Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện đồng bằng song Cửu Long.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.77 KB, 40 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghóa, vấn đề cán bộ luôn giữ vai
trò quan trọng hàng đầu, quyết đònh sự thành công hay thất bại của các phong
trào cách mạng. Trên cơ sở kế thừa và phát triển những quan điểm của chủ
nghóa Mác- Lênin về công tác cán bộ, Chủ tòch Hồ Chí Minh trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã luôn quan tâm tới việc giáo dục, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng. Người nói:
“cán bộ là cái gốc của mọi cộng việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc
gốc của Đảng” [47, tr.269]. Trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước hiện
nay đòi hỏi người cán bộ phải có đạo đức cách mạng, có năng lực và trí tuệ.
Trong đó năng lực tổng kết thực tiễn là một trong những phẩm chất cần có của
người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Năng lực đó có vai trò vô cùng to lớn trong quá
trình tổ chức, xây dựng và phát triển kinh tế, chính trò, văn hóa - xã hội, an ninh
- quốc phòng
Tổng kết thực tiễn có vai trò to lớn đối với lý luận, góp phần khắc phục
bệnh kinh nghiệm, giáo điều, chủ quan, duy ý chí Không có tổng kết thực tiễn
thì lý luận không thể phát triển được, chỉ trên cơ sở tổng kết thực tiễn thì lý luận
mới được kiểm nghiệm, hoàn chỉnh và bổ sung. Đối với người cán bộ lãnh đạo,
quản lý thì năng lực tổng kết thực tiễn là một yêu cầu rất quan trọng, đặc biệt là
đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp huyện, bởi cấp huyện là nơi trực
tiếp triển khai mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước đến cấp cơ sở, đồng thời kiểm tra việc thực hiện chủ trương, đường
lối, chính sách đó.
Để việc kiểm tra, tổng kết, rút kinh nghiệm trong quá trình cụ thể hóa chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước xuống cấp cơ
sở có hiệu quả đòi hòi đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có năng lực tổng
1
kết thực tiễn. Muốn vậy, người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có năng lực tư duy
lý luận, có tri thức, có tầm nhìn xa, trông rộng, Hơn nữa, thực tiễn luôn vận
động và biến đổi không ngừng, đòi hỏi năng lực tổng kết thực tiễn của cán bộ


cũng không ngừng được nâng lên cho phù hợp với sự biến đổi của thực tiễn.
Trong công cuộc đổi mới đất nước theo đònh hướng xã hội chủ nghóa, với
xu thế hội nhập quốc tế và thực hiện nền kinh tế thò trường, nước ta đã đạt nhiều
thành tựu to lớn trên tất cả các lónh lực của đời sống xã hội. Tuy nhiên bên cạnh
đó cũng đặt ra nhiều vấn đề về mặt lý luận và thực tiễn cần phải giải quyết,
trong đó có vấn đề năng lực tổng kết thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt nói chung, cán bộ chủ chốt cấp huyện nói riêng chưa đáp ứng
được yêu cầu thực tiễn đặt ra. Đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt đồng
bằng sông Cửu Long thì năng lực tổng kết thực tiễn còn rất nhiều hạn chế so với
cả nước nói chung. Vì vậy cần phải làm rõ thực trạng, nguyên nhân, năng lực
tổng kết thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp huyện
đồng bằng sông Cửu Long hiện nay, để từ đó đề ra một số giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn cho đội ngũ cán bộ này. Xuất phát từ
yêu cầu trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện đồng bằng sông Cửu Long (qua thực tế
tỉnh Bạc Liêu)”, làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xung quanh vấn đề về tổ chức thực tiễn và tổng kết thực tiễn đã được
nhiều tác giả,nhiều nhà khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như:
- “Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở (qua thực tế tỉnh Long An)”, Luận văn thạc só Triết học của Phạm Văn Hai,
1997.
2
- “Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
huyện miền núi ở Lâm Đồng hiện nay”, Luận văn thạc só Triết học của Lê Thò
Thanh Phụng, 2003.
- “Vài suy nghó về tổng kết thực tiễn”, Trần Văn Phòng, trong góp phần
tìm hiểu một số vấn đề kinh tế – xã hội dưới ánh sáng đường lối đổi mới của
Đảng, Học viện Chính trò quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1993.
- “Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý cấp tỉnh”, Trần Văn Phòng, Tạp chí Lý luận chính trò, số 3-1997.
- “Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
huyện ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc só Triết học của Nguyễn Xuân
Phương, 1998.
Các tác giả đã đề cập nhiều tới những vấn đề về năng lực tổ chức thực
tiễn và năng lực tổng kết thực tiễn cũng như vai trò của chúng đối với cán bộ
lãnh đạo, quản lý. Tuy nhiên các công trình này đề cập chủ yếu đến năng lực tổ
chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện nói chung hoặc là cán bộ
chủ chốt cấp huyện miền núi của tỉnh Lâm Đồng.
Vấn đề “Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn cho đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp huyện Đồng bằng sông Cửu Long” vẫn còn là mảng đề tài cần tiếp
tục được nghiên cứu sâu hơn. Vì vậy, tác giả chọn đề tài này để nghiên cứu với
mong muốn được góp sức mình vào sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế - xã
hội ở Bạc Liêu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích thực trạng năng lực tổng kết thực tiễn cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp huyện đồng bằng sông Cửu Long (qua thực tế Bạc Liêu),
3
đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm từng bước nâng cao năng lực tổng kết
thực tiễn của đội ngũ cán bộ này.
- Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
+ Phân tích, làm rõ năng lực tổng kết thực tiễn, vai trò của nó trong công
tác lãnh đạo, quản lý ở cấp huyện.
+ Tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân những yếu kém về năng lực tổng kết
thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp huyện đồng bằng sông Cửu Long, qua thực tế
tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
+ Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hơn nữa năng lực
tổng kết thực tiễn cho đội ngũ cán bộ này.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng của luận văn là nghiên cứu năng lực
tổng kết thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp huyện đồng bằng
sông Cửu Long.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là khu vực đồng
bằng sông Cửu Long đặt biệt là tỉnh Bạc Liêu.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghóa
duy vật biện chứng và chủ nghóa duy vật lòch sử về thực tiễn, tổng kết thực tiễn
và tư tưởng Hồ Chí Minh cùng các Nghò quyết của Đảng về công tác cán bộ
Luận văn kế thừa, vận dụng có chọn lọc những kết quả của các tác giả đi
trước có liên quan tới đế tài.
- Phương pháp nghiên cứu
4
Luận văn sử dụng các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghóa Mác -
Lênin kết hợp với các phương pháp khác như: phương pháp phân tích và tổng
hợp, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp thống kê
6. Đóng góp về khoa học của đề tài
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề nâng cao
năng lực tổng kết thực tiễn cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Bạc Liêu
trong giai đoạn hiện nay.
- Làm rõ thực trạng năng lực tổng kết thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp huyện ở Bạc Liêu.
Đề xuất được một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Bạc Liệu.
7. Ý nghóa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Những kết luận và những giải pháp rút ra từ luận văn có thể làm tài liệu
tham khảo cho việc xây dựng, hoạch đònh chính sách chiến lược và quy hoạch
đào tạo cán bộ cấp huyện ở Đồng bằng sông Cửu Long nói chung, ở Bạc Liêu

