Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

luận văn thạc sĩ Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng hình phạt của Viện Kiểm sát nhân dân ở tỉnh Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.73 KB, 94 trang )

N©ng cao chÊt lîng thùc hµnh quyÒn c«ng tè,
kiÓm s¸t viÖc ¸p dông h×nh ph¹t cña viÖn kiÓm s¸t nh©n d©n
ë tØnh th¸i b×nh
Hµ néi – 2009
mục lục
Mở đầu
1
Chơng 1: Cơ sở lý luận về chất lợng công tác thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng hình
phạt của viện kiểm sát nhân dân 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích áp dụng hình phạt 8
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, chất lợng công tác thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc áp dụng hình phạt của Viện kiểm sát 20
Chơng 2: Thực trạng công tác thực hành quyền công tố,
kiểm sát việc áp dụng hình phạt của Viện kiểm
sát nhân dân ở tỉnh Thái Bình (từ 2005 đến 2008)
47
2.1. Khái quát tình hình và kết quả công tác thực hành quyền công tố,
kiểm sát việc áp dụng hình phạt của Viện kiểm sát nhân dân ở
tỉnh Thái Bình 47
2.2. Chất lợng thực hành quyền công tố, kiểm sát áp dụng hình phạt
của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Thái Bình (từ 2005 đến 2008) 51
Chơng 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao chất lợng
thực hành quyền công tố, kiểm sát áp dụng
hình phạt của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh
Thái Bình
80
3.1. Quan điểm và yêu cầu khách quan của việc nâng cao chất lợng
thực hành quyền công tố, kiểm sát việc xét xử (kiểm sát áp dụng
hình phạt) hiện nay 80
3.2. Những giải pháp nâng cao chất lợng thực hành quyền công tố,


kiểm sát xét xử hình sự (trong đó có kiểm sát áp dụng hình
phạt) của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Thái Bình 86
3.3. Một số kiến nghị 97
kết luận 105
danh mục các công trình của tác giả đã công bố
108
Danh mục tài liệu tham khảo 110
phụ lục
114
Danh mục các chữ viết tắt
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
HĐXX : Hội đồng xét xử
KSV : Kiểm sát viên
KSXX : Kiểm sát xét xử
TAND : Toà án nhân dân
THQCTKSAPHP : Thực hành quyền công tố kiểm sát
áp dụng hình phạt
THQCTKSXXHS : Thực hành quyền công tố kiểm sát
xét xử hình sự
TTHS : Tố tụng hình sự
VKS : Viện kiểm sát
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách t pháp là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện Nhà nớc pháp quyền Việt Nam đã đợc Đảng và Nhà nớc quan tâm

lãnh đạo, chỉ đạo. Theo yêu cầu của cải cách t pháp thì vấn đề đổi mới, cải
cách hệ thống các cơ quan t pháp từ công tác tổ chức đến cơ chế hoạt động và
nâng cao năng lực của cán bộ đã đợc quán triệt và đặt ra là nhiệm vụ cấp bách
nhằm xây dựng một nền t pháp trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, h-
ớng tới xây dựng Nhà nớc pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Yêu cầu của cải
cách t pháp đã đặt ra nhiệm vụ khách quan phải xây dựng mô hình tổng thể của
hệ thống các cơ quan t pháp, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và
hoàn thiện tổ chức, bộ máy của các cơ quan t pháp.
VKSND là cơ quan Nhà nớc nằm trong hệ thống các cơ quan t pháp có
vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội, bảo vệ pháp chế XHCN. Trong những năm gần đây có khá nhiều các
quan điểm khác nhau về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức của
ngành kiểm sát nhân dân nhng Đảng và Nhà nớc ta vẫn khẳng định VKSND
tiếp tục thực hiện chức năng Thực hành quyền công tố và Kiểm sát các hoạt
động t pháp.
Trên địa bàn tỉnh Thái Bình, ngay sau khi có Nghị quyết 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác t
pháp trong thời gian tới; Nghị quyết 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị (khóa IX) về Chiến lợc cải cách t pháp đến năm 2020 ngành Kiểm
sát tỉnh Thái Bình đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp và đạt đợc những kết
quả đáng kể trong tất cả các lĩnh vực hoạt động nh: chọn cử cán bộ đi đào tạo,
bồi dỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ; chuẩn
bị tốt các điều kiện cơ sở vật chất; tuyển chọn, bố trí, sắp xếp cán bộ đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ; đẩy mạnh sự phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật của
tỉnh hoàn thành việc tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án cấp huyện theo lộ
trình đề ra; tăng cờng công tác sơ kết, tổng kết, thông báo rút kinh nghiệm
nghiệp vụ; tăng cờng tổ chức các phiên toà mẫu để rút kinh nghiệm trong hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử. Thông qua các phiên toà mẫu đã bồi dỡng kinh
nghiệm thực tiễn cho Thẩm phán, KSV về kỹ năng tranh tụng tại phiên toà
nhằm nâng cao chất lợng trong việc giải quyết các vụ án hình sự. Kết quả đã

