Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

kinh tế hộ đồng bào dân tộc khmer tỉnh an giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (527.64 KB, 119 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, mỗi dân tộc có những nét đặc thù
và bản sắc riêng. Trong đó, đồng bào dân tộc Khmer với trên 1,3 triệu người,
sống chủ yếu ở 9 tỉnh, thành phố thuộc khu vực ĐBSCL, đông nhất ở các tỉnh
Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang, An Giang, Hậu Giang,v.v Trong đó, đồng
bào Khmer ở An Giang hiện có trên 85.600 người, chiếm 4,05% dân số toàn
tỉnh. Sống tập trung chủ yếu ở hai huyện Tri Tôn, Tịnh Biên (trên 80.000
người), số còn lại sống rải rác ở các huyện Châu Phú, Châu Thành, Thoại Sơn.
Lịch sử hình thành cộng đồng dân tộc Khmer ở ĐBSCL và sự hội
nhập của họ vào cộng đồng dân tộc Việt Nam diễn ra khá phức tạp và có
nhiều vấn đề nhạy cảm chính trị. Do vậy, việc thực hiện tốt chính sách phát
triển KT - XH vùng ĐBDT Khmer sẽ góp phần củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân, ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững của khu vực cũng
như cả nước.
Hơn 20 năm qua, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, tình hình KT
- XH vùng ĐBDT Khmer ở các tỉnh ĐBSCL nói chung và An Giang nói
riêng không ngừng chuyển biến tích cực. Sản xuất phát triển, đồi sống nhân
dân từng bước được cải thiện, tình hình chính trị an ninh được củng cố.
Tuy nhiên, cũng như các tỉnh thành khác trong khu vực, do điểm xuất
phát thấp, điều kiện tự nhiên không thuận lợi, hệ thống thuỷ lợi chưa hoàn
chỉnh, trình độ nguồn nhân lực thấp, thiếu vốn sản xuất, tập quán canh tác
lạc hậu,v.v Do vậy, cho đến nay vùng ĐBDT vẫn còn kém phát triển, tốc
độ tăng truởng KT chậm, bà con lao động vất vả quanh năm nhưng lo không
nổi cái ăn, cái mặc và học hành cho con em. Khó khăn, túng thiếu vẫn luôn
đeo bám họ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sự phân hoá giàu, nghèo trong
cộng đồng người Khmer, giữa người Khmer với các cộng đồng dân cư khác
đang diễn ra khá nhanh.
1
Đời sống khó khăn, một bộ phận bà con dân tộc Khmer đã nghe theo
sự kích động, lôi kéo của một số thế lực phản động bên ngoài: đòi lại đất cũ


của tộc họ, đưa yêu sách đòi nhà nước cấp đất sản xuất, cấp nhà, vay vốn sản
xuất, vay tiền chuộc đất, chiếm đất của người kinh, khiếu kiện đông người,
vượt cấp v.v Điều này không chỉ ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình phát
triển kinh tế mà còn dẫn đến nguy cơ bất ổn chính trị - xã hội ở một tỉnh giáp
biên giới nước bạn Campuchia.
Để khắc phục tình hình trên, giải pháp căn bản, lâu dài và hiệu quả
nhất là tiếp tục thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, đẩy
mạnh phát triển KT - XH vùng ĐBDT, trong đó tập trung các nguồn lực để
thúc đẩy phát triển KTH người dân tộc là giải pháp mang tính đột phá. Xuất
phát từ yêu cầu trên, việc nghiên cứu đề tài “Kinh tế hộ đồng bào dân tộc
Khmer tỉnh An Giang hiện nay” là cần thiết, có ý nghĩa thiết thực cả về lý
luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Người Khmer có mặt sớm ở ĐBSCL, nhưng vấn đề nghiên cứu và tìm
hiểu về người Khmer ở ĐBSCL mới chỉ thu hút sự quan tâm của đông đảo các
học giả trong và ngoài nước trong 50 năm trở lại đây. Một số công trình đi sâu
nghiên cứu từng khía cạnh khác nhau như vấn đề dân cư và dân tộc ở ĐBSCL,
văn hoá văn nghệ truyền thống của người Khmer,v.v Bên cạnh đó, vấn đề tổ
chức xã hội, hôn nhân và gia đình của người Khmer cũng được giới thiệu khái
lược trong một số công trình nghiên cứu, các chuyên khảo của các tác giả
người Pháp, Mỹ, các học giả miền Nam Việt Nam trước ngày giải phóng.
Đặc biệt, sau ngày thống nhất đất nước cho tới nay, đã có khá nhiều
công trình nghiên cứu về dân tộc Khmer như:
Tác giả Mặc Đường, trong nhiều bài nghiên cứu như: Quá trình phát
triển dân cư và dân tộc ở ĐBSCL (thế kỷ XV - XIX); vấn đề dân cư và dân
tộc ở ĐBSCL vào những năm đầu thế kỷ XX… đã đề cập nhiều mặt về sự
2
hình thành các cộng đồng tộc người, trong đó có người Khmer và mối quan
hệ giữa các dân tộc trong vùng vào những thời kỳ khác nhau.
Nghiên cứu sự tác động chính sách dân tộc của Đảng trên lĩnh vực KT -

XH có Luận án tiến sĩ Lịch sử của Nguyễn Thanh Thuỷ: Quá trình thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với ĐBDT Khmer ở
ĐBSCL, Hà Nội - 2001. Công trình này tập trung đánh giá tác động, hiệu
quả chính sách dân tộc của Đảng đối với tình hình KT - XH vùng ĐBDT.
Thực hiện chính sách dân tộc đối với đồng bào Khmer có Luận văn thạc
sĩ lịch sử của Nguyễn Tấn Thời: Đảng bộ An Giang lãnh đạo thực hiện
chính sách dân tộc đối với đồng bào Khmer (1996-2004), Hà Nội - 2005.
Trong công trình này tác giả tập trung đánh giá thành tựu, hạn chế và rút ra
những kinh nghiệm trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc đối với
đồng bào Khmer ở An Giang.
Luận án tiến sĩ triết học của Trần Thanh Nam, Đời sống tinh thần của
đồng bào dân tộc Khmer nam bộ trong công cuộc đổi mới hiện nay. Hà Nội,
2001. Trình bày những vấn đề lý luận, thực trạng và giải pháp nâng cao đời
sống tinh thần dân tộc Khmer.
Đề cập đến các giải pháp nâng cao đời sống người Khmer có đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ do thạc sĩ Lê Tăng chủ nhiệm: Một số giải pháp
nâng cao đời sống cho ĐBDT Khmer ở miền Tây Nam bộ trong giai đoạn
hiện nay, TP.HCM - 2003. Công trình này chủ yếu nghiên cứu lý luận về vấn
đề dân tộc, phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao đời sống
ĐBDT Khmer miền Tây Nam bộ.
Luận văn thạc sĩ kinh tế Võ Thị Kim Thu, Xoá đói giảm nghèo vùng
ĐBDT Khmer tỉnh Trà Vinh, Hà Nội - 2005. Trình bày những vấn đề lý luận,
thực trạng, giải pháp xóa đói giảm nghèo vùng ĐBDT Khmer tỉnh Trà Vinh,v.v
Như vậy, tuy có nhiều công trình nghiên cứu về dân tộc Khmer,
nhưng cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào đi vào nghiên cứu
3
KTH của ĐBDT Khmer. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài này không trùng với
một công trình khoa học nào đã được công bố.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
a) Mục tiêu nghiên cứu:

