dân không được đảm bảo. Do vậy
việc bố trí cây trồng hợp lí sẽ giúp tận dụng được nguồn lao động dồi dào này
đồng thời nâng cao thu nhập cải thiện cuộc sống cho người dân.
4.3.2. Tình hình sử dụng đất của các hộ năm 2011.
Đất đai là yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất, đặc biệt là đối
với ngành nông nghiệp đất đai chiếm vị trí hàng đầu. Việc bố trí cơ cấu cây
18
trồng hợp lí sẽ sử dụng đất đai triệt để và là một trong những biện pháp tăng
sản lượng và tăng thu nhập cho người nông dân. Theo kết quả điều tra tại 40
hộ thì có 156 (sào) trồng Lúa, 21,3 (sào) trồng Ngô, 41 (sào) trồng Sắn, 43
(sào) trồng Đậu các loại, 35 (sào) trồng Rau các loại, 54 (sào) trồng Mía. Với
cơ cấu này thì nhìn chung là phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu thời
tiết và tập quán canh tác của người dân địa phương. Còn tình hình sử dụng đất
đai bình quân của các hộ được phẩn ánh ở bảng 3
Bảng 3: Tình hình sử dụng đất đai bình quân của các hộ năm 2011.
TT Chỉ tiêu Đơn vị tính Bình quân chung
Bình quân diện tích canh tác Sào/hộ 8,55
1 Lúa Sào/hộ 3,72
2 Lạc Sào/hộ 1,05
3 Ngô Sào/hộ 0,57
4 Sắn Sào/hộ 0,97
5 Mía Sào/hộ 1,43
6 Rau các loại Sào/hộ 0,81
Tổng DT bình quân/LĐ Sào 1,48
Tổng DT bình quân/NK Sào 0,70
Nguồn: Phỏng vấn hộ, năm 2011

Kết quả thu được ở bảng 3 cho thấy diện tích canh tác của các hộ
không quá thấp với 8,55 sào/hộ tuy nhiên, với kỹ thuật canh tác và hiệu quả
sản xuất còn thấp như hiện nay thì diện tích này rất khó có thể đảm bảo nhu
cầu lương thực cho các hộ nếu việc bố trí cơ cấu cây trồng không hợp lý. Cây
lúa là cây lương thực chủ yếu nên diện tích trồng lúa vẫn được người dân chú
trọng với 3,72 sào/hộ. Nhưng nếu chỉ tập trung vào sản xuất lúa thì nguồn
lương thực vẫn bị hạn chế và tiềm ẩn nhiều rủi ro khi đó ngô và rau các loại là
nguồn cung cấp chủ yếu nhưng diện tích dành cho ngô còn quá ít với chỉ 0,57
sào/hộ và rau chỉ là 0,81 sào/hộ. Cây lạc là cây có giá trị kinh tế cao và giúp
cải tạo đất nhưng diện tích trồng lạc tại đây vẫn thấp với 1,05 sào/hộ cho nên
cần có những biện pháp tăng diện tích và tăng năng suất để mang lại hiệu quả
kinh tế cao ở nhóm các hộ và địa phương. Nhìn chung, diện tích bình
quân/Lao động chỉ đạt 1,48 sào thì đó sẽ là một khó khăn lớn cho việc đảm
bảo đời sống cũng như sinh kế của người dân. Việc tận dụng diện tích đất và
cải tạo các diện tích hoang hóa, bạc màu và chưa sử dụng là rất cần thiết để
19
đảm bảo sinh kế cho các hộ dân ở đây. Cùng với đó việc chuyển dịch cơ cấu
cây trồng theo hướng phát triển mới vừa đảm bảo nguồn lương thực, vừa tạo
đà phát triển mới là việc làm cấp bách và không thể chậm trễ.
20
4.4. Thực trạng cơ cấu cây trồng tại xã Hồng Thái.
Như đã trình bày ở trên, hiện nay tại xã Hồng Thái đang trồng một số loại
cây trồng chủ yếu như cây lương thực, thực phẩm bao gồm lúa, ngô, khoai, sắn,
các loại rau… cho năng suất không cao nhưng tương đối ổn định. Bên cạnh đó
người dân nơi đây còn trồng một số loại cây ăn quả như cam, xoài, mít, buổi,
nhãn và một số loại cây lâm nghiệp như keo, tràm, bạch đàn…diện tích này khá
lớn nhưng lại không tập trung mà manh mún, nhỏ lẻ, không được đầu tư đúng
mức nên năng suất không cao, hiệu quả kinh tế thấp và hiện vẫn chưa thực sự
mang lại sự ổn định cho đời sống của người dân nơi đây.
4.4.1. Cơ cấu hệ thống cây trồng tại xã Hồng Thái năm 2010.

