MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4
DANH MỤC CÁC BẢNG 5
DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ SƠ ĐỒ 6
MỞ ĐẦU 7
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài 7
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài 9
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
4. Phương pháp nghiên cứu 9
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 9
6. Kết cấu của luận văn 9
CHƯƠNG 1 11
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC CHUYỂN ĐỔI VIỆN
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 11
1.1 Một số khái niệm cơ bản về KHCN [19, 31] 11
1.2 Cơ sở lý luận của việc chuyển đổi 13
1.2.1 Khái quát những đặc điểm kinh tế xã hội [1, 20] 13
1.2.2. Vai trò của KHCN trong việc đổi mới nền kinh tế ở nước ta [1, 12,
16, 17, 18, 22, 25] 15
1.2.2.1. Mối tương tác giữa KHCN với kinh tế 15
1.2.2.2. Sự thích ứng của việc đổi mới quản lý hoạt động KHCN với đổi
mới phát triển kinh tế 20
1.3 Cơ sở thực tiễn của việc chuyển đổi 25
1.3.1 Một số bài học kinh nghiệm quốc tế [27] 25
1.3.2 Các phương án đổi mới tổ chức và quản lý các tổ chức KHCN từ
trước đến nay của nước ta 27
CHƯƠNG 2 46
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 46
2.1 Thực trạng khoa học và công nghệ Việt Nam [5, 6] 46
2.1.1 Những đổi mới 46
2.1.2 Những yếu kém và nguyên nhân chủ yếu 50
2.1.2.1 Những yếu kém 50
2.1.2.2 Những nguyên nhân chủ yếu 54
2.1.3 Đặc điểm hình thành và phát triển của các Viện nghiên cứu triển khai
qua các thời kỳ 56
2.1.3.1 Đặc điểm hình thành và phát triển của các Viện nghiên cứu triển
khai thời kỳ cơ chế tập trung 56
2.1.3.2 Đặc điểm của các Viện nghiên cứu triển khai trong thời kỳ cơ chế
thị trường 57
2.2 Thực trạng tổ chức và hoạt động của Viện Khoa học và Công nghệ Xây
dựng 59
2.2.1 Giới thiệu chung về Viện KHCNXD 59
2.2.1.1 Sự hình thành và phát triển của Viện 59
2.2.1.2 Chức năng, nhiệm vụ của Viện KHCNXD 61
2.2.2 Thực trạng tổ chức và hoạt động của Viện KHCNXD [29, 30] 62
2.2.2.1 Tình hình tổ chức 62
2.2.2.2 Tình hình tài chính và tài sản 65
2.2.2.3 Tình hình hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, sản
xuất và dịch vụ 67
CHƯƠNG 3 74
PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ ĐỀ ÁN CHUYỂN ĐỔI VIỆN KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG 74
3.1 Giới thiệu đề án chuyển đổi Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng [29]
74
3.2 Phân tích, đánh giá đề án chuyển đổi Viện KHCNXD 84
3.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động 96
3.3.1. Giải pháp về nhân lực KHCN 96
3.3.2. Giải pháp trong hoạt động kinh doanh 99
3.3.3. Giải pháp về cơ sở vật chất 102
3.3.4. Giải pháp trong tổ chức quản lý 103
KẾT LUẬN 104
KIẾN NGHỊ 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO 107
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. CNH: Công nghiệp hóa
2. HĐH: Hiện đại hóa
3. Viện KHCNXD: Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng
4. KHCN: Khoa học Công nghệ
5. KH&CN: Khoa học và công nghệ
6. TCVN: Tiêu chuẩn Việt Nam
7. TVGS: Tư vấn giám sát
8. NCCB: Nghiên cứu cơ bản
9. CLCS: Chiến lược chính sách
10. KTKT: Kinh tế kỹ thuật
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Bảng thống kê tài sản đến 30/6/2006
Bảng 2.2. Bảng số liệu tài chính các năm 2004-2006
Bảng 2.3. Kết quả sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong các năm 2001-2005
DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ SƠ ĐỒ
H2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức
H3.1. Dự kiến cơ cấu tổ chức Viện KHCNXD sau khi chuyển đổi
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Trong thời đại ngày nay, những bước tiến kỳ diệu và những thành tựu to
lớn của khoa học và công nghệ tác động sâu sắc đến sự phát triển của xã hội
loài người. Đối với nước ta, khoa học và công nghệ cùng với giáo dục và đào
tạo là quốc sách hàng đầu để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao trình độ
quản lý của Nhà nước và tiềm lực lãnh đạo của Đảng.
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội những năm qua của nước ta,
khoa học công nghệ tiếp tục phát triển đã hướng vào nghiên cứu ứng dụng
bước đầu phát huy vai trò động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Lực
lượng khoa học đã góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho các chủ trương
phát triển kinh tế, đóng góp tích cực vào việc soạn thảo cương lĩnh, chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội Rất nhiều thành tựu khoa học
được ứng dụng trong thực tế đã tác động tích cực đến phát triển kinh tế sản
xuất trong nhiều lĩnh vực trên nhiều vùng kinh tế của đất nước. Cơ chế quản
lý khoa học công nghệ đã bước đầu được đổi mới nhằm gắn hoạt động khoa
học công nghệ với sản xuất và đời sống, mở rộng quyền tự chủ và tự chịu
trách nhiệm của các tập thể và cơ quan khoa học.
Trong thời gian qua, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, nhiều văn bản quan
trọng về định hướng chiến lược và cơ chế, chính sách phát triển khoa học và
công nghệ đã được ban hành: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII
(1996); Luật Khoa học và Công nghệ (2000); Kết luận của Hội nghị Trung
ương 6 khoá IX (2002); Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt
Nam đến năm 2010 (2003); và nhiều chính sách cụ thể khác về xây dựng tiềm
lực và đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ.
Tuy nhiên, trình độ khoa học và công nghệ của nước ta hiện nay nhìn
chung còn thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực, năng lực sáng
tạo công nghệ mới còn hạn chế, vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước và đang đứng trước
nguy cơ tụt hậu ngày càng xa trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát
triển kinh tế tri thức trên thế giới. Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ ra những
hạn chế cơ bản của hoạt động khoa học và công nghệ hiện nay là: “Chưa thực
sự gắn kết với nhu cầu và hoạt động của các ngành kinh tế, xã hội; chậm đưa
vào ứng dụng những kết quả đã nghiên cứu được; trình độ khoa học và công
nghệ của ta còn thấp nhiều so với các nước xung quanh; năng lực tạo ra công
nghệ mới còn rất có hạn. Các cơ quan nghiên cứu khoa học chậm được sắp
xếp cho đồng bộ, còn phân tán, thiếu phối hợp, do đó đạt hiệu quả thấp. Các
viện nghiên cứu và các doanh nghiệp, các trường đại học chưa gắn kết với
nhau. Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật thiếu tập trung và dứt
điểm cho từng mục tiêu. Cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao tuy
còn ít, song chưa được sử dụng tốt.”
Mục tiêu của Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến
năm 2010 là: “Tập trung xây dựng nền khoa học và công nghệ nước ta theo
hướng hiện đại và hội nhập, phấn đấu đạt trình độ trung bình tiên tiến trong
khu vực vào năm 2010, đưa khoa học và công nghệ thực sự trở thành nền tảng
và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.”
Để đạt được mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ nước ta đến năm
2010, phải đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, tạo bước
chuyển biến căn bản trong quản lý khoa học và công nghệ theo hướng phù
hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với đặc thù của hoạt
động khoa học và công nghệ, với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
nhằm nâng cao rõ rệt chất lượng, hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ;
tăng cường và sử dụng có hiệu quả tiềm lực khoa học và công nghệ.
Chính vì vậy việc nghiên cứu chuyển đổi Viện Khoa học Công nghệ Xây
dựng (Viện KHCNXD) từ tổ chức Khoa học Công nghệ sự nghiệp có thu
thành tổ chức Khoa học Công nghệ tự trang trải kinh phí là cần thiết để đáp
ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu hoàn thiện giải pháp chuyển đổi Viện KHCNXD từ tổ chức
Khoa học Công nghệ sự nghiệp có thu thành tổ chức Khoa học Công nghệ tự
trang trải kinh phí.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn của việc chuyển đổi Viện KHCNXD,
đánh giá thực trạng khoa học công nghệ (KHCN), thực trạng hoạt động của
Viện KHCNXD. Trên cơ sở nghiên cứu đề án chuyển đổi Viện KHCNXD
nghiên cứu giải pháp hoàn thiện trong việc chuyển đổi.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát số liệu, phân tích tổng hợp,
tham khảo ý kiến chuyên gia, biện chứng, logic lịch sử.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn nghiên cứu có giá trị ứng dụng để hoàn thiện cơ sở lý luận, đề
xuất những định hướng, giải pháp hoàn thiện việc chuyển đổi Viện KHCNXD
và có thể tham khảo cho việc chuyển đổi những tổ chức KHCN tương tự.
6. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm:
Mở đầu
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc chuyển đổi Viện Khoa học
Công nghệ Xây dựng
Chương 2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Viện Khoa học Công
nghệ Xây dựng
Chương 3. Phân tích, đánh giá đề án chuyển đổi Viện Khoa học Công
nghệ Xây dựng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
Kết luận
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC CHUYỂN ĐỔI
VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
1.1 Một số khái niệm cơ bản về KHCN [19, 31]
Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. KHCN đóng góp vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi mới
phát triển kinh tế ở nước ta. Để thấy rõ vai trò đó của KHCN cần làm rõ một
số khái niệm cơ bản về KHCN.
Hiện nay, một số khái niệm cơ bản về KHCN ở các nước khác nhau được
hiểu với các góc độ khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu và cách
tiếp cận. Ở đây tác giả chỉ trình bày các khái niệm đó theo quan điểm của
UNESCO.
Khoa học (Science): Theo Tổ chức văn hóa – Khoa học – Giáo dục của Liên
hợp quốc (UNESCO), khoa học là một hệ thống các tri thức của nhân loại về
các phạm trù, quy luật vận động và phát triển khách quan của thế giới tự
nhiên, xã hội và bản thân con người; là một loại hình hoạt động xã hội đặc
biệt nhằm đạt tới những hiểu biết mới và vận dụng những hiểu biết đó vào sản
xuất và đời sống trong những điều kiện kinh tế, văn hóa và xã hội nhất định.
Tri thức khoa học biểu hiện chủ yếu dưới hình thức các phạm trù, định luật và
quy luật. Đối tượng nhận thức của khoa học rất rộng lớn, bao gồm mọi lĩnh
vực của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Công nghệ (Technology): là tổng thể các kỹ năng, kiến thức, thiết bị và
phương pháp sử dụng trong sản xuất, chế tạo hoặc dịch vụ công nghiệp, dịch
vụ quản lý.
Trong những ngày đầu CNH, người ta sử dụng phổ biến thuật ngữ kỹ thuật
(Technique) với ý nghĩa là các giải pháp thực hiện một loại công việc hay
công cụ được sử dụng trong sản xuất làm tăng hiệu quả sản xuất. Tiếp đó xuất
hiện thuật ngữ công nghệ sản xuất, lúc đầu nó được hiểu là quy trình kỹ thuật
dùng trong dây chuyền sản xuất về sau khái niệm này được hiểu theo nghĩa
rộng hơn và ổn định như ngày nay. Công nghệ là kết quả của quá trình áp
dụng các thành tựu của khoa học vào sản xuất. Công nghệ là sản phẩm của
lao động trí tuệ sáng tạo của con người trong lĩnh vực sản xuất. Công nghệ
được coi là phương tiện, công cụ để biến đổi thế giới tự nhiên phù hợp với lợi
ích của con người; là tác nhân chủ chốt trong quá trình khai thác và chế biến
tài nguyên thiên nhiên thành hàng hoá và dịch vụ. Nói cách khác, công nghệ
gồm hai phần: “phần cứng” và “phần mềm”. Phần cứng bao gồm: máy móc,
thiết bị, nhà xưởng Phần mềm bao gồm: đội ngũ nhân lực có sức khoẻ, kỹ
năng, kỹ xảo, kinh nghiệm sản xuất, ; thông tin về quy trình sản xuất, bản vẽ,
thuyết minh, chỉ dẫn kỹ thuật; trình độ tổ chức quản lý, điều hành sản xuất
của ban quản lý,
Khái niệm công nghệ được sử dụng rộng rãi vào tất cả các lĩnh vực của cuộc
sống con người. Công nghệ được dùng không chỉ trong sản xuất vật chất mà
còn trong các hoạt động xã hội: Công nghệ sinh học, công nghệ thông tin,
công nghệ quản lý, công nghệ giáo dục,
Hoạt động khoa học là tất cả các hoạt động có hệ thống, liên quan chặt chẽ
đến việc nâng cao, truyền bá và ứng dụng các kiến thức khoa học vào đời
sống và sản xuất. Nội dung chủ yếu của hoạt động khoa học bao gồm: Hoạt
động nghiên cứu KHCN và dịch vụ KHCN.
Trong các hoạt động nghiên cứu KHCN được chia ra thành các hoạt động chủ
yếu sau đây: hoạt động nghiên cứu cơ bản, hoạt động nghiên cứu ứng dụng,
hoạt động nghiên cứu triển khai, hoạt động nghiên cứu công nghệ.
Hoạt động nghiên cứu cơ bản là nhằm nghiên cứu những kiến thức mới về các
hiện tượng tự nhiên và xã hội, không phụ thuộc vào bất cứ sự quan tâm nào
tới việc ứng dụng trong thực tế kinh tế - xã hội.
Hoạt động nghiên cứu ứng dụng là nhằm đạt được những kiến thức mang tính
thực tiễn, trong những điều kiện cụ thể có tính đặc thù. Như vậy, khác với
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng là nghiên cứu mà mang tính ứng
dụng đã được đặt ra trước.
Hoạt động nghiên cứu triển khai là hoạt động có hệ thống nhằm vận dụng và
ứng dụng các kiến thức khoa học hoặc kinh nghiệm thực tiễn để sản xuất ra
những sản phẩm mới (thiết bị, kỹ thuật, vật liệu, các chất tổng hợp, ) để đưa
ra các phương pháp tiến hành mới hoặc hoàn thiện những gì đã đưa vào sản
xuất bằng các ứng dụng KHCN. Hoạt động nghiên cứu triển khai là một trong
những bộ phận quan trọng của hoạt động KHCN.
Hoạt động nghiên cứu công nghệ là hoạt động nghiên cứu nhằm đạt được
những hiểu biết và thực hành để thiết lập nên những quy trình sản xuất dựa
trên các nguyên lý khoa học trong mọi lĩnh vực kỹ thuật.
1.2 Cơ sở lý luận của việc chuyển đổi
1.2.1 Khái quát những đặc điểm kinh tế xã hội [1, 20]
Cho tới đầu những năm 80, nền kinh tế nước ta đã vận động theo cơ chế
chỉ huy với mô hình chủ yếu là kế hoạch hoá và tập trung hoá cao độ. Nền
kinh tế phát triển mang nặng tính tự cung tự cấp, các yếu tố sản xuất hàng hoá
còn yếu, chưa phát triển, các yếu tố thị trường mới sơ khai, thiếu đồng bộ lại
quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung cứng nhắc nên đã phát sinh sự mất
cân đối, lạm phát cao dẫn đến khủng hoảng và sự tăng trưởng kinh tế chậm.
Những mâu thuẫn nội tại từ nền kinh tế nước ta đòi hỏi phải đổi mới để thoát
khỏi khủng hoảng và thúc đẩy các yếu tố sản xuất hàng hoá phát triển.
Nền kinh tế chỉ huy tồn tại ở nước ta đã huy động một bộ phận nguồn lực
cho sự phát triển ban đầu, nhưng mô hình này bị khép kín, kém hiệu quả,
không phù hợp với xu hướng quốc tế hoá các quan hệ kinh tế của thế giới.
Trong giai đoạn phát triển mới, cơ chế chỉ huy ngày càng bộc lộ những
mâu thuẫn và bế tắc. Đại hội VI đã bắt đầu và đại hội VII đã phát triển những
chủ trương đổi mới với việc chuyển nền kinh tế vận động theo cơ chế chỉ huy
trước đây sang nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường.
Sự hoà nhập trong phân công lao động quốc tế cùng với thành quả của tiến
bộ KHCN của thế giới về công nghệ, về quản lý, về chất lượng và phát triển
môi trường cũng yêu cầu phải chuyển nền kinh tế nước ta theo cơ chế thị
trường là tất yếu.
Những cải cách chủ yếu trong giai đoạn đầu là:
Đổi mới một bước quan trọng cơ chế kế hoạch hoá theo hướng thu hẹp tập
trung, mở rộng tự chủ kế hoạch và tự chủ về chiến lược sản xuất kinh doanh
của các đơn vị cơ sở.
Cải cách hệ thống giá cả theo hướng tự chủ về giá của các đơn vị sản xuất
kinh doanh, hoà nhập từng bước giá đầu vào và giá đầu ra vào cơ chế thị
trường.
Cải cách hệ thống tài chính theo hướng tự chủ tài chính của các đơn vị sản
xuất kinh doanh, tách dần tài chính Nhà nước với tài chính doanh nghiệp; chế
độ thuế thay các khoản thu từ kinh tế quốc doanh; tín dụng hoá vốn đầu tư;
những cải cách trong lĩnh vực kế toán thống kê, thu chi ngân sách,
Cải cách hoạt động ngân hàng, đưa ngân hàng vào hoạt động kinh doanh,
bước đầu áp dụng cơ chế thị trường trong điều tiết lưu thông tiền tệ.
Đổi mới chính sách lao động và tiền lương.
Ban hành và thực hiện luật và các văn bản dưới luật về khu vực kinh tế tư
nhân, về hợp tác và đầu tư với nước ngoài.
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nội dung cơ bản về
đổi mới của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tuy thời gian chưa dài nhưng các
yếu tố cho sự tăng trưởng kinh tế thực tế đang phát triển. Thực tiễn đó cũng là
cơ sở khoa học chứng minh tất yếu của sự chuyển đổi nền kinh tế nước ta
theo cơ chế thị trường là phù hợp với quy luật của xã hội và đạt được mục
tiêu của nước ta là chủ nghĩa xã hội, ổn định và tăng trưởng kinh tế là dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.2.2. Vai trò của KHCN trong việc đổi mới nền kinh tế ở nước ta [1, 12,
16, 17, 18, 22, 25]
1.2.2.1. Mối tương tác giữa KHCN với kinh tế
KHCN không sinh ra như một vật tự nó mà bắt nguồn từ nhu cầu nhận
thức và cải tạo thế giới của xã hội loài người. Trong thế giới hiện đại từ nhà
kinh doanh muốn giành ưu thế trong cạnh tranh đến các nhà lãnh đạo quốc gia
muốn đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu đều phải tìm câu trả lời trong
những chính sách cụ thể và phát triển các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng
các thành tựu KHCN.
Đồng thời KHCN thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực tích luỹ
từ nội bộ nền kinh tế tạo điều kiện thay đổi chiến lược tái sản xuất từ giản đơn
sang phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Hiện nay ta đang trên đà cải cách toàn diện về mặt kinh tế và xã hội, mà
điểm cốt lõi về cải cách kinh tế là chuyển từ một nền kinh tế chỉ huy tập trung
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của
nhà nước. Đi đôi với cải cách kinh tế là cải cách trong hệ thống chính trị mà
đặc biệt điểm quan trọng nhất như trong đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã
đề ra mục tiêu “Huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho CNH-HĐH đất
nước, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, tạo nền tảng để đến năm
2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”
Bối cảnh chính trị xã hội đã quy định nội dung của những bước phát triển
trong chính sách KHCN, và có thể nói chính sách KHCN cũng đã và đang trải
qua những cuộc cải cách với đầy đủ những nét đặc trưng cơ bản công cuộc cải
cách kinh tế và xã hội.
Trong nền kinh tế chỉ huy tập trung, do vai trò lãnh đạo của nhà nước chi
phối mọi hoạt động kinh tế và xã hội nên mọi hoạt động KHCN cũng được
quan niệm là một hoạt động do nhà nước độc quyền chủ trì. Nhà nước lập kế
hoạch nghiên cứu và áp dụng kết quả nghiên cứu cho toàn xã hội và do vậy
ngân sách nhà nước được cấp cho mọi hoạt động KHCN trong xã hội. Mặc dù
trên hình thức nhà nước lập kế hoạch nghiên cứu, nhưng trong thực tế thì đó
cũng là những sáng kiến nghiên cứu của các nhà khoa học công nghệ được
đưa lên từ cấp cơ sở, sau đó được “Nhà nước hoá” thông qua một hệ thống
xem xét và phê duyệt theo thang bậc quản lý hành chính.
Cùng với những biến động và khủng hoảng kinh tế xã hội trong các nước
có nền kinh tế chỉ huy, hệ thống KHCN cũng ngày càng bộc lộ tính kém hiệu
quả và cuối cùng nó đã phải bước vào những công cuộc cải cách cùng với hệ
thống kinh tế xã hội.
Ở nước ta mạng lưới các tổ chức KHCN có những biến động và cải cách
khá tương đồng cả trên nội dung và các bước phát triển.
a. Sự tác động của KHCN đối với kinh tế thị trường
Nước ta là một nước nông nghiệp với điểm xuất phát thấp về lực lượng sản
xuất, về trình độ xã hội hoá lao động và xã hội hoá sản xuất. Sự thấp kém này
đã kìm hãm quá trình chuyển biến nền kinh tế nặng tính tự cấp tự túc sang
kinh tế thị trường. Việc phát triển KHCN chính là để thay đổi về chất lực
lượng sản xuất và nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất của đất nước nhằm
thúc đẩy quá trình chuyển biến nền kinh tế từ chậm phát triển sang phát triển,
chuyển nền kinh tế bao cấp kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường.
Dưới tác động của KHCN làm biến đổi về chất lực lượng sản xuất theo hướng
thực hiện từng bước chiến lược đồng bộ hoá giữa tư liệu sản xuất hiện đại với
con người hiện đại, nhằm nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất. Đến lượt nó
lại tác động làm biến đổi sở hữu và cơ chế kinh tế ở nước ta từ độc quyền độc
tôn sang sở hữu hỗn hợp đa dạng, từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang
cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Mặt khác, dưới tác động của KHCN theo hướng đã xác định đã làm cho
nền kinh tế thị trường ở nước ta từng bước thích nghi với tốc độ nhanh của xu
hướng quốc tế hoá các quan hệ kinh tế trên thế giới.
Phát triển KHCN đã thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế qua sự phân
công lao động làm thay đổi từng bước cơ cấu ngành, vùng; thay đổi chiến
lược kinh doanh, thay đổi sự hình thành cơ cấu giá trị hàng hóa, nhất là trong
các ngành công nghiệp mới.
b. Sự tác động của kinh tế thị trường đối với sự phát triển KHCN
Nền kinh tế thị trường được xây dựng sẽ có sự tác động tích cực đến sự
phát triển KHCN. Chính nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải xác định vai trò
then chốt thực sự của KHCN và KHCN là động lực quan trọng nhất đối với
lực lượng sản xuất ở nước ta.
Kinh tế thị trường đã thúc đẩy trình độ phát triển lực lượng sản xuất và xã
hội hoá sản xuất được thể hiện ở chỗ:
Cơ cấu lao động nhiều trình độ, hình thành lực lượng mũi nhọn gắn với
công nghệ mới hiện đại được lựa chọn để đi thẳng vào nguyên tắc của công
nghệ.
Đối tượng lao động ở trong nước được khai thác ngày càng nhiều và sử
dụng nguyên liệu nhân tạo.
Từng bước mở rộng phân công lao động và hợp tác sản xuất, lao động
trong nước và trên thế giới.
Kinh tế thị trường tác động đã làm thay đổi hẳn cơ cấu kinh tế với việc đa
dạng sở hữu, thúc đẩy hình thành cơ cấu công - nông - dịch vụ hiện đại gắn
với phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng, ngành kết cấu hạ tầng sản xuất
được ưu tiên đầu tư theo hướng hiện đại và đã từng bước xuất hiện những
ngành công nghệ mới, các khu chế xuất, vùng kinh tế đặc biệt và đô thị hoá
tập trung.
Đặc biệt, dưới sự tác động của kinh tế thị trường đã làm thay đổi trình độ
văn minh, góp phần vượt qua văn minh nông nghiệp đi lên trong sự gắn bó
với hai nền văn minh công nghệ và văn minh trí tuệ.
c. Sự phát triển KHCN gắn bó với công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Lịch sử đã khẳng định rằng trong quá trình từ sản xuất nhỏ thủ công lạc
hậu lên sản xuất lớn hiện đại, CNH là bước đi tất yếu mà mỗi dân tộc đều
phải trải qua. Trong thời đại hiện nay, CNH bao hàm trong đó cả HĐH trong
tất cả các lĩnh vực, các ngành kinh tế quốc dân.
HĐH chính là cách thức dùng sự phát triển hiện đại mà thế giới đã đạt
được qua cải tạo và chuyển giao công nghệ cho đất nước. Đó là cách thực
hiện cách mạng khoa học công nghệ gắn với quá trình phân công lao động
quốc tế một cách có hiệu quả.
Kinh nghiệm CNH ở nhiều nước trên thế giới cho thấy cái cốt lõi của CNH
là sự đổi mới kỹ thuật (phần cứng) và công nghệ (phần mềm), chuyển từ kỹ
thuật và công nghệ lạc hậu, năng suất và hiệu quả kinh tế xã hội thấp lên trình
độ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến hiện đại có năng suất và hiệu quả kinh tế -
xã hội cao trong các ngành kinh tế quốc dân.
CNH là bước phát triển tất yếu mà mỗi nước phải trải qua. Nó là quá trình
thực hiện phương pháp công nghiệp trong các ngành và các lĩnh vực kinh tế
quốc dân, là quá trình phát triển kỹ thuật và công nghệ hiện đại trong sản xuất
kinh doanh.
Như vậy, thực chất CNH là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội.
Đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghệ
trong nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản
về công nghệ tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh chóng, hiệu quả cao và
lâu bền của toàn bộ nền kinh tế.
Trên thế giới cách mạng KHCN diễn ra mạnh mẽ, tác động tích cực, sâu
sắc toàn diện đến đời sống kinh tế. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy quá trình
công nghiệp hoá ở từng nước và từng nhóm nước có những đặc điểm rất khác
nhau. Việc nghiên cứu sự đa dạng, tìm ra những nét chung nhất mang tính
quy luật và những nét đặc thù riêng biệt của mỗi nhóm nước, có một ý nghĩa
quan trọng trong việc lựa chọn một chiến lược CNH tích cực, thích hợp với
điều kiện phát triển về trình độ KHCN cụ thể ở từng nước.
Ở nước ta CNH, HĐH nền kinh tế là mục tiêu chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế xã hội phấn đấu vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu của Đảng và
nhà nước ta là: thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,
HĐH. Đây là nhiệm vụ trọng tâm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới. Bởi
vì CNH, HĐH là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các
nước xung quanh, giữ được ổn định chính trị, xã hội bảo vệ độc lập chủ quyền
và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn cho thấy sự nghiệp CNH được thực hiện
nhanh hay chậm, có hay không có hiệu quả kinh tế xã hội cao là tuỳ thuộc rất
nhiều vào phạm vi nhịp độ, hiệu quả của việc ứng dụng tiến bộ KHCN vào
sản xuất và đời sống. Việc phát triển sự nghiệp nghiên cứu và ứng dụng
KHCN đáp ứng yêu cầu phát triển trước mắt cũng như lâu dài trong việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân ở
nước ta là một đòi hỏi khách quan và là một yếu tố rất cơ bản đảm bảo sự tiến
bộ về kinh tế và xã hội vì: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
1.2.2.2. Sự thích ứng của việc đổi mới quản lý hoạt động KHCN với đổi mới
phát triển kinh tế
a. Quản lý và cơ chế quản lý
Quản lý là một yếu tố không thể thiếu được trong đời sống và sự phát triển
của xã hội loài người, là hoạt động có ý nghĩa quan trọng nhất trong các hoạt
động của con người. Quản lý có nghĩa là hiệu quả, bởi vì con người không chỉ
cần và biết sản xuất ra sản phẩm gì, mà điều quan trọng hơn là phải biết sản
xuất ra sản phẩm đó với giá nào và ai sẽ là người tiêu thụ.
Hoạt động KHCN là lao động xã hội đặc biệt, được tiến hành trên quy mô
khá lớn, có mối quan hệ hữu cơ với lao động sản xuất và đời sống xã hội. Cơ
chế quản lý KHCN phải phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế trong từng giai
đoạn phát triển kinh tế quốc dân. Cơ chế quản lý kinh tế phải mở đường cho
hoạt động KHCN, phát huy được tác dụng tích cực của mình đối với phát
triển kinh tế và tạo được môi trường, điều kiện để KHCN phát huy được vai
trò động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Cơ chế quản lý kinh tế bao gồm các nội dung chủ yếu sau: Xác định đường
lối, chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và xác định phương hướng
phát triển nền kinh tế quốc dân; Tổ chức nền kinh tế - xã hội (cơ cấu tổ chức,
bộ máy, cán bộ thông tin); Xác định phương thức trao đổi giữa sản xuất và
tiêu dùng, giữa cung và cầu; Sử dụng các đòn bẩy kinh tế và giải quyết đúng
vấn đề phân chia lợi ích kinh tế; Hạch toán, đánh giá hiệu quả; Chính sách,
biện pháp quản lý cụ thể.
Cũng như cơ chế quản lý chung, cơ chế quản lý KHCN của Nhà nước là
phương thức điều hành hệ thống KHCN quốc gia phù hợp với quy luật khách
quan của tiến trình phát triển KHCN của cách mạng khoa học kỹ thuật hiện
đại, phù hợp với đặc điểm của hoạt động KHCN, với chính sách kinh tế và cơ
chế quản lý kinh tế, được thể hiện thành thể chế, luật lệ quy định, ràng buộc
đối với các đơn vị, cá nhân tiến hành các hoạt động KHCN nhằm đạt được
mục tiêu, chiến lược phát triển KHCN đặt ra một cách tốt nhất trong môi
trường trong và ngoài nước đầy các biến động.
Tương tự như cơ chế quản lý kinh tế, cơ chế quản lý KHCN bao hàm các
nội dung sau: Đường lối, chiến lược, mục tiêu phát triển KHCN; Bố trí cơ cấu
tổ chức hệ thống KHCN (hệ thống tổ chức hoạt động và quản lý KHCN) bao
gồm việc bố trí mạng lưới các cơ quan, các đơn vị KHCN trong cả nước theo
hướng tiếp cận thị trường, theo các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, lợi ích
của mỗi đơn vị, cơ quan, nhằm thực hiện đường lối, chiến lược, mục tiêu
phát triển KHCN; Xác định phương thức trao đổi giữa đầu vào và đầu ra của
các cơ quan, đơn vị hoạt động KHCN trong môi trường kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo hướng gắn KHCN với sản xuất với môi trường kinh tế
- xã hội; Chính sách KHCN (hạch toán đối với KHCN, sở hữu công nghiệp,
thương mại hóa KHCN, các biện pháp về khen thưởng, kỷ luật, các công cụ
quản lý khác, ); Khai thác và sử dụng thời cơ KHCN; Lựa chọn phương
pháp và nghệ thuật quản lý KHCN.
b. Tính tất yếu phải sắp xếp lại tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý KHCN
Trong thời đại hiện nay không một lĩnh vực nào không chịu sự tác động
mạnh mẽ của KHCN. Cuộc cách mạng KHCN hiện đại đang làm chuyển biến
sâu sắc nền kinh tế thế giới, các quan hệ quốc tế và tất cả các hoạt động của
xã hội loài người. Nước nào cũng phải dựa vào KHCN để phát triển kinh tế xã
hội và củng cố vị trí của mình trong cuộc cạnh tranh kinh tế và đấu tranh
chính trị. Cuộc cạnh tranh công nghệ đang trở thành một nội dung chủ yếu
trong quan hệ quốc tế ngày nay và đây cũng là thách thức đối với các nước
đang phát triển. Tuy nhiên, các nước đang phát triển nếu có chiến lược đúng
về phát triển KHCN, biết phát huy lợi thế của các nước đi sau, nhanh chóng
nâng cao năng lực KHCN của mình, mạnh dạn đi thẳng vào những công nghệ
mới có chọn lựa thì cũng có thể phát triển nhanh chóng.
Nước ta cũng đang đứng trước những thách thức do các nhân tố khách
quan và chủ quan. Điều đáng quan tâm nhất là do đang bị tụt hậu so với nhiều
nước về KHCN. Trong những thập kỷ qua ta bị tụt lại sau cuộc cách mạng
KHCN hiện đại, trình độ công nghệ thấp kém, năng suất, chất lượng, hiệu quả
của sản xuất quá thấp, tốc độ phát triển của nền kinh tế quá chậm, các tiềm
năng to lớn về con người và điều kiện tự nhiên chưa được phát huy. Vì vậy
yêu cầu phát triển kinh tế xã hội đối với KHCN rất đa dạng và toàn diện. Hệ
thống nghiên cứu triển khai gồm các viện, trung tâm và các trường đại học
bước đầu đã phát huy vai trò động lực phát triển kinh tế xã hội do trực tiếp
đóng góp vào việc nâng cao trình độ công nghệ sản xuất, chuyển giao công
nghệ, ứng dụng công nghệ tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu
quả trong một số lĩnh vực và địa phương tuy nhiên vẫn còn những tồn tại như
mới tập trung vào một số vấn đề trước mắt mà chưa định hướng giải quyết
những vấn đề KHCN có tính chiến lược chuẩn bị xây dựng công nghệ đặc thù
và truyền thống để khai thác các nguồn tài nguyên, lao động, cơ sở vật chất
kỹ thuật.
Với mạng lưới nghiên cứu triển khai phân tán, chồng chéo, với cơ sở vật
chất kỹ thuật thô sơ và lạc hậu, với đội ngũ cán bộ thiếu đồng bộ, thiếu cán bộ
đầu đàn giỏi có năng lực tập hợp lực lượng thành tập thể khoa học mạnh, với
đầu tư chi phí cho hoạt động KHCN nhỏ bé và với sự khan hiếm thông tin và
hạn chế hợp tác cộng với điều kiện sinh hoạt và làm việc như hiện nay thì nền
KHCN của ta không thể nào đủ sức là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã
hội.
Cơ chế quản lý các hoạt động nghiên cứu triển khai KHCN đã được điều
chỉnh bổ sung một số quy định để gắn trực tiếp hơn KHCN với thực tiến sản
xuất và tạo khả năng cho các thành phần kinh tế cùng tham gia vào các hoạt
động KHCN theo nhu cầu tất yếu của phát triển. Song có thể nói đến thời
điểm này, về cơ bản lực lượng tham gia các hoạt động KHCN vẫn chỉ thuộc
về các cơ quan KHCN của nhà nước với cách thức tổ chức quản lý phần lớn
vẫn theo kiểu hành chính như thời kế hoạch hoá tập trung. Như vậy trong
quản lý nghiên cứu triển khai các hoạt động KHCN chưa có những đổi mới cơ
bản để thích ứng với yêu cầu của hoạt động theo cơ chế thị trường với nhiều
thành phần tham gia, đã quá chậm trễ so với tiến trình đổi mới quản lý phát
triển kinh tế. Tình hình đó tất yếu làm hạn chế vai trò tác động tích cực của
KHCN đối với phát triển kinh tế xã hội và cũng chính là lạm hạn chế sự phát
triển của chính bản thân KHCN.
Để KHCN thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội và nghiên
cứu triển khai đi vào thực tiễn sản xuất. Nhà nước phải có những biện pháp
quản lý hữu hiệu nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động KHCN của đội
ngũ cán bộ KHCN - một trong những tiềm năng quý của đất nước. Vì vậy,
việc đổi mới quản lý nhà nước về nghiên cứu triển khai các hoạt động KHCN
là một đòi hỏi tất yếu của đổi mới kinh tế ở nước ta. Việc đổi mới quản lý nhà
nước đối với nghiên cứu triển khai các hoạt động KHCN ở nước ta hiện nay
không chỉ là đòi hỏi tất yếu của đổi mới kinh tế nói chung, đổi mới quản lý
nhà nước nói riêng mà còn là đòi hỏi bức thiết của chính sự phát triển KHCN
trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Lý luận và kinh nghiệm nhiều nước
cho thấy việc đổi mới quản lý đối với nghiên cứu triển khai các hoạt động
KHCN cần được thực hiện qua các khâu: xây dựng chiến lược, định hướng
phát triển, tổ chức thực hiện chiến lược và định hướng phát triển, phối hợp
chặt chẽ các hoạt động trong quá trình thực hiện; kiểm tra kết quả thực hiện
và điều chỉnh quá trình thực hiện. Để thực hiện quá trình này, việc quản lý
nhà nước đối với nghiên cứu triển khai các hoạt động KHCN được thông qua
việc thực hiện các chức năng chủ yếu sau:
Nhà nước phải xây dựng chiến lược phát triển KHCN, xây dựng các
chương trình mục tiêu, các kế hoạch dài hạn 5 năm (trên cơ sở chiến lược và
kế hoạch chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước) và các bước đi
thích hợp cho từng thời kỳ. Đồng thời, xác định mô hình tổ chức hoạt động
thích hợp để thực hiện chiến lược, kế hoạch và các chương trình mục tiêu đã
đề ra.
Nhà nước ban hành và hướng dẫn chỉ đạo thực hiện cơ chế chính sách đối
với hoạt động KHCN như luật pháp, chế độ quản lý tài chính, các tiêu chuẩn
định mức kỹ thuật, các chính sách về quan hệ quốc tế, chính sách cán bộ
nghiên cứu khoa học.
Tạo môi trường thuận lợi về kinh tế cho hoạt động KHCN, khuyến khích
mở rộng liên doanh liên kết để nghiên cứu triển khai có hiệu quả.
Thực hiện chế độ kiểm tra, kiểm soát của nhà nước đối với các hoạt động
KHCN và nghiên cứu triển khai.
Để thực hiện được những chức năng đó cần sử dụng các công cụ chủ yếu
như kế hoạch, chính sách kinh tế xã hội và các công cụ khác cùng với việc
xây dựng được một hệ thống tổ chức quản lý có hiệu lực hiệu quả.
Như vậy, khi cơ chế quản lý kinh tế thay đổi, với chính sách phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và mở cửa hội nhập với thế giới, hàng loạt
vấn đề mới nảy sinh, vượt ra khỏi khuôn khổ giải quyết của mô hình tổ chức
và cơ chế quản lý cũ. Cùng với tiến trình cải cách nền hành chính quốc gia,
xây dựng nhà nước pháp quyền, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước
vấn đề sắp xếp lại các tổ chức KHCN và đổi mới cơ chế quản lý hoạt động
cho phù hợp với tình hình mới cũng là điều tất yếu. Nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần tạo điều kiện xã hội hóa hoạt động KHCN, đa dạng hóa
nguồn vốn đầu tư, đồng thời cũng đòi hỏi sự nhạy bén, năng động của cán bộ
khoa học cũng như của các tổ chức KHCN trước yêu cầu rất đa dạng, thiết
thực, kịp thời và kịp thời trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của thị trường
trong cũng như ngoài nước. Kinh tế hàng hóa phát triển, nhu cầu đổi mới
công nghệ càng cao, sản xuất càng cần đến các nhà khoa học và các tổ chức
KHCN. Vì vậy tiến trình sắp xếp lại tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý hoạt
động KHCN cho phù hợp với yêu cầu của sản xuất và đời sống càng trở nên
bức xúc.
1.3 Cơ sở thực tiễn của việc chuyển đổi
1.3.1 Một số bài học kinh nghiệm quốc tế [27]
Bài học thứ nhất: Bất kỳ một quốc gia nào, không phụ thuộc vào thể chế
kinh tế, chính trị đều có những ưu tiên riêng của mình theo một thứ tự nhất
định. Căn cứ vào mức độ ưu tiên của trật tự đó nhà nước (chính phủ) hình
thành hệ thống các tổ chức nghiên cứu và phát triển của mình bằng các quy
định hành chính pháp lý bắt buộc với từng loại hình tổ chức nghiên cứu và phát