Phân tích, đánh giá đúng thực trạng phát triển KTH ĐBDT Khmer An
Giang thời gian qua, trên cơ sở đó chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên
nhân và đề xuất những chủ trương, giải pháp để góp phần phát triển KTH
ĐBDT An Giang theo hướng nhanh, hiệu quả, bền vững. Tạo tiền đề nâng
cao thu nhập và mức sống của bà con, từng bước rút ngắn khoảng cách về
trình độ phát triển giữa đồng bào Khmer với đồng bào các dân tộc khác.
b) Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục tiêu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Khái quát những vấn đề lý luận và thực tiễn trong phát triển KTH
ĐBDT Khmer, đặc biệt là kinh nghiệm phát triển của một số địa phương
trong khu vực.
- Phân tích thực trạng hoạt động hiện nay, đánh giá đúng những thành
tựu, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp có tính khả thi để góp phần
giúp bà con phát huy tốt tiềm năng, đẩy mạnh SX - KD và nâng cao đời sống.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phân tích các hoạt động KT cơ
bản của hộ ĐBDT Khmer tỉnh An Giang hiện nay. Song, do nghề nông là
hoạt động KT chủ yếu của đồng bào Khmer, do đó đề tài sẽ tập trung chủ
yếu phân tích, đánh giá hoạt động KT của hộ nông dân Khmer.
b) Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian, đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi tỉnh An Giang,
đặc biệt là ở huyện miền núi, biên giới có đông ĐBDT Khmer sinh sống (Tri
Tôn, Tịnh Biên).
4
Về thời gian, phạm vi nghiên cứu thực trạng được giới hạn trong giai
đoạn từ năm 2000 đến năm 2008. Phương hướng và các giải pháp được
nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp xuyên suốt của đề tài là duy vật biện chứng và logíc -
lịch sử để xem xét, phân tích, đánh giá vấn đề nghiên cứu. Phương pháp cụ
thể được sử dụng là phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê, phương
pháp so sánh, khảo sát thực tế, v.v Những phương pháp này tùy theo từng
vấn đề trong mỗi chương mà có cách vận dụng linh hoạt nhằm hoàn thành
những nhiệm vụ luận văn đã nêu.
6. Những đóng góp mới của luận văn
a) Về mặt lý luận:
Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản: Đặc trưng, những yếu tố ảnh
hưởng và bài học kinh nghiệm trong phát triển KTH ĐBDT Khmer.
Phân tích quá trình vận động, phát triển KTH ĐBDT Khmer trong
điều kiện nền KT chuyển đổi: quá trình chuyển từ sản xuất tự cấp tự túc lên
sản xuất hàng hóa, dưới sự tác động trực tiếp của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn.
b) Về thực tiễn:
Luận văn góp phần cung cấp bức tranh khá toàn diện về các hoạt
động KT của hộ ĐBDT Khmer An Giang.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng, bước đầu luận văn cũng nêu
lên một số phương hướng và giải pháp mang tính chất gợi mở để phục vụ
cho việc nghiên cứu, đề xuất những chủ trương, chính sách đối với ĐBDT
Khmer trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được kết cấu
gồm phần mở đầu, 3 chương, 8 tiết và kết luận.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HỘ ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER HIỆN NAY
1.1. VAI TRÒ VÀ XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1.1.1. Kinh tế hộ
Bất kỳ một công việc nghiên cứu nào cũng đều phải bắt đầu từ chỗ xác
định rõ một số khái niệm cơ bản ban đầu. Trong những năm gần đây, ở Việt
Nam đã có nhiều công trình khoa học, bài viết đề cập nhiều đến vấn đề phát
triển KTH. Song, khái niệm hộ và KTH vẫn chưa có sự thống nhất cao.
Về phương diện thống kê, Liên Hiệp Quốc cho rằng: “Hộ là những
người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có chung một
ngân quỹ” [43, tr.8].
Tại cuộc thảo luận quốc tế về quản lý nông trại ở Hà Lan năm 1980,
các nhà khoa học nhất trí rằng: “Hộ là một đơn vị cơ bản của xã hội có liên
quan đến sản xuất, tái sản xuất, đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội
khác”[3, tr.6].
Những quan niệm trên đây chỉ đề cập đến chức năng sản xuất, tiêu
dùng của hộ. Hay nói cách khác, xem hộ như một đơn vị KT. Khía cạnh
nhân chủng học của hộ chưa được đề cập.
Giáo sư T.G.Mc Gee trường Đại học Tổng hợp British Columbia, khi
khảo sát “kinh tế hộ trong quá trình phát triển” ở một số nước châu Á cho
rằng: “Ở các nước châu Á hầu hết người ta quan niệm hộ là một nhóm người
cùng chung huyết tộc, hay không cùng chung quyết tộc ở chung trong một
mái nhà, ăn chung một mâm cơm và có chung một ngân quỹ” [43, tr.8].
Theo A.V.Chaianov, khái niệm hộ, đặc biệt là trong đời sống nông
thôn không phải bao giờ cũng tương đương với khái niệm sinh học làm chỗ
6
dựa cho nó mà nội dung còn có thêm cả một loạt những phức tạp về đời
sống KT và đời sống gia đình.
Ở Việt Nam, hộ là một khái niệm đã tồn tại ngay từ thời phong kiến.
Nó cũng được coi là một đơn vị tế bào của xã hội, nhưng không phải bao giờ
cũng trùng khớp với gia đình. Khái niệm này tồn tại trong hệ thống hành
chính - pháp lý, dùng để chỉ những người cùng sống chung dưới một mái
nhà, có KT chung.

Hiện nay, trong các văn bản pháp luật, hộ được xem như là chủ thể
trong các quan hệ dân sự do pháp luật quy định và được định nghĩa như là
một đơn vị mà các thành viên có hộ khẩu chung, tài sản chung và hoạt động
KT chung. Song, về phương diện nghiên cứu các tác gỉa vẫn còn nhiều ý
kiến khác nhau.
Có quan điểm cho rằng “hộ là một nhóm người cùng huyết tộc sống
chung hay không sống chung với những người khác huyết tộc trong cùng
một mái nhà, ăn chung và có chung một ngân quỹ” [43, tr.11].
Ngoài ra, các tác giả nêu lên 4 điểm cần lưu ý khi phân tích hộ, đó là:
+ Hộ là một nhóm người cùng huyết tộc hay không cùng huyết tộc.
+ Hộ cùng sống chung hay không cùng sống chung một mái nhà.
+ Có chung một nguồn thu nhập và ăn chung.
+ Cùng tiến hành sản xuất chung.
Trên thực tế ít có trường hợp những hộ mà thành viên không sống
chung một mái nhà mà lại cùng thu nhập và ăn chung. Hơn nữa, tiêu chí thứ
tư là cùng tiến hành sản xuất chung chỉ đúng với những hộ nông dân có KT
“tự cấp tự túc”. Nó có thể đúng vào thời điểm hiện tại ở nhiều vùng nông
thôn, song nó không thể dùng làm một tiêu chuẩn chung để xác định hộ.
Hộ có những đặc điểm thay đổi theo thời gian. Khi xã hội còn ở một
trình độ phát triển thấp, với KT tự cấp tự túc là nhân tố cơ bản cấu thành nên
hộ. Song, khi xã hội phát triển cao hơn, thì các thành viên của hộ có thể
7
không còn làm chung và ăn chung nữa. Họ có thể cùng sống chung, nhưng
làm việc ở những nơi khác nhau, và có thể chỉ đóng góp một phần thu nhập
vào một số hoạt động chung của hộ.
Do sự gắn bó gần như là đồng nhất giữa hộ và gia đình như vậy cho
nên ở nước ta hiện nay, nhiều người đồng nhất khái niệm hộ và gia đình.
Thực ra, đây là hai khái niệm không hoàn toàn đồng nhất.
Qua một số định nghĩa trên đây cho thấy, hộ và gia đình có những tiêu
thức chung để nghiên cứu như cơ sở KT, quan hệ huyết thống và hôn nhân,