nói riêng.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong nghiên cứu và giảng dạy ở hệ thống các trường chính trò tỉnh, trung
tâm bồi dưỡng chính trò huyện, thò và các đề tài nghiên cứu có liên quan sau
này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được chia làm 2 chương, 4 tiết.
5
chương 1
NĂNG LỰC TỔNG KẾT THỰC TIỄN
VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT Ở CẤP HUYỆN
1.1. NĂNG LỰC TỔNG KẾT THỰC TIỄN VÀ NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
TỚI NĂNG LỰC TỔNG KẾT THỰC TIỄN
1.1.1. Thực chất của năng lực tổng kết thực tiễn
Thực tiễn bắt nguồn từ tiếng Hylạp (Pratica) có nghóa là hoạt động tích
cực, chủ động. Trong lòch sử triết học có rất nhiều quan điểm khác nhau về thực
tiễn, có thể phân các quan điểm khác nhau về thực tiễn đó thành hai trào lưu
như sau.
Quan điểm của các trào lưu triết học trước Mác với những đại biểu như:
Điđơrô (nhà triết học Pháp thế kỷ XVIII) đã đề cập đến phạm trù thực tiễn
nhưng hiểu nó chưa đầy đủ. Thực tiễn được hiểu là hoạt động thực nghiệm khoa
học trong phòng thí nghiệm. Phoiơbắc nhà triết học duy vật siêu hình (người
Đức) quan niệm thực tiễn chỉ là những hành động bẩn thỉu có tính chất con
buôn. Hêghen nhà triết học duy tâm khách quan (người Đức) cho thực tiễn chỉ
là khái niệm, tư tưởng thực tiễn chứ không phải bản thân thực tiễn với tư cách là
hoạt động vật chất.
Một số nhà triết học duy tâm, tuy đã thấy được mặt năng động, sáng tạo
trong hoạt động của con người, nhưng cũng chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động

6
tinh thần, chứ không hiểu nó như là hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất
cảm tính của con người.
Những nhà duy tâm chủ quan lại cho rằng, hoạt động thực tiễn bò chế đònh
bởi ý chí, bản năng hoặc những nhân tố tiềm thức. Chẳng hạn, nhà triết học
người Mỹ W. James coi kinh nghiệm tôn giáo là thực tiễn tức là những hoạt
động tinh thần thuần túy. Với những quan niệm như trên cho ta thấy rằng hạn
chế lớn nhất của chủ nghóa duy tâm về thực tiễn là ở chỗ nó tuyệt đối hóa
những hoạt động tinh thần, tư tưởng, hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần
thuần túy.
Như vậy, các nhà triết học trước Mác đã có nhiều quan điểm khác nhau
về vấn đề thực tiễn, có quan điểm mang tính duy tâm, có quan điểm đúng nhưng
chưa đầy đủ. Nói đúng hơn tất cả những quan điểm trên là chưa hoàn chỉnh,
toàn diện, chưa thật sự khoa học.
Bằng tư duy biện chứng, kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những
thiếu sót trong quan điểm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó, C. Mác và
Ph. Ăngghen đã đưa ra một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai
trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội
loài người. Theo C. Mác, quan hệ đầu tiên của con người đối với giới tự nhiên là
quan hệ thực tiễn. C. Mác viết: “Con người hoàn toàn không bắt đầu từ chỗ ở
trong quan hệ lý luận đối với những vật của thế giới bên ngoài mà tích cực
hoạt động” [42, tr. 538]. Như vậy, C. Mác đã khẳng đònh rằng, con người luôn
tác động vào thế giới xung quanh, hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của
con người. Nếu con vật chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một cách
thụ động với thế giới bên ngoài, thì con người nhờ vào thực tiễn như là hoạt
động có mục đích, có tính xã hội của mình mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu
cầu của mình, thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới để làm chủ
thế giới. Sự khác biệt căn bản giữa con người với các thực thể tự nhiên là ở chỗ,
7
con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan và luôn tác động vào

thế giới khách quan đó để làm biến đổi, cải tạo nó theo nhu cầu và mục đích
của mình. Để tác động vào thế giới khách quan đó một cách tích cực, sáng tạo
đòi hỏi con người phải có sự nhận thức. Bởi nhận thức là hoạt động đặc trưng
của con người, nó được biểu hiện ra trong mối quan hệ với thực tiễn. Hay nói
khác đi, nhận thức nảy sinh, tác động và phát triển từ thực tiễn và vì thực tiễn
của con người. V. I. Lênin nhận xét: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải
là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức” [39, tr. 167]. Theo
triết học Mác thì thực tiễn là một phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ những
hoạt động vật chất cảm tính, có mục đích, mang tính lòch sử – xã hội của con
người nhằm cải tạo thế giới tự nhiên và xã hội phục vụ con người.
Như trên đã trình bày hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con
người, chỉ thông qua thực tiễn thì con người mới nhận thức, cải tạo được thế giới
khách quan. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động thực tiễn đó đòi hỏi con người
phải biết tổng kết, rút kinh nghiệm để từ đó tìm ra phương án tối ưu nhất cho
hoạt động thực tiễn tiếp theo. Trong hoạt động lãnh đạo, quản lý cũng vậy đòi
hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải biết tổng kết thực tiễn để thấy những
mặt nào làm được, những mặt nào chưa làm được, từ đó mà rút ra những bài học
kinh nghiệm để chỉ đạo hoạt động thực tiễn tiếp theo tốt hơn. Vậy, tổng kết thực
tiễn là gì?
Để hiểu được tổng kết thực tiễn là gì, chúng ta phải xuất phát từ tổ chức
thực tiễn. Tổ chức thực tiễn là một hệ thống khép kín bao gồm trong đó các
khâu, các quy trình như: chuẩn bò và ra quyết đònh; tổ chức bộ máy và con người
để thực hiện quyết đònh; kiểm tra việc thực hiện quyết đònh; tổng kết rút kinh
nghiệm.
Như vậy, tổng kết thực tiễn là một mắt khâu trong hoạt động tổ chức thực
tiễn, đây là một quá trình bằng tư duy khoa học với phương pháp biện chứng
8
duy vật làm cơ sở để phân tích, đánh giá, khái quát thực tiễn, rút ra những bài
học kinh nghiệm cho chỉ đạo thực tiễn tiếp theo, cũng như kiểm tra, bổ sung,
hoàn thiện, phát triển lý luận và đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước.

