Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

tìm hiểu thực trạng và vai trò của các kênh truyền thông đối với sản xuất nông nghiệp ở xã quảng thành huyện quảng điền tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.09 KB, 38 trang )

Phần một
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam, nông nghiệp được coi
là nền móng cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt khi Việt Nam
thực hiện chính sách mở cửa, gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO mở
ra cho sự phát triển kinh tế nước ta. Tuy nhiên, đã có không ít khó khăn và
thách thức mà chúng ta gặp phải, đặc biệt trong nông nghiệp nông thôn: hàng
nông sản kém sức cạnh tranh do chất lượng thấp, vấn đề an toàn vệ sinh thực
phẩm, chi phí sản xuất quá cao đó là do sự hạn chế trong khả năng tiếp cận
thị trường, không tận dụng được lợi ích do quá trình hội nhập mang lại, áp lực
cuộc sống dưới tác động của sự tăng giá mạnh, những hậu quả của tình trạng
biến đổi khí hậu Trong tiến trình hội nhập quốc tế, với việc Việt Nam gia
nhập WTO đã tạo cơ hội và thách thức lớn cho người nông dân, để đủ sức
đứng vững và không lạc hậu trong quá trình hội nhập, người nông dân cần có
những thông tin hữu ích, thiết thực nhằm nâng cao dân trí, cần cung cấp cho
người nông dân những thông tin kiến thức về khoa học kỹ thuật, về thị trường,
văn hóa và xã hội Cung cấp thông tin đến với người nông dân để họ có những
quyết định đúng đắn và kịp thời trong sản xuất và đời sống của mình.
Đối với các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, các vùng sản
xuất nông nghiệp, công tác truyền thông phục vụ sản xuất nông nghiệp giữ
vai trò to lớn và cần thiết đối với sự phát triển của địa phương, vì ở đó tồn tại
nhu cầu trao đổi học hỏi về kỷ thuật, kinh nghiệm sản xuất, thông tin giá cả
thị trường và cả thông tin về kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường giữa nông
dân với cán bộ khuyến nông, cán bộ nghiên cứu nông nghiệp, các doanh
nghiệp, cán bộ quản lý… và chính giữa họ với nhau. Nông dân các vùng, địa
phương hiện có trình độ, tập quán khác nhau nên phát triển truyền thông sẽ
tạo cơ hội, môi trường cho họ học tập lẫn nhau, trao đổi kinh nghiệm, hợp tác
làm ăn, xây dựng thương hiệu, tìm hướng sản xuất đạt hiệu quả
Quảng Thành là một xã đồng bằng nằm cuối hạ lưu sông Hương, sông
Bồ, ngành nghề chính là sản xuất nông nghiệp nên sinh kế chính của người


1
dân trong xã phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp. Nhưng sản xuất nông
nghiệp ở đây còn manh mún, nhỏ lẻ, trình độ sản xuất còn lạc hậu, năng suất
thấp, sản phẩm cạnh tranh yếu trên thị trường và còn thiếu thị trường tiêu thụ
do người dân thiếu các nguồn thông tin kiến thức về nông nghiệp.
Để nâng cao hiệu quả của các kênh truyền thông mang lại với sản xuất
nông nghiệp, thì tôi tìm hiểu đề tài nghiên cứu‘‘ Tìm hiểu thực trạng và vai
trò của các kênh truyền thông đối với sản xuất nông nghiệp ở xã Quảng
Thành huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng hệ thống truyền thông tại điểm nghiên cứu
- Tìm hiểu vai trò của các kênh truyền thông đối với sản xuất nông
nghiệp
- Tìm hiểu đánh giá các điều kiện tiếp cận thông tin của người dân
- Đánh giá khả năng tiếp cận thông tin thông qua các kênh thông tin của
người dân.
2
Phần hai
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Khái niệm về truyền thông
Trước đây, hầu hết các định nghĩa về truyền thông dựa trên quá trình
truyền thông theo đường thẳng, ở đó truyền thông được xem như là quá trình
cung cấp thông tin, người gửi truyền thông điệp của họ đến người nhận.
Người ta thường sử dụng từ gửi và nhận để đề cập đến truyền thông.
Ngày nay, người ta thường dùng từ chia sẻ khi đề cập đến truyền thông.
Truyền thông là một quá trình liên tục, trước hết hai đối tác thiết lập mối liên
hệ, có thể bắt đầu từ một bên hoặc cũng có thể hai bên. Sau khi mối quan hệ
này được thiết lập, sự tương tác giữa họ tạo ra một quá trình hội thoại liên tục.
Quá trình này bao gồm việc mã hoá, truyền tải thông điệp và giải mã, thể hiện
các mô hình truyền thông. [1].

Theo Kincaid và Schramm, truyền thông là một quá trình chia sẻ và mối
quan hệ của người tham gia trong quá trình đó.
Theo Blak, và Bryant (1992) truyền thông được định nghĩa là:
• Quá trình mà nhiều người chia sẻ nghĩa
• Quá trình mà qua đó một cá nhân (người cung cấp thông tin) truyền tải
sự kích thích (thường gọi là biểu tượng ngôn ngữ) để thay đổi hành vi của cá
nhân khác.
• Xuất hiện bất cứ lúc nào mà thông tin chuyển từ nơi này tới nơi khác
• Không đơn giản là lời nói mà cụ thể hơn là sự truyền tải một thông điệp
có chủ định
Theo Osgood (1957) truyền thông xuất hiện khi một hệ thống (nguồn
phát) ảnh hưởng đến nguồn khác (nguồn nhận), thông qua các biểu tượng
khác nhau được truyền tải qua kênh nối chúng với nhau.
2.2. Khái niệm về các kênh truyền thông
2.2.1. Khái niệm về báo chí: Là một trong những phương tiện truyền thông
đại chúng được sử dụng rất phổ biến. Bao gồm tất cả các ấn phẩm được xuất
bản theo định kỳ với một tiêu đề không đổi và hướng đến một đối tượng
người đọc nhất định, nó ra đời và phát triển vào khoảng thế kỷ 14 nhờ vào sự
3
phát triển của công nghệ in ấn và sản xuất giấy. In ấn được phát minh ra đầu
tiên ở Trung Quốc vào năm 846 trước công nguyên, với các sản phẩm đầu
tiên in trên tấm gỗ. Với phát minh của Johanner Gutenberg vào năm 1450, các
bài viết in ấn trên gỗ trước đây được chuyển sang vật liệu khác có thể di
chuyển được dưới dạng chữ viết bằng tay đơn giản. Đây là cuộc cách mạng
đối với hình thức truyền thông bằng chữ viết. [1].
2.2.2. Khái niệm về truyền thanh: Là một phương tiện thông tin đại chúng
được sử dụng rộng rãi trong phát triển. Nó có thể phủ sóng nhiều vùng rộng
lớn và đến với số lượng người nghe với chi phí tương đối thấp. Truyền thanh
ở đây bao gồm:
• Đài phát thanh