tình trạng cư trú,… Tuy vậy, gia đình thường được xem xét trong các mối
tương quan về xã hội, còn hộ là một đơn vị KT khi xem xét bản chất KT của
nó trong mối tương quan với các loại hình kinh tế khác.
Như vậy, gia đình được coi là hộ khi các thành viên có chung một cơ
sở KT. Ngược lại, hộ chỉ được coi là gia đình khi các thành viên của nó có
quan hệ huyết thống và hôn nhân. Với cách tiếp cận này, gia đình là cơ sở
của hộ nói chung. Gia đình - một loại hình hộ- nó bao hàm những yếu tố để
hình thành nên những loại hộ mở rộng khác.
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về hộ, song khi xem xét hộ theo
nghĩa rộng và toàn diện trên các khía cạnh: Huyết tộc, sản xuất, tiêu dùng…,
chúng tôi cho rằng có thể nhận dạng hộ qua những tiêu chí cơ bản sau:
Thứ nhất, một nhóm người cùng tiến hành sản xuất và tái sản xuất chung.
Thứ hai, có chung một nguồn thu nhập và phân phối nguồn thu nhập
đó dưới những hình thức nhất định. Nói cách khác có cùng một ngân sách
(thu và chi).
Thứ ba, cùng huyết tộc hoặc không cùng huyết tộc, cùng sống chung
trong một mái nhà hoặc không cùng sống chung trong một mái nhà.
Như vậy, hộ là một đơn vị KT - XH. Nó có nhiều chức năng khác
nhau, nhưng khi bàn về chức năng của hộ, người ta thường đặc biệt quan
tâm đến các quan hệ KT làm nền tảng cho hộ thực hiện các chức năng khác.
Do đó, xét dưới góc độ KT, khái niệm hộ được hiểu là KTH.
8
KTH là tế bào KT-XH, tồn tại lâu dài trong lịch sử; là đơn vị KT tự
chủ trong nền SXHH. Trong KTH, các thành viên gắn bó với nhau bởi quan
hệ hôn nhân, huyết thống và các quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối sản
phẩm vì lợi ích chung của hộ và của các thành viên.
Trong những xã hội chậm phát triển, hộ giữ đồng thời cả ba chức
năng: SX - KD, tiêu dùng và đầu tư để tái sản xuất mở rộng. Nhìn rộng hơn
thì hai chức năng SX - KD và đầu tư có thể gộp lại vào nhóm chức năng KT.
Còn trong những xã hội phát triển, tỷ lệ các hộ tiến hành kinh doanh ở quy

mô gia đình còn rất thấp. Nó phổ biến chỉ tồn tại trong những lĩnh vực như
nông nghiệp và dịch vụ sinh hoạt, buôn bán nhỏ. Chức năng sản xuất kinh
doanh và đầu tư chủ yếu do các doanh nghiệp thực hiện.
1.1.2. Vai trò của kinh tế hộ trong nền kinh tế quốc dân
Trong lịch sử phát triển KT quốc dân, thời kỳ nào vai trò của KTH
cũng đều rất quan trọng, vì nó không những là “tế bào” của xã hội, là đơn vị
sản xuất và bảo đảm cuộc sống cho tất cả các thành viên trong gia đình, mà
còn là chủ thể tiêu dùng rất đa dạng trong nền KT.
Trong thời kỳ thực hiện chế độ hợp tác hoá, KTH được xem là “kinh
tế phụ gia đình” hay “kinh tế phụ xã viên”, bổ sung cho KT tập thể.
Vai trò của KTH nói chung, đặc biệt là KT nông hộ có nhiều thay đổi
cả về phương thức quản lý lẫn lao động sản xuất, nhất là kể từ khi phong
trào HTX mất dần động lực phát triển. Mốc quan trọng của sự thay đổi đó là
sự ra đời của Chỉ thị 100, ngày 31-1-1981 của Ban Bí thư về cải tiến công
tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp
tác xã. Tiếp theo đó, Nghị quyết 10, ngày 5-4-1988 của Bộ Chính trị về đổi
mới quản lý nông nghiệp đã tạo cơ sở quan trọng để nông hộ trở thành đơn
vị KT tự chủ trong nông nghiệp.
Trong thời kỳ đổi mới, với tính năng động và tiềm lực KT ngày càng
được tăng cường, KTH có điều kiện thể hiện vai trò đặc biệt quan trọng đối
với nền KT quốc dân. Vai trò đó được thể hiện qua những nội dung sau:
9
Thứ nhất, KTH là cầu nối, là khâu trung gian để chuyển nền kinh tế
tự nhiên lên KT hàng hóa:
KTH được coi là khâu trung gian có vai trò đặc biệt quan trọng trong
giai đoạn thực hiện bước chuyển từ KT tự nhiên lên KT hàng hóa giản đơn
và tạo đà cho bước chuyển từ KT hàng hóa giản đơn lên KTTT. Bước
chuyển biến từ KT tự nhiên lên KT hàng hóa giản đơn với quy mô hộ gia
đình là một giai đoạn lịch sử đặc biệt, nếu chưa trải qua thì không thể phát
triển SXHH quy mô lớn, không thể thoát khỏi tình trạng kém phát triển.

Thực tế cho thấy, hộ và nền KT tự nhiên của nó chứa đựng những
tiềm năng của sự phân hoá. Và do đó thúc đẩy nông thôn quá độ lên một
trình độ cao hơn - Nông thôn SXHH. Năng lực tự quyết định quá trình sản
xuất của các hộ trong nền KT tự nhiên, tự cung tự cấp là mầm móng của
những chiều hướng phát triển SXHH khác nhau. Chính nó sẽ tự phá vỡ các
quan hệ KT khép kín của hộ, hình thành hộ SXHH. Song, đó là một quá
trình lâu dài, gắn với những bước tiến nhất định của lực lượng sản xuất.
Thứ hai, KTH là đơn vị tích tụ vốn cho sản xuất kinh doanh:
Quá trình chuyển từ nền KT tự nhiên, tự cấp tự túc lên KT hàng hóa
chỉ có thể diễn ra từ việc tích tụ vốn ở từng hộ. Nếu không có sự tích tụ đó
thì những khoản tiền dư thừa do hoạt động KT của hộ tạo nên sẽ biến thành
của cải tích trữ hoặc bị lãng phí vào những công việc khác, không được sử
dụng vào mục đích SX - KD.
Trong thời kỳ hợp tác hoá trước đây, hộ đã không thể trở thành đơn vị
tích tụ vốn có hiệu quả, nên không huy động được nguồn để đưa vào SX -
KD. Chỉ từ khi đổi mới cơ chế quản lý, hộ nông dân trở thành đơn vị KT tự
chủ và mặc nhiên KTH cũng trở thành đơn vị tích tụ vốn.
Cùng với sự phát triển của sản xuất, mức độ tích lũy vốn ngày càng
cao, KTH càng có điều kiện phát triển ngành nghề, mở rộng các hoạt động
để nâng cao thu nhập.
10
Thứ ba, KTH là đơn vị cơ sở thực hiện phân công lao động xã hội:
Trong nền KT tự nhiên, sản xuất của hộ chủ yếu nhằm thỏa mãn nhu
cầu thiết yếu của gia đình, chỉ có sản phẩm dư thừa mới trở thành hàng hóa,
nhưng phần lớn còn mang tính chất ngẫu nhiên, lao động của hộ chưa thật sự
trở thành lao động xã hội. Khi chuyển sang KTTT, cơ cấu KT tự cấp, tự túc
của hộ bị phá vỡ, hộ trở thành những đơn vị SXHH đa dạng, từ các hoạt
động nông - lâm - ngư nghiệp, phát triển ngành nghề, đến các loại hình dịch
vụ và kinh doanh tổng hợp. Đó là biểu hiện cụ thể và sinh động của sự phân
công lao động xã hội đã diễn ra từ đơn vị cơ sở. Góp phần tạo nên sự chuyển