Tổng kết thực tiễn là vòng khâu cuối cùng của chu trình tổ chức thực tiễn, đồng
thời lại là khâu mở đầu cho chu trình tổ chức thực tiễn mới tiếp theo. Tổng kết
thực tiễn có vai trò to lớn trong việc bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận,
khắc phục bệnh kinh nghiệm, giáo điều. Do có vai trò hết sức to lớn như thế,
cho nên chúng ta không thể xem tổng kết thực tiễn như là một sự mô tả về tình
hình đã qua, sự liệt kê những ưu điểm, khuyết điểm, đánh giá chung chung…
Phải thấy tổng kết thực tiễn là sự thể hiện khả năng phân tích, đánh giá vấn đề;
khả năng thu thập, xử lý thông tin có chính xác hay không; vấn đề tổng kết có đi
vào trọng tâm, trọng điểm, có tính khái quát cao hay chưa; kiểm tra việc thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước có trung thực,
khách quan chưa để từ đó mà khái quát, rút ra được những vấn đề cốt lõi
nhằm sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước, phát triển lý luận, rút ra những bài học kinh nghiệm
nhằm chỉ đạo hoạt động thực tiễn tiếp theo. Nói về vấn đề này Lênin khẳng
đònh: chỉ có tổng kết thực tiễn, rút ra bài học kinh nghiệm mới có thể “xác đònh
chính xác một số biện pháp thực tiễn sắp tới” [36, tr. 73].
Tổng kết thực tiễn tuy là một mắt khâu của chu trình tổ chức thực tiễn,
nhưng bản thân nó không phải là thực tiễn mà đó là hoạt động trí tuệ của chủ
thể tiến hành tổng kết thực tiễn. Cho nên trong quá trình tổng kết thực tiễn đòi
hỏi chủ thể phải biết thu thập, xử lý thông tin, biết lựa chọn vấn đề để tổng kết,
từ đó bằng tư duy khoa học cùng với phương pháp duy vật biện chứng tiến hành
phân tích, đánh giá, khái quát hóa để rút ra những bài học ở trình độ lý luận.
Hiệu quả của tổng kết thực tiễn đạt đến mức độ nào, cao hay thấp, khách quan
hay không khách quan, theo hướng tích cực hay tiêu cực, qua tổng kết rút ra
được những bài học kinh nghiệm gì cho chỉ đạo thực tiễn tiếp theo, có khắc phục
9
được bệnh kinh nghiệm, giáo điều, bệnh chủ quan, duy ý chí hay không Điều
đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng trước hết là năng lực tổng kết của chủ
thể tiến hành tổng kết thực tiễn. Tổng kết thực tiễn có vai trò hết sức quan
trọng, tuy nó là một mắt khâu trong quá trình tổ chức thực tiễn, nhưng bản thân

nó cũng thực hiện một quy trình với đầy đủ các khâu từ việc chọn vấn đề tổng
kết; thu thập xử lý thông tin liên quan đến vấn đề tổng kết; rút ra kết luận; vận
dụng các kết luận vào quy trình tổ chức thực tiễn tiếp theo. Vì vậy, để việc tổng
kết thực tiễn đạt hiệu quả cao thì người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có năng
lực tổng kết thực tiễn. Vậy năng lực tổng kết thực tiễn là gì ? Để hiểu nó trước
hết ta cần phải làm rõ khái niệm năng lực là gì ?
Với tư cách là một phạm trù, năng lực đã được nhiều ngành khoa học,
nhiều tác giả tiếp cận với những cấp độ và khía cạnh khác nhau, đem lại những
kết quả mang tính đặc trưng của mỗi ngành.
“Năng lực nói chung được hiểu là khả năng của chủ thể trong việc thực
hiện có kết quả cao một hoạt động hoặc một công việc nào đó trong điều kiện
nhất đònh, là những phẩm chất của con người tạo cho họ có khả năng hoàn thành
một hoạt động nhất đònh có hiệu quả nhất” [52, tr. 49]
Theo từ điển tiếng việt: “Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc
tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó ở mức độ cao, hoặc năng lực
được hiểu là những phẩm chất của con người tạo cho con người đó khả năng
hoàn thành có kết quả một quá trình hoạt động nhất đònh” [64,tr.639].
Năng lực còn được hiểu là: “Tổng hợp những thuộc tính độc đáo của cá
nhân, phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất đònh nhằm
đảm bảo hoàn thành có kết quả tốt trong lónh vực hoạt động ấy” [27, tr. 174].
Như vậy, năng lực là khả năng thực tế mà con người có được thông qua
trau dồi học vấn, hoạt động thực tiễn, tích lũy kinh nghiệm, tự giáo dục và tự
đào tạo để đáp ứng một yêu cầu nào đó của công việc được giao phó nhằm giải
10
quyết những nhiệm vụ hay xử lý những tình huống đặt ra trong công tác, trong
đời sống hằng ngày. Năng lực là những khả năng của chủ thể hoạt động được sử
dụng để đáp ứng những đòi hỏi của công việc, của đối tượng và khách thể đặt
ra. Khi nói đến năng lực phải nói đến từng con người cụ thể, đó là người đã
trưởng thành về mặt xã hội, là một cá nhân, một chủ thể mang nhân cách. Tùy
thuộc vào nghề nghiệp, vò thế xã hội, chức trách của từng cá nhân mà biểu

hiện những khả năng khác nhau một cách sinh động, đa dạng, phức tạp.
Năng lực là khả năng, là những phẩm chất tâm sinh lý vốn có của con
người, những khả năng phẩm chất ấy vừa là sản phẩm của tự nhiên đồng thời
cũng là sản phẩm mang tính lòch sử xã hội. Tuy nhiên cái tự nhiên đó chỉ thực sự
trở thành năng lực khi nó thẩm thấu qua lăng kính của thực tiễn, tự học tập, trau
dồi, rèn luyện để không ngừng nâng cao trình độ nhận thức, trình độ tư duy khoa
học. Khẳng đònh về điều này, chủ tòch Hồ Chí Minh viết: “Năng lực của con
người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, mà một phần lớn do công tác,
do tập luyện mà có” [47, tr. 180].
Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với quan điểm “Năng lực tổng kết thực tiễn
là khả năng xác đònh đúng và trúng vấn đề thực tiễn cần tổng kết; khả năng thu
thập, phân tích, xử lý thông tin liên quan đến vấn đề cần tổng kết một cách tối
ưu nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm thực tiễn mang tính lý luận cao; khả
năng vận dụng những bài học kinh nghiệm thực tiễn được rút ra để chỉ đạo tổ
chức thực tiễn tiếp theo hoặc điều chỉnh, bổ sung lý luận” [48, tr. 49].
Năng lực tổng kết thực tiễn của người cán bộä lãnh đạo, quản lý là loại
năng lực riêng biệt, nó có ý nghóa cực kỳ quan trọng trong kiểm tra, tổng kết
việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở từng
cấp đòa phương. Việc chỉ ra những nhiệm vụ nào hoàn thành, chưa hoàn thành,
thành tựu đạt được và tồn tại chủ yếu, tìm ra nguyên nhân của thành công và
thất bại, kiểm tra lại đưòng lối, chủ trương, kế hoạch, phát hiện những mâu
11
thuẫn cần phải giải quyết có khách quan, chính xác hay không phụ thuộc vào
năng lực của chủ thể tổng kết. Bởi kết quả của việc tổng kết sẽ làm cơ sở cho
việc xây dựng đường lối, chủ trương, chỉ đạo giai đoạn cách mạng tiếp theo.
Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
thâm nhập vào quần chúng đến đâu, được quần chúng nhân dân ủng hộ, đồng
tình đến mức độ nào, có mâu thuẫn xảy ra trong quá trình thực hiện chủ trương,
đường lối đó hay không sẽ là tiêu chuẩn, là thước đo một cách chính xác nhất
năng lực tổng kết thực tiễn của người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Cho nên năng