phát hiện và đa ra xử lý nghiêm minh nhiều vụ án lớn và nghiêm trọng xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế, xâm phạm trật tự trị an xã hội, các vụ án về an
ninh, ma tuý, góp phần thiết thực tăng cờng kỷ cơng phép nớc, củng cố lòng
tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nớc nói chung và đối với các cơ quan bảo
vệ pháp luật nói riêng.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn có những vấn đề mà Nghị quyết 08, 49 của
Bộ Chính trị đề cập tới vẫn cần phải đợc tiếp tục tổ chức nghiên cứu quán triệt
nhằm nâng cao hơn nữa về sự thống nhất trong nhận thức để triển khai thực
hiện có hiệu quả phơng hớng, nhiệm vụ cải cách t pháp đặt ra. Chẳng hạn nh
vấn đề:
Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng
t pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hớng thiện trong việc xử
lý ngời phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền,
hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn
chế áp dụng hình phạt tử hình theo hớng chỉ áp dụng đối với một số ít
loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [6].
Trên thực tế việc thực hiện chính sách hình sự của Nhà nớc trong công
cuộc cải cách t pháp hiện nay ở địa phơng có nơi, có việc vẫn cha đợc nhận
thức, quán triệt và vận dụng đầy đủ, thống nhất. Nghiên cứu số liệu thống kê
số bị cáo đã bị xét xử trong một số năm gần đây cho thấy, số bị cáo bị xét xử
hình phạt tù hoặc phạt tù nhng cho hởng án treo vẫn thờng chiếm tỷ lệ rất cao
so với các loại hình phạt khác. Các hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ
hoặc phạt tiền đối với một số loại tội phạm cha đợc Toà án các cấp quan tâm
áp dụng. Công tác thực hành quyền công tố, KSXX các vụ án hình sự của
VKS cha có biện pháp hữu hiệu làm chuyển biến nhận thức về áp dụng và
kiểm sát việc áp dụng hình phạt đối với ngời phạm tội theo tinh thần cải cách
t pháp đặt ra.
Việc điều tra, truy tố, xét xử đúng ngời, đúng tội, đúng pháp luật là
những yêu cầu quan trọng nhất của công tác t pháp. Trong đó, công tác thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đảm bảo việc điều

tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng ngời, đúng tội, đúng pháp luậtlà trách
nhiệm của VKSND đợc quy định tại điều 23 BLTTHS.
Để làm rõ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của VKS theo quy định
của tố tụng hình sự trong công tác thực hành quyền công tố, KSXX hình sự
(trong đó có kiểm sát việc áp dụng hình phạt) thì việc hệ thống về mặt lý luận
những căn cứ pháp luật và làm rõ chủ trơng của Đảng, chính sách hình sự của
Nhà nớc ta đối với ngời phạm tội không chỉ có ý nghĩa trong công tác nghiên
cứu, mà còn có ý nghĩa rất quan trọng với ngời làm công tác thực tiễn trong
ngành Kiểm sát nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
Đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về vấn đề áp dụng hình phạt
đối với ngời phạm tội, nhng cho đến nay cha có một công trình nào đi sâu
nghiên cứu có hệ thống dới góc độ một Luận văn khoa học về nâng cao chất l-
ợng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng hình phạt của Toà án đối
với ngời phạm tội - nhìn nhận dới góc độ áp dụng chính sách hình sự của Nhà
nớc trong việc áp dụng hình phạt đối với ngời phạm tội trên địa bàn tỉnh Thái
Bình.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, việc học viên chọn đề tài " Nõng
cao cht lng thc hnh quyn cụng t, kim sỏt vic ỏp dng hỡnh pht
ca Vin Kim sỏt nhõn dõn tnh Thỏi Bỡnh " để nghiên cứu trong Luận
văn Thạc sĩ của mình, nhằm nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công tố,
kiểm sát việc áp dụng hình phạt đối với ngời phạm tội trên địa bàn tỉnh Thái
Bình, góp phần nâng cao nhận thức việc áp dụng hình phạt đối với ngời phạm
tội trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và ngời tiến hành tố
tụng ở tỉnh Thái Bình phù hợp với yêu cầu cải cách t pháp hiện nay, phù hợp
với thực tế của địa phơng, đáp ứng yêu cầu của lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở
nghiên cứu, tác giả xác định nguyên nhân, đề xuất các giải pháp khắc phục
tồn tại, hạn chế của việc thực hiện chính sách hình sự trong áp dụng hình phạt
đối với ngời phạm tội trên địa bàn tỉnh Thái Bình thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong các hoạt động khác nhau của lĩnh vực T pháp đã có rất nhiều

công trình nghiên cứu của nhiều tác giả. Có thể nêu một số công trình cơ bản
thành các nhóm sau:
- Những nghiên cứu về áp dụng pháp luật
+ Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Lê Xuân Thân, (2004): áp
dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của TAND ở Việt Nam hiện nay.
+ Luận văn Cao học Luật của Nguyễn Mạnh Toàn, (2008): áp dụng
pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự của TAND tỉnh Thái
Nguyên; của Lê Việt Dũng, (2008), áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự
sơ thẩm của Toà án quân sự các cấp ở Việt Nam hiện nay
- Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến nâng cao chất lợng công tác xét
xử và KSXX hình sự
+ Luận văn Cao học luật của Phạm Thị Bình (2008): Cơ sở lý luận và
thực tiễn về THQCT của VKSND trong xét xử các vụ án hình sự ở tỉnh Thanh
Hoá; của Trần Thị Đông (2008): Chất lợng THQCT trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự của VKSND tỉnh Hà Nam
Ngoài các tác giả trên còn có rất nhiều các công trình khoa học, các bài viết
của nhiều tác giả khác tập trung nghiên cứu liên quan đến các vấn đề: áp dụng
pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự; nâng cao chất lợng THQCT và KSXX
các vụ án hình sự; nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng
và ngời tiến hành tố tụng trong xét xử và KSXX các vụ án hình sự theo tinh thần
cải cách t pháp Các công trình khoa học kể trên là nguồn tài liệu tham khảo vô
cùng quan trọng giúp cho tác giả nghiên cứu và hoàn thiện đề tài của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Đánh giá đúng thực trạng và đề xuất đợc các giải pháp
nhằm thống nhất nhận thức việc áp dụng hình phạt trong thực tiễn xét xử và
KSXX các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Thái Bình, đảm bảo chính sách hình
sự của Nhà nớc theo tinh thần cải cách t pháp trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ: Để thực hiện đợc mục đích nêu trên, Luận văn có những
nhiệm vụ: Nghiên cứu cơ sở lý luận liên quan đến công tác thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc áp dụng hình phạt đợc quy định trong BLHS; Nghiên