• Phát thanh cộng đồng hay chương trình phát thanh được sản xuất tại địa
phương hoặc do trung tâm truyền thanh đến cộng đồng thông qua hệ thống
loa phát thanh.
• Audio vừa sử dụng trong cộng đồng vừa để sản xuất vừa để thu thanh
chương trình địa phương về một vấn đề quan trọng. [1].
Năm 1913 các máy thu thanh băng galen có thể nghe được những
chương trình truyền thanh ca nhạc hang tuần đầu tiên được phát từ lâu đài
Lácken ( Bỉ).
Năm 1915 nước Đức phát chương trình phát thanh quốc tế đầu tiên, mỗi
ngày một bản tin.
Năm 1920, thao diễn đầu tiên về radio ở Ustralia. Mùa thu năm ấy, Liên
Xô bắt đầu chương trình phát thanh ra nước ngoài.
Tháng 10/1922, đài BBC thành lập 6 công ty lớn chia nhau 60% số vốn
còn lại cho 200 doanh nghiệp khác.
Năm 1925 Liên hiệp quốc tế phát thanh được thành lập tại Giênvedo Hội
Quốc bảo hộ.
Ngày 23/2/1927, ra đời đạo luật thứ hai tại Hoa Kỳ liên kết vấn đề phát
thanh với bản bổ sung đầu tiên của hiến pháp và thành lập Uỷ ban Phát triển
Liên bang. Các cơ quan phát thanh muốn phát đi chương trình của mình phải
có giấy phép.
4
Tháng 10/1929, đài phát thanh quốc tế Maxcơva bắt đầu phát sóng ngắn
bằng tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Anh theo đúng tiến độ ghi trong kế hoạch
năm năm lần thứ nhất.
Năm 1937 quảng cáo thu lợi 70 triệu đô la cho các đài phát thanh thương
mại của Mỹ. Năm 1939 nước Đức phát thanh ra nước ngoài bằng 26 thứ
tiếng.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong các năm 1929-1933 đã góp
phần thúc đẩy phát thanh phát triển nhanh chóng. Số liệu thống kê cấp phép
radio sau đây cho thấy điều đó:

Năm Nước Đức Nước Anh Nước Pháp
1933 5.033.000 6.000.000 1.308.000
1939 13.711.000 8.900.000 4.992.000
Phát thanh ra đời là điển hình của sự kết hợp chặt chẽ giữa các nhà khao
học, kĩ sư chế tạo, nhà doanh nghiệp với công chúng truyền thông.
Thế kỉ XX chứng kiến hai bước phát triển nhảy vọt của kĩ thuật phát thanh.
Thứ nhất những năm 40 phát thanh FM ra đời thay đổi về chất trong phát
sóng, chi phí đầu tư khai thác rẻ hơn, gọn nhẹ hơn. Kết hợp giữa sóng trung,
sóng ngắn và cực ngắn.
Thứ hai phát thanh DAB ra đời cuối thế kỉ XX. Với phát thanh kỹ thuật
số, chất lượng phát sóng có thể nói là hoàn hảo, khắc phục được các hiện
tượng can, nhiễu, méo, pha dính …nhất là mở ra giải tần rộng…
Vô tuyến truyền thanh chỉ mới trở thành công cụ ưu việt cho truyền
thông đại chúng tại các nước công nghiệp hoá vào cuối những năm 20 và nhất
là những năm 30 của thế kỉ trước. “Cơn sóng ngầm mãnh liệt” này vẫn bị xô
đẩy bởi hai động lực trên trái đất là phát triển công nghiệp hóa và việc tuyên
truyền chính trị hoặc thương mại. Phát thanh không có được như báo in,
không hiện đại hấp dẫn như truyền hình nhưng nó đòi hỏi phải được hiểu
ngay tức khắc và can dự trực tiếp vào các sự kiện chính trị nổi bật. [5].
Phát thanh ra đời đã tạo ra cuộc bùng nổ truyền thông đại chúng lần thứ hai.
Bởi vì, thông tin trên phát thanh không bị giới hạn, ngăn cách bởi hàng rào địa
lý, hải quan, biên phòng, thuế vụ, biên giới quốc gia, mà ngay lập tức tác động
đến hàng triệu người trên khắp hàng tinh và do tính chất này, năm 1939 nước
Đức ban hành văn bản pháp luật cấm người dân nghe đài nước ngoài.
5
Ở Việt Nam phát thanh được phát triển nhanh chóng từ sau khi giành
được độc lập năm 1945( trước cách mạng Tháng tám năm 1945 ở Việt nam
không có đài phát thanh với tư cách là tiếng nói quốc gia, mà chỉ có đài phát
thanh tư nhân thương mại, hoặc đài phát thanh thuộc Pháp dùng để phục vụ
công cuộc cai trị ).

Ngày 7/9/1945 đài tiếng nói Việt Nam ra đời. Đến nay, ngoài đài phát
thanh quốc gia, 4 đài khu vực, hệ thống phát thanh, truyền thanh trong cả
nước đã lớn mạnh hoàn chỉnh với 64 đài phát thanh tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương hơn 600 đài truyền thanh, phát thanh huyện cùng với hàng ngàn
đài truyền thanh cấp xã, phường là mạng lưới rộng khắp chuyển tải thông tin
truyền thông phục vụ nhu cầu dân sinh và phát triển. Phát thanh Việt Nam có
lịch sử vẻ vang, đóng góp to lớn vào thắng lợi vĩ đại của hai cuộc kháng chiến
chống Mỹ và chống Pháp xâm lược, cũng như trong hoà bình xây dựng.
Trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, phát thanh có ưu thế đặc biệt,
là tiếng kèn xung trận thúc giục các đoàn quân tiến lên giết giặc cứu nước,
đồng thời là tiếng nói tâm tình, đồng thời là lời động viên tạo nên sức mạnh
tinh thần vô song cho quân và dân ta mọi nơi, mọi lúc.
• Những thế mạnh của phát thanh:
Phát thanh có những thế mạnh mà các phương tiện truyền thông trước
không có được:
Thứ nhất là tính tỏa khắp. Đó là sự quảng bá thông tin nhờ sự phủ sóng
điện từ trên phạm vi rộng lớn với tốc độ của ánh sáng xấp xỉ 300.000 km/s.
Nhờ đặc tính này, cùng một lúc phát thanh tác động đền hàng triệu người, chi
phối hàng triệu người và thậm chí lũng đoạn hang triệu người trên khắp hành
tinh, không phân biệt biên giới, lãnh thổ, quốc gia.
Thứ hai là thông tin nhanh, tiếp nhận đồng thời. Báo in chỉ cho phép tiếp
nhận từng người một, đơn lẻ, còn phát thanh thì hàng triệu người có thể cùng
nghe, cùng theo dõi, cùng phản ứng. Do đó phát thanh có sức mạnh đặc biệt
trong việc hình thành dư luận xã hội rộng khắp và tức thì. Lời kêu gọi, lênh
tổng động viên, thông điệp hàng năm…của những người đứng đầu nhà nước
đều được truyền qua sóng phát thanh đến mọi miền đất nước.
6
Thứ ba là sống động, riêng tư, thân mật. Thế mạnh của phát thanh là sử
dụng thế giới âm thanh bao gồm lời nói, tiếng động, âm nhạc trong việc phản
ánh hiện thực và tạo dựng nên bức tranh sinh động thu phục người