Qua phỏng vấn các hộ dân tại xã Hồng Thái thì có thể dễ dàng nhận
thấy cơ cấu hệ thống cây trồng ở đây khá đa dạng. Tuy trong vòng mấy năm
trở lại đây, diện tích đất canh tác của người dân đang giảm xuống khá nhiều
một phần do phải nhường đất cho việc xây dựng thủy điện A Lưới, một phần
do một số diện tích chuyển qua mục đích khác hay bị xói mòn không thể canh
tác được nhưng chính vì thế người dân trồng thuần một số loài cây theo
hướng quảng canh, ít bỏ công chăm sóc. Các loại cây lương thực vẫn đóng vai
trò quan trọng nhất trong việc bố trí hệ thống cây trồng phục vụ cho đời sống
hằng ngày của người dân. Cơ cấu các loại cây lương thực chính của xã được
thể hiện ở biểu đồ 1.
Biểu đồ 1: Cơ cấu các loại cây lương thực, thực phẩm chính
của xã Hồng Thái năm 2010
Nguồn: Niên giám thống kê huyện A Lưới, năm 2010
Biểu đồ cơ cấu hệ thống cây trồng xã Hồng Thái
năm 2010
40%
13%3%
38%
5%
2%
Lúa
Ngô
Khoai lang
Sắn
Rau các lọai
Đậu các lọai
21
Qua biểu đồ 1 ta có thể thấy hiện nay lúa vẫn là cây trồng chủ lực khi
chiếm tới 40% cơ cấu cây trồng của toàn xã. Đó là một điều dễ hiểu vì lương
thực mà cụ thể là lúa gạo là thứ không thể thiếu trong đời sống hằng ngày của

mỗi nông hộ. Thêm vào đó, hiện nay nhờ sự hỗ trợ của chính quyền các cấp
hệ thống kênh mương và giống cây trồng ngày càng được hoàn thiện đủ sức
đáp ứng cho hoạt động sản xuất lúa nước của người dân nơi đây. Trước đây,
diện tích được tưới tiêu còn rất hạn chế nên cây lúa nước tỏ ra không mấy
hiệu quả nên người dân chủ yếu trồng thêm các loại ngô, khoai để bổ sung
thêm lương thực. Với những điều kiện về kỹ thuật và vật chất ngày càng được
cải thiện như hiện nay thì việc mở rộng diện tích trồng lúa là một hướng đi
cần thiết và rất có lợi cho việc tạo nền tảng vững chắc cho việc hướng tới làm
giàu dựa vào những loại cây chủ lực khác mà địa phương đang có tiềm năng
như Sắn, Cà phê, keo, bạch đàn và trồng rừng theo mô hình VAC, VACR…
Bên cạnh cây lúa thì sắn cũng là loại cây có cơ cấu khá cao với 38%
trong cơ cấu cây trồng của xã. Với diện tích đất tự nhiên khá rộng và chất đất
khá phù hợp cho việc trồng sắn thì cây sắn khá được ưa chuộng tại địa
phương. Tuy nhiên, so với trước đây thì hiện nay cây sắn cũng đang có chiều
hướng giảm sút về diện tích một phần cũng do nhường đất cho làm thủy điện
A Lưới phần khác là do cây sắn là cây sử dụng chất dinh dưỡng rất nhiều, đòi
hỏi đầu tư khá lớn nên trong những năm đầu tiên cây sắn tỏ ra phù hợp và cho
hiệu quả tốt nhưng càng về những năm sau này, khi đất đai đã cằn cỗi trong
khi mức độ đầu tư của người dân lại không tương xứng thì hiệu quả kinh tế
của cây sắn ngày càng giảm xuống nên số lượng người dân chuyển từ trồng
sắn qua các loại cây trồng khác ngày càng nhiều. Cũng theo người dân nơi
đây thì do thị trường của sản phẩm sắn cũng khá bấp bênh, giá cả thường
xuyên biến động và vị trí của địa phương lại không thực sự thuận lợi nên hiệu
quả sản xuất sắn ngày càng thấp. Sự suy giảm về cơ cấu cây sắn hiện nay là
hợp lý và nó sẽ tạo điều kiện để phát triển các loại cây khác.
Cùng với đó là cơ cấu của cây ngô cũng khá đáng kể khi chiếm 13% cơ
cấu các cây lương thực của xã. Trước đây ngô là một trong những cây chủ lực
về lương thực của địa phương do nó dễ trồng và thuận lợi trồng trên diện tích
đất đồi, đất dốc cũng như tập quán canh tác của người dân. Nhưng hiện nay
22