cứu một cách có hệ thống chủ trơng của Đảng về thực hiện nhiệm vụ cải cách
t pháp và chính sách hình sự của Nhà nớc đối với việc xử lý ngời phạm tội;
Nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng hình
phạt đối với ngời phạm tội của VKS hai cấp trên địa bàn tỉnh Thái Bình trong
những năm gần đây.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tợng nghiên cứu của luận văn là công tác THQCT, kiểm sát việc
áp dụng pháp luật về hình phạt của VKSND ở tỉnh Thái Bình.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là hoạt động của VKS trong thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng pháp luật về hình phạt của VKSND
hai cấp ở tỉnh Thái Bình. Thời gian thu thập số liệu để nghiên cứu tính từ năm
2005 đến 2008.
Do khuôn khổ của Luận văn Thạc sỹ nên đề tài chỉ tập trung nghiên
cứu sâu bốn loại hình phạt chính là: Cải tạo không giam giữ, phạt tiền, tù có
thời hạn, tử hình.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng
Hồ Chí Minh về Nhà nớc và pháp luật, các quan điểm của Đảng về đổi mới
cải cách bộ máy Nhà nớc, cải cách t pháp, về xây dựng pháp luật và thực hiện
pháp luật, nâng cao vai trò trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và
ngời tiến hành tố tụng trong hoạt động xét xử và KSXX các vụ án hình sự.
Luận văn còn dựa trên cơ sở lý luận của khoa học Luật chuyên ngành là Lý
luận chung về Nhà nớc và Pháp luật, khoa học Luật Hình sự, Luật Tố tụng
hình sự.
- Tác giả luận văn vận dụng phơng pháp luận của Triết học Mác -
Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, cùng các
phơng pháp nghiên cứu nh: phơng pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phân tích
và tổng hợp, lịch sử cụ thể. Ngoài ra còn sử dụng các phơng pháp nghiên cứu
của bộ môn khoa học khác nh so sánh, thống kê, trực tiếp trao đổi, tọa đàm
với một số ngời tiến hành tố tụng

6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về
thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng pháp luật về hình phạt của
VKSND ở tỉnh Thái Bình. Từ kết quả nghiên cứu mà Luận văn đạt đợc có một
số đóng góp mới nh: góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
thực hành quyền công tố, KSXX hình sự nói chung và kiểm sát áp dụng hình
phạt nói riêng của VKSND ở tỉnh Thái Bình theo tinh thần cải cách T pháp
hiện nay. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, Luận văn xác định nguyên nhân chủ
quan và khách quan của những thiếu sót, tồn tại, từ đó đề xuất xây dựng các
giải pháp về hoàn thiện pháp luật hình sự và tố tụng hình sự; những giải pháp
trong việc nâng cao chất lợng thực hành quyền công tố, kiểm sát áp dụng pháp
luật về hình phạt của VKSND giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Luận văn góp phần vào việc hoàn thiện những cơ sở lý luận của công
tác thực hành quyền công tố, kiểm sát áp dụng pháp luật về hình phạt của
VKSND ở phạm vi toàn quốc nói chung và trên từng địa phơng nói riêng. Trên
cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm
nâng cao chất lợng thực hành quyền công tố, kiểm sát áp dụng hình phạt của
VKSND ở địa phơng nơi tác giả công tác. Điều đó cũng hoàn toàn phù hợp với
yêu cầu nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, ngời
tiến hành tố tụng và việc xây dựng Nhà nớc pháp quyền XHCN Việt Nam nói
chung. Đồng thời cũng đáp ứng với những đòi hỏi trong thực tiễn công tác xét
xử, thi hành án hình sự hiện nay ở các địa phơng.
Luận văn có thể làm t liệu tham khảo cho các cơ sở đào tạo và bồi d-
ỡng cán bộ của các ngành t pháp; cho các cơ quan tiến hành tố tụng và ngời
tiến hành tố tụng nh Thẩm phán, KSV, Th ký, Luật s bào chữa
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chơng, 7 tiết.