nghe.Giọng nói có sức truyền cảm mạnh mẽ, nhờ chất giọng và kỹ năng
nói như cao độ, cường độ, tiết tấu ngữ điệu diễn cảm, chương trình phát
thanh hướng tới số đông, nhưng người lại nghe radio với tư cách cá
nhân, từng người một. Điều này đòi hỏi thiết kế thông điệp và trình bày
như nói với từng người.
Thứ tư là phát thanh là kênh truyền thông rẻ tiền, do đó phát thanh thích
ứng với cộng đồng dân cư chủ yếu là nông dân với mức sống thấp như nước ta.
Thứ năm là phát thanh có thể nghe và làm việc khác, không phải tập
trung mọi giác quan vào việc tiếp nhận thông tin. Điều này rất có lợi cho nông
dân vừa làm việc nhà vừa nghe phát thanh.
Thứ sáu là phát thanh đến với mọi đối tượng, không phân biệt trình độ
văn hoá cao hay thấp, biết chữ hay không, chỉ cần có khả năng nghe. Đồng
thời phát thanh có khả năng phục vụ giải trí cho công chúng với chất lượng
cao qua các chương trình ca nhạc, văn nghệ.
Thứ bảy là phát thanh có lợi thế trong việc giữ gìn ngôn ngữ lời nói của các
dân tộc. Tại Nam Phi trong lúc phát thanh phát 11 loại ngôn ngữ trên sóng phát
thanh thì truyền hình vất vả lắm mới chuyển được 3 loại ngôn ngữ trên sóng.
Thứ tám là hệ thống phát thanh, truyền thanh lan toả đến tận phường xã.
Các ấp dân cư và radio theo bà con lên rẫy là điều mà truyền hình, báo in, báo
mạng điện tử không thể sánh kịp. [5].
• Phát thanh cũng có những điểm hạn chế riêng:
Thứ nhất, do tác động theo tuyến tính thời gian nên có thể nghe đoạn đầu
mà bỏ mất đoạn cuối nếu không tập chung sự chú ý của thính giác liên tục.
Thứ hai, thông tin tiếp nhận qua phát thanh dễ quên, khả năng lưu dữ
thông tin qua radio khó khăn và hạn chế, mặc dù hiện nay điều kiện ghi âm,
băng từ khá hiện đại. Nhưng khi đã lưu giữ được thì đó là bằng chứng sống
động không thể ngụy tạo.
Thứ ba, trên sóng phát thanh khó có thể trình bày, phân tích những vấn
đề phức tạp, nhất là việc phân tích những số liệu, bởi thế mạnh của phát thanh
là thông tin và cổ động.

7
Những hạn chế của phát thanh sẽ được khắc phục một cách cơ bản khi
radio internet ra đời không phải nghe một lần, xem một lần ( truyền hình) mà
có thể xem, nghe bất kì lúc nào có thể. Bởi vì internet radio có những đặc
điểm vượt trội như:
Một là, internet radio là kênh truyền thông đa phương tiện
Hai là, khác với radio truyền thống, nó cho phép tăng tần suất và biên độ
tương tác với công chúng thính giả, kéo người nghe vào cuộc như những cộng
tác viên tích cực.
Ba là, cho phép phát triển các dịch vụ đa loại hình, kể cả dịch vụ gia tăng
đáp ứng mọi nhu cầu của người nghe đài.
Bốn là, chương trình phát thanh có độ nén với hình thức giản lược, tiện ích.
Năm là, khắc phục được các sự cố nhiễu do môi trường tự nhiên, đảm
bảo chất lượng thông điệp cao nhất …Mặt khác internet radio cũng sẽ làm
thay đổi mạnh mẽ tư duy, phong cách, yêu cầu từ nhà báo phát thanh đòi hỏi
ở họ sức bật tư duy, đa năng và nhạy bén…
2.2.3. Khái niệm về truyền hình: Truyền hình là kênh truyền thông truyền
tải thông điệp bằng hình ảnh độnh với đầy đủ sắc màu vốn có từ cuộc sống
cùng với lời nói, âm nhạc, tiếng động. [5].
• Sự ra đời và phát triển của truyền hình:
Truyền hình là kênh truyền thông đại chúng ra đời sau, kế thừa được các
thế mạnh của các kênh trước đó như: báo in, phát thanh, điện ảnh. Nhờ thế
truyền hình đem lại cho công chúng bức tranh sống động với cảm giác như
đang trực tiếp tiếp xúc và cảm thụ. Đó là bức tranh về cuộc sống thật nhưng
được thu nhỏ và rút gọn, được “làm giàu thêm về ý nghĩa, làm sáng rõ hơn về
hình thức” và làm phong phú hơn về giá trị tinh thần giúp người xem cảm
nhận rõ hơn, đúng hơn, trúng hơn, gần gũi và sinh động hơn về những sự kiện
và vấn đề của cuộc sống.
Những phát minh khoa học kỹ thuật cuối thế kỉ XIX đầu thế kỷ XX đã
tạo điều kiện cho truyền hình ra đời và phát triển. Năm 1927 chương trình

truyền hình thử nghiệm qua dây dẫn đầu tiên được thực hiện thành công tại
Mỹ, giữa hai thành phố Washington và New York cách nhau 250 dặm.
Năm 1936 lần đầu tiên trên thế giới đài BBC bắt đầu phát chương trình truyền
hình đều đặn.
8
Cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã làm ngưng trệ tốc độ phát triển
của truyền hình. Mãi tới cuối những năm 40 nhất là những năm 50 của thế kỷ
XX truyền hình mới tiếp tục có bước phát triẻn và bùng nổ với sự đón đợi của
công chúng và thị trường châu Âu, châu Mỹ, nhất là Bắc Mỹ, rồi Nhật Bản là
những nơi phát triển mạnh truyền hình. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình
quân 14% hàng năm, những năm 50 của thế kỷ XX Nhật Bản đầu tư mạnh
vào công nghệ sản xuất truyền hình màu và trở thành một trong những cường
quốc về công nghệ truyền thông.
Ở Việt Nam truyền hình ra đời muộn .Tại miền Nam dưới sự kiểm sóat
của Mỹ Ngụy từ 1962 trung tâm truyền hình theo hệ FCC được xây dựng và
băt đầu hoạt động từ năm 1966. Đến trước 1975 Mỹ đã đầu tư xây dựng các
đài truyền hình khu vực Cần Thơ, Nha Trang, Đà Lạt, Buôn Mê Thuật, Quy
Nhơn, Đà Nẵng và Huế. Ngay sau ngày miền Nam giải phóng các cơ sở này
được tiếp quản và đi vào hoạt động phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.
Ở miền Bắc 7/9/1970 đã phát chương trình truyền hình thử nghiệm tại 58
phố Quán Sứ, Hà Nội do các cán bộ đài phát thanh dược cử đi đào tạo tại
Cuba đảm nhiệm. Từ ngày 27/1/1971, phát thử nghiệm 3 chương trình mỗi
tuần, chủ yếu trong khu vực Hà Nội.
Từ ngày 7/5/1976 truyền hình Việt Nam chính thức phát hành ngày với
thời lượng mỗi ngày 3-4 giờ. Tháng 9/1978, truyền hình Việt Nam thử
nghiệm phát sóng truyền hình màu vào các buổi sáng chủ nhật. Từ năm 1990
phát trên hai kênh VTV1, VTV2, từ năm 1994 thêm VTV3 sau đó thêm
VTV4, truyền hình cáp chuyển đổi công nghệ sang truyền hình số …Trong
những năm gần đây Đài truyền hình Việt Nam không ngừng mở rộng kênh và
tăng cường thời lượng phát sóng, đổi mới công nghệ cải tiến chương trình