biến đối với quá trình phân công lao động trong nông nghiệp, nông thôn
cũng như cả nền KT.
Thứ tư, KTH là đơn vị KT cơ sở tiếp nhận và ứng dụng những tiến
bộ khoa học công nghệ vào SX - KD:
Trong nền KTTT, các hộ muốn SX - KD hiệu quả, thu lợi nhuận cao
buộc họ phải chú ý đến các biện pháp để tăng năng suất lao động, tăng khả
năng cạnh tranh.
Các hộ một mặt phải sử dụng có hiệu quả những kinh nghiệm sản
xuất lâu đời, mặt khác phải áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ mới. Ở đây động cơ lợi nhuận và lợi ích KT là động lực thúc đẩy họ
áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất. Nó là một quá trình tự
giác gắn với lợi ích thiết thân của từng hộ. Thông qua việc áp dụng tiến
bộ khoa học công nghệ, đồng thời cũng diễn ra quá trình sàng lọc và cải
tiến kỹ thuật, làm cho nó thật sự thích ứng và mang lại hiệu quả KT cao
cho các hộ.
Như vậy, KTH vừa là nơi lưu giữ những kinh nghiệm truyền thống,
vừa là nơi tiếp nhận, phát triển hoàn thiện thêm những kỹ thuật công nghệ
mới - là điều kiện vững chắc bảo đảm cho việc nâng cao năng suất lao động
và hiệu quả SX - KD của các hộ trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
11
Thứ năm, kinh tế hộ là đơn vị kinh tế cơ bản đáp ứng cung, cầu của
thị trường:
Là đơn vị KT tự chủ, các hộ phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường để
lhoạch định phương án SX - KD hiệu quả: sản phẩm gì, khối lượng, chất
lượng như thế nào, tiêu thụ ở đâu, giá cả bao nhiêu…? Vô hình chung mỗi
hộ trở thành một đơn vị cân đối cung, cầu theo tín hiệu của thị trường và là
một đơn vị tiêu dùng của xã hội.
Nhờ ưu thế của một đơn vị sản xuất quy mô nhỏ, tự tích lũy vốn, ứng
dụng khoa học công nghệ và thực tiễn phân công lao động xã hội từ cơ sở,
nên KTH có thể đáp ứng nhu cầu của thị trường một cách nhanh chóng và

thích nghi khá tốt với những biến đổi của cơ chế thị trường.
KTH dễ dàng tổ chức lại sản xuất, phân công lại lao động, bắt tay
ngay vào SX - KD những mặt hàng thị trường đang và sẽ có nhu cầu một
cách nhanh chóng, hữu hiệu, trong khi các đơn vị sản xuất lớn khó thích ứng
kịp. Mặt khác, khi nền KT gặp những khó khăn trong quá trình tái sản xuất,
thì hộ rất dễ dàng “xoay sở” để tìm kiếm phương thức khai thác các nguồn
vốn, lao động…của mình nhằm tái sản xuất. Vì vậy, KTH có khả năng thích
ứng cao với mọi nhu cầu của thị trường mà ít có hình thức tổ chức sản xuất
kinh doanh nào ưu thế hơn.
Thực tế cho thấy, ở phần lớn các quốc gia trên thế giới, KTH đảm bảo
hầu như toàn bộ vấn đề lương thực thực phẩm, rau quả tươi sống, một phần
nông sản làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến,…Điều đó khẳng định
vai trò quan trọng của KTH trong việc đáp ứng nhanh quan hệ cung cầu
trong nền KTTT. Mặt khác, hộ lại tiêu thụ hàng công nghệ phẩm, dịch vụ
của khu vực công nghiệp, thành thị. Như vậy, với tư cách là đơn vị tiêu dùng
xã hội, hàng triệu hộ trải rộng trên địa bàn nông thôn rộng lớn, thực sự là thị
trường tiêu thụ thúc đẩy các ngành công nghiệp, dịch vụ, khu vực thành thị
phát triển.
12
1.1.3. Xu hướng vận động, phát triển kinh tế hộ trong giai đoạn
hiện nay
C.Mác và Ph.Ăngghen đã để lại nhiều di sản lý luận quý báu về KT,
trong đó có lý luận về tiểu nông và KT tiểu nông. Tác phẩm “Vấn đề nông
dân ở Pháp và Đức” chứa đựng hàng loạt những chỉ dẫn KT chính trị về các
vấn đề chính sách nông nghiệp của Nhà nước, các hình thức hợp tác, khoán
thuê trong nông nghiệp…, đặc biệt là quan điểm về KT nông dân và cải tạo
KT tiểu nông. Cả hai ông đều cho rằng: tiểu nông là người chủ sở hữu nhỏ
về tư liệu sản xuất, dựa vào lao động của bản thân mình để tạo ra sản phẩm
thoả mãn những nhu cầu chính cho bản thân và gia đình, họ không thuê
mướn lao động và kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa, nên sản xuất của họ