Chơng 1
cơ sở lý luận về chất lợng công tác thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng hình phạt
của viện kiểm sát nhân dân
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích áp dụng hình phạt
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, pháp luật XHCN là tổng
hợp các quy tắc xử sự chung thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động dới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, đợc cơ quan nhà nớc và ngời có
thẩm quyền ban hành theo một trình tự nhất định, với các hình thức nhất định,
nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong quá trình xây dựng CNXH.
Hình thức thể hiện của pháp luật XHCN chính là các quy phạm pháp
luật đợc các chủ thể có thẩm quyền ban hành với các loại văn bản có tên gọi
và hiệu lực pháp lý khác nhau. Nhà nớc XHCN căn cứ vào các quy phạm
pháp luật để quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội nh chính trị, kinh tế, văn
hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, an ninh quốc phòng Các quy phạm pháp
luật là cơ sở pháp lý của việc tôn trọng và thực thi các quyền tự do, dân chủ
của công dân và là chuẩn mực, thớc đo chung để xem xét, đánh giá một hành
vi hợp pháp luật hay vi phạm pháp luật. Các quy phạm pháp luật đòi hỏi phải
đợc tôn trọng, tuân thủ và thi hành trong đời sống xã hội. Nói cách khác, các
quy tắc xử sự chung đợc Nhà nớc XHCN ban hành dới dạng các quy phạm
pháp luật phải trở thành những quy tắc xử sự của mọi cá nhân và tổ chức trong
đời sống xã hội. Đó cũng là mục đích quan trọng của Nhà nớc XHCN mong
muốn khi ban hành các văn bản có chứa đựng quy phạm pháp luật. Một văn
bản quy phạm pháp luật có chất lợng tốt phải là một văn bản quy phạm pháp
luật có khả năng đi vào cuộc sống xã hội và trở thành những quy tắc ứng xử,
những khuôn mẫu trong xử sự giữa ngời với ngời trong đời sống xã hội. Các
quy phạm pháp luật sau khi ban hành phải đợc thẩm thấu trong đời sống xã
hội thờng ngày qua công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và thực hiện
pháp luật. Khi các quy phạm pháp luật đợc các thành viên trong xã hội nhận

thức và tự giác thực hiện một cách nghiêm chỉnh sẽ tạo nên sức mạnh của một
nền pháp chế: sống có kỷ cơng và tuân thủ phép nớc.
Trên phơng diện lý luận, thực hiện pháp luật là những hoạt động,
những phơng cách, những quá trình làm cho những quy tắc xử sự chung chứa
đựng trong các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi, cách xử sự thực tế của
các chủ thể pháp luật. Các quy phạm pháp luật rất phong phú, cho nên cách
thức thực hiện chúng cũng rất khác nhau. Căn cứ vào tính chất của việc thực
hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã phân chia thực hiện pháp luật thành những
hình thức cụ thể nh: Tuân thủ pháp luật; thi hành pháp luật; sử dụng pháp
luật; áp dụng pháp luật.
- Tuân thủ pháp luật, còn gọi là tuân theo pháp luật, là hình thức các
chủ thể quan hệ pháp luật không thực hiện những hành vi mà pháp luật đã
ngăn cấm. Đây là hình thức các chủ thể pháp luật không thực hiện những điều
mà pháp luật không cho phép làm. Thông qua hình thức tuân thủ pháp luật của
các chủ thể quan hệ pháp luật, các quy phạm pháp luật ngăn cấm đợc tôn
trọng và thực hiện trên thực tế. Chủ thể thực hiện hình thức tuân thủ pháp luật
là tất cả các cơ quan nhà nớc, nhân viên nhà nớc, các tổ chức, cá nhân và mọi
công dân trong xã hội.
- Thi hành pháp luật, còn gọi là chấp hành pháp luật là hình thức các
chủ thể quan hệ pháp luật phải thực hiện những hành vi mà pháp luật quy định
đợc thực hiện trong những hoàn cảnh, những quan hệ pháp luật mà pháp luật
đã dự liệu cụ thể. Đây là hình thức thực hiện pháp luật chủ động và tích cực
bằng các hành vi cụ thể của các chủ thể quan hệ pháp luật. Chủ thể thực hiện
hình thức thi hành pháp luật này là tất cả các cơ quan nhà nớc, nhân viên nhà
nớc, các cá nhân, tổ chức và mọi công dân trong xã hội.
- Sử dụng pháp luật, là hình thức các chủ thể thực hiện pháp luật sử
dụng các quyền mà pháp luật cho phép. Đây cũng là hình thức thực hiện pháp
luật chủ động và tích cực bằng các hành vi cụ thể của các chủ thể quan hệ
pháp luật. Do hình thức thực hiện pháp luật này là việc sử dụng các quyền
năng pháp lý đợc pháp luật trao quyền, nên các chủ thể quan hệ pháp luật có

quyền thực hiện hoặc không thực hiện các quyền của mình, pháp luật không
bắt buộc các chủ thể phải thực hiện nh hai hình thức tuân thủ pháp luật và
chấp hành pháp luật. Chủ thể thực hiện hình thức sử dụng pháp luật là tất cả
các cơ quan nhà nớc, nhân viên nhà nớc, các cá nhân, tổ chức và mọi công dân
trong xã hội.
Có thể nói, áp dụng pháp luật là hoạt động diễn ra hàng ngày trong các
cơ quan Nhà nớc và chỉ do nhân viên cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền thực
hiện. Trong hoạt động tố tụng hình sự, áp dụng pháp luật thờng đợc Điều tra
viên, KSV, Thẩm phán, Hội thẩm tiến hành theo một thủ tục tố tụng nhất
định để thu thập chứng cứ, xác minh, điều tra làm rõ các tình tiết vụ án nhằm
xác định sự thật khách quan; truy cứu trách nhiệm pháp lý; xác định quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật.
Tính chất tổ chức thực hiện quyền lực của Nhà nớc trong hoạt động
áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ: Hoạt động này chỉ do cơ quan Nhà nớc có
thẩm quyền tiến hành, không theo ý chí của các chủ thể mà là theo quy
định của pháp luật. Việc tiến hành áp dụng pháp luật và ra văn bản áp dụng
quy phạm pháp luật hoàn toàn theo quy định của pháp luật. Quyết định áp
dụng quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý thi hành và đợc Nhà nớc bảo
đảm thi hành. Do hoạt động áp dụng pháp luật gắn liền với quyền lực nhà
nớc trong lĩnh vực hành pháp và t pháp nên nó có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc thực thi quyền lực nhà nớc. Chính vì vậy, áp dụng pháp luật còn
là một hình thức thực hiện quyền lực nhà nớc trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Nếu quy phạm pháp luật là những khuôn mẫu chung, những tiêu chuẩn
chung cho xử sự giữa ngời với ngời trong các mối quan hệ xã hội thì hoạt động
áp dụng pháp luật luôn luôn mang tính cụ thể. Tính cụ thể của hoạt động áp dụng
pháp luật thể hiện ở chỗ, các địa chỉ để áp dụng pháp luật là xác định, gồm cả sự
việc, con ngời, thời gian, không gian; quy phạm pháp luật cần áp dụng và quyết
định áp dụng pháp luật đợc ban hành luôn luôn mang tính cá biệt.
Do đặc trng này nên quyết định áp dụng pháp luật phải thỏa mãn các