ngày càng phong phú hấp dẫn công chúng xã hội.
Ngoài truyền hình Trung ương, các đài truyền hình khu vực 64 tỉnh thành
phố đều có đài truyền hình với đội ngũ cán bộ hàng ngàn người có trình độ
chuyên môn ngày càng chuyên nghiệp hơn.
Truyền hình không chỉ là kênh báo chí truyền thông. Truyền hình là sân
khấu sân chơi của mọi người, là trường học, là nhà văn hoá…truyền hình là
sự tổng hợp của tất cả mọi loại hình.
9
Xu hướng phát triển của truyền hình ngày càng gần gũi với đời sống,
ngày càng tiến tới xã hội hoá việc sản xuất chương trình. Mọi người, mọi nhà
đều có thể sản xuất chương trình nếu có nhu cầu và điều kiện. Mặt khác ngày
càng có nhiều hãng truyền hình cùng phát sóng, cùng cạnh tranh, đồng thời sẽ
có ngày càng nhiều blog truyền hình được tải trên mạng Internet và hình
thành một xa lộ truyền hình trong xa lộ thông tin siêu tốc Internet. Còn ở gia
đình và công sở, máy tính có thể thay thế máy thu hình …[5, 6].
• Truyền hình có những thế mạnh riêng mà các kênh truyền hình khác
không có được :
Thứ nhất, việc chuyển tải thông điệp bằng hình ảnh với tất cả các màu
sắc vốn có của cuộc sống cùng với thế giới âm thanh sống động đã tạo nên
tính hấp dẫn vô song. Thế mạnh này bắt nguồn từ việc truyền hình tác động
vào cả hai giác quan quan trọng nhất của con người là thính giác và thị giác
bằng những chất liệu sinh động và tươi mới tạo cho người xem cảm giác như
đang tiếp xúc trực tiếp với người trong cuộc.
Thứ hai, thông điệp trên truyền hình hấp dẫn nhưng lại rất dễ hiểu thích
ứng cho cả nhóm công chúng có trình độ văn hoá thấp.
Thứ ba, truyền hình có thế mạnh trong việc hướng dẫn các hoạt động các
thao tác đặc biệt có năng lực cổ vũ, kêu gọi hành động xã hội của đông đảo
quần chúng trong một thời điểm nhất định và trên diện rộng.
• Hạn chế của truyền hình:
Thứ nhất, các tín hiệu truyền hình được truyền đi theo tuyến tính thời

gian làm cho đối tượng tiếp nhận hoàn toàn bị động về tốc độ và trình tự tiếp
nhận cũng phải tập trung vào màn hình.
Thứ hai, muốn tiếp nhận chương trình truyền hình phải có máy thu. Với
điều kiện kinh tế, mức sống hiện nay không phải gia đình nào cũng có điều
kiện mua máy thu hình nhất là một nước nghèo như Việt Nam, nông dân bà
con vùng sâu vùng xa càng khó khăn hơn.
Thứ ba, chi phí sản xuất truyền hình rất tốn kém .
Thứ tư, tính tư liệu thấp, khó lưu giữ thông tin cho số đông, mặc dù các
điều kiện băng đĩa ghi hình hiện đại hơn và đã được cải thiện.
10
Thứ năm, tính hai mặt của truyền hình là rõ rệt. Năng lực tác động rất
mạnh mẽ nhất là đối với lớp trẻ. Một cảnh quay hay một hình ảnh lên màn
hình có thể làm đảo lộn những bài giảng đạo đức trong các nhà trường. Trong
khi các chương trình truyền hình cho các thanh thiếu niên và chương trình
giảng dạy trong nhà trường chưa có sự phối hợp nhằm tạo nên sự cổng hưởng
tích cực tới mục tiêu giáo dục toàn diện.
2.2.4. Khái niệm về tài liệu in ấn:
Có chữ viết hoặc hình ảnh hoặc là sự phối hợp giữa chữ viết và hình ảnh
được sử dụng phổ biến trong phát triển để nâng cao hiệu quả của truyền
thông. Tài liệu in ấn giúp cho người thúc đẩy trong việc thông tin giữa người
này với người khác trong đào tạo hoặc trình diễn(thuyết minh). Một số tài liệu
truyền thông chủ yếu:
• Tranh ảnh, áp phích: Là công cụ truyền thông nội bộ nhằm tạo ra những
cuộc hội thoại và xây dựng mối quan hệ giữa cán bộ hiện trường và cộng
đồng nông thôn. Nó đặc biệt hiệu quả ở những vùng sâu vùng xa.
• Tờ rơi, sách mỏng, tranh lật: Là tài liệu kết hợp giữa hình ảnh và nội dung,
có thể dùng cho các lớp tập huấn, cho hội thảo đầu bờ rất tiện và dễ sử dụng. [1].
2.2.5. Khái niệm về Internet: Là loại phương tiện truyền thông hiện đại
được sử dụng phổ biến vào ngày nay mang lại đầy đủ thông tin cần thiết cho
người sử dụng. [6].

2.3. Vai trò của truyền thông
Thiết lập quan hệ hợp tác giữa các bên liên quan (cộng đồng, cán bộ
nghiên cứu, cán bộ phát triển, nhà quản lý…)
Phát triển xã hội, xây dựng năng lực cộng đồng: Cung cấp các kiến thức
kỹ thuật, phát triển kiến thức bản địa và vốn sinh kế khác của cộng đồng.
Thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi: Nâng cao nhận thức, thái độ hành
vi của con người, là điều kiện tiên quyết định hướng hành động cụ thể của
con người. [3].
2.4. Vai trò của truyền thông trong nông nghiệp
Những năm gần đây nền sản xuất nông nghiệp nước ta không ngừng phát
triển. Từ khi có chính sách mở cửa cùng với một cơ chế mới đã không ngừng
làm tăng thêm tính cạnh tranh mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực, sản lượng lương
11
thực không ngừng tăng, nước ta không những tự túc được về lương thực cho
nhu cầu trong nước mà còn là một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu
thế giới. Ngành trồng trọt phát triển là một trong những cơ sở mạnh mẽ thúc
đẩy ngành chăn nuôi phát triển.
Truyền thông trong nông nghiệp là cung cấp những thông tin liên quan
đến vấn đề nông nghiệp nông thôn. Đó là những thông tin về thị trường,
thông tin về chính sách nông nghiệp của nhà nước, thông tin về bảo vệ thực
vật, thú y, thông tin tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, thông tin thị trường:
- Thông tin về thị trường : Thị trường gắn liền với kinh tế hàng hóa. Trong
nền kinh tế hàng hóa, các quan hệ kinh tế đều được thực hiện thông qua thị
trường. Các yếu tố cơ bản của thị trường đó là cung, cầu và giá cả. [4, 6].
Ví dụ để nâng cao hiệu quả kinh tế trồng lúa bà con nông dân cần nắm
bắt thông tin thị trường, hiểu rõ qui luật cung (lượng lúa gạo của người sản
xuất) cầu (nhu cầu về lúa gạo) trên thị trường trong và ngoài nước để hiểu
thêm và biến động giá cả lúa gạo. Cụ thể như nông dân phải biết năm nay
Thái Lan, Trung Quốc sẽ xuất khẩu bao nhiêu tấn gạo? Các nước như
Indonesia, Malaysia, các nước Châu Phi cần nhập bao nhiêu gạo? Loại gì:

