Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

luận văn thạc sĩ Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.74 KB, 122 trang )

MỤC LỤC
Mục Nội dung Trang
Chương 1:
1.1
1.2
1.3
Chương 2:
2.1
2.2
2.3
Chương 3:
3.1
3.2
Phần mở đầu
Những vấn đề chung về Kiểm toán Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường
Tổng quan về Kiểm toán Nhà nước
Đặc điểm và vai trò của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam
Kinh nghiệm về hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà
nước ở một số quốc gia trên thế giới
Thực trạng hoạt động của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam
Khái quát về sự hình thành và phát triển của Kiểm toán
Nhà nước ở nước ta
Thực trạng 15 năm hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
Những vấn đề đặt ra đối với hoạt động của Kiểm toán Nhà
nước hiện nay
Quan điểm và giải pháp nâng cao vai trò của Kiểm
toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Những quan điểm về nâng cao vai trò của Kiểm toán Nhà
nước trong nền kinh tế thị trường
Những giải pháp cơ bản nâng cao vai trò của Kiểm toán


Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Kết luận
Danh mục các công trình khoa học đã công bố
Danh mục tài liệu tham khảo
1
6
6
16
36
41
41
46
63
74
74
78
114
1
Ph lc
danh mục các chữ viết tắt
ASOSAI Tổ chức Các cơ quan kiểm toán tối cao châu á
GTZ Tổ chức Hỗ trợ hợp tác kỹ thuật Đức
IFAC Liên đoàn Kế toán quốc tế
KTNN Kiểm toán Nhà nớc
NSNN Ngân sách nhà nớc
Nxb
Nh xuất bản
NCKH Nghiên cứu khoa học
INTOSAI Tổ chức Các cơ quan Kiểm toán tối cao quốc tế
WTO Tổ chức Thơng mại thế giới

2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã xác
định rõ mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta là nhằm thực hiện: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ
văn minh; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng
cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi
người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng
bước khá giả hơn. Tuy nhiên, quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi
mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Nguyên nhân do hệ thống pháp luật, cơ chế,
chính sách chưa đầy đủ, đồng bộ và thống nhất Để khắc phục được những
tồn tại, yếu kém đó và đạt được mục tiêu đã đề ra, ngoài những yếu tố và định
hướng cần thiết khác, vấn đề quan trọng là nâng cao vai trò và hiệu lực quản
lý của Nhà nước, vai trò quản lý của Nhà nước là yếu tố quan trọng đảm bảo
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Để giúp Nhà nước trong việc quản lý và điều hành nền kinh tế có hiệu
quả theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước cần phải có những công cụ
mạnh để kiểm tra, kiểm soát. Một trong những công cụ đó là Kiểm toán Nhà
nước, Kiểm toán Nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính công của Nhà nước,
góp phần làm trong sạch và minh bạch nền tài chính quốc gia.
Trong quá trình đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền, xoá
bỏ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Kiểm toán Nhà nước ra đời là một tất yếu khách
quan do nhu cầu quản lý của Nhà nước đối với việc phát huy hiệu quả các
nguồn lực kinh tế đất nước trong thời kỳ chuyển giao cơ chế, trong đó quản lý
3
tài chính là một nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước, cùng với các công cụ
quản lý khác, Kiểm toán Nhà nước kiểm tra, kiểm soát về lĩnh vực tài chính

công, góp phần tham mưu cho Quốc hội, Chính phủ trong việc hoạch định
chính sách, đường lối kinh tế của đất nước, trong việc sử dụng hiệu quả các
nguồn lực về tài sản và công quỹ quốc gia.
Kiểm toán Nhà nước Việt Nam ra đời theo Nghị định số 70/CP ngày 11
tháng 7 năm 1994 của Chính phủ, là cơ quan trực thuộc Chính phủ, đã từng
bước khẳng định được vai trò, vị trí của mình như một công cụ quản lý hữu
hiệu của Nhà nước. Luật Kiểm toán nhà nước được Quốc hội khoá XI thông
qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01
năm 2006. Theo đó, Điều 13 quy định: “Kiểm toán Nhà nước là cơ quan
chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập,
hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Điều 14 quy định: “Kiểm toán
Nhà nước có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ,
kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền
và tài sản nhà nước” [18,tr.12]. Kiểm toán Nhà nước là cơ quan kiểm tra tài
chính công của nhà nước, hoàn toàn độc lập với Quốc hội và Chính phủ, không
nằm trong 3 hệ thống quyền lực là lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà
nước. Điều đó, cũng đã khẳng định vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong quản
lý vĩ mô nền kinh tế là công cụ kiểm tra tài chính công của Nhà nước nhằm đưa
việc chi tiêu Ngân sách Nhà nước và công quỹ quốc gia tiết kiệm và có hiệu quả,
ngăn ngừa lãng phí và tiêu cực góp phần làm lành mạnh nền tài chính quốc gia.
Kiểm toán Nhà nước Việt Nam ra đời và đi vào hoạt động được 15 năm, so với
nhiều cơ quan Kiểm toán Nhà nước trên thế giới thì vẫn còn rất non trẻ, những
thành tựu và kết quả mà Kiểm toán Nhà nước Việt Nam đạt được trong lĩnh vực
kiểm tra tài chính công những năm vừa qua là rất đáng ghi nhận. Với chức năng,
nhiệm vụ của mình, Kiểm toán Nhà nước góp phần thiết lập trật tự kỷ cương
4
trong hoạt động thu- chi Ngân sách Nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động của
bộ máy hành chính và tiết kiệm chi Ngân sách Nhà nước.
Như vậy, thông qua hoạt động của mình Kiểm toán Nhà nước góp phần
phát hiện những bất cập và đề xuất các giải pháp hoàn thiện thể chế kinh tế thị