mang nặng tính tự cấp, tự túc dựa trên trình độ thủ công là chủ yếu.
Lúc đầu, khi nghiên cứu con đường công nghiệp hóa của nước Anh,
C.Mác đã đưa ra tiên đoán rằng giai cấp nông dân sẽ bị thủ tiêu cùng với sự
phát triển của đại công nghiệp. Trong xã hội chỉ còn hai giai cấp là tư sản và
vô sản. Nông nghiệp cũng sẽ được tổ chức lại thành nền đại sản xuất như
trong công nghiệp. Trong nông nghiệp cũng sẽ diễn ra quá trình tách lao
động ra khỏi tư liệu sản xuất, trước hết là ruộng đất và kết hợp chúng lại
theo phương thức mới dựa trên sở hữu tư nhân TBCN và lao động làm thuê.
Sau này, chính ở nước Anh, mặc dù quá trình công nghiệp hóa diễn ra
nhanh chóng cùng với sự tước đoạt và xóa bỏ KT nông hộ một cách quyết
liệt, nhưng các nông trại gia đình vẫn tồn tại và phát huy hiệu quả của nó so
với các xí nghiệp TBCN. Nông trại gia đình đã dần dần thay thế các xí
nghiệp nông nghiệp sử dụng lao động làm thuê. Vì vậy, C.Mác đã nhận thấy
dự đoán ban đầu của mình là không thích hợp. Do đó, khi viết Quyển III Bộ
Tư bản, Ông cho rằng, ngày nay ở nước Anh siêu công nghiệp, hình thức lãi
nhất không phải là nông trại công nghiệp hóa mà là nông trại gia đình thực tế
không dùng lao động làm thuê.
13
Rõ ràng, C.Mác đã thấy sự tồn tại khách quan của KT nông hộ do
tính hiệu quả của nó và con đường đặc thù của nông nghiệp không giống
như trong công nghiệp. Thế nhưng nếu không phát triển như trong công
nghiệp, thì tiến tới xã hội hóa sản xuất, nông nghiệp cũng như các nông
hộ sẽ như thế nào? C.Mác cho rằng, đối với nghề nông hợp lý thì hoặc là
phải có bàn tay của người tiểu nông sống bằng lao động của mình hoặc là
phải có sự kiểm soát của những người sản xuất có liên kết với nhau. Từ
đó, để cải tạo nền KT tiểu nông, chuyển nó lên SXHH cần phải có sự liên
kết giữa các nông hộ. Sự liên kết ấy như thế nào thì C.Mác và
Ph.Ăngghen chưa dự tính hết được, nhưng khi nói về vấn đề cải tạo những
người tiểu nông thì cả hai ông đều rất thận trọng. Theo Ph.Ăngghen, cần
phải để cho người nông dân tự suy nghĩ trên luống cày của họ. Việc đưa

nông dân vào con đường hợp tác nhất thiết không phải bằng cưỡng bức
mà phải để cho họ tự nguyện. Ông nhấn mạnh: Nhiệm vụ của chúng ta đối
với người tiểu nông, trước hết là phải hướng nền sản xuất cá nhân và
chiếm hữu cá nhân của họ vào con đường hợp tác, không phải bằng cách
cưỡng ép mà là bằng cách nêu gương cho họ và bằng cách xã hội giúp đỡ
họ thực hiện việc ấy.
Kế thừa và phát triển di sản lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen trong
điều kiện mới, lúc đầu V.I.Lênin cho rằng nền KT của chế độ mới sẽ không
còn KT hàng hóa. Giai cấp vô sản sau khi giành được chính quyền sẽ quản
lý trực tiếp toàn bộ quá trình sản xuất và phân phối. Toàn xã hội sẽ như một
công xưởng khổng lồ. Do vậy, Chính sách Cộng sản thời chiến, giai cấp
công nhân Nga đã liên kết với bần cố nông, tước đoạt của địa chủ, Cu-lắc và
trung nông - lực lượng SXHH ở nông thôn. Chính sách trưng thu, trưng mua
lương thực lúc đó thực chất là tước đoạt lương thực. Sau nội chiến, nông dân
phản ứng gay gắt đối với chính sách trưng thu lương thực. Nông nghiệp và
cả nền KT lâm vào tình trạng kiệt quệ. V.I. Lênin đã nhận rõ sai lầm của
14
Chính sách Cộng sản thời chiến, thay đổi quan điểm của mình về KT hàng
hóa, KT tiểu nông.
Trong Chính sách Kinh tế mới, V.I.Lênin cho rằng phải liên minh với
nông dân, đặc biệt là tầng lớp trung nông. Chính sách thuế lương thực cho
phép nông dân được tự do lưu thông sản phẩm nông nghiệp sau khi làm tròn
nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước, cho phép nông dân được làm chủ ruộng đất
và các tư liệu sản xuất khác,v.v Thực chất chủ trương này là trao quyền tự
chủ cho các nông hộ, là phát triển KT nông hộ lên SXHH, tức là phải để cho
người nông dân thực sự trở thành các “ tiểu nghiệp chủ”.
Cùng với tư tưởng phục hồi, củng cố, phát triển KT tiểu nông,
V.I.Lênin chủ trương thu hút đông đảo những người tiểu nông vào công
cuộc xây dựng CNXH, thông qua lợi ích của họ để gắn bó với lợi ích xã hội
chứ không phải con đường tập thể hoá phi KT. Ông cho rằng, HTX của hàng

triệu người tiểu nông chính là bước quá độ sang một chế độ mới bằng con
đường đơn giản nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông dân. Nhà nước cần
khuyến khích các hộ nông dân để họ tự nguyện liên kết với nhau trong
những HTX như một tất yếu KT. Người yêu cầu phải quán triệt nguyên tắc
tự nguyện trong xây dựng HTX, vì nếu áp dụng theo lối “mệnh lệnh” đối với
người nông dân là đi vào con đường tự sát khi cải biến KT tiểu nông của họ.
Bên cạnh những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, khi tìm hiểu
quy luật tồn tại và vận động của KTH nói chung, cũng như KT nông hộ nói
riêng, phải kể đến những quan điểm của A.V. Chaianov (1888 - 1939).
Điểm trung tâm trong các công trình của Chaianov là vấn đề bản chất
KT nông hộ, cơ cấu tổ chức KT và con đường phát triển của nó. Theo đó,
Ông cho rằng:
KT nông dân là một loại hình KT phức tạp của tổ chức sản xuất nông
nghiệp. Đó là những xí nghiệp SXHH của gia đình nông dân không thuê
nhân công và chiếm đại bộ phận nông hộ ở nước Nga trước Cách mạng
Tháng Mười cũng như trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH ở Liên Xô.
15
KT nông dân gắn bó hữu cơ với gia đình nông dân, vì thế có thể coi
KT nông dân là KT gia đình. Đó là một xí nghiệp lao động gia đình sống
theo những quy luật của nó, khác với những quy luật TBCN dựa trên cơ sở
lao động làm thuê. Trong KT gia đình, người nông dân vừa là người chủ,
vừa là người lao động. Mục đích sản xuất không phải vì lợi nhuận mà để
thỏa mãn nhu cầu của gia đình.
Khi vượt ra khỏi KT nữa tự nhiên, người nông dân bắt đầu cảm thấy sự
cần thiết của tín dụng, kỹ thuật và công nghệ mới. Nhưng mặt khác, các quá
trình thuần túy sinh học (trong trồng trọt cũng như chăn nuôi) lại đòi hỏi một
sự chăm sóc của từng cá nhân và điều đó lại hạn chế sự phát triển theo chiều
rộng của doanh nghiệp nông dân.
Mỗi ngành có một giới hạn tối ưu cần thiết và khi giới hạn đó vượt
quá khuôn khổ của gia đình nông dân, lúc đó nông dân sẽ tìm cách hợp tác