hạt tròn, hạt dài, gạo thơm?
- Thông tin thời tiết là trạng thái tổng hợp của các yếu tố khí tượng xảy
ra trong khí quyển ở một thời điểm hay một khoảng thời gian xác định.
Những đặc trưng quan trọng nhất của thời tiết là các yếu tố khí tượng: nhiệt
độ, không khí, áp suất khí quyển, gió, độ ẩm; và các hiện tượng thời tiết như:
giáng thủy, sương mù, giông tố.
Thời tiết rất quan trọng đối với người làm nông nghiệp. Nông dân cần
biết năm nay dự báo mưa gió, lũ, bão như thế nào để bố trí lịch thời vụ cho
hợp lý. Thông tin thời tiết chính xác thì bố trí thời vụ làm lúa, xuống giống,
né rầy thuận lợi, đúng vào tiết trời, lúa ít sâu bệnh năng suất lại cao hơn.
- Thông tin chính sách nhà nước đối với nông nghiệp: Hệ thống các
chính sách vĩ mô của Nhà nước có vai trò thúc đẩy việc hình thành và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông thôn nói riêng, làm cho
nó vận động, phát triển theo hướng có lợi nhất, phù hợp với mục tiêu và định
hướng đã đặt ra.
12
Nông dân thường nghe thông tin chung chung trên báo, đài về các chính
sách nhà nước đối với nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên thông tin về chính
sách cho nông dân vay vốn để tăng gia sản xuất phát triển nông thôn được
người dân quan tâm hơn cả. Việc hỗ trợ tiền vay 4%, hỗ trợ 30% tiền mua
máy nông nghiệp, hỗ trợ tiền mua lúa giống, hỗ trợ tiền mua con giống như
bò, heo, tôm, cá Nhưng thường chỉ là những thông tin về chính sách, còn
thông tin thủ tục xin vay lại chưa được phổ biến rộng rãi và dễ hiểu đến từng
nông dân, nên nông dân thường đi không lại về không, gây khó khăn trong
việc tiếp cận với các chính sách ưu tiên cho nông dân, người dân trở nên thờ ơ
với các chính sách nông nghiệp nông thôn. Do đó, nếu có chính sách nhà
nước hỗ trợ nông nghiệp thì nên phổ biến cho rõ ràng đầy đủ thông tin trên
báo chí hay đài cũng phải chi tiết cụ thể thì nông dân mới nắm bắt được.
- Thông tin về những tiến bộ khoa học kỹ thuật bao gồm: sự phát triển
khoa học, công nghệ và việc áp dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất. Ngày

nay khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, sự phát triển
của khoa học, công nghệ và việc áp dụng nó vào sản xuất đã trở thành động
lực mạnh mẽ để tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, kinh tế
nông thôn và cở cấu kinh tế nông thôn nói riêng. [2].
13
Phần ba
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Hệ thống truyền thông, thông tin tại điểm nghiên cứu
Các lực lượng tham gia vào công tác truyền thông của địa phương
Cơ sở vật chất tiếp cận thông tin phục vụ sản xuất nông nghiệp của người dân
3.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Tìm hiểu thực trạng hệ thống truyền thông tại xã
+ Thực trạng về cơ sở vật chất phục vụ truyền thông
+ Thực trạng về nội dung truyền thông, khả năng cung cấp thông tin tại xã
- Đánh giá khả năng truyền tải thông tin đến người dân của các kênh
truyền thông
+ Mức độ tiếp cận các kênh truyền thông của người dân
+ Mức độ tiếp cận các loại thông tin truyền thông
- Vai trò của các kênh truyền thông đối với sản xuất nông nghiệp
+ Mức độ ứng dụng của các kênh truyền thông vào sản xuất nông nghiệp
+ Hiệu quả ứng dụng của mỗi kênh truyền thông vào sản xuất nông nghiệp
3.3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp
+ Thu thập thông tin thứ cấp thông qua báo cáo của xã về tình hình kinh
tế xã hội của xã Quảng Thành
+ Thu thập thông tin quan sát thực địa và qua các buổi làm việc với
chính quyền cấp thôn như: thôn trưởng, chi hội phụ nữ, đội trưởng đội
sản xuất
- Phương pháp thu tập thông tin sơ cấp

+ Phỏng vấn người am hiểu: Cán bộ trạm khuyến nông, cán bộ phòng
nông nghiệp huyện, cán bộ thú y. Phỏng vấn sâu ông Phan Đình Toan phụ
trách Văn hoá xã hội, trưởng ban VHTT xã Quảng Thành.
+ Phỏng vấn hộ: chọn mẫu ngẫu nhiên, chọn 30 hộ (10 hộ thôn Thanh
Hà, 10 hộ thôn Kim Đôi, 10 hộ thôn Thành Trung), trong đó sản xuất nông
nghiệp là nghề chủ yếu của mỗi hộ.
14
Nội dung phỏng vấn: những nguồn thông tin mà hộ được tiếp xúc,
những loại thông tin cần thiết và những thông tin đã nhận được, việc áp dụng
và phản hồi thông tin sau khi nhận được, mức độ thỏa mãn với các kênh
thông tin đã được tiếp xúc, các kênh thông tin mà hộ được tiếp xúc, thuận lợi
và khó khăn khi tiếp xúc đối với mỗi kênh thông tin, hiệu quả hoạt động của
từng kênh thông tin đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp, việc kết hợp các
thông tin ở các kênh khác nhau và hiệu quả của việc kết hợp đó.
+ Thảo luận nhóm:
Nội dung: Xác định các nguồn, kênh, loại thông tin kiến thức về nông
nghiệp mà người dân địa phương có thể tiếp cận, với mỗi nguồn thì người dân
thu nhận được những loại thông tin gì?
Xác định vai trò, hiệu quả của các nguồn thông tin và nguồn thông tin
nào hiệu quả nhất.
15
Phần bốn
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội của xã Quảng Thành
4.1.1. Đặc điểm tự nhiên:
Khái quát đặc điểm tự nhiên:
• Vị trí địa lý: Xã Quảng Thành là xã đồng bằng nằm về phía Đông Nam
của huyện Quảng Điền, ranh giới hành chính được xác định như sau:
- Phía Bắc giáp xã Quảng An, huyện Quảng Điền
- Phía Nam giáp xã Hương Vinh, huyện Hương Trà

- Phía Đông giáp xã Hương Phong, huyện Hương Trà
- Phía Tây giáp xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền
Hình 1: Bản đồ hành chính huyện Quảng Điền
• Diện tích tự nhiên: 1.082 ha, chiếm 6,63% diện tích toàn huyện.
• Đặc điểm địa hình: Quảng Thành có địa hình thấp trũng, tương đối
bằng phẳng, ít bị chia cắt và nghiêng theo hướng Đông Nam. Nhìn chung địa
hình của xã mang đặc điểm chung của vùng canh tác lúa nước và hoa màu,
hàng năm thường xuyên bị ngập úng vào mùa mưa, ảnh hưởng đến việc sản
xuất nông nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng, đường giao thông nông thôn đi
lại khó khăn vào mùa mưa.
16
Điểm nghiên cứu
• Khí hậu: Quảng Thành nằm trong vùng đồng bằng ven biển miền
Trung nên khí hậu thời tiết tương đối khắc nghiệt, khí hậu trong năm phân
thành hai mùa rõ rệt: Mùa khô bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 8; Mùa mưa từ
tháng 9 đến tháng 2 năm sau.
* Nhiệt độ Mùa khô thường chịu sự tác động, ảnh hưởng của gió Tây
nam nên thường khô và nắng nóng; Mùa mưa chịu ảnh hưởng của các đợt gió
mùa Đông bắc, trời nhiều mưa và lạnh kèm theo các đợt lụt. Nhìn chung khí
hậu Quảng Thành có nền nhiệt độ tương đối cao và không ổn định, nhiệt độ
trung bình hàng năm khoảng 25
0
c do vậy phù hợp cho sản xuất nông nghiệp
và nuôi trồng thuỷ sản.
* Mật độ nắng bình quân trên địa bàn xã Quảng Thành khoảng 1952
giờ/năm, tuy nhiên có sự chênh lệch giữa hai mùa khoảng 100 - 120 giờ chiếu
sáng, số giờ chiếu sáng bình quân mùa nắng cao hơn mùa mưa từ 3 - 4 giờ.
* Lượng mưa trung bình trên địa bàn xã hàng năm khoảng 2.955
mm
, năm