truờng; phát hiện các gian lận tham nhũng, các hành vi vi phạm pháp luật
trong hoạt động kinh tế và kiến nghị xử lý theo quy định của pháp luật; góp
phần khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị truờng và nâng cao hiệu quả
quản lý tài chính công.
Hiện nay, ở Việt Nam chưa có một công trình khoa học nào thực hiện nghiên
cứu riêng biệt về vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường. Để góp phần nâng cao và tăng cường vai trò của Kiểm toán Nhà
nước, đồng thời xây dựng Kiểm toán Nhà nước trở thành công cụ kiểm tra
tài chính công quan trọng của nhà nước, việc nghiên cứu một cách đầy đủ
đề tài "Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam" là
hết sức cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
- Trong nước, hiện nay cũng có một số tác giả nghiên cứu về vai trò của
Kiểm toán Nhà nước trong cải cách hành chính như: CN.Hà Ngọc Son,
PGS.TS Nguyễn Đình Hựu và TS.Mai Vinh viết về “Vai trò của Kiểm toán
Nhà nước trong công cuộc cải cách hành chính nhà nước”
- Ngoài nước, do đặc điểm kinh tế xã hội và thể chế chính trị của mỗi
quốc gia trên thế giới khác nhau nên vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong
nền kinh tế thị trường của các quốc gia cũng không giống nhau; mỗi cơ quan
Kiểm toán Nhà nước trên thế giới đều có đặc thù về địa vị pháp lý, chức năng
và nhiệm vụ. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu của nước ngoài là kinh
nghiệm và bài học quý báu đối với Kiểm toán Nhà nước Việt Nam.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
5
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất phương hướng và các giải pháp nâng cao vai trò của Kiểm toán
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu trên, Luận văn tập trung giải quyết một số
vấn đề sau:

- Làm rõ những vấn đề chung về Kiểm toán Nhà nước, trên cơ sở đó,
xác định vị trí, vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng về hoạt động của Kiểm toán Nhà nước trong công
tác kiểm tra, kiểm soát việc quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà
nước của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế.
- Tìm ra nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao vai
trò của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý, chức năng,
nhiệm vụ, vị trí của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường và thực
trạng hoạt động của Kiểm toán Nhà nước từ năm 1994 đến nay. Trong đó có
tham khảo một số kinh nghiệm của Kiểm toán Nhà nước của một số nước trên
thế giới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử để phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn.
- Sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, lôgíc kết hợp với lịch
6
sử, tổng kết, đánh giá quá trình hình thành, phát triển và hoạt động của Kiểm
toán Nhà nước ở Việt Nam.
- Kế thừa một cách có chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu
trước đây có liên quan và cập nhật những thông tin mới về chủ đề nghiên cứu.
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn
- Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống, kết quả nghiên cứu của
Luận văn sẽ đóng góp quan trọng trong việc xác định đúng vị trí và vai trò
của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

- Góp phần thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
X của Đảng Cộng sản Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu của đề tài, ngoài phần mở đầu,
kết luận danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm có 3 chương, 8 tiết:
- Chương 1: Những vấn đề chung về Kiểm toán Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường.
- Chương 2: Thực trạng hoạt động của Kiểm toán nhà nước ở Việt Nam.
- Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao vai trò của Kiểm toán
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. TỔNG QUAN VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1.1. KiÓm to¸n
Kiểm toán có gốc từ Latinh là: "Audit" gắn liền với nền văn minh Ai
Cập và La Mã cổ đại, xuất hiện vào thế kỷ thứ III trước công nguyên.
Auditing có nghĩa là "nghe", do các nhà cầm quyền La Mã tổ chức để kiểm
tra độc lập về tình hình tài chính. Hình ảnh của kiểm toán cổ điển là việc kiểm
tra về tài sản, phần lớn được thể hiện bằng cách người ghi chép đọc to lên cho
một bên độc lập "nghe" rồi chấp nhận. Cho đến những năm 30 của thế kỷ XX,
kiểm toán với nghĩa là kiểm tra độc lập và bày tỏ ý kiến mới được phát triển ở
các nước Bắc Mỹ và Tây Âu.
Ngày nay, hoạt động kiểm toán đã vượt khỏi phạm vi của từng địa
phương, từng quốc gia và phát triển theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá
từ đó hình thành các tổ chức nghề nghiệp kiểm toán quốc tế, các tập đoàn
kiểm toán mang tầm quốc tế hoạt động xuyên quốc gia. Một số tập đoàn kiểm

toán xuyên quốc gia đứng đầu thế giới như: Coopers Lybrand, Ersnt and
Young, Price Water House và Deloitte Touch Tomatsu
Mặc dù khái niệm kiểm toán đã xuất hiện khá lâu đời nhưng cho đến
nay vẫn còn có những cách hiểu khác nhau, đôi khi chưa có sự đồng nhất:
Vương quốc Anh đã đưa ra khái niệm: " Kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và
là sự bày tỏ ý kiến về những bản khai tài chính của một xí nghiệp do một kiểm
toán viên được bổ nhiệm để thực hiện những công việc đó theo đúng với bất
kỳ nghĩa vụ pháp định có liên quan"[23, tr.30]; Với khái niệm này, các nhà
khoa học ở Anh quan niệm kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và bày tỏ ý kiến
8
về bản khai tài chính của kiểm toán viên theo nghĩa vụ pháp định. Hoa Kỳ lại
quan niệm: "Kiểm toán là một quá trình mà qua đó một người độc lập, có
nghiệp vụ tập hợp và đánh giá rõ ràng về một thông tin có thể lượng hoá có
liên quan đến một thực thể kinh tế riêng biệt nhằm mục đích xác định và báo
cáo mức độ phù hợp giữa thông tin có thể lượng hoá với những tiêu chuẩn đã
được thiết lập" [23, tr.30-31]; các nhà khoa học về kiểm toán Hoa Kỳ cũng
khẳng định sự kiểm tra độc lập của kiểm toán viên, tuy nhiên nhấn mạnh hơn
đến khía cạnh chuyên môn tức là các kiểm toán viên không chỉ độc lập mà
phải “có nghiệp vụ”; khái niệm của Hoa Kỳ cũng nhấn mạnh đến sự phù hợp
giữa thông tin với các tiêu chuẩn đã được thiết lập. Còn các nhà kinh tế nước
Cộng hoà Pháp lại quan niệm rằng: "Kiểm toán là việc nghiên cứu và kiểm tra
các tài khoản niên độ của một tổ chức do một người độc lập, đủ danh nghĩa
gọi là một kiểm toán viên tiến hành để khẳng định rằng những tài khoản đó
phản ánh đúng tình hình tài chính thực tế không che dấu sự gian lận và
chúng được trình bày theo mẫu chính thức của luật định" [23, tr.31].
Theo định nghĩa của Liên đoàn quốc tế các nhà kế toán (International
Federation of Accountants –IFAC) thì “ Kiểm toán là việc các kiểm toán viên
độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về các bản báo cáo tài chính”.
Trong giáo trình kiểm toán của các tác giả Alvin A.Rens và James
K.Loebbecker đã định nghĩa: Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập

và có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể
định lượng được của một đơn vị cụ thể nhằm mục đích xác nhận và báo cáo
về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết
lập; Định nghĩa khác nêu: Kiểm toán là thủ pháp xem xét và kiểm tra một
cách khách quan về từng khoản mục bao gồm việc thẩm tra những thông tin
đặc trưng được xác định bởi kiểm toán viên hoặc thiết lập bởi thực hành
chung. Nói tổng quát, mục đích của kiểm toán là trình bày ý kiến hoặc đi đến
9
kết luận về cái được kiểm toán. (Auditing - Theory & Practice của John
Dunn, University of Strathclyde, Glasgow nhà xuất bản Prentice Hall).
Như vậy, các khái niệm trên phản ánh tương đối đầy đủ về các đặc
trưng cơ bản của kiểm toán truyền thống đã phát triển lâu đời. Các khái niệm
khẳng định rằng: Kiểm toán là sự kiểm tra và bày tỏ ý kiến về bản khai tài
chính hoặc các tài khoản của một tổ chức, cơ quan, xí nghiệp; việc kiểm toán
được thực hiện bởi kiểm toán viên có chuyên môn nghiệp vụ, độc lập; đánh
giá mức độ trung thực, phù hợp của các thông tin so với các tiêu chuẩn đã
được thiết lập; các thông tin kiểm toán được trình bày theo một cách thức nhất
định. Các khái niệm đó mới chỉ tập trung ở việc kiểm toán các bản khai tài
chính, mang tính truyền thống khi kiểm toán được xuất hiện. Ngày nay, khái
niệm kiểm toán hết sức rộng mở, phát triển vượt ra ngoài khuôn khổ quan
niệm truyền thống. Bằng chứng là kiểm toán ngày nay không chỉ dừng lại ở
việc kiểm tra các bản kê khai tài chính, các tài khoản mà đã phát triển trên
phạm vi rộng lớn. Thông qua hoạt động kiểm toán có thể kiểm tra, kiểm soát
việc tuân thủ các quy định của pháp luật; nội quy, quy chế của mọi chủ thể
kinh tế cũng như kiểm tra, giám sát vĩ mô tình hình phát triển của nền kinh tế;
hiệu lực và hiệu quả quản lý các nguồn lực
Ở Việt Nam, khái niệm kiểm toán mới xuất hiện vào cuối thập kỷ 80
của thế kỷ XX, với sự ra đời của các công ty kiểm toán và tư vấn tài chính
trực thuộc Bộ Tài chính. Ngày 11/7/1994 cơ quan Kiểm toán Nhà nước được
thành lập đã ghi nhận một dấu mốc quan trọng đối với sự phát triển của hệ

thống kiểm toán ở Việt Nam. Thuật ngữ kiểm toán đã được nhiều nhà kinh tế
học bàn tới, trong đó, nổi bật là các khái niệm kiểm toán sau: theo giáo trình
Lý thuyết kiểm toán của Trường Đại học Kinh tế quốc dân quan niệm: " Kiểm
toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động được kiểm toán
bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và ngoài chứng
từ do các kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ
10
sở hệ thống pháp lý có hiệu lực" [23, tr.30]; quan niệm cho rằng kiểm toán
không chỉ là bản khai tài chính mà là “ xác minh và bày tỏ ý kiến về thực
trạng hoạt động”; đồng thời, khái niệm cũng đề cập đến việc sử dụng phương
pháp kiểm toán khi kiểm toán viên thực thi nhiệm vụ. Học viện Tài chính Hà
Nội lại nêu khái niệm: ''Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có
thẩm quyền, có kỹ năng nghiệp vụ, thu thập và đánh giá các bằng chứng về
các thông tin có thể định lượng của một đơn vị nhằm mục đích xác nhận và
báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã
được xây dựng'' [29, tr.5]. Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh cho rằng:
“Kiểm toán là một quá trình do Kiểm toán viên đủ năng lực và độc lập tiến
hành nhằm thu thập bằng chứng về những thông tin có thể định lượng của
một tổ chức và đánh giá chúng nhằm thẩm định và báo cáo về mức độ phù
hợp giữa những thông tin đó với các chuẩn mực đã được thiết lập” [30, tr.7].
Qua việc phân tích các khái niệm kiểm toán, có thể thống nhất với
quan niệm kiểm toán của Học viện Tài chính Hà Nội, đây là khái niệm
diễn đạt đầy đủ nội dung của hoạt động kiểm toán: Kiểm toán là một quá
trình chứ không phải là một hoạt động đơn lẻ; quá trình đó phản ánh hoạt
động của các chuyên gia độc lập, có thẩm quyền, có kỹ năng nghiệp vụ;
thông qua hoạt động kiểm toán, các chuyên gia có thể thu thập, định
lượng, đánh giá các thông tin về chủ thể kinh tế (so với chuẩn mực đã xác
định) và có thể kiểm tra, kiểm soát được các hoạt động kinh tế cả ở tầm vi
mô và vĩ mô. Quan niệm về kiểm toán như trên rất rộng mở về nội dung đã
thoát ly được quan niệm truyền thống về kiểm toán, đó là chỉ kiểm tra các