yêu cầu cụ thể, áp dụng một lần cho một đối tợng nhất định, trong đó quyết
định phải nêu rõ tình tiết sự việc; các điều khoản văn bản quy phạm pháp luật
đợc viện dẫn để làm căn cứ pháp lý; tên đối tợng phải thi hành; quyền đợc
thực hiện và nghĩa vụ phải hoàn thành của các chủ thể đã đợc xác định.
Việc ban hành một quyết định áp dụng quy phạm pháp luật phải đợc
thực hiện thông qua các thủ tục nhất định. Tính đơn giản hay phức tạp của các
thủ tục tùy thuộc rất lớn vào tính chất nội dung của sự việc cần phải áp dụng.
Trong hoạt động t pháp, các thủ tục đợc quy định khá rõ ràng và cụ thể trong
các văn bản luật. Cho đến nay, các thủ tục tố tụng hình sự đợc Nhà nớc tập
hợp khá đầy đủ và chi tiết trong BLTTHS. Việc tập hợp, pháp điển hóa các
quy phạm pháp luật tố tụng là việc làm hết sức cần thiết nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho các chủ thể áp dụng pháp luật trong hoạt động tố tụng đợc chính
xác và đúng pháp luật.
Thực tế áp dụng pháp luật luôn luôn sinh động và phong phú, vừa áp
dụng cái chung vào cái cụ thể và vừa đặt ra các yêu cầu cụ thể bổ sung hoàn
chỉnh các quy phạm pháp luật để phục vụ cho cái chung, cái phổ biến. Tính
thực tiễn và tính sinh động của hoạt động áp dụng pháp luật còn thể hiện rõ
nét khi phải áp dụng pháp luật tơng tự để giải quyết các tình huống cụ thể.
Trong những trờng hợp sự việc cụ thể không có quy phạm pháp luật điều
chỉnh trực tiếp, hay nói cách khác, pháp luật cha có dự liệu trớc thì ngời áp
dụng pháp luật tiến hành áp dụng pháp luật tơng tự.
áp dụng pháp luật tơng tự có thể gồm áp dụng tơng tự quy phạm pháp
luật và áp dụng tơng tự pháp luật: áp dụng tơng tự quy phạm pháp luật là sử
dụng quy phạm pháp luật của một lĩnh vực, một sự việc khác, tơng tự để giải
quyết cho một sự việc, một lĩnh vực cụ thể cha có quy phạm pháp luật điều
chỉnh trực tiếp. áp dụng tơng tự pháp luật là sử dụng các nguyên tắc chung
của pháp luật XHCN và ý thức pháp luật để giải quyết một vụ việc cụ thể cha
có quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh và cũng không có quy phạm pháp
luật tơng tự để áp dụng. áp dụng pháp luật tơng tự thờng dễ phạm sai lầm và
dễ lạm dụng pháp luật nên cần đợc tiến hành chỉ trong những điều kiện cần

thiết và phải tuân thủ nguyên tắc pháp chế XHCN một cách nghiêm ngặt.
Mặt khác, để giúp cho việc áp dụng pháp luật đợc tiến hành chính xác
và thống nhất thì công tác giải thích pháp luật cũng đợc quan tâm nhằm làm
sáng tỏ nội dung của các quy phạm pháp luật, bảo đảm cho nhận thức và áp
dụng pháp luật đợc thống nhất. Giải thích pháp luật bao gồm giải thích chính
thức và giải thích không chính thức. Giải thích chính thức do cơ quan Nhà nớc
có thẩm quyền tiến hành bằng văn bản và có tính bắt buộc khi áp dụng quy
phạm pháp luật. Giải thích pháp luật không chính thức là giải thích của các
nhà nghiên cứu pháp luật và của các cá nhân, tổ chức trong xã hội thông qua
bình luận, trao đổi trực tiếp hoặc qua sách báo pháp lý và các phơng tiện thông
tin đại chúng. Giải thích pháp luật không chính thức không có giá trị bắt buộc
áp dụng nhng lại có tác động rất lớn đến việc nâng cao ý thức pháp luật, hiểu
và sử sự đúng theo quy định của pháp luật.
Trên cơ sở nghiên cứu, tác giả khái quát nh sau: áp dụng pháp luật là
một hoạt động mang tính thực tiễn, cụ thể và sinh động do các cơ quan Nhà n-
ớc, nhân viên Nhà nớc đợc giao quyền tiến hành theo một thủ tục nhất định
do pháp luật quy định. Nó là hình thức thực hiện pháp luật, là thủ tục bắt
buộc để các cơ quan Nhà nớc thực hiện các biện pháp cỡng chế khi có hành
vi vi phạm pháp luật và tội phạm; khi phải giải quyết các tranh chấp về quyền
chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể hoặc khi Nhà nớc cần phải can
thiệp, cần phải tham gia để bảo đảm việc thực thi trên thực tế các quyền của
chủ thể trên các lĩnh vực của đời sống xã hội theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, mục đích của hình phạt và áp dụng
hình phạt
1.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích của hình phạt
* Khái niệm hình phạt:
Theo Từ điển tiếng Việt năm 2007, hình phạt là "cách phạt kẻ có tội
từ việc cảnh cáo, cấm túc đến tù đày, tử hình" [31, tr.487]. Theo Từ điển
Luật học năm 1999, hình phạt là "biện pháp cỡng chế do nhà nớc quy định
trong luật hình sự, đợc Toà án áp dụng cho chính ngời đã thực hiện tội