cao nhất lên tới 4.927
mm
, năm thấp nhất khoảng 1.850
mm
. Số ngày mưa bình
quân/năm khoảng 160 ngày, chiếm 43% số ngày trong năm. Mưa tập trung
nhiều vào đầu tháng 9 đến tháng 12 hàng năm và thường xảy ra lũ lụt do lượng
mưa những tháng này thường chiếm từ 70 - 75% lượng mưa của cả năm.
• Tài nguyên:
+ Đất đai: Tổng diện tích đất tự nhiên toàn xã là 1.082 ha, hiện tại đất
đang sử dụng cho các mục đích là 1.081,75 ha chiếm 99,98% tổng diện tích tự
nhiên, trong đó đất nông nghiệp là 640,39 ha chiếm 59,19% tổng diện tích tự
nhiên, đất phi nông nghiệp là 441,36 ha chiếm 40,79% tổng diện tích tự
nhiên, đất chưa sử dụng là 0,25 ha chiếm 0,02% tổng diện tích đất tự nhiên
toàn xã.
+ Mặt nước: Nguồn nước mặt của xã được lấy từ các chi nhánh của sông
Bồ và sông Hương chảy qua trên địa bàn, có hệ thống sông nhỏ và hói tương
đối nhiều nên rất thuận lợi cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp, tuy nhiên
lượng nước trong mùa mưa quá lớn nên thường gây ngập úng. Ngoài ra mặt
nước đầm phá trên địa bàn xã cũng tương đối thuận lợi cho việc tổ chức phát
triển nuôi trồng thuỷ sản.
17
+ Khoáng sản: Chủ yếu là diện tích đất nông nghiệp, mặt nước Sông,
phá Tam Giang để nuôi trồng thuỷ sản và phục vụ dân sinh, chưa phát hiện
được khoáng sản trên địa bàn xã.
4.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội:
Trên địa bàn toàn xã có 2477 hộ, và 11.411 nhân khẩu, được chia làm 9
thôn trong đó có thôn Quán Hoà được dịnh cư sau cơn bão số 8 năm 1995 và
trên 20 % dân số sống ven sông, ven hói và thấp trũng.Quảng Thành là một
xã thuần nông dân số làm nghề nông nghiêp chiếm trên 70 %, lao động

nghành nghề, buôn bán dịch vụ 29,5 %, đánh bắt nuôi trồng thuỷ sản 0,5.
+ Tỷ lệ hộ nghèo là 147 hộ chiếm tỷ lệ 5,7 %.
+ Đặc điểm lao động của địa phương tương đối trẻ, chiếm khoảng 60%
tổng số lao động trong độ tuổi(6,012 người). Lực lượng này phần lớn có trình
độ và có khoảng 30% đã qua đào tạo nghề. Tuy nhiên, đa số lực lượng này đã
đi làm ăn ở ngoại tỉnh, số lao động trẻ trong nông nghiệp còn lại rất ít.
Năm 2010 tổng giá trị sản xuất (theo giá thực tế) ước đạt 136,9 tỷ đồng,
tăng 17,36% so với năm 2009 (20,249 tỷ). Trong đó: Nông, ngư nghiệp ước
đạt 69,47 tỷ đồng (chiếm 50,76% tổng giá trị), tăng 10,79% so với năm 2009
(6,767 tỷ); Tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ước đạt 67,43 tỷ đồng (chiếm
49,24% tổng giá trị), tăng 26,04% so với năm 2009 (13,932 tỷ). Thu nhập
bình quân đầu người ước đạt 12,9 triệu đồng, đạt 107,5% kế hoạch, tăng
22,85% so với năm 2009 (2,4 triệu).
(Nguồn: Báo cáo tình hình Kt-xh của xã 2010)
4.2. Tìm hiểu thực trạng hệ thống truyền thông tại xã
4.2.1. Thực trạng về cơ sở vật chất phục vụ truyền thông
• Truyền thanh: Trong những năm qua được sự quan tâm của các cấp
chính quyền và các ban ngành, cùng với sự nổ lực của ban công tác truyền
thông xã, số lượng loa phát thanh dần được nâng cấp trên địa bàn xã Quảng
Thành có sự chuyển biến đáng kể so với trước, phần nào đáp ứng được nhu
cầu sinh hoạt và sản xuất của người dân, toàn xã có 80 loa phát thanh cố định
và di động phân bố đều trong tất cả các thôn trong địa bàn xã.
• Truyền hình: Tại xã đã có máy chiếu kích cở lớn phục vụ công tác tổ
chức tuyên truyền, các buổi hội thảo thuyết trình rất hiệu quả. Đối với hộ gia
đinh thì 100% là có tivi.
18
• Trong năm xã đã tổ chức các buổi tập huấn về kỹ thuật chọn giống, bón
phân, phòng bệnh bảo vệ thực vật, tuyên truyền về mô hình trình diễn, tuyên
truyền về phòng chống dịch bệnh, tuyên truyền bảo quản sản phẩm sau thu
hoạch cho bà con tại địa phương.

• Phương tiện cơ sở vật chất phục vụ truyền thông tại xã tương đối đầy
đủ, phần nào hổ trợ, giúp đỡ bà con nông dân về chọn giống, biện pháp phòng
chóng dịch bệnh một cách kịp thời mang lại hiệu quả trong sản xuất.
Bảng 1: Tình hình hoạt động truyền thông của xã
STT Nội dung hoạt động Đơn vị tính
Thực hiện
trong năm
1/ Tuyên truyền cổ động trực
quan
a Cờ thả Lượt 120
b Băng rôn Mét 840
c Tuyên truyền lưu động Buổi/Km 36/ 180
a Số tăng âm Cái/ Watt 4/ 700
2/ Hoạt động hệ thống truyền
thanh
b Trong đó: - Hữu tuyến Cái/ watt 2/ 300
- Vô tuyến Cái / Watt 1 / 100
c Số loa công cộng Cái 146
Trong đó: - Loa nén Cái 88
- Cụm FM Cái 58
d Tổng đường dây hữu tuyến Km 12
3/ Thư viện
- Số thôn có tủ sách Thôn 01
- Tổng số sách hiện có Bản/ Đầu sách 450/ 202
4/ Bưu điện Cái 1
5/ Tập huấn, chuyển giao kỹ
thuật
Lớp/ năm 3
(Nguồn: Theo báo cáo của ban Văn hóa thông tin xã 2009)
Theo báo cáo của huyện Quảng Điền thì trung bình mỗi xã có 40 loa phát

thanh và 2 lớp tập huấn. Như vậy nhìn vào bảng 1 ta có thể thấy tình hình
chung về công tác truyền thanh của xã Quảng Thành là tốt so với mặt bằng
chung của toàn huyện. Cơ sở hạ tầng truyền thanh của xã Quảng Thành có đài
19
vô tuyến và hữu tuyến, phát sóng 4 tiếng/ ngày phần nào đáp ứng nhu cầu của
người dân nơi đây. Sự nhiệt tình của các cán bộ làm công tác văn hóa yêu
nghành nghề và sự giúp đỡ kinh phí của ủy ban nhân dân xã nên công tác
thông tin tuyên truyền xã Quảng Thành tốt.
4.2.2. Thực trạng về nội dung truyền thông, và các cơ quan cung cấp thông tin
tại xã
• Thông tin về lĩnh vực nông nghiệp
Để vận động nhân dân đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất, tăng cường đầu tư thâm canh, tạo bước đột phá mới về trình độ và
quy mô sản xuất nhằm nâng cao năng suất, sản lượng, chất lượng và giá trị
sản phẩm. Thường xuyên áp dụng các biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp
(IPM), quản lý dinh dưỡng tổng hợp (ICM).
Ban văn hóa thông tin của xã đã có những giải pháp hổ trợ cụ thể thông
qua truyền thanh xã, các buổi tập huấn kỹ thuật, và các tài liệu liên quan phục
vụ người dân một cách đầy đủ nhất. Hằng năm xã tổ chức ít nhất 2-3 buổi tập
huấn về kỹ thuật, phòng trừ dịch bệnh, chuyển giao công nghệ vào sản xuất
cho bà con nông dân trên địa bàn, ngoài ra còn hổ trợ cung cấp thông tin
thông qua tài liệu, tờ rơi…
• Thông tin về lĩnh vực thị trường
Thông tin giá cả thị trường trong công tác truyền thông : Do ở Quảng
Thành có hoạt động sản xuất rau đặc trưng nên người dân quan tâm đến giá cả
thị trường và tiếp cận tốt. Tuy hoạt động sản xuất của người dân mang tính tự
cung cấp nhiều hơn, một mặt công tác thông tin tuyên truyền khó khăn nên
người dân chưa được tiếp cận với thông tin này một cách hiệu quả.
Thông tin tín dụng trong công tác truyền thông: Ở Quảng Thành, do
người dân chủ yếu làm sản xuất nông nghiệp nên đa số người dân phải vay