bản kê khai tài chính, các tài khoản mà đã phát triển việc kiểm toán tuân
thủ các quy định của pháp luật; nội quy, quy chế của chủ thể kinh tế cũng
như kiểm toán hoạt động nhằm đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả
trong việc quản lý các nguồn lực của một tổ chức, đơn vị, xí nghiệp.
Như vậy, Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm
11
quyền, có kỹ năng nghiệp vụ, thu thập và đánh giá các bằng chứng về các
thông tin có thể định lượng của một đơn vị nhằm mục đích xác nhận và
báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã
được xây dựng.
1.1.1.2. KiÓm to¸n Nhµ níc
Để hiểu được khái niệm Kiểm toán Nhà nước, trước hết cần phân biệt
hoạt động kiểm toán nhà nước và cơ quan Kiểm toán Nhà nước.
Hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước là việc kiểm tra, đánh
giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính; việc tuân thủ
pháp luật; tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân sách,
tiền và tài sản nhà nước. Hoạt động kiểm toán nhà nước được thực hiện bởi
Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính
nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Kiểm toán Nhà nước là công cụ kiểm tra tài chính công quan trọng của
Nhà nước. Hoạt động của Kiểm toán Nhà nước góp phần phân bổ, quản lý, sử
dụng các nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản công một cách hợp lý, tiết
kiệm và hiệu quả. Kiểm toán Nhà nước góp phần ngăn ngừa các hành vi tiêu
cực, tham nhũng, lãng phí công quỹ quốc gia, xây dựng nền kinh tế thị trường
và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Lịch sử Kiểm toán Nhà nước của
các nước trên thế giới đã hình thành và phát triển hàng trăm năm nay. Các
quốc gia trên thế giới đều sử dụng Kiểm toán Nhà nước như một công cụ hữu
hiệu nhằm kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế tài chính của Nhà nước,
là bộ phận không thể thiếu được trong cơ cấu nhà nước pháp quyền.
Mục đích hoạt động của Kiểm toán Nhà nước là cung cấp các thông tin

tin cậy về quản lý tài chính của quốc gia phục vụ các cơ quan quản lý nhà
nước, Chính phủ và Quốc hội. Ngoài ra, Kiểm toán Nhà nước còn cung cấp
thông tin cho xã hội, công chúng trong việc tham gia giám sát các hoạt động
tài chính, ngân sách của quốc gia. Hoạt động của Kiểm toán Nhà nước không
12
vì mục đích lợi nhuận mà chủ yếu và trước hết là bảo vệ quyền lợi của nhà
nước và xã hội trong việc quản lý, sử dụng nguồn lực. Ngăn ngừa các hành vi
xâm hại đến lợi ích của quốc gia, lợi ích của cộng đồng, xã hội. Do đó, có thể
quan niệm Kiểm toán Nhà nước là một loại hình dịch vụ công. Kiểm toán
Nhà nước hoạt động theo nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Như vậy, Kiểm toán Nhà nước là một tổ chức kiểm toán thuộc cơ cấu
của bộ máy nhà nước của một quốc gia. Kiểm toán Nhà nước có thể là một tổ
chức nằm trong Chính phủ hay cơ quan trực thuộc Quốc hội hoặc là cơ quan
độc lập với cả Chính phủ và Quốc hội như hiện nay.
1.1.2. Sự hình thành Kiểm toán Nhà nước
Sự xuất hiện của kiểm toán nói chung và Kiểm toán Nhà nước nói riêng
ở các nước khác nhau vào những thời điểm khác nhau và không giống
nhau. ë Trung Quốc, kiểm toán xuất hiện cách đây 3000 năm và đến năm
92 trước Công nguyên vào thời nhà Tống đã có Toà Kiểm toán của triều
đình. Ở Pháp, vua Arlemagne (768 - 814) đã tuyển dụng quan chức các cấp
phụ trách giám sát công việc quản lý, đặc biệt là đối với các nghiệp vụ tài
chính của các quan chức địa phương và trình bày lại kết quả với Hoàng đế
hoặc các vị quan cận thần. Hoạt động kiểm toán mới chỉ phát triển mạnh
mẽ và mang tính phổ biến trong khoảng vài trăm năm gần đây. Ở Đức, vào
năm 1714, Vua Phổ đã ra sắc lệnh thành lập Phòng Thẩm kế Tối cao. Kiểm
toán hiện diện như một công cụ không thể thiếu được đối với bất cứ mô
hình kinh tế nào, một hình thái xã hội nào và không hề bị chi phối bởi kiến
trúc thượng tầng. Sự tồn tại và phát triển của kiểm toán đã khẳng định tính
hiệu lực, hiệu quả, kinh tế và tiết kiệm cũng như ý nghĩa thiết thực của
kiểm toán đối với mọi quốc gia. Song những kết quả mà kiểm toán đạt

được trong tất cả các lĩnh vực thực sự có ý nghĩa quan trọng đối với quá
trình lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia kể từ sau các cuộc cách mạng
13
về kinh tế và hiện đại hoá vào những năm sau của thế kỷ XX.
Hiện nay, các khu vực trên thế giới đều hình thành tổ chức cơ quan
Kiểm toán tối cao và gia nhập INTOSAI. Tuỳ theo từng quốc gia, cơ quan
Kiểm toán Nhà nước có nhiều tên gọi khác nhau như: Toà Thẩm kế Cộng hoà
Pháp, cơ quan Tổng kế toán Hoa Kỳ, Uỷ ban Kiểm toán và Kiểm soát Ấn
Độ , Kiểm toán Nhà nước Việt Nam là thành viên chính thức của INTOSAI.
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ và hệ thống tổ chức của Kiểm toán Nhà
nước
1.1.3.1. Chức năng của Kiểm toán Nhà nước
Theo thuật ngữ quốc tế, cơ quan kiểm toán của các nước thường gọi là
cơ quan kiểm toán tối cao, thực hiện các chức năng: kiểm tra tính xác thực và
hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực tài chính công; phát hiện kịp thời
những sai lệch so với các chuẩn mực đã được thừa nhận, vi phạm các nguyên
tắc về tính hợp pháp, hợp lý, kinh tế và tiết kiệm trong công tác quản lý các
nguồn lực (ngân sách và kinh tế); đưa ra các kiến nghị, giải pháp cụ thể buộc
các đơn vị được kiểm toán sửa chữa khắc phục, bồi thường hoặc có những
hành vi tái phạm tương tự trong tương lai.
Điều 14 Luật Kiểm toán nhà nước quy định Kiểm toán Nhà nước có chức
năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động
đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
1.1.3.2. Nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước
Nhiệm vụ cơ bản của các cơ quan kiểm toán tối cao là thực hiện việc
kiểm tra tài chính công của nhà nước để giúp các cơ quan chức năng của Nhà
nước trong quản lý và điều hành ngân sách nhà nước, nhằm phát triển kinh tế
của đất nước. Để thực hiện được nhiệm vụ cơ bản đó, Kiểm toán Nhà nước
Việt Nam hiện nay phải thực hiện: việc xây dựng và quyết định kế hoạch
kiểm toán hàng năm, báo cáo với Quốc hội, Chính phủ trước khi thực hiện; tổ