với sự phát triển mạnh của cây lúa thì cơ cấu cây ngô có chiều hướng giảm
xuống để thay vào đó là một số diện tích cây ăn quả và cây lâm nghiệp cho
hiệu quả cao hơn. Các loại cây rau màu cũng được trồng nhưng chỉ để đáp
ứng nhu cầu của gia đình và thị trường ngay tại địa phương nên cơ cấu của nó
còn thấp, chiếm 5%. Trong khi đó do điều kiện không thuận lợi cho việc phát
triển cây khoai lang nên cơ cấu cây khoai chiếm tỉ lệ thấp và tương tự đối với
các loại cây đậu cũng vậy chỉ chiếm 2% trong cơ cấu của xã.
Dựa trên điều kiện hiện tại của địa phương thì một số mô hình canh tác
được người dân ở đây hiện đang sử dụng cho diện tích đất canh tác của mình
bao gồm:
(1) Lúa – Lúa – Ngô.
(2) Lúa – Lúa – Rau màu.
(3) Lúa – Ngô – Hoa Màu.
(4) Lúa – Ngô – Lạc
(5) Lúa – Ngô – Bỏ hoang.
(6) Sắn – Đậu.
(7) Sắn – Rau màu.
Đó là một số mô hình canh tác chủ yếu nhưng cơ bản thì mô hình
lúa – lúa – ngô và lúa – lúa – hoa, rau màu là các mô hình đang được áp dụng
nhiều nhất. Bởi các mô hình này vừa đảm bảo được lương thực cho người dân
lại tận dụng được điều kiện hiện có của địa phương và các cơ sở vật chất cũng
như kỹ thuật mà nhà nước đang đầu tư cho địa phương. Đây cũng sẽ là những
mô hình canh tác chủ yếu của xã trong thời gian tới nhằm tiến tới đảm bảo an
ninh lương thực tạo đà cho việc phát triển các ngành nghề giúp tận dụng được
điều kiện về đất đai và lao động của địa phương như trồng cây ăn quả, cây
lâm nghiệp và chăn nuôi.
Bên cạnh những mô hình vừa nêu trên thì một số mô hình mới cũng
đang dần hình thành và bắt đầu phát huy được lợi thế của mình đó là mô hình
VAC và VACR nhằm tận dụng chính sách giao đất giao rừng cảu nhà nước.
Tuy vậy, để sử dụng các mô hình này đòi hỏi người dân phải có nguồn vốn và

trình độ kiến thức khá tốt nên hiện nay số hộ dân tại đây có đủ khả năng để áp
dụng mô hình này là không nhiều mà chủ yếu vẫn là trồng các vườn tạp hoặc
23
rừng thuần loài là chủ yếu nên hiệu quả không cao và chưa thể áp dụng
phương thức lấy ngắn nuôi dài đẻ phát triển kinh tế gia đình.
4.4.2. Tình hình chuyển dịch cơ cấu cây trồng xã Hồng Thái từ năm 2008 -
2010
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng là một hướng đi đúng đắn và cần thiết
đối với hầu hết các địa phương để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã
hội của địa phương mình. Hồng Thái là một xã miền núi, trình độ canh tác
của người dân nơi đây còn thấp, cơ cấu cây trồng còn chưa hợp lý và chủ yếu
phục vụ cho nhu cầu của hộ gia đình là chủ yếu nên nó sẽ kìm hãm sự phát
triển chung của địa phương. Nắm bắt được tầm quan trọng của việc chuyển
dịch cơ cấu cây trồng, chính quyền và người dân nơi đây đã và đang từng
bước chuyển dịch cơ cấu cây trồng tại địa phương theo hướng ngày càng phù
hợp, không chỉ đảm bảo nhu cầu cho người dân địa phương mà đang hướng
tới việc phụ vụ cho các nhu cầu của các thị trường xung quanh và xa hơn.
Mức độ chuyển dịch cơ cấu cây trồng của địa phương được phản ánh
rõ nhất trong 3 năm trở lại đây (từ 2008 – 2010). Sự chuyển dịch này được thể
hiện ở biểu đồ 2.
Biểu đồ 2: Sự chuyển dịch cơ cấu các loại cây lương thực chủ yếu
của xã Hồng Thái (từ 2008 – 2010).
24
Qua biểu đồ 2 ta có thể thấy, cơ cấu cây trồng của xã Hồng Thái trong
vòng 3 năm trở lại đây có sự chuyển dịch rất đáng kể. nếu như năm 2008 cơ
cấu các loại cây trồng tính theo hướng từ cao đến thấp là sắn – lúa – ngô – rau
các loại – khoai lang và đậu cá loại thì sang năm 2010 cơ cấu này có sự
chuyển dịch khá mạnh khi chuyển thành lúa – sắn – ngô – rau các loại – khoai
và đậu các loại. Sự vươn lên mạnh mẽ của cơ cấu cây lúa cho thấy có một
bước tiến mạnh trong kỹ thuật canh tác lúa nước của người dân và cũng

chứng tỏ cây lúa đang được đầu tư ngày càng đúng mức. Sự sụt giảm của cây
sắn và cây ngô là một điều tất yếu khi mà hiệu quả kinh tế của chúng không
còn được giữ nguyên mà có chiều hướng đi xuống. Thay vào các loại cây
lương thực không mang lại hiệu quả kinh tế như mong muốn thì các loại cây
lâm nghiệp lại đang dần khẳng định được thế mạnh của mình và bắt đầu có
những vị trí xứng tầm mặc dù nó chưa được thống kê một cách đấy đủ. Đó là
những nhận định của người dân về hướng chuyển dịch cơ cấu của các loại cây
trồng tại đại phương trong tương lai.
Đó là những sự chuyển dịch dáng chú ý mà chúng ta có thể dễ dàng
nhận thấy. Bên cạnh đó có một số sự chuyển dịch mà chúng ta cũng cần quan
tâm đó là sự tăng lên cảu diện tích rau và sự suy giảm của diện tích khoai.
Đây cũng là những sự chuyển dịch hợp lý bởi theo người dân nơi đây thì rau
25

×