với nhau để đạt đến giới hạn tối ưu mới, bằng cách chuyển dần lên sản xuất
lớn. Nói cách khác, do không có khả năng tập trung vô hạn theo chiều sâu
như trong công nghiệp nên sản xuất nông nghiệp chỉ có thể tập trung theo
chiều rộng. Như vậy, từ những người nông dân độc lập, họ sẽ đi đến chỗ liên
kết các quá trình và các ngành tách rời nhau, cùng nhau mua sắm tư liệu sản
xuất, thành lập các nhóm sử dụng máy móc và tiêu thụ sản phẩm, cải tạo đất
đai…nhằm thay đổi cách SX- KD của mình. Toàn bộ hệ thống ấy dần dần
biến thành hệ thống KT hợp tác ở nông thôn.
A.V.Chaianov nhấn mạnh, quá trình hợp tác hóa nông nghiệp không
được phá vỡ doanh nghiệp gia đình nông dân mà chỉ dần dần cải tạo những
doanh nghiệp nông dân cá thể phân tán thành những hình thức KT xã hội cao
nhất. Quá trình hợp tác hóa phải phát triển theo con đường dần dần và lần lượt
“tước đi” của các doanh nghiệp nông dân những chức năng và thao tác nào
đem lại hiệu quả KT trong các HTX lớn hơn trong khuôn khổ doanh nghiệp
nông dân riêng lẽ. Đó là việc tước đi của doanh nghiệp nông dân những quá
16
trình có liên quan đến lĩnh vực lưu thông và trên cơ sở đó mà thành lập các
HTX tiêu thụ - cung ứng, tước đi của doanh nghiệp nông dân khâu sơ chế sản
phẩm và thành lập các xí nghiệp chế biến, rồi bằng cách đó mà đặt nền móng
cho các hệ thống HTX. Các hệ thống này thông qua các trung tâm HTX vùng
mà thành lập các liên hệ KT của doanh nghiệp nông dân với các xí nghiệp công
nghiệp, thương nghiệp và đưa doanh nghiệp nông dân ra thị trường thế giới.
Từ những quan điểm nêu trên kết hợp với thực tiễn phát triển nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam qua hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới,
bước đầu có thể khái quát những xu hướng chung trong quá trình vận động
và phát triển của KTH những năm tới như sau:
Thứ nhất, KTH độc lập, tự chủ phát triển ổn định, đóng vai trò ngày
càng quan trọng trong SXHH ở khu vực nông nghiệp, nông thôn:
Chúng ta thấy rằng, mặc dù trải qua những thăng trầm của lịch sử,
nhưng KTH vẫn là hình thức có khả năng thích ứng cao trong các phương

thức sản xuất. Hiện nay, trong điều kiện phát triển KTTT, mặc dù có những
thay đổi nhất định, song KTH vẫn đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với
nền KT quốc dân, là tế bào KT của xã hội hiện đại. Do vậy, dù muốn hay
không thì KTH độc lập, tự chủ với tính chất tiểu nông vẫn sẽ tiếp tục tồn tại,
phát triển và phát huy tác dụng trong thời gian dài.
Thứ hai, sự phân hoá giữa các hộ có chiều hướng ngày càng tăng:
Theo đó, một bộ phận hộ dân do những hạn chế về năng lực SX - KD,
hoặc do các điều kiện, hoàn cảnh khó khăn khách quan sẽ phải “chia tay”
với ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác, trở thành những người lao động
làm thuê, đôi khi chính trên mãnh ruộng của mình. Đó chính là thách thức
“tiêu vong” của những người “tiểu nông” mà trước đây C.Mác đã cảnh báo.
Bên cạnh đó, một bộ phận do tích luỹ được vốn, kinh nghiệm, biết áp
dụng tiến bộ khoa học công nghệ, thích nghi tốt với cơ chế thị trường…sẽ có
điều kiện mở rộng qui mô, ngành nghề, nâng cao trình độ tổ chức SX - KD,
17
phát triển lên mô hình KT trang trại. Xu hướng này thể hiện bước chuyển
biến về chất của KTH nông dân, phù hợp với quy luật vận động, phát triển
của KT tiểu nông trong nền KTTT.
Thứ ba, xu hướng tạo lập và phát triển các hình thức liên kết, hợp tác
đa dạng:
Trong quá trình phát triển KTH, tất yếu nảy sinh nhu cầu liên kết,
hợp tác với nhau giữa những hộ ở những khâu cần thiết trên cơ sở hoàn
toàn tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi. Đây là nhu cầu tự thân trong
quá trình vận động, phát triển của KTH. Nó phát triển dần từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Theo cách nói của
V.I.Lênin, việc xây dựng HTX với tư cách là một hình mẫu KT - XH
trong khi cần duy trì nền KT nông dân cá thể, sẽ làm cho nó quan tâm một
cách thiết thực tới lợi ích vật chất của người nông dân, rằng chế độ HTX
đó sẽ đem lại cho những người nông dân một lợi ích KT và tạo ra những

đòn bẩy để đưa họ theo con đường XHCN.
Song, bên cạnh sự liên kết giữa các hộ dân với nhau theo mô hình tổ
hợp tác, HTX. Trong giai đoạn phát triển KTTT, xuất phát từ nhu cầu và lợi
ích của các bên, sẽ hình thành và phát triển ngày càng sâu rộng, hiệu quả các
mối liên kết, hợp tác đa dạng giữa các hộ độc lập, tự chủ hoặc giữa tổ hợp
tác, HTX với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần KT. Trường hợp rộng
hơn có thể có sự tham gia của Nhà nước, nhà khoa học và cả ngân hàng.
1.2. ĐẶC TRƯNG VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ HỘ ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER
1.2.1. Đặc trưng của kinh tế hộ đồng bào dân tộc Khmer
Bên cạnh những đặc trưng vốn có của KTH nói chung, do điểm xuất
phát cũng như phong tục tập quán, KTH ĐBDT Khmer còn có những đặc
thù riêng. Trong đó phải kể đến những đặc trưng cơ bản sau:
18
Thứ nhất, chủ hộ và các thành viên trong hộ là người Khmer:
Với đặc trưng này, các thủ thể KT người Khmer vốn có lịch sử hình
thành, kỹ thuật sản xuất, phong tục tập quán, bản sắc văn hoá riêng. Hầu hết
họ đều sử dụng tiếng Việt như là ngôn ngữ thứ hai. Đa phần chủ hộ cũng
như các thành viên lớn tuổi thường không biết tiếng Việt, họ giao tiếp với
nhau bằng tiếng dân tộc. Đây cũng là khó khăn của họ khi hoà nhập vào
cuộc sống cũng như phát triển KT gia đình.
Mỗi hộ trung bình có từ 4 đến 5 thành viên, trong đó có từ 2 đến 3 lao
động. Người Khmer vốn rất cần cù, chịu đựng tốt gian khó, nhưng trình độ
mọi mặt còn thấp.
Đặc điểm của đồng bào Khmer ở ĐBSCL là trên 90% dân số sống ở
nông thôn, cư trú thành những cụm dân cư gọi là Phum, Sóc tương đối biệt
lập với cộng đồng các dân tộc khác, cũng có một bộ phận đồng bào sống xen
kẽ với người Kinh, còn một số hộ sinh sống rải rác ở vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới và ở ven các kênh rạch.
Do ảnh hưởng sâu sắc bởi Phật giáo Tiểu thừa, nên trong triết lý sống