chức thực hiện kế hoạch kiểm toán hàng năm và thực hiện nhiệm vụ kiểm
14
toán theo yêu cầu của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ; xem xét, quyết định việc kiểm toán khi Thường trực
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
có yêu cầu; trình kết quả kiểm toán để Quốc hội xem xét, quyết định dự toán
ngân sách nhà nước, quyết định phân bổ ngân sách trung ương, quyết định dự
án, công trình quan trọng quốc gia, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước;
tham gia với Uỷ ban Kinh tế, Uỷ ban Tài chính- Ngân sách và các cơ quan
khác của Quốc hội, Chính phủ trong việc xem xét, thẩm tra báo cáo về dự
toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương, phương
án điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước, phương án bố trí ngân sách cho dự
án, công trình quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định và quyết toán ngân
sách nhà nước; tham gia hoạt động giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết
của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về lĩnh
vực tài chính - ngân sách, giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước và
chính sách tài chính khi có yêu cầu; tham gia trong việc xây dựng và thẩm tra
các dự án luật, pháp lệnh khi Chính phủ và Quốc hội yêu cầu; báo cáo và gửi
kết quả kiểm toán, kết quả thực hiện kiến nghị kiểm toán với Quốc hội, Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội; gửi báo cáo kiểm toán cho Hội đồng dân tộc, các
Uỷ ban của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; cung
cấp kết quả kiểm toán cho Bộ Tài chính, Hội đồng nhân dân nơi kiểm toán và
các cơ quan khác theo quy định của pháp luật; tổ chức công bố công khai báo
cáo kiểm toán năm, báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán
và báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán; chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra
và các cơ quan khác của Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, xử lý những vụ
việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân đã được phát hiện
thông qua hoạt động kiểm toán; quản lý hồ sơ kiểm toán, giữ bí mật tài liệu,
số liệu kế toán và thông tin về hoạt động của đơn vị được kiểm toán theo quy
định của pháp luật. Đồng thời, thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kiểm

15
toán nhà nước; tổ chức và quản lý công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi
dưỡng, phát triển nguồn nhân lực của Kiểm toán Nhà nước; tổ chức các kỳ thi
và cấp chứng chỉ Kiểm toán viên nhà nước và chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên
môn, nghiệp vụ kiểm toán nội bộ; sử dụng kết quả kiểm toán nội bộ của cơ
quan, tổ chức được quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
Như vậy, thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ quan trọng mà pháp
luật trao cho Kiểm toán Nhà nước Việt Nam đã thấy rõ một phần cơ bản về
vai trò to lớn của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế nói chung và kinh tế
thị trường ở Việt Nam nói riêng.
1.1.3.3. Quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước
Để thực hiện được các nhiệm vụ quan trọng của mình, cơ quan Kiểm
toán tối cao nói chung có quyền được tiếp cận với tất cả các thông tin, tài liệu,
số liệu, văn bản có liên quan đến công tác tài chính và có quyền: yêu cầu đơn
vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp đầy đủ, chính
xác, kịp thời thông tin, tài liệu phục vụ cho việc kiểm toán; đề nghị các cơ
quan hữu quan phối hợp công tác, giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện
nhiệm vụ được giao; yêu cầu đơn vị được kiểm toán thực hiện và kiểm tra việc
thực hiện các kết luận, kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước đối với các sai phạm
trong báo cáo tài chính và các sai phạm trong việc tuân thủ pháp luật; kiến nghị
thực hiện các biện pháp khắc phục yếu kém trong hoạt động của đơn vị do
Kiểm toán Nhà nước phát hiện và kiến nghị.
Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền: yêu cầu các đơn vị được
kiểm toán thực hiện các kết luận, kiến nghị kiểm toán và đề nghị xử lý theo
pháp luật những trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, kịp
thời các kết luận, kiến nghị kiểm toán; xử lý những vi phạm pháp luật của tổ
chức, cá nhân đã được làm rõ thông qua hoạt động kiểm toán; xử lý theo quy
định của pháp luật đối với tổ chức, cá nhân có hành vi cản trở hoạt động kiểm
toán hoặc cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật cho Kiểm toán Nhà nước.
16

Đề nghị trưng cầu giám định chuyên môn khi cần thiết, trong trường
hợp năng lực của kiểm toán viên nhà nước không đáp ứng được hoặc thuộc
lĩnh vực chuyên môn sâu của các cơ quan có thẩm quyền khác.
Trong trường hợp cần thiết, được uỷ thác hoặc thuê doanh nghiệp kiểm
toán thực hiện kiểm toán cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền,
tài sản nhà nước và chịu trách nhiệm về tính chính xác của số liệu, tài liệu và
kết luận kiểm toán đó.
Ngoài ra, Kiểm toán Nhà nước còn có quyền kiến nghị với Quốc hội,
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ
quan khác của Nhà nước sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách và pháp luật
cho phù hợp với tình hình thực tế, phục vụ cho sự phát triển của đất nước và
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1.1.3.4. Hệ thống tổ chức của Kiểm toán Nhà nước
Hệ thống tổ chức của các cơ quan Kiểm toán tối cao trên thế giới được
tổ chức theo các mô hình rất đặc thù, phù hợp với hệ thống chính trị của mỗi
quốc gia và được quy định trong Hiến pháp. Hệ thống tổ chức của Kiểm toán
Nhà nước Việt Nam được quy định trong Luật Kiểm toán nhà nước, cụ thể là:
Kiểm toán Nhà nước được tổ chức và quản lý tập trung thống nhất, bao gồm
bộ máy điều hành, Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành, Kiểm toán Nhà nước
khu vực và các đơn vị sự nghiệp. Cơ cấu tổ chức của Kiểm toán Nhà nước do
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định; Tổng Kiểm toán Nhà nước quy định
cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các đơn vị trực
thuộc Kiểm toán Nhà nước; số lượng Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành, khu
vực trong từng thời kỳ được xác định trên cơ sở yêu cầu nhiệm vụ kiểm toán
do Tổng Kiểm toán Nhà nước trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định.
- Bộ máy điều hành gồm lãnh đạo Kiểm toán Nhà nước, Văn phòng
Kiểm toán Nhà nước, Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Tổng hợp, Vụ Chế độ và kiểm
soát chất lượng kiểm toán, Vụ Pháp chế và Vụ Quan hệ quốc tế.
17
- Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành, gồm 7 đơn vị từ Kiểm toán Nhà