vốn để làm ăn, cho con em đến trường Việc tiếp nhận thông tin trong lĩnh
vực tín dụng được người dân tiếp thu khá tốt thông qua các kênh truyền thanh
của xã và qua các buổi họp dân từ các hội, các đoàn thể như hội phụ nữ, hội
nông dân, hội cựu chiến binh… Đến kỳ trả lãi và gốc, người dân tiếp nhận
thông tin chủ yếu từ hệ thống truyền thanh của xã và chấp hành nộp đúng thời
gian quy định.
20
Thông tin về lao động việc làm trong công tác truyền thông: Lao động và
việc làm là một vấn đề bức thiết hiện nay. Tỷ lệ lao động thất nghiệp trên thế
giới và nước ta rất lớn. Hiện nay truyền thông rất phát triển và phân bố rông
rãi. Các thông tin tuyển dụng về lao động và việc làm của các công ty, doanh
nghiệp được truyền bá rộng rãi trên các phương tiện truyền thông. Tuy nhiên
ở nông thôn việc người dân tiếp cận với lĩnh vực lao động và việc làm thì gặp
nhiều khó khăn trong khi đó nông thôn lại là vùng cung cấp một lực lượng lao
động khá lớn. Thông qua các buổi họp dân tập huấn công tác tuyển dụng, giới
thiệu việc làm đến với người dân là cần thiết.
Ở Quảng Thành thương hiệu rau sạch Hóa Châu đã được công nhận nên
xã rất quan tâm phát triển xây dựng thương hiệu và thông tin thị trường là yêu
cầu cần thiết nhất, để người dân có thể biết được giá cả, vật liệu đầu vào, đầu
ra một cách nhanh nhất hiệu quả nhất. Truyền thanh xã là kênh cung cấp
thông tin chủ yếu cho bà con ở đây.
• Thông tin về lĩnh vực môi trường
Môi trường là một điều kiện cốt tử đảm bảo cho sự phát triển bền vững
của các quốc gia, dân tộc. Do đó công tác tuyên truyền bảo vệ môi trường là
nhiêm vụ quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội.Với sự phát triển của khoa
học kỹ thuật, nhât là kỹ thuật sản xuất đóng gói bao bì, nhiều loại giấy, hộp
được làm chủ yếu bằng ni lông, nhựa, thiếc…rất tiện lợi và làm thay đổi tập
quán phong cách sống của người dân nông thôn. Bên cạnh các mặt tích cực ấy
là lượng rác thải ra ngày càng lớn. Nó đã và đang trở thành vấn đề được mọi
người quan tâm. Việc tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân trong

việc thu gom và xử lý rác thải qua các kênh truyên thông là vấn đề cấp thiết.
Tại xã Quảng Thành vấn đề môi trường đã được tuyên truyền khá tốt,
người dân tiếp cận chủ yếu qua truyền hình, truyền thanh, qua các băng rôn
khẩu hiệu do đoàn thanh niên tổ chức phát động, qua tập huấn họp dân. Chính
quyền địa phương và người dân đã quan tâm và xây dựng công ước bảo vệ
môi trường đưa vào đời sống văn hóa làng xã.
Ngày môi trường thế giới 5/6 công tác tuyên truyền vì môi trường chung
của hành tinh xanh đã được hưởng ứng rất mạnh mẽ, hằng năm xã đều phát
động các hoạt động mang rất nhiều ý nghĩa như, đạp xe diễu hành, mang theo
các băng rôn với sự tham gia mạnh của đoàn thanh niên, hội phụ nữ.
21
• Thông tin về lĩnh vực an ninh quốc phòng
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội là một trong những lĩnh vực có
tác động rất lớn tới đời sống tinh thần và sản xuất của người dân. Đặc biệt khi
xã hội ngày càng phát triển thì an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội càng
gay gắt và nghiêm trọng đó là các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, trộm
cắp, cờ bạc…tạo nên bất ổn về chính trị gây khó khăn trong việc phát triển
kinh tế cũng như các lĩnh vực khác. Vì vậy công tác truyền thông cho mỗi
người dân là vấn đề cấp thiết.
An ninh chính trị trật tự an toàn xã hội tại các thôn trên địa bàn xã Quảng
Thành được chú trọng và đang càng ngày được quan tâm phát triển. Thông
tin về an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội được người dân tiếp cận chủ yếu
qua kênh truyền thanh, các tệ nạn xã hội được người dân quan tâm và thực
hiện đúng hiến pháp và pháp luật của nhà nước, xã và thôn xóm.
• Thông tin về lĩnh vực y tế - kế hoạch hóa gia đình
Trong lĩnh vực y tế KHHGD truyền thông đóng vai hết sức quan trọng.
Ở Quảng Thành được sự quan tâm của cấp trên nên thông tin được tuyên
truyền qua nhiều kênh thông tin Tĩnh, huyện thường xuyên cung cấp băng
rôn, tờ rơi băng đĩa, tài liệu liên quan về cho xã mỗi khi có các chiến dịch
tuyên truyền cổ động. Xã phối hợp với các ban ngành liên quan như hội phụ

nữ, hội nông dân, mặt trận, đoàn thanh niên, hội cựu chiến binh…tổ chức
tuyên truyền vân động người dân trong công tác dân số KHHGD, tổ chức các
cuộc thi, các cuộc tìm hiểu… Trạm y tế phối hơp với đài truyền thanh và xã
thường xuyên phát các băng đĩa và tăng thời lượng phát sóng.
Hằng năm đã tổ chức được 3 đợt chiến dịch truyền thông lồng ghép dịch
vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản/KHHGD. Trước và sau các chiến dịch đều tổ
chức tuyên truyền phổ biến trên hệ thống đài truyền thanh xã. Đội ngũ cộng
tác viên dân số ở đây khá đông là người “đi từng ngõ gõ từng nhà” vận động
từng đối tượng nằm trong diện cần áp dụng các biện pháp tránh thai.
Đặc biệt là đối tượng trong diện 3-4 con tự nguyện đình sản sau khi sinh.
Lồng ghép đưa chính sách dân số vào quy ước làng văn hóa, như: đăng ký
xây dựng cụm dân cư không có người sinh con thứ 3 trở lên, xây dựng chế độ
thưởng phạt trong công tác dân số - KHHHGD. Những người vi phạm thì
22
không được công nhận là gia đình văn hóa, và không được vay vốn ưu đãi.
Với những nỗ lực trên tỷ lệ sinh con thứ 3 giảm 1,6% so với năm 2008, tỷ lệ
sinh con thứ 3 năm 2010 là 24,7%. Mục tiêu 2011 tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên
xuống dưới 20%.
• Các bên cung cấp thông tin truyền thông chính trên địa bàn xã
Quá trình nguyên cứu cho thấy có rất nhiều tổ chức, cơ quan và cá nhân
hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp có mặt thường xuyên ở địa phương để
tham gia vào việc cung cấp thông tin nói chung và thông tin nông nghiệp nói
riêng. Người nông dân ở đây có thể nhận thông tin và kiến thức nông nghiệp
từ nhiều nguồn khác nhau :
- UBND xã: Là cơ quan đứng đầu của xã, chịu trách nhiệm quản lý mọi
lĩnh vực trong xã. Những thông tin từ UBND xã đưa về cho người dân rất
phong phú với nhiều lĩnh vực khác nhau: kinh tế, xã hội, môi trường….Người
dân tiếp nhận thông tin từ UBND như nguồn thông tin khá quan trọng quyết
định đến cuộc sống của họ, nhưng hiệu quả của các hoạt động chưa thực sự
như mong muốn, nó bị kìm chế bởi sự hoạt động kém hiệu quả của tổ chức