lực tổng kết thực tiễn là một yêu cầu rất quan trọng đối với cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở các cấp, đặc biệt là cán bộ chủ chốt cấp huyện. Tuy nhiên, trong thực
tế không phải ai cũng có năng lực tổng kết thực tiễn, bởi mỗi người sinh ra và
lớn lên trong một điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, trường đời khác nhau, môi
trường học tập khác nhau, nên nhận thức của họ có sự khác nhau, có khi người
có trình độ học vấn rất cao nhưng không thể là người cán bộ lãnh đạo, quản lý
được, nói về vấn đề này Lênin đã chỉ rõ: “Bất kỳ công tác quản lý nào cũng
đều đòi hỏi phải có những đặc tính riêng biệt, có người có thể là một nhà cách
mạng và nhà cổ động cừ nhất nhưng làm một cán bộ quản lý thì hoàn toàn
không thích hợp” [37, tr. 250].
Trong tất cả các năng lực của con người, thì năng lực tổng kết thực tiễn là
một nhân tố đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động thực tiễn của con người.
Năng lực tổng kết thực tiễn được thể hiện ra: Sự nhạy cảm của chủ thể tổng kết
thực tiễn đối với những vấn đề thực tiễn cần tổng kết; khả năng xử lý thông tin
một cách nhanh nhạy, chính xác và kòp thời; khả năng khái quát hóa để rút ra
được những kết luận mang tính lý luận từ thực tiễn đã qua; khả năng vận dụng
được những bài học kinh nghiệm đã rút ra từ thực tiễn đã qua để tổ chức những
hoạt động thực tiễn tiếp theo.
12
1.1.2 Những yếu tố ảnh hưởng tới năng lực tổng kết thực tiễn của cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp huyện
Có rất nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng tới năng lực tổng kết thực tiễn
của người cán bộ lãnh đạo, quản lý, sự ảnh hưởng ấy có thể nhiều hay ít trực
tiếp hoặc gián tiếp.
Trước hết là những yếu tố sinh học có tính chất bẩm sinh của chủ thể
tổng kết thực tiễn. Có thể hiểu chủ thể ở đây là cá nhân người cán bộ lãnh đạo,
quản lý, mà cá nhân là con người đã hoàn chỉnh với tính cách là sản phẩm đầy
đủ của xã hội, là chủ thể của lao động, của quan hệ xã hội và của nhận thức. Cá
nhân là một con người hoàn chỉnh ở chỗ họ là sự thống nhất giữa khả năng riêng
có của người đó với chức năng xã hội mà con người đó thực hiện. Cá nhân là

con người đã hình thành cá tính ổn đònh, là con người đủ tư cách làm người, là
một công dân làm chủ được bản thân, làm chủ được quan hệ xã hội, làm chủ
được trong lao động. Theo quan điểm của chủ nghóa Mác - Lênin thì con người
là sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Mặt sinh học của con người
thể hiện ở chỗ con người phụ thuộc vào những quy luật của tự nhiên như : Tính
di truyền, biến dò, đồng hóa, dò hóa, sức khỏe, các yếu tố sinh vật khác… Bởi
một con người khi lớn lên được mang gen di truyền tốt từ bố, mẹ không bò dò tật
bẩm sinh thì con người ấy sẽ có một cơ thể khỏe mạnh, tuy nhiên để cơ thể ấy
khỏe mạnh và phát triển bình thường thì cơ thể đó trước hết phải đảm bảo
những nhu cầu tối thiểu để duy trì sự sống, như C. Mác nói: con người muốn tồn
tại và phát triển thì trước hết phải có ăn, ở, mặc, đi lại … rồi mới tính tới làm
khoa học, làm chính trò. Những yếu tố sinh học có tính chất bẩm sinh đó đóng
vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra sự thông minh, năng khiếu, trí nhớ,
khả năng trực giác, sự nhạy cảm … Đây là cơ sở, là tiền đề, là điều kiện tạo nên
sự phát triển của năng lực nói chung và năng lực tổng kết thực tiễn của người
13
cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng. Để những yếu tố bẩm sinh đó không bò mai
một thì cần phải biết khơi dậy, thường xuyên rèn luyện và trau dồi, phải hoạt
động thực tiễn. Tuy những yếu tố bẩm sinh là cơ sở, là tiền đề cho sự phát triển
năng lực nói chung, năng lực tổng kết thực tiễn nói riêng, nhưng đó chỉ là điều
kiện cần chứ chưa đủ.
Môi trường kinh tế - xã hội mà trong đó chủ thể tổng kết thực tiễn sống
và hoạt động có ảnh hưởng quan trọng đến năng lực tổng kết thực tiễn của họ.
C.Mác đã khẳng đònh: con người là sản phẩm của hoàn cảnh. Nhìn chung hoàn
cảnh kinh tế – xã hội như thế nào sẽ sản sinh ra những con người hoạt động thực
tiễn và con người có năng lực tổng kết thực tiễn như thế đó, nghóa là điều kiện
kinh tế, môi trường công tác, điều kiện làm việc … như thế nào thì sẽ hình thành
nên những con người có quan niệm, thói quen, phong cách sống, phong cách
làm việc như thế ấy. Người nông dân cuộc sống của họ gắn với ruộng đồng, với
cây cuốc, cây cày nên suy nghó của họ rất đơn giản, thích làm theo kinh nghiệm,