của người Khmer thường thiên về các giá trị tinh thần hơn vật chất. Người
Khmer sẵn sàng đóng góp tiền của, công sức để xây dựng những ngôi chùa
khang trang, lộng lẫy, trong khi họ chấp nhận cuộc sống nghèo túng trong
những căn nhà lụp sụp. Họ cũng sẵn sàng vay nợ để tổ chức các lễ hội
truyền thống, ma chay, tiệc cưới long trọng, hoặc đóng tiền để con em họ
được vào chùa tu v.v Chính triết lý sống như vậy đã ảnh hưởng không nhỏ
đến sản xuất và đời sống của người Khmer.
Thứ hai, KTH ĐBDT Khmer còn mang nặng tính tự cung, tự cấp:
Hộ Khmer tồn tại lâu đời với phương thức canh tác truyền thống trên
những vùng đất đồi núi chia cắt, ruộng đất manh mún, chênh lệch về độ dốc
lớn. Phần lớn sản xuất của họ phụ thuộc vào thiên nhiên. Những năm mưa
thuận, gió hoà thì được mùa, những năm thời tiết không thuận lợi thì đời
sống bà con gặp nhiều khó khăn.
19
Trong những năm qua, được sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước,
KTH ĐBDT Khmer có nhiều chuyển biến tích cực, nhiều hộ đã chủ động
học tập, mạnh dạn áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào trồng trọt,
chăn nuôi và phát triển các ngành nghề truyền thống như dệt thổ cẩm, đan
lát, gốm…do đó, bộ mặt KTH phát triển đáng kể, tình hình KT- XH vùng
ĐBDT có bước khởi sắc. Tuy nhiên, do điều kiện SX - KD khó khăn, tập
quán canh tác lạc hậu, trình độ hạn chế, cộng với “sức ỳ” của tư tưởng trông
chờ, ỷ lại, nên hoạt động SX - KD của một bộ phận bà con còn mang tính tự
phát. Họ sản xuất ra trước hết là để thỏa mãn nhu cầu bản thân, còn lại mới
đem bán để mua về các sản phẩm khác. Mặc dù SXHH vùng ĐBDT Khmer
đã có bước phát triển, nhưng vẫn còn một bộ phận bà con chưa thoát khỏi
tình trạng sản xuất khép kín tự cung, tự cấp.
Thứ ba, cơ cấu SX - KD ngày càng đa dạng, trong đó nông nghiệp là
nền tảng:
Sản xuất nông nghiệp chiếm một địa vị quan trọng trong đời sống KT và
có ảnh hưởng to lớn trong các mặt sinh hoạt văn hoá, xã hội, tôn giáo…của

người Khmer: “Nghề nghiệp chính của bà con là trồng lúa khoảng 53,54%,
trồng trọt hoa màu chiếm 9,16%, chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ hải sản
khoảng 18,32%, buôn bán 2,5% và một bộ phận đồng bào đi làm thuê, làm
mướn, chiếm khoảng 16,45% dân số dân tộc Khmer” [2, tr.1].
Trong sản xuất nông nghiệp, người Khmer có truyền thống sản xuất và
kỹ thuật canh tác khá phong phú. Đó chính là kết quả của người nông dân
Khmer trong quá trình chinh phục thiên nhiên vùng ĐBSCL và sự giao lưu
văn hoá với các dân tộc anh em Việt, Hoa, Chăm cùng định cư trong vùng.
Tuy nhiên, sản xuất còn mang tính độc canh cây lúa, chưa sử dụng hết tiềm
năng đất đai và nguồn lao động dồi dào ở vùng nông thôn.
Ngoài sản xuất nông nghiệp, người Khmer ở ĐBSCL còn có một số
hoạt động KT khác. Tuỳ từng vùng, từng thời điểm nhất định mà các hoạt
20
động như tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ được người nông dân Khmer tranh
thủ làm thêm, vừa tận dụng thời gian nhàn rỗi, vừa tăng thu nhập.
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp của người Khmer chủ yếu là cung cấp
những vật dụng trong sinh hoạt gia đình. Nghề thủ công được người Khmer
thực hiện trong những lúc rảnh rỗi công việc đồng áng và gắn với những
sinh hoạt gia đình. Một số sản phẩm thủ công cổ truyền được tiêu thụ trên
thị trường như chiếu Vĩnh Châu (Sóc Trăng), gốm Tri Tôn (An Giang), dệt
thổ cẩm (Trà Vinh, An Giang), đan mây tre (Sóc Trăng),v.v
Trong lĩnh vực thương nghiệp, số lượng người Khmer sống bằng nghề
buôn bán rất ít, chỉ có một số sống ở tỉnh lỵ có quan hệ hôn nhân với người
Hoa, Kinh. Trong lĩnh vực này, người Khmer chủ yếu là buôn bán nhỏ với
các cửa hiệu tạp hoá, dịch vụ ăn uống, v.v vừa ít vốn lại ít hàng. Một số
vừa bán hàng vừa sản xuất nông nghiệp hoặc làm dịch vụ nhỏ như sửa xe,
làm nhân công các xưởng sửa chữa, nhân công xí nghiệp, nhà máy.
Như vậy, đặc trưng nổi bật nhất của KTH ĐBDT Khmer là KT nông
nghiệp đóng vai trò nền tảng, chi phối. Các hoạt động khác tuy có bước phát
triển, nhưng còn mang tính chất nhỏ lẻ, chưa phổ biến và hiệu quả chưa cao.

Thứ tư, qui mô sản xuất nhỏ bé:
Đặc trưng nổi bật của các hộ dân tộc Khmer hiện nay là quy mô canh
tác rất nhỏ bé, biểu hiện rõ tính chất tiểu nông. Theo đó số liệu điều tra của
Ban dân vận Trung ương năm 1998: “Quy mô đất đai bình quân là 2,821
ha/hộ, trong đó có 2,384 ha đất nông nghiệp, riêng đất trồng cây ngắn ngày
có 2,149 ha” [31, tr.135].
Theo kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy, ở ĐBSCL “Diện tích đất sản
xuất vùng đồng bào Khmer bình quân là 0,44 ha/người” [2, tr.1]. Trong đó,
số hộ không đất và thiếu đất sản xuất ngày càng gia tăng.
Bên cạnh diện tích đất bình quân thấp, khả năng tích tụ và tập trung vốn
của ĐBDT Khmer còn nhiều hạn chế. Do vậy, hộ dân tộc thường xuyên hoạt
21
động trong tình trạng thiếu vốn. Mặc dù hệ thống ngân hàng có cố gắng,
nhưng mới chỉ đáp ứng một phần nhu cầu vốn của bà con, còn lại họ phải đi
vay của tư nhân với lãi suất cao. Hệ quả là nhiều hộ lâm vào cảnh nợ nần
chồng chất, phải cầm cố tài sản, sang bán đất đai để trả nợ.
Do quy mô sản xuất nhỏ nên khả năng đầu tư mua sắm máy móc, thiết
bị hạn chế. Việc đầu tư thâm canh, tăng vụ, phát triển ngành nghề cũng gặp
khó khăn. Vì vậy, năng suất, chất lượng và hiệu quả SX - KD thấp, tích luỹ
không cao, hạn chế khả năng tái sản xuất mở rộng của hộ.
Có thể nói, với điều kiện đất đai hạn hẹp, nguồn lao động dồi dào
nhưng thiếu vốn, công cụ thủ công nên quy mô SX - KD hay quy mô thu
nhập của đại bộ phận bà con dân tộc rất nhỏ. Tuy một số hộ dân tộc có quy
mô sản xuất khá lớn, nhưng số lượng chưa nhiều.
Thứ năm, thu nhập và mức sống còn nhiều khó khăn:
Là những cư dân nông nghiệp, nên thu nhập chính của người Khmer
chủ yếu do hoạt động trồng trọt, chăn nuôi mang lại. Các hộ có thu nhập từ
hoạt động tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ hoặc làm thuê chiếm tỷ trọng thấp.
Những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, thu nhập
của đại bộ phận bà con dân tộc đã được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, so