nước chuyên ngành I đến Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành VII.
- Kiểm toán Nhà nước khu vực, gồm 9 đơn vị từ Kiểm toán Nhà nước
khu vực I đến Kiểm toán Nhà nước khu vực IX, các đơn vị này đóng tại các
tỉnh và thành phố đại diện cho các khu vực. (Phụ lục số 01).
- Các đơn vị sự nghiệp, gồm: Trung tâm Khoa học và bồi dưỡng cán
bộ, Trung tâm Tin học và Tạp chí Kiểm toán.
Như vậy, hệ thống tổ chức của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam là mô
hình độc lập, rất đặc thù, không cơ cấu theo các cấp hành chính mà tổ chức
tập trung, ở trung ương có các đơn vị tham mưu và chuyên ngành, các Kiểm
toán Nhà nước khu vực bố trí theo vùng miền, mỗi đơn vị thực hiện kiểm toán
từ 5- 6 tỉnh. Việc bố trí như vậy sẽ đảm bảo được tính độc lập của Kiểm toán
Nhà nước Việt Nam.
1.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
1.2.1. Đặc điểm của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam
1.2.1.1. Địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước
Địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước được quy định tại Điều 13 của
Luật Kiểm toán nhà nước như sau:"Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên
môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt
động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" [18, tr.12]. Việc xác định rõ địa vị
pháp lý của Kiểm toán Nhà nước như trên là cơ sở để quy định cụ thể chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và mối quan hệ của Kiểm toán
Nhà nước với Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước.
Tính độc lập trong hoạt động của Kiểm toán Nhà nước tương tự như
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Toà án nhân dân tối cao ở nước ta,
nhưng Kiểm toán Nhà nước không thuộc hệ thống các cơ quan lập pháp,
hành pháp hay tư pháp mà là cơ quan chuyên môn trong lĩnh vực kiểm tra
18
tài chính nhà nước. Đây là đặc thù cơ bản ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động
của Kiểm toán Nhà nước. Quy định về địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà
nước như vậy hoàn toàn phù hợp với Điều 5 của Tuyên bố Lima: “Cơ quan

Kiểm toán Nhà nước chỉ có thể thực hiện được nhiệm vụ của mình một
cách khách quan và thật hiệu quả khi nó có vị trí độc lập với cơ quan bị
kiểm tra và được bảo vệ trước những ảnh hưởng từ bên ngoài” [20, tr.10].
Việc tách kiểm tra tài chính ra khỏi phạm vi ngành lập pháp, hành pháp về
mặt thiết chế sẽ đảm bảo cho người kiểm tra và người bị kiểm tra không
đồng nhất với nhau và giữ được một khoảng cách tối thiểu nhất định giữa
họ với nhau. Đồng thời, sẽ đảm bảo được tính độc lập về nghiệp vụ và thiết
chế của Kiểm toán Nhà nước.
1.2.1.2. Tính chất hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
Tính chất hoạt động của Kiểm toán Nhà nước rất đặc thù, là cơ quan
kiểm tra tài chính công của Nhà nước từ bên ngoài (ngoại kiểm), vì vậy luôn
đảm bảo tính khách quan, trung thực và hiệu quả. Hoạt động kiểm toán của
Kiểm toán Nhà nước được xây dựng theo trình tự thủ tục mang tính tố tụng,
bảo đảm chặt chẽ và hiệu quả. Để đảm bảo cho hoạt động kiểm toán hoàn
toàn độc lập, Luật Kiểm toán nhà nước quy định Tổng Kiểm toán Nhà nước
tự quyết định kế hoạch kiểm toán hàng năm, báo cáo với Quốc hội, Chính phủ
trước khi thực hiện và loại hình kiểm toán của từng cuộc kiểm toán. Để triển
khai thực hiện kiểm toán theo nội dung kiểm toán, Tổng Kiểm toán Nhà nước
quyết định thành lập các Đoàn kiểm toán, Đoàn kiểm toán có trưởng, phó
đoàn, tổ trưởng và các thành viên đoàn kiểm toán. Đoàn kiểm toán triển khai
kiểm toán theo quy trình kiểm toán, bảo đảm đúng chuẩn mực kiểm toán của
Kiểm toán Nhà nước. Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán đối với tất cả
các cơ quan, đơn vị có quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
Kết quả kiểm toán của từng cuộc kiểm toán sau khi phát hành chính thức và
kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán được công bố công khai theo
19
quy định của Luật Kiểm toán nhà nước và Nghị định số 91/2008/NĐ-CP ngày
18/8/2008 của Chính phủ về công khai kết quả kiểm toán và kết quả thực hiện
kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước.
Ngoài ra, Kiểm toán Nhà nước còn thực hiện kiểm toán đối với một số