theo truyền thống mà ít chòu nghiên cứu, chòu học hỏi. Người công nhân thì họ
gắn với nhà máy, với xí nghiệp nên họ luôn có tính tổ chức, tính kỹ luật cao,
luôn tìm tòi, suy nghó để làm sao tạo ra được sản phẩm có mẫu mã đẹp, chất
lượng cao, luôn suy nghó để tìm cách cải tiến máy móc … Hay theo một số nhà
nghiên cứu cho rằng, con người ở đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, ở Nam
bộ nói chung vẫn mang cốt cách của người Việt Nam. Nhưng do nhiều biến đổi
của lòch sử và đặc điểm làm ăn sinh sống nên lòng yêu nước, sống có thủy
chung, có tình có nghóa, tự lực tự cường … của con người Việt Nam đã có những
biểu hiện đặc thù. Con người vùng đồng bằng sông Cửu Long yêu thích sự tự do
tự tại, hòa đồng giữa các thế hệ người, với thiên nhiên bao la, với bầu bạn gần
xa nên rất mến khách, chi tiêu phóng khoáng, đối xử dễ dãi với con người, với
công việc, tính khí ngang tàng với cách sống chòu chơi và đã chơi là chơi hết
mình, chơi tới nơi làm tới chốn nên trọng nghóa mà khinh tài, trọng thực chất mà
không chuộng khoa trương, tính tình mộc mạc, thẳng thắn, bộc trực, ham làm ít
14
nói mà đã nói thì phải làm, ít lễ nghi rườm rà, không thích khách sáo hay khoe
khoang … Những nét tính cách này với cả mặt tích cực và hạn chế đã thấm vào
nếp nghó, tâm hồn, tình cảm, phong cách của con người vùng đồng bằng sông
Cửu Long nói riêng, con người Nam bộ nói chung. Điều này cũng ảnh hưởng tới
năng lực tổng kết thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện đồng bằng
sông Cửu Long nói chung, tỉnh Bạc Liêu nói riêng.
Như chúng ta đã biết ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, có nghóa
là điều kiện sống, điều kiện lao động sản xuất, môi trường làm việc … như thế
nào thì sẽ hình thành nên những quan điểm, tư tưởng, nhận thức, tình cảm, thói
quen, phong tục tập quán như thế ấy. Chính điều này đã cho chúng ta thấy cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp ở Việt Nam trước đây đã tạo ra những con người
thụ động, chỉ biết trông chờ, ỷ lại. Sau khi đất nước đổi mới, chuyển sang nền
kinh tế thò trường đònh hướng XHCN với xu hướng toàn cầu hóa, quốc tế hóa
nền kinh tế đã tạo ra những con người năng động, sáng tạo, luôn tự học hỏi, trau
dồi, tìm tòi, rèn luyện để không ngừng nâng cao tri thức cho mình, trong đó có

năng lực tổng kết thực tiễn.
Năng lực tổng kết thực tiễn của người cán bộ chủ chốt cấp huyện phụ
thuộc vào môi trường giáo dục đào tạo. Bởi thông qua giáo dục đào tạo thì
người cán bộ mới có được những tri thức khoa học, có phương pháp biện chứng,
có tư duy lôgic để từ đó giúp cho họ có khả năng nắm bắt được tình hình thực
tiễn, khả năng phân tích, xử lý thông tin, để trên cơ sở đó mà đánh giá rút ra
được những kết luận đúng đắn ở trình độ lý luận, tránh được tình trạng mò mẩm,
kinh nghiệm, giáo điều, chủ quan, duy ý chí. Có thể nói năng lực tổng kết thực
tiễn của người cán bộ chủ chốt cấp huyện luôn tỉ lệ thuận với vốn tri thức mà họ
đã thu nhận được qua giáo dục, đào tạo, tự học tập, rèn luyện … Trong đó giáo
dục - đào tạo là con đường ngắn nhất để trang bò tri thức. Nếu người cán bộ chủ
chốt cấp huyện không qua môi trường giáo dục - đào tạo thì sẽ không được
15
trang bò những tri thức khoa học, tất yếu trong tổng kết thực tiễn sẽ rơi vào chủ
nghóa kinh nghiệm, chủ quan, duy ý chí, như Đảng ta đã khẳng đònh: “Nâng cao
dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân
tố quyết đònh thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [17; tr
21]. Năng lực tổng kết thực tiễn còn phụ thuộc vào hoạt động thực tiễn của
chính người cán bộ . Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn thì người cán bộ ngày
càng hiểu sâu sắc thêm nhiều vấn đề, có thêm nhiều tri thức mới về các sự vật
hiện tượng trong thế giới khách quan, từ đó mà nâng cao hơn nữa năng lực tổng
kết thực tiễn của mình, chỉ thông qua hoạt động thực tiễn thì người cán bộ lãnh
đạo, quản lý mới kiểm nghiệm được những kết luận rút ra từ tổng kết thực tiễn
là đúng hay sai, có mang tầm khái quát chưa. Cho nên có thể khẳng đònh rằng,
không có hoạt động thực tiễn thì sẽ không có tổng kết thực tiễn và năng lực của
con người cũng sẽ không phát triển được, bởi xét cho cùng, mọi tri thức của con
người đạt được cho đến nay, hoặc là trực tiếp, hoặc là gián tiếp đều nảy sinh từ
hoạt động thực tiễn.
Điều kiện công tác cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới năng lực tổng kết
thực tiễn của người cán bộ chủ chốt cấp huyện. Đó là những điều kiện như: Nơi

làm việc, trang thiết bò, máy móc, phương tiện … Nếu nơi làm việc thoáng mát,
bố trí hợp lý sẽ tạo ra bầu không khí thoải mái, hưng phấn cho người làm việc.
Các trang thiết bò, máy móc, phương tiện đi lại, nếu được trang bò đầy đủ thì sẽ
phát huy hết mọi khả năng của con người, nó giúp cho người cán bộ lãnh đạo,
quản lý nắm bắt, xử lý thông tin một cách kòp thời, nhanh chóng và chính xác.
Nhu cầu và lợi ích là một yếu tố ảnh hưởng quan trọng và trực tiếp đến
năng lực tổng kết thực tiễn. Nhu cầu và lợi ích là động lực bên trong của mọi
hoạt động của con người, nó là nguyên nhân, là nguồn gốc dẫn đến suy nghó của
16
con người đúng hay sai, công bằng hay không công bằng, là động lực để thôi
thúc con người vươn lên trong cuộc sống, trong công việc hoặc nó kìm hãm ý chí
phấn đấu của con người. Xét đến cùng mọi hoạt động của con người, trong đó
có hoạt động tổng kết thực tiễn, đều nhằm đạt được những lợi ích nhất đònh nào
đó để thỏa mãn nhu cầu của mình. Trong tác phẩm “Gia đình thần thánh”, C.
Mác – Ph. Ăngghen đã từng đưa ra luận điểm: Lòch sử chẳng qua chỉ là những
hoạt động của những con người đang đeo đuổi những mục đích của mình. Mà
cái chi phối mục đích hoạt động của con người lại chính là lợi ích.
Thật vậy, nhu cầu và lợi ích là cái luôn chi phối trong suy nghó và hành
động của con người. Bởi con người luôn có nhu cầu, khi nhu cầu này được thỏa
mãn thì nhu cầu khác tiếp tục được nảy sinh.Để thỏa mãn nhu cầu đó thì phải có
lợi ích kèm theo, dù lợi ích đó nhiều hay ít, có thỏa mãn hay không thỏa mãn thì
cũng đáp ứng được phần nào nhu cầu của họ. Chúng ta sống và làm việc theo
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thì phải đặt lợi ích của
tập thể, của nhân dân, của tổ chức lên trước rồi mới tới lợi ích của cá nhân, của
gia đình, nhưng xét đến cùng phải đảm bảo được lợi ích của từng cá nhân, gia
đình thì mới đảm bảo được các lợi ích khác. Bởi mỗi cá nhân nếu không đảm
bảo được nhu cầu tối thiểu là ăn, ở, mặc, đi lại … thì khó có thể có sự hưng phấn
để làm những công việc khác, hay đối với người cán bộ chủ chốt cấp huyện thì
họ cũng ít đầu tư suy nghó để nâng cao năng lực của mình. Thực tế cho thấy có
những cán bộ do bò lợi ích cá nhân chi phối nên mất phẩm chất, nói một đường,