cộng đồng, trình độ cán bộ chưa cao. Những thông tin từ UBND được truyền
thông qua nhiều phương tiện để đến với người dân như: Những buổi họp, loa
phát thanh, thông tin từ các bảng tin
- Tổ chức, nhóm cộng đồng: Nguồn thông tin từ các tổ chức trong xã
được người dân nhận xét như nguồn thông tin rất quan trọng đối với họ. Các
tổ chức, nhóm cộng đồng trong xã gồm: HTX, hội nông dân, hội phụ nữ, đoàn
thanh niên. Trong các tổ chức cộng đồng, HTX là tổ chức hoạt động mạnh mẽ
nhất, có hiệu quả nhất. HTX là tổ chức chịu trách nhiệm quản lý hoạt động
của một số lượng lớn người nông dân tham gia sản xuất nông nghiệp trong xã,
chịu trách nhiệm điều hành các hoạt động sản xuất, các hoạt động dịch vụ liên
quan đến sản xuất nông nghiệp. Trong quá trình hoạt động, HTX không
ngừng tìm kiếm những thông tin, kiến thức để truyền đạt cho người dân, HTX
thường liên kết với các tổ chức, cơ quan bên ngoài để đưa về những kỹ thuật
mới, những giống mới về với người dân, giúp họ phát triển sản xuất. Các hoạt
động dịch vụ chủ yếu như: Dịch vụ làm đất, dịch vụ BVTV, dịch vụ thuỷ lợi,
…các hoạt động này được người dân đánh giá là rất hiệu quả, được nhiều
người tin tưởng. HTX là nơi nhận những thông tin phản hồi từ người dân và
23
đưa thông tin đó lên những cơ quan cấp trên. Các tổ chức khác như hội nông
dân, hội phụ nữ hoạt động còn yếu. Đây là những tổ chức đại diện cho người
dân, được người dân tin tưởng, thế nhưng hoạt động của các tổ chức này lại
khá yếu, các thông tin mà người dân nhận được từ tổ chức này rất ít. Hội phụ
nữ tham gia vào công tác xã hội nhiều hơn, những thông tin mà hội thường
truyền đạt như: Vệ sinh ăn uống, kế hoạch hoá gia đình, tín dụng. Hội nông
dân hoạt động chủ yếu về lĩnh vực kinh tế, nội dung hoạt động còn sơ sài, đa
số về vay vốn phát triển sản xuất, những thông tin khác ít được đề cập, các tổ
chức này ít tìm kiến thông tin hay liên kết với các tổ chức cơ quan khác để
phát triển sản xuất. Những thông tin mà nhóm này truyền đạt cho người dân
thông qua loa truyền thanh, các buổi họp, các thông báo.
- Từ những người thu mua đầu vào – đầu ra

Từ những người thương lái, những người thu gom hàng hóa mà chủ yếu
là những người thu mua hàng nông sản ở địa phương (Thu mua đầu ra cho sản
xuất nông nghiệp). Khi những người nông dân bán sản phẩm cho những
thương lái, những người thu gom thì đồng thời họ cũng có quá trình trao đổi
thông tin, kiến thức nông nghiệp.
- Cán bộ khuyến nông, cán bộ thú y
Cán bộ khuyến nông là người đem những tiến bộ khoa học mới giới thiệu
với người nông dân, người thường xuyên tiếp xúc với người dân, tìm kiến sự
hỗ trợ từ bên ngoài để giúp họ phát triển sản xuất. Những thông tin mà cán bộ
khuyến nông truyền đạt: Giới thiệu giống mới có hiệu quả cao, kỹ thuật sản
xuất mới, các loại máy móc nông nghiệp mới…Những thông tin được chuyển
đến với người dân thông qua các buổi tập huấn, xây dựng các mô hình, tuyên
truyền qua loa, đài…
Cán bộ thú y là những người chuyên phụ trách về chăm sóc sức khoẻ cho
gia súc, phòng chống dịch bệnh….Trong quá trình hoạt động cán bộ thú y cơ
sở liên kết với cán bộ thú y cấp trên để xử lý các dịch bệnh lớn xảy ra trong xã.
4.3. Đánh giá khả năng truyền tải thông tin đến người dân của các kênh
truyền thông
4.3.1. Mức độ tiếp cận các kênh truyền thông thông tin của người dân
Xã Quảng Thành là một trong những xã có hệ thống hạ tầng nông thôn
còn yếu, nhất là hệ thống giao thông, cơ sở vật chất giáo dục và cơ sở vật chất
văn hoá. Do đó cuộc sống vật chất tinh thần người dân còn hạn chế, việc tiếp
24
cận với phương tiện truyền thông xã hổ trợ, việc đáp ứng tiện thông tin phục
vụ sản xuất chưa cao, vẫn còn phụ thuộc, vì vậy cần được quan tâm nên việc
sử dụng các kênh thông tin gặp nhiều khó khăn. Các thông tin được truyền tải
thường là các thông tin về: giáo dục, thời tiết, kĩ thuật, Tuy nhiên, mức độ
quan tâm của người dân đối với các kênh thông tin là không giống nhau.
Nguyên nhân chính là do các thông tin chưa đáp ứng được nhu cầu của người
dân hoặc thông tin không đáp ứng kịp thời. Mức độ quan tâm của người dân

đối với các kênh thông tin như sau:
Bảng 2: Mức độ tiếp cận thông tin của người dân
Đơn vị (%)
Kênh thông tin
Mức độ tiếp cận (n = 30)
Không tiếp cận Tiếp cận
Phương tiện nghe: loa, đài 50,0 50,0
Phương tiện nghe nhìn: Internet,
tivi
25,0 75,0
Phương tiện đọc: sách báo 75,0 25,0
Hội họp: tập huấn, hội thảo đầu bờ 10,0 90,0
(Nguồn: Số liệu điều tra hộ 2011)
Nhìn vào bảng trên cho thấy nhóm phương tiện đào tạo, bồi dưỡng, giao
lưu (tập huấn, tham quan, mô hình trình diễn,…) là những phương tiện truyền
thông hiệu quả nhất. Chính vì thông qua những lớp tập huấn hay những buổi
tham quan, người dân không những được mắt thấy, tai nghe mà còn có thể
được giải đáp thắc mắc một cách trực tiếp và đầy đủ. Thông thường những
lớp tập huấn về kỹ thuật người ta thường kết hợp với việc xây dựng mô hình
trình diễn, do vậy người nông dân có thể trực tiếp làm theo dưới sự hướng dẫn
của cán bộ Khuyến nông. Nhờ vậy mà người dân nắm bắt những thông tin rất
nhanh và nhớ được lâu. Người dân thường được tập huấn các kỹ thuật như: :
25

×