hoạt động thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh theo quy định của Luật Kiểm
toán nhà nước và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
1.2.1.3. Các loại hình kiểm toán
Theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước, Kiểm toán Nhà nước
thực hiện các loại hình kiểm toán: kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân
thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách,
tiền và tài sản nhà nước.
- Kiểm toán báo cáo tài chính là loại hình kiểm toán để kiểm tra, đánh
giá, xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính. Đây là loại hình
kiểm toán cơ bản hiện nay mà các cơ quan kiểm toán tối cao nào trên thế giới
cũng thực hiện.
- Kiểm toán tuân thủ là loại hình kiểm toán để kiểm tra, đánh giá và xác
nhận việc tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế mà đơn vị được kiểm toán phải
thực hiện. Loại hình kiểm toán này hiện nay đang được Kiểm toán Nhà nước
thực hiện đồng thời với kiểm toán báo cáo tài chính.
- Kiểm toán hoạt động là loại hình kiểm toán để kiểm tra, đánh giá tính
kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài
sản nhà nước. Hiện nay, Kiểm toán Nhà nước đã và đang tăng cường thực
hiện loại hình kiểm toán này.
1.2.1.4. Phạm vi và đối tượng kiểm toán
a) Về phạm vi kiểm toán
Kiểm toán Nhà nước kiểm toán đối với tất cả các cơ quan, tổ chức có
quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước, cụ thể bao gồm các đơn
20
vị sau: bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan khác ở
trung ương; cơ quan được giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách nhà nước các cấp;
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp, cơ quan khác ở địa phương;
đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân; đơn vị quản lý quỹ dự trữ của Nhà
nước, quỹ dự trữ của các ngành, các cấp, quỹ tài chính khác của Nhà nước; tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp,

tổ chức xã hội - nghề nghiệp có sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước; đơn vị sự
nghiệp được ngân sách nhà nước bảo đảm một phần hoặc toàn bộ kinh phí; tổ
chức quản lý tài sản quốc gia; Ban Quản lý dự án đầu tư có nguồn kinh phí
ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; các hội, liên
hiệp hội, tổng hội và các tổ chức khác được ngân sách nhà nước hỗ trợ một
phần kinh phí hoạt động; doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra, còn kiểm toán
đơn vị nhận trợ giá, trợ cấp của Nhà nước, đơn vị có công nợ được Nhà nước
bảo lãnh mà không phải là doanh nghiệp nhà nước có thể thuê doanh nghiệp
kiểm toán thực hiện kiểm toán; doanh nghiệp kiểm toán phải thực hiện việc
kiểm toán theo chuẩn mực, quy trình kiểm toán nhà nước và gửi báo cáo kiểm
toán cho Kiểm toán Nhà nước.
b) Đối tượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước
Đối tượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước là hoạt động có liên
quan đến quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
1.2.1.4. Sự khác nhau giữa Kiểm toán Nhà nước Việt Nam với Kiểm
toán Nhà nước các nước trên thế giới và kiểm toán độc lập
a) Sự khác nhau giữa Kiểm toán Nhà nước Việt Nam và Kiểm toán Nhà
nước các nước trên thế giới
- Về địa vị pháp lý: địa vị pháp lý của mỗi cơ quan kiểm toán tối cao
trên thế giới do mỗi quốc gia quy định phù hợp với hệ thống chính trị và đặc
thù hoạt động của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay cơ quan
Kiểm toán Nhà nước thường được tổ chức theo các mô hình sau:
21
+ Kiểm toán Nhà nước là cơ quan hoàn toàn độc lập, không nằm trong
ba hệ thống quyền lực của Nhà nước là lập pháp, hành pháp, tư pháp như mô
hình Kiểm toán Nhà nước Cộng hoà Liên bang Đức, Việt Nam
+ Kiểm toán Nhà nước là cơ quan trực thuộc Quốc hội, nghĩa là trực
thuộc cơ quan lập pháp như: Anh, Hoa Kỳ, Nga, Úc
+ Kiểm toán Nhà nước là cơ quan trực thuộc Chính phủ, nghĩa là trực
thuộc cơ quan hành pháp như: Trung Quốc, Lào, Nhật, Thái Lan

+ Kiểm toán Nhà nước theo mô hình Pháp: Cơ quan kiểm toán tối cao
của Pháp gọi là Toà thẩm kế, vừa có chức năng kiểm toán, vừa có chức năng
xét xử. Toà thẩm kế không phải là tổ chức thuộc hay trực thuộc Quốc hội,
Chính phủ mà hoàn toàn độc lập nằm trong hệ thống tư pháp với tư cách là cơ
quan xét xử. Ngoài ra, còn có mô hình Kiểm toán Nhà nước trực thuộc Tổng
thống như Hàn Quốc, Ấn Độ , trực thuộc nhà Vua như Nê Pan, Brunêy.
- Về phạm vi hoạt động:
+ Kiểm toán Nhà nước Việt Nam chỉ thực hiện kiểm toán đối với các
cơ quan, tổ chức có quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước, công
đoàn phí; đối với các công ty cổ phần, chỉ kiểm toán đối với các công ty mà
nhà nước chiếm cổ phần chi phối từ 51% trở lên; không kiểm toán đảng phí.
+ Kiểm toán Nhà nước của một số nước khác trong khu vực như Thái
Lan, Inđônêxia , ngoài việc thực hiện kiểm toán đối với các cơ quan nhà
nước như Việt Nam, còn có quyền kiểm toán đối với tất cả các loại hình
doanh nghiệp.
- Về thu phí hoạt động kiểm toán: Kiểm toán Nhà nước Việt Nam thực
hiện kiểm toán đối với tất cả các đối tượng thuộc phạm vi kiểm toán không
thu bất cứ một loại phí nào; kinh phí cho hoạt động kiểm toán do ngân sách
nhà nước cấp. Đối với một số nước, khi thực hiện kiểm toán tại các doanh
nghiệp thì được phép thu phí như Thái Lan
b) Sự khác nhau giữa Kiểm toán Nhà nước và Kiểm toán độc lập
22
Để hiểu được sự khác nhau giữa hai loại hình kiểm toán, chúng ta nên
tìm hiểu về hai khái niệm: Kiểm toán Nhà nước và Kiểm toán độc lập.
Điều 4 Luật Kiểm toán nhà nước quy định " Hoạt động kiểm toán
của Kiểm toán Nhà nước là việc kiểm tra, đánh giá và xác nhận tính đúng
đắn, trung thực của báo cáo tài chính; việc tuân thủ pháp luật; tính kinh
tế, hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà
nước " [18, tr.9]. Như vậy trước hết, hoạt động kiểm toán của Kiểm toán
Nhà nước là hoạt động của cơ quan nhà nước, đối tượng của cơ quan này là