làm môt nẻo. Điều này ảnh hưởng xấu tới năng lực nói chung, năng lực tổng kết
thực tiễn nói riêng.
Như vậy, có thể nói rằng nhu cầu và lợi ích nó chi phối rất mạnh
mẽ và trực tiếp đến mọi hoạt động của con người, trong đó có hoạt động tổng
kết thực tiễn. Tổng kết cái gì, tổng kết như thế nào, hiệu quả ra sao, tổng kết có
mang tầm khái quát để rút ra bài học lý luận cho chỉ đạo thực tiễn tiếp theo hay
17
không, phụ thuộc rất nhiều vào chủ thể tổng kết thực tiễn mà chủ thể tổng kết
thực tiễn lại bò nhu cầu và lợi ích chi phối. Vì vậy, nếu người cán bộ lãnh đạo,
quản lý có năng lực, có trình độ lý luận, có tri thức, biết tổng kết thực tiễn
nhưng lại bò chủ nghóa cá nhân, chủ nghóa thành tích, chủ nghóa cục bộ, đòa
phương … chi phối thì những kết luận rút ra sẽ thiếu khách quan, thiếu tính khoa
học.
Năng lực tổng kết thực tiễn của người cán bộ chủ chốt cấp huyện ngoài
sự tác động của những điều kiện khách quan, những quy luật chung, quy luật tự
nhiên, còn bò chi phối bởi nhân tố chủ quan của chính bản thân chủ thể tổng kết
thực tiễn.Nhân tố chủ quan đó là vốn tri thức, sự hiểu biết, năng lực trí tuệ, năng
lực tư duy, trình độ lý luận chính trò, trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ …
Trong điều kiện ngày nay, khi mà đất nước đang trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung, cán bộ chủ chốt
cấp huyện nói riêng phải có một trình độ lý luận, trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, trình độ học vấn nhất đònh thì mới có khả năng giải quyết được những vấn
đề về lý luận và thực tiễn đặt ra hiện nay. Như đồng chí cố tổng bí thư Nguyễn
Văn Linh đã chỉ rõ: “Cuộc sống càng phức tạp, nhiệm vụ càng khó khăn, thời
đại càng diễn biến nhanh chóng thì lý luận càng trở thành thiết yếu như cơm ăn
và nước uống hàng ngày, chúng ta từ một nền sản xuất nhỏ lên chủ nghóa xã hội
thì càng phải quán triệt điều này” [32, tr 23].
Như chúng ta đã biết, mỗi người dù có tài giỏi đến đâu, có được năng lực
bẩm sinh đến đâu, nếu không được học hành để trang bò kiến thức thì năng lực
đó sẽ không được phát triển. Học tập là con đường ngắn nhất để con người có

được tri thức, trí tuệ. Tri thức, trí tuệ giúp người cán bộ thích nghi với điều kiện
mới, thích nghi với những thành tựu của khoa học kỹ thuật mới, từ đó mới có
điều kiện nâng cao năng lực của mình về mọi mặt trong đó có năng lực tổng kết
thực tiễn.
18
Đối với người cán bộ chủ chốt cấp huyện thì trình độ lý luận chính trò là
rất cần thiết. Nếu họ không có một trình độ lý luận chính trò nhất đònh hoặc
không được học tập, bồi dưỡng, giáo dục về lý luận chính trò thì họ sẽ gặp rất
nhiều khó khăn trong công tác, đặc biệt là trong tổng kết thực tiễn họ sẽ không
có được tư duy biện chứng, khoa học trong việc lựa chọn, phân tích, xử lý vấn
đề để tổng kết, họ sẽ rơi vào chủ nghóa kinh nghiệm, giáo điều, chủ quan, duy ý
chí. Nếu người cán bộ lãnh đạo, quản lý mà trình độ lý luận yếu kém thì trong
tổng kết thực tiễn chắc chắn họ sẽ dừng lại ở trình độ kinh nghiệm, nghóa là khi
đánh giá, phân tích một vấn đề nào đó họ chỉ nhìn thấy bề ngoài mà không tìm
hiểu một cách cặn kẽ bản chất bên trong của vấn đề, xem mọi vấn đề là như
nhau, không thấy được vấn đề nào là cơ bản, không cơ bản. Trong công việc thì
thiếu tính kế hoạch hoặc có kế hoạch thì không chặt chẽ, thiếu tính khoa học.
Trong xử lý những vấn đề nảy sinh thì không sâu sắc, lúng túng, làm cho qua
loa, cho có làm. Tuy nhiên trình độ kinh nghiệm cũng giúp người cán bộ giải
quyết thành công một số công việc, một số tình huống cá biệt nhưng hiệu quả
chắc chắn sẽ không cao.
Trình độ lý luận của người cán bộ được hình thành thông qua môi trường
giáo dục, qua cuộc sống, qua kinh nghiệm công tác, sự tự học hỏi, tự rèn luyện…
Nếu người cán bộ không được giáo dục về lý luận chính trò thì sẽ gặp rất nhiều
khó khăn trong công tác cũng như trong tổng kết thực tiễn. Người chưa được học
về lý luận chính trò, chưa thấm nhuần lý luận, chưa nắm và hiểu sâu về đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thì trong tổng kết thực tiễn tất
yếu dễ rơi vào kinh nghiệm, giáo điều. Tuy nhiên có nhiều cán bộ lãnh đạo,
quản lý được học tập về lý luận chính trò một cách nghiêm túc, họ được trang bò
thế giới quan duy vật biện chứng, phương pháp nghiên cứu khoa học, nhưng

trong hoạt động tổng kết thực tiễn hoặc trong giải quyết những vấn đề cuộc
sống đặt ra họ vẫn rơi vào tình trạng mò mẫm, kinh nghiệm, giáo điều, chứng tỏ
họ là những con người lười học, lười suy nghó, không biết cách vận dụng những
19
điều mình đã học vào trong thực tiễn cuộc sống, hay nói cách khác không gắn
được lý luận với cuộc sống.
Người cán bộ nói chung, cán bộ chủ chốt cấp huyện nói riêng được trang
bò về lý luận chính trò là rất cần thiết, nhưng nếu được học tập lý luận chính trò
mà người cán bộ đó không có trình độ tư duy lý luận thì trong công tác và hoạt
động thực tiễn sẽ gặp nhiều khó khăn, nhất là trong tổng kết thực tiễn. Đối với
người cán bộ lãnh đạo, quản lý thì tư duy lý luận giống như chiếc chìa khóa để
mở ra cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của họ. Có tư duy lý luận họ sẽ nắm
được thực chất quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, có khả
năng phân tích, luận giải để nắm được tinh thần cốt lõi của đường lối. Có tư duy
lý luận, người cán bộ sẽ có đủ năng lực để phân tích sự phong phú, đa dạng và
phức tạp những vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đặt ra, từ đó vận dụng lý luận
một cách chủ động, sáng tạo, thích hợp và có hiệu quả. Nếu người cán bộ chủ
chốt cấp huyện không có trình độ tư duy lý luận thì trong tổng kết thực tiễn sẽ
không mang tầm khái quát cao, không rút ra được những bài học mang tính lý
luận cho chỉ đạo thực tiễn tiếp theo.
Người cán bộ lãnh đạo, quản lý ngoài trình độ lý luận chính trò, trình độ tư
duy lý luận cần phải có trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngang
tầm với chức vụ được giao. Nếu người cán bộ lãnh đạo, quản lý không có trình
độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngang tầm với chức vụ của mình thì
cũng khó tiếp thu được lý luận chính trò, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước và vì thế cũng không có được trình độ tư duy lý luận ở tầm khái quát cao,
mang tính khoa học. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp cán bộ chủ chốt cấp
huyện có trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, được giáo dục lý
luận chính trò hẳn hoi nhưng trong hoạt động công tác, trong tổng kết thực tiễn
hiệu quả đạt được không cao, thậm chí làm sai với đường lối, chính sách của