phạm [32, tr.185].
Nghiên cứu lịch sử lập pháp của nớc ta thấy, khái niệm hình phạt lần
đầu tiên đợc quy định tại điều 26 BLHS năm 1999 [30, tr.219]. Hình phạt là
biện pháp cỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nớc nhằm tớc bỏ hoặc hạn chế
quyền, lợi ích của ngời phạm tội. Hình phạt đợc quy định trong BLHS và do
Tòa án quyết định [15, tr.27].
Qua nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn, tác giả Luận văn thống
nhất quan điểm về khái niệm hình phạt đợc quy định tại điều 26 BLHS năm
1999 nêu trên.
* Đặc điểm của hình phạt:
Để đạt đợc mục đích của hình phạt, Điều 28 BLHS năm 1999 quy định
một hệ thống đầy đủ các hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ
sung. Các hình phạt trong hệ thống hình phạt đợc sắp xếp theo thứ tự từ nhẹ đến
nặng, trên cơ sở đó Toà án có thể vận dụng các chế định trong luật hình sự.
Tội phạm có nhiều loại khác nhau, với những tính chất và mức độ
nguy hiểm nhất định cho xã hội. Xuất phát từ yêu cầu đấu tranh phòng chống
tội phạm, BLHS đã quy định hệ thống hình phạt thể hiện chính sách hình sự
của Nhà nớc. Hệ thống hình phạt là một chỉnh thể bao gồm những hình phạt
đợc quy định trong luật hình sự, có phơng thức liên kết với nhau theo một trật
tự nhất định do tính chất nghiêm khắc của từng hình thức (loại) hình phạt quy
định [32, tr.185].
Hình phạt chính là hình phạt đợc tuyên độc lập. Đối với ngời phạm
tội, phải áp dụng và chỉ có thể áp dụng một trong những hình phạt chính
đợc quy định tại điều 28 BLHS năm 1999. Trong Phần các tội phạm của
BLHS, hình phạt chính đợc quy định trong điều luật về một tội phạm cụ
thể. Đối với một tội phạm cụ thể có nhiều hình phạt chính khác nhau để
Toà án lựa chọn. Toà án không thể áp dụng các hình phạt không đợc quy
định trong BLHS về một tội phạm cụ thể, trừ trờng hợp chuyển sang hình
phạt khác thuộc loại nhẹ hơn theo điều 47 BLHS năm 1999 trong trờng
hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Hình phạt chính bao gồm: Cảnh cáo; Phạt

tiền; Cải tạo không giam giữ; Trục xuất; Tù có thời hạn; Tù chung thân;
Tử hình.
Theo Từ điển Luật học năm 1999 thì hình phạt bổ sung là hình phạt
không thể đợc tuyên độc lập mà chỉ đợc tuyên kèm theo hình phạt chính phù
hợp với tính chất và đặc điểm của một số loại tội phạm và nhân thân ngời
phạm tội [30, tr 205 - 206].
Các hình phạt bổ sung theo quy định tại điều 28 BLHS năm 1999 gồm:
Cấm đảm nhận những chức vụ; Cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định;
Cấm c trú; Quản chế; Tớc một số quyền công dân; Tịch thu tài sản; Phạt tiền
khi không áp dụng là hình phạt chính; Trục xuất, khi không áp dụng là hình
phạt chính. Đối với một tội phạm cụ thể, TA có thể chỉ tuyên hình phạt chính
mà không kèm theo một hình phạt bổ sung nào, nhng cũng có thể có một hoặc
nhiều hình phạt bổ sung, nếu trong điều luật có ghi rõ có thể tuyên phạt hình
phạt bổ sung. Việc quy định hình phạt bổ sung trong hệ thống hình phạt có tác
dụng hỗ trợ, tăng sức mạnh cỡng chế và giáo dục của hình phạt chính, làm cho
hình phạt đợc thực hiện một cách triệt để, đạt đợc mục đích của hình phạt,
giúp cho các cơ quan có thẩm quyền thực hiện nguyên tắc cá thể hoá trách
nhiệm hình sự và hình phạt, đảm bảo công bằng xã hội và pháp chế XHCN.
Từ kết quả nghiên cứu, chúng ta có thể rút ra đặc điểm của hình phạt:
- Là biện pháp cỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nớc thể hiện ở chỗ
ngời bị kết án có thể bị tớc bỏ hoặc bị hạn chế quyền tự do, quyền về tài sản,
về chính trị, thậm chí cả quyền sống. Bên cạnh đó hình phạt cũng để lại hậu
quả pháp lý là án tích cho ngời bị kết án trong thời hạn nhất định theo quy
định của pháp luật.
- Hình phạt đợc luật hình sự quy định và do TA quyết định. Trong
Phần chung của BLHS quy định những vấn đề có tính nguyên tắc liên quan
đến hình phạt nh: Mục đích của hình phạt; hệ thống hình phạt; căn cứ quyết
định hình phạt; quyết định hình phạt trong trờng hợp phạm nhiều tội; tổng hợp
hình phạt của nhiều bản án; miễn chấp hành hình phạt; giảm mức hình phạt đã
tuyên Phần các tội phạm của BLHS quy định các loại hình phạt và mức hình

phạt cho từng loại tội phạm cụ thể.
Các dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi; tính trái pháp luật
và sự có lỗi của ngời phạm tội luôn gắn liền với tính chịu hình phạt. Do vậy
cùng với việc xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm thì cũng đòi
hỏi phải quy định loại và mức hình phạt áp dụng cho ngời có hành vi phạm tội
đó trong luật.
Trong mọi trờng hợp không đợc áp dụng hình phạt đối với những hành
vi không đợc BLHS quy định là tội phạm và cũng không đợc áp dụng một loại
hình phạt nào đó nếu hình phạt ấy không đợc quy định trong hệ thống hình
phạt hoặc không đợc quy định trong chế tài của điều luật mà hành vi bị xử
phạt thỏa mãn. Ngoài TA - cơ quan có quyền nhân danh Nhà nớc tuyên một
ngời có tội và phải chịu hình phạt thì không có cơ quan nào khác có quyền
quyết định hình phạt [17].
- Hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với ngời có hành vi phạm tội. Một
trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam là trách nhiệm hình sự
chỉ đặt ra đối với cá nhân ngời phạm tội. Do đó hình phạt chỉ có thể áp dụng đối
với ngời đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm.
Ngoài những đặc điểm cơ bản nêu trên, hình phạt còn thể hiện nội
dung giai cấp. Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam thể hiện bản chất dân
chủ XHCN- dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, cải tạo, giáo dục ngời phạm tội trở thành ngời có
ích cho xã hội
* Mục đích của hình phạt: Theo quy định tại điều 27 BLHS năm 1999 thì:
Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị ngời phạm tội mà còn
nhằm cải tạo họ trở thành ngời có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo
pháp luật và các quy tắc của cuộc sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm
tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục ngời khác tôn trọng pháp luật,
đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm [15, tr.27].
Nghiên cứu quy định trên chúng ta thấy hình phạt có mục đích phòng
ngừa riêng và phòng ngừa chung. Nội dung cơ bản của mục đích phòng ngừa

riêng chính là sự tớc bỏ, hạn chế những quyền và lợi ích hợp pháp theo quy
định của pháp luật hình sự đối với ngời bị áp dụng hình phạt. Mức độ của việc
tớc bỏ và hạn chế những quyền và lợi ích hợp pháp của họ phụ thuộc vào tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, vào nhân thân ngời phạm
tội và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự. Mục đích chủ
yếu trong phòng ngừa riêng của hình phạt chính là cải tạo, giáo dục ngời phạm
tội để họ trở thành ngời có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và
các quy tắc của cuộc sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội mới.
Trong mục đích phòng ngừa riêng, trừng trị và cải tạo, giáo dục ngời
phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội mới là hai mục đích song song tồn tại và có
mối quan hệ chặt chẽ. Chỉ có thể đạt đợc mục đích cuối cùng và chủ yếu là cải
tạo, giáo dục ngời phạm tội nếu hình phạt áp dụng đối với họ tơng xứng với
hành vi phạm tội mà họ đã gây ra. Trong mối quan hệ giữa trừng trị và cải tạo
thì trừng trị là mục đích nhng đồng thời cũng là phơng tiện để đạt mục đích
cuối cùng và chủ yếu của hình phạt đối với ngời phạm tội là giáo dục, cải tạo
họ.
Ngoài phòng ngừa riêng, hình phạt còn có mục đích phòng ngừa
chung thể hiện ở việc ngăn ngừa ngời khác phạm tội, nhằm giáo dục, nâng cao
ý thức pháp luật cho các thành viên khác trong xã hội, động viên họ, khuyến
khích đông đảo quần chúng nhân dân tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh,
ngăn ngừa và chống tội phạm.
Để đạt đợc mục đích phòng ngừa chung thì phải tiến hành đồng bộ
nhiều biện pháp, trong đó biện pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng
cao ý thức pháp luật trong nhân dân là biện pháp hết sức quan trọng và có ý
nghĩa to lớn. Mục đích phòng ngừa chung của hình phạt chỉ đạt kết quả tốt khi
quần chúng nhân dân hiểu biết pháp luật, thấy đợc sự cần thiết của việc tuân
thủ pháp luật cũng nh ý nghĩa xã hội của hình phạt.
Mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung là hai mặt của thể
thống nhất (hình phạt). Nếu chỉ coi trọng mặt này hay mặt kia đều có thể dẫn
đến vi phạm nguyên tắc pháp chế XHCN khi quyết định hình phạt và làm cho

mục đích của hình phạt bị triệt tiêu.
1.1.2.2. Khái niệm áp dụng hình phạt
Điều 127 Hiến pháp năm 1992 nớc ta quy định "TAND Tối cao, các
TAND địa phơng, các Tòa án quân sự và các TA khác do luật định là những
cơ quan xét xử của nớc Cộng hòa XHCN Việt Nam" [20, tr.68].
Trong quá trình xét xử một vụ án hình sự, việc tuyên bố một ngời là
có tội và phải chịu hình phạt nhất thiết phải thông qua hoạt động xét xử của
TA, theo đó Không ai bị coi là có tội khi cha có bản án kết tội của TA đã
có hiệu lực pháp luật chính là một trong những nguyên tắc cơ bản của
BLTTHS [19, tr.12].
Một ngời chỉ bị coi là có tội khi ngời đó đã bị TA xét xử và kết án theo
các quy định của pháp luật bằng một bản án của TA đã có hiệu lực pháp luật.
Thông qua bản án kết tội có hiệu lực pháp luật thì ngời phạm tội phải chịu một
hình phạt tơng ứng với hành vi phạm tội do ngời đó gây ra. Nh vậy, việc áp
dụng hình phạt của Toà án đối với ngời phạm tội là hậu quả tất yếu do ngời
phạm tội phải gánh chịu từ hành vi phạm tội ngời đó thực hiện và cũng là kết
quả cuối cùng trong hoạt động xét xử của Toà án.
Việc xét xử hình sự và áp dụng hình phạt đối với ngời phạm tội của
TA phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và
phải trải qua các giai đoạn cụ thể nh: Chuẩn bị xét xử, nghiên cứu hồ sơ, tổ
chức phiên tòa xét hỏi, tổ chức và điều khiển việc tranh luận, việc nghị án và
ban hành bản án. Các giai đoạn của việc xét xử hình sự, áp dụng hình phạt của
TA có mối quan hệ chặt chẽ với công tác THQCT, kiểm sát áp dụng hình phạt
của VKS. Chính vì vậy, công tác THQCT, kiểm sát áp dụng hình phạt của
VKS cũng phải trải qua các giai đoạn ban hành cáo trạng truy tố bị can trớc
Tòa, xây dựng bản luận tội bị cáo tại tòa, chuẩn bị nội dung tranh luận và thực
hiện việc tranh luận tại phiên tòa, kháng nghị khi phát hiện bản án có vi phạm
trong áp dụng hình phạt
Trên cơ sở nghiên cứu, chúng ta có thể rút ra khái niệm: áp dụng hình
phạt của TAND là việc thực hiện pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm nhân

dân trong quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự tại phiên
toà công khai để ban hành các bản án nhân danh Nhà nớc phán xét một hành
vi là tội phạm, phải chịu hình phạt.
* Vai trò áp dụng hình phạt của Tòa án
áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của TAND nói chung và áp
dụng hình phạt của Tòa án nói riêng có vai trò rất quan trọng trong việc xây
dựng và bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các
cá nhân và tổ chức, góp phần to lớn vào việc xây dựng một Nhà nớc pháp
quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng hình phạt nói riêng trong hoạt
động xét xử của TA là việc thực thi trên thực tế nhiệm vụ bảo vệ pháp chế
XHCN; bảo vệ chế độ XHCN, quyền tự do, dân chủ của công dân; bảo vệ tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con ngời dới chế độ XHCN. Do đó,
áp dụng pháp luật (áp dụng hình phạt) trong hoạt động xét xử hình sự của TA
có vai trò to lớn trong việc bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội;
gìn giữ "kỷ cơng, phép nớc" trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những
hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến các quan hệ xã hội XHCN mà pháp luật
bảo vệ đều đợc xem xét, xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật qua hoạt
động xét xử của TA bằng một bản án kết tội và một hình phạt tơng ứng
Nh vậy áp dụng hình phạt của TA có vai trò quan trọng trong việc xử
lý ngời phạm tội. TA là cơ quan trực tiếp nhân danh Nhà nớc xử lý ngời phạm
tội, buộc họ phải chịu trách nhiệm pháp lý bằng một bản án quy kết tội danh
và quyết định hình phạt nhất định buộc ngời phạm tội phải chấp hành. Ngoài
ra, áp dụng pháp luật (áp dụng hình phạt) trong hoạt động xét xử hình sự của
TA còn có vai trò rất quan trọng trong việc góp phần phổ biến, tuyên truyền,
giáo dục pháp luật; nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân bằng những vụ
việc cụ thể, đặc biệt là thông qua các phiên tòa xét xử công khai.
Phân tích vai trò áp dụng hình phạt của TA nh nêu trên đã gián tiếp nói
lên vai trò của VKS trong THQCT, KSXX nói chung cũng nh kiểm sát áp
dụng hình phạt của TA nói riêng. Điều đó cũng có nghĩa là chất lợng áp dụng

hình phạt của TA có liên quan đến chất lợng kiểm sát áp dụng hình phạt của
VKS. Nếu chất lợng áp dụng hình phạt đối với ngời phạm tội trong xét xử các
vụ án hình sự của TAND đang cần đợc quan tâm, chấn chỉnh kịp thời, thì chất
lợng và trách nhiệm của VKSND trong công tác THQCT, kiểm sát áp dụng
hình phạt của VKS các cấp cũng cần phải đợc nâng cao.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, chất lợng công tác
thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng hình phạt của
Viện Kiểm Sát
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò công tác thực hành quyền công
tố, kiểm sát việc áp dụng hình phạt của Viện kiểm sát