các hoạt động quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản của Nhà nước.
Tất cả các tổ chức, đơn vị có quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản
nhà nước đều phải chịu sự kiểm toán của cơ quan Kiểm toán Nhà nước.
Đây là quy định nhằm đảm bảo kiểm soát việc quản lý, sử dụng các nguồn
lực công, tránh lãng phí, thất thoát, tham nhũng. Với kiểm toán độc lập,
Điều 2, Nghị định 105/2004/NĐ-CP ngày 30 tháng 3 năm 2004 về kiểm
toán độc lập quy định: "Kiểm toán độc lập là việc kiểm tra và xác nhận của
kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán về tính trung thực và hợp lý của
các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo tài chính của các doanh nghiệp, tổ
chức (gọi chung là đơn vị được kiểm toán) khi có yêu cầu của các đơn vị
này " [5, tr.1]. Như vậy, chúng ta có thể thấy khác biệt cơ bản của kiểm
toán độc lập và Kiểm toán Nhà nước: một bên là kiểm toán theo yêu cầu
của đơn vị được kiểm toán và một bên là hoạt động của cơ quan công
quyền thực thi theo quyền lực nhà nước không cần có sự chấp thuận hay
yêu cầu của đơn vị được kiểm toán. Trong điều kiện đó, kiểm toán độc lập
sẽ thực hiện theo các hợp đồng ký kết giữa doanh nghiệp kiểm toán và đơn
vị được kiểm toán. Việc kiểm toán nội dung nào, phạm vi đến đâu sẽ do hai
bên thống nhất và ghi trong hợp đồng ký kết. Đối với Kiểm toán Nhà nước,
việc thực hiện kiểm toán sẽ theo chương trình kế hoạch, nội dung, phạm vi
do Tổng Kiểm toán Nhà nước quyết định.
23
Mặt khác, sự khác nhau còn thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
- Chủ thể tham gia hoạt động kiểm toán: đối với Kiểm toán Nhà nước
là kiểm toán viên nhà nước; đối với kiểm toán độc lập là kiểm toán viên độc
lập của các doanh nghiệp kiểm toán.
- Về địa vị pháp lý: Kiểm toán Nhà nước là cơ quan của Nhà nước,
không nằm trong bộ máy của Chính phủ và Quốc hội, nhưng có địa vị pháp lý
tương đương cấp bộ. Kiểm toán độc lập là doanh nghiệp hoạt động theo Luật
doanh nghiệp.
- Đối tượng và phạm vi hoạt động: đối với kiểm toán độc lập rộng hơn,

nghĩa là bất cứ cơ quan, tổ chức nào của Nhà nước hay ngoài hệ thống nhà
nước có nhu cầu kiểm toán thì kiểm toán độc lập sẽ thực hiện kiểm toán; còn
đối với Kiểm toán Nhà nước thì phạm vi hoạt động kiểm toán lại hẹp hơn,
nghĩa là chỉ trong phạm vi các cơ quan, tổ chức của Nhà nước.
- Kiểm toán Nhà nước không được phép thu phí hoạt động; còn kiểm
toán độc lập thực hiện kiểm toán theo hợp đồng và thu phí theo thoả thuận.
1.2.2. Vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
1.2.2.1. Phát hiện những bất cập về thể chế
Có thể hiểu thể chế là những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội
buộc mọi người phải tuân theo. Về thể chế kinh tế và kinh tế thị trường có
nhiều quan niệm khác nhau, tuy nhiên có thể khái quát thể chế kinh tế thị
trường là hệ thống các quy tắc, quy định pháp luật, luật lệ… với tư cách là các
chuẩn mực nhằm điều chỉnh chính hoạt động của các chủ thể trong nền kinh
tế thị trường theo hướng mục tiêu đã định. Thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, các quy tắc,
chế định, điều tiết hành vi của mọi chủ thể, mọi quá trình diễn ra trong nền
kinh tế nhằm tạo điều kiện cho sự hình thành, vận hành thông suốt và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, theo nghĩa
đầy đủ, thể chế kinh tế thị trường bao hàm 3 yếu tố cơ bản sau đây:
24
- Các quy tắc, quy định pháp luật, luật lệ với tư cách là những chuẩn mực
cho hành vi của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường. Đây là căn cứ cho sự
lựa chọn hình thức, cách thức hoạt động cụ thể của từng chủ thể trong từng
trường hợp nhất định với những phương tiện, công cụ tương ứng.
- Các tổ chức bao gồm tổ chức kinh tế, các cơ quan quản lý nhà nước
về kinh tế và hoạt động của các tổ chức này.
- Cơ chế vận hành gồm những cơ chế kích thích để thực hiện những chuẩn
mực về hành vi của các chủ thể, các chế tài xử lý hành vi không theo chuẩn mực.
Hoạt động của Kiểm toán Nhà nước có tác động rất tích cực đối với các
yếu tố cấu thành thể chế kinh tế thị trường, vì khi thực hiện kiểm toán tại các

cơ quan, tổ chức có quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước,
Kiểm toán Nhà nước có chức năng xác nhận, phát hiện những sai sót trong
quản lý tài chính; những bất cập của các chế độ, chính sách… để kiến nghị
điều chỉnh, sửa đổi cho phù hợp, cụ thể là:
+ Các quy định của pháp luật không còn phù hợp với thực tế hoặc trái
với các quy định pháp luật khác.
+ Các quy định, quyết định của các tổ chức, cơ quan, đơn vị được kiểm
toán trái với quy định của pháp luật hiện hành hoặc không đúng thẩm quyền.
+ Cơ chế vận hành của các bộ máy quản lý kinh tế thiếu đồng bộ, cồng
kềng, kém hiệu quả…
+ Ngoài ra, Kiểm toán Nhà nước còn kiến nghị xem xét xử lý về trách
nhiệm cá nhân các nhà lãnh đạo trong quản lý kinh tế.
1.2.2.2. Đề xuất các giải pháp hoàn thiện thể chế
Trên cơ sở các phát hiện về sai phạm và bất cập về thể chế, Kiểm toán
Nhà nước kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét để huỷ
bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung những quy định không còn phù hợp. Các kiến nghị
của Kiểm toán Nhà nước đều được các cơ quan có chức năng xem xét, sửa
đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hơn về thể chế kinh tế thị trường.
25

×