Đảng và Nhà nước. Thực trạng đó, một phần là do cơ chế điều động, bố trí, sắp
20
xếp cán bộ của ta còn chưa hợp lý. Điều động, bố trí không đúng người, đúng
việc, có người có chuyên môn này nhưng được bố trí ở bộ phận khác trái với
chuyên môn của mình nên hiệu quả công việc là không cao.
Năng lực tổng kết thực tiễn cũng phụ thuộc vào phẩm chất đạo đức của
chủ thể tiến hành tổng kết thực tiễn. Người cán bộ nếu chỉ có trình độ học vấn,
trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trò… cũng chưa đủ mà đòi hỏi họ cần
phải có đạo đức cách mạng, phải có tâm, có tầm, trung thực, chí công vô tư.
Không được phai nhạt lý tưởng và mất lòng tin vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghóa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Không được tham nhũng, hối lộ, tiêu
xài phung phí, chạy theo cám dỗ của đồng tiền, lối sống vò kỷ, thái độ gia
trưởng trong lãnh đạo và quản lý, không nên có tư tưởng cục bộ, bè phái, đố kỵ,
nói một đường làm một nẻo, bằng mặt không bằng lòng…
Nếu người cán có khả năng tổng kết thực tiễn một cách có lý luận nhưng
bò chủ nghóa cá nhân, chủ nghóa thành tích, lợi ích vật chất … chi phối thì những
kết luận được rút ra khó mà đảm bảo tính khách quan, tính khoa học.
Người cán bộ lãnh đạo, quản lý là người phải luôn gương mẫu, đi đầu
trong mọi công việc, trong quan hệ với cấp dưới phải nguyên tắc, đúng mực,
phải thoải mái, vui vẻ, phải làm cho cấp dưới tôn trọng, kính nể một cách tự
giác và vì vậy cấp dưới sẽ rất nhiệt tình, thoải mái cung cấp thông tin một cách
kòp thời, chính xác, giúp cho người cán bộ lãnh đạo tổng kết thực tiễn một cách
có hiệu quả. Trong quan hệ với dân phải coi mình như người đầy tớ của dân,
phải vui vẻ ân cần, cái gì dân không biết không hiểu phải chỉ đến nơi đến chốn,
không được bắt nạt dân, đứng trên dân, xa rời dân, có như vậy dân sẽ tin tưởng,
sẽ nhiệt tình cung cấp những thông tin mà có thể người cán bộ lãnh đạo đó chưa
được hoặc nắm được mà chưa đầy đủ, chính xác.
Năng lực nói chung, năng lực tổng kết thực tiễn nói riêng phụ thuộc vào
rất nhiều yếu tố, các yếu tố đó có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua
21

lại lẫn nhau, cùng nhau tác động lên chủ thể tổng kết thực tiễn. Tùy theo trình
độ và khả năng nhận thức của từng người mà sự ảnh hưởng của các yếu tố đó
nhiều hay ít, điều đó lý giải rằng cùng một trình độ như nhau, môi trường công
tác như nhau, nhưng có người tổng kết thực tiễn có hiệu quả, có người tổng kết
thực tiễn không có hiệu quả. Tuy những yếu tố trên có mối liên hệ với nhau,
cùng tác động đến chủ thể tổng kết thực tiễn nhưng lại có vai trò không ngang
bằng nhau, có thể nói năng lực của con người phụ thuộc chủ yếu vào trình độ
học vấn, trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trò. Bởi có học vấn, có
chuyên môn, có tư duy lý luận khoa học, có phương pháp biện chứng thì trong
đánh giá, phân tích, xử lý những vấn đề sẽ chính xác và có hiệu quả cao, nếu
như người đó làm việc công tâm, khách quan. Cũng có người cho rằng nhu cầu
và lợi ích là quan trọng nhất, có người cho yếu tố bẩm sinh là quan trọng nhất …
Nên nhớ rằng yếu tố bẩm sinh có ảnh hưởng tới năng lực tổng kết thực tiễn của
con người, nhưng năng lực tổng kết thực tiễn của con người không phải là bẩm
sinh, có sẵn, mà chủ yếu là kết quả của quá trình tự giác rèn luyện, tự học tập,
trau dồi tri thức, có thể qua trường lớp, sách vở hoặc bạn bè đồng nghiệp. Như
vậy, để chủ thể tổng kết thực tiễn tiến hành tổng kết một cách có hiệu quả thì
phải cải tạo một cách đồng bộ các nhân tố ảnh hưởng đến chủ thể tổng kết.
1.2. NĂNG LỰC TỔNG KẾT THỰC TIỄN VỚI CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO, QUẢN
LÝ CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT Ở CẤP HUYỆN
1.2.1. Thực chất của hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt
cấp huyện
Để hiểu được thực chất của hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ
chốt cấp huyện, trước tiên ta cần phải nắm được cấp huyện là gì ? cán bộ chủ
chốt cấp huyện là những ai ?
Cấp huyện (quận, thò xã, thành phố trực thuộc tỉnh) là cấp thứ ba trong hệ
thống hành chính bốn cấp (Trung ương, tỉnh, huyện và cơ sở) của nền hành
22
chính quốc gia thống nhất mà cấp cơ sở là đòa bàn sinh sống của đại bộ phận
dân cư; nơi diễn ra mọi hoạt động kinh tế - xã hội của nhân dân; nơi trực tiếp và

chủ yếu thể hiện sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện sự quản lý của Nhà nước đối
với dân. Cho nên, sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đều phải
hướng về cơ sở. Điều này được thực hiện trực tiếp và chủ yếu thông qua cấp
huyện. Nếu cấp tỉnh được coi là một đòa bàn vó mô trong sự phát triển kinh tế -
xã hội của quốc gia, còn cấp cơ sở là từng đơn vò vi mô nền tảng của vó mô đó
thì cấp huyện là cầu nối không thể thiếu giữa cấp vó mô và cấp vi mô.
Tuy nhiên, không nên quan niệm cấp huyện chỉ là cấp trung gian chuyển
tiếp giữa tỉnh và cơ sở; tức xem cấp huyện chỉ làm nhiệm vụ truyền đạt mệnh
lệnh từ tỉnh xuống cơ sở, đôn đốc việc thực hiện và phản hồi thông tin về những
kết quả cho tỉnh. Thực tế cho thấy, cấp huyện có vai trò độc lập của mình trong
tổ chức, điều hành và quản lý toàn bộ sự vận động của nền kinh tế - xã hội trên
đòa bàn huyện. Cho nên, cấp huyện phải là một cấp kế hoạch, cấp ngân sách,
chiến lược kinh tế - xã hội của quốc gia được thể hiện qua cấp tỉnh; kế hoạch
cấp tỉnh được thể hiện qua cấp huyện; kế hoạch cấp huyện thể hiện qua cấp cơ
sở. Cấp huyện không chỉ là cấp trên trực tiếp của cơ sở để chuyển tải những tư
tưởng chỉ đạo của tỉnh xuống cơ sở mà cấp huyện còn là một cấp có vai trò đặc
biệt quan trọng trong việc tổ chức thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp và nông thôn, cũng là cấp trực tiếp lãnh đạo và tổ chức
việc thực hiện Nghò quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước, các chương
trình kinh tế - xã hội của quốc gia, của tỉnh, của huyện và ở từng cơ sở.
Có nhiều quan điểm khác nhau bàn về vấn đề cán bộ chủ chốt cấp
huyện. Có quan điểm cho: “Người cán bộ lãnh đạo trước hết phải là người tiêu
biểu cho lý tưởng cách mạng, cho lẽ sống; là người có tri thức toàn diện uyên
thâm của thời đại mình” [55, tr. 13]. Một quan điểm khác cho: “cán bộ lãnh đạo
chủ chốt là những người cán bộ lãnh đạo nhưng lãnh đạo toàn diện, có trọng
23
trách nặng nề nhất, có quyền thay mặt tập thể lãnh đạo giải quyết các vấn đề
và chòu trách nhiệm trước tập thể” [55, tr. 139]. Qua hai quan điểm vừa nêu
trên, ta thấy rằng chỉ đề cập đến những vấn đề chung nhất, cơ bản nhất của
người cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt chứ chưa thật sự đầy đủ, chưa chỉ ra

được những tiêu chí cụ thể. Một quan điểm nữa cho rằng: “Cán bộ lãnh đạo chủ
chốt là những người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ quan trọng nhất trong
một tập thể, có quyền ra những quyết đònh về chủ trương, có trách nhiệm và
quyền điều hành một tập thể, một đơn vò, một tổ chức thực hiện những nhiệm
vụ của tập thể hoặc tổ chức ấy, thậm chí có thể chi phối, dẫn dắt toàn bộ hoạt
động của một tổ chức nhất đònh” [60, tr. 35]. Quan niệm này đề cập tương đối
đầy đủ và toàn diện, xác đònh rõ vò trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
người cán bộ lãnh đạo chủ chốt.
Khi nói đến chức danh của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện thì có
nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Có người cho cán
bộ chủ chốt cấp huyện chỉ có hai chức danh chính đó là Bí thư Huyện ủy và Chủ
tòch Ủy ban nhân dân huyện. Có người cho cán bộ chủ chốt cấp huyện gồm các
chức danh như: Bí thư và Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tòch Hội đồng nhân dân
huyện, Chủ tòch và các Phó Chủ tòch Ủy ban nhân dân huyện. Có người cho cán
bộ chủ chốt cấp huyện gồm 9 chức danh: Bí thư Huyện ủy, Chủ tòch Ủy ban
nhân dân, Chủ tòch Hội đồng nhân dân, Chủ tòch Mặt trận Tổ quốc, Chủ tòch Hội
liên hiệp Phụ nữ, Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tòch Liên
đoàn lao động, Chủ tòch Hội nông dân, Chủ tòch Hội Cựu chiến binh ở huyện;
trong 9 chức danh đó thì Bí thư và Chủ tòch Ủy ban nhân dân là quan trọng nhất.
Cũng có người cho cán bộ chủ chốt cấp huyện bao gồm tất cả các chức danh,
các trưởng ban – ngành của Đảng, Chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân cấp huyện. Có người còn cho cán bộ chủ chốt cấp huyện gồm tất
cả Bí thư và các Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tòch và các Phó Chủ tòch Ủy ban
nhân dân huyện, Trưởng và Phó các ban của Huyện ủy cùng Trưởng và Phó các
24
cơ quan của chính quyền cấp huyện, Chủ tòch và các Phó chủ tòch Mặt trận Tổ
quốc huyện cùng Trưởng và Phó các đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trò
cấp huyện. Có quan niệm cho rằng: cán bộ chủ chốt cấp huyện là các cán bộ
đương kiêm chức thường vụ Huyện ủy và một vài chức danh quan trọng khác
nhưng không là Ủy viên Thường vụ Huyện ủy, đó là Bí thư và các Phó Bí thư

Huyện ủy, Chủ tòch và Phó chủ tòch Hội đồng nhân dân – Ủy ban nhân dân
huyện, Trưởng các Ban đảng của huyện, Chủ tòch Mặt trận Tổ quốc, Trưởng
Quân sự và Trưởng công an huyện.
Tuy có nhiều cách xem xét khác nhau về chức danh cán bộ chủ chốt cấp
huyện, nhưng mỗi cách xem xét như vậy đều có thế mạnh riêng của mình.
Qua tìm hiểu vò trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của người cán bộ chủ
chốt cấp huyện ta thấy rằng cán bộ chủ chốt cấp huyện là một bộ phận rất quan
trọng, là những người làm công tác lãnh đạo một cách toàn diện trên tất cả các
lónh vực của đời sống xã hội. Với vò trí như vậy, họ là những người có tầm hoạt
động trên đòa bàn huyện và có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ huyện mà họ phụ
trách. Kinh tế, chính trò, văn hóa – xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh có ổn
đònh và phát triển hay không phần lớn là ở đội ngũ này, vì vậy mà họ đã gắn
trên vai mình một trách nhiệm rất nặng nề, đồng thời là những người trước tiên
phải chòu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và nhân dân về những việc mình
đã làm.
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về cán bộ chủ chốt cấp huyện, tuy
nhiên việc xác đònh cán bộ chủ chốt hay không chủ chốt là phải căn cứ vào chức
trách, nhiệm vụ của từng cán bộ và đặt nó trong mối quan hệ với toàn bộ hệ
thống tổ chức, bởi trong thực tế có cán bộ ở cương vò này, tổ chức này là cán bộ
chủ chốt nhưng trong mối quan hệ khác, tổ chức khác lại không phải là cán bộ
chủ chốt. Với ý nghóa như vậy, có thể khái quát rằng: cán bộ chủ chốt cấp huyện
là những người đứng đầu, có chức vụ quan trọng nhất thuộc ban lãnh đạo của
25

×