với các dân tộc anh em khác, thu nhập của người Khmer cơ bản vẫn còn
thấp. Có một thực tế gần như ít thay đổi là tỷ lệ nghèo đói của người
Khmer luôn cao hơn so với các dân tộc khác trong vùng. Hiện tại, số hộ
Khmer nghèo ở ĐBSCL còn chiếm khoảng 40%, trong đó nhiều hộ có hoàn
cảnh rất khó khăn.
Thu nhập thấp, ý thức tiết kiệm chưa cao, do vậy đa phần thu nhập của
bà con thường chỉ để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt gia đình, ít chú trọng
đầu tư mở rộng SX - KD hay cho con em ăn học. Đó cũng chính là lý do giải
thích tại sao KT - XH vùng ĐBDT còn kém phát triển, đời sống vật chất và
tinh thần của người Khmer thường thấp hơn so với các dân tộc anh em khác.
22
1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế hộ đồng bào
dân tộc Khmer
Cũng như các dân tộc anh em khác trong khu vực, sự phát triển KTH
ĐBDT Khmer chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, cả về mặt khách
quan lẫn chủ quan. Trong đó có những yếu tố cơ bản sau:
a) Các yếu tố tự nhiên:
Thứ nhất, vị trí địa lý và đất đai:
Vị trí địa lý có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp nói
chung và KTH nói riêng. Những hộ có vị trí thuận lợi như gần đường giao
thông, gần các cơ sở chế biến nông sản, gần thị trường tiêu thụ sản phẩm,
gần trung tâm các khu công nghiệp, đô thị lớn,…sẽ có điều kiện phát triển.
Ngược lại, ở những nơi vùng sâu, vùng xa,… do vị trí không thuận lợi nên
hoạt động KTH sẽ nhiều khó khăn, hiệu quả kém.
Đối với hộ Khmer, nông nghiệp là ngành sản xuất chủ yếu, trong đó
đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, không thể thay thế được. Do vậy, quy
mô đất đai, địa hình và tính chất nông hoá thổ nhưỡng có liên quan trực
tiếp đến tình hình phát triển KTH nói riêng cũng như KT - XH vùng
ĐBDT nói chung.
Thứ hai, khí hậu thời tiết và môi trường sinh thái:

Điều kiện thời tiết, khí hậu với lượng mưa, độ ẩm, nhiệt độ, ánh sáng,
… có mối quan hệ chặt chẽ đến sự hình thành và sử dụng các loại đất.
Những nơi có điều kiện thời tiết, khí hậu thuận lợi, được thiên nhiên ưu đãi
sẽ hạn chế được những bất lợi, những rủi ro do thiên nhiên gây ra và có cơ
hội để phát triển.
Ngoài ra, môi trường sinh thái cũng ảnh hưởng đến phát triển KTH,
nhất là nguồn nước, không khí. Bởi vì, những cây trồng và vật nuôi tồn tại
và phát triển theo quy luật sinh học. Nếu môi trường sinh thái thuận lợi thì
cây trồng, vật nuôi phát triển tốt, năng suất cao. Nếu môi trường sinh thái
23
không thuận lợi thì cây trồng, vật nuôi sẽ chậm phát triển, năng suất, chất
lượng sản phẩm giảm, dẫn đến hiệu quả hoạt động KTH thấp.
b) Nhóm yếu tố về kinh tế và tổ chức quản lý:
Đây là nhóm yếu tố KT và tổ chức liên quan đến thị trường và các
nguồn lực chủ yếu, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong phát triển KT nói
chung, cũng như KTH ĐBDT Khmer nói riêng. Cụ thể:
Lao động, vốn và kết cấu hạ tầng:
Người lao động phải có trình độ học vấn và kỹ năng lao động để tiếp thu
tiến bộ khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất tiên tiến. Trong sản xuất
phải giỏi chuyên môn, kỹ thuật mới mạnh dạn áp dụng thành tựu khoa học vào
sản xuất nhằm đem lại lợi nhuận cao. Trình độ học vấn và chuyên môn, cũng
như kinh nghiệm sản xuất của người chủ hộ có vị trí vô cùng quan trọng, ảnh
hưởng trực tiếp, quyết định đến sự thành công hay thất bại của hộ.
Vốn là điều kiện không thể thiếu được trong quá trình SX - KD. Nó là
một yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Khi có quy
mô vốn đủ lớn, KTH mới có thể chuyển lên mô hình KT trang trại hoặc các
loại hình SX - KD khác hiệu quả hơn.
Mặt khác, để sản xuất có hiệu quả, năng suất lao động cao cần phải sử
dụng một hệ thống công cụ phù hợp. Ngày nay, với kỹ thuật canh tác tiên
tiến, công cụ sản xuất đã không ngừng được cải tiến và đã đem lại hiệu quả

KT cao cho hộ dân.
Kết cấu hạ tầng chủ yếu phục vụ cho phát triển KTH bao gồm: hệ
thống thuỷ lợi, hệ thống điện, giao thông, trường học, y tế, …Đây là những
yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển của KTH. Ở nơi nào có kết cấu
hạ tầng tốt thì tình hình SX - KD có điều kiện phát triển, thu nhập và mức
sống của người dân có điều kiện nâng cao.
Yếu tố thị trường:
Trong giai đoạn hiện nay, thị trường đóng vai trò rất quan trọng đối
với các hoạt động SX - KD của mỗi hộ. Những sản phẩm nào bán được giá
24
cao thì các hộ chú ý phát triển. Do vậy, ở những nơi thị trường phát triển tốt
thì KTH cũng phát triển sôi động. Ngược lại, ở những nơi giao thông khó
khăn, thị trường chia cắt, kém phát triển thì KTH sẽ đối mặt với những khó
khăn cả đầu vào và đầu ra của sản phẩm
Yếu tố về hợp tác trong sản xuất kinh doanh:
Trong KTTT, để cạnh tranh có hiệu quả các hộ cần có sự hợp tác để có
thêm nguồn vốn, thêm nhân lực, thêm kinh nghiệm, tự vệ chống lại sự chèn
ép của tư thương, doanh nghiệp. Đặc biệt, thông qua liên kết, hợp tác các hộ
mới có điều kiện tập hợp, gia tăng sức mạnh, có điều kiện ứng dụng các tiến
bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm nâng cao hiệu qủa hoạt động.
c) Nhóm yếu tố về khoa học kỹ thuật và công nghệ:
Yếu tố kỹ thuật sản xuất: Do điều kiện tự nhiên, KT - XH của mỗi
vùng khác nhau, nên trong sản xuất nông nghiệp đòi hỏi phải có kỹ thuật
canh tác khác nhau. Kỹ thuật, thói quen, kinh nghiệm canh tác sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả hoạt động KTH, đặc biệt là đối với số đông ĐBDT
Khmer, bởi họ thường có kỹ thuật canh tác lạc hậu.
Khả năng ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ: SX - KD của hộ
không thể tách rời những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nhờ có khoa học công
nghệ mà các nguồn lực khác như lao động, đất đai, vốn, …được kết hợp với
nhau một cách hiệu quả, góp phần thay đổi trình độ, phương thức tổ chức

SX - KD của hộ để thích nghi với những thay đổi của cơ chế thị trường.
d) Nhóm yếu tố về quản lý vĩ mô của Nhà nước:
Nhóm yếu tố này bao gồm các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước như: Chính sách thuế, chính sách ruộng đất, chính sách bảo hộ sản
phẩm, chính sách tín dụng, chính sách đầu tư, chính sách thương mại, chính
sách đối với vùng ĐBDT, miền núi,v.v Những chính sách này nhìn chung
có ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển KT - XH vùng ĐBDT nói chung và
KTH dân tộc nói riêng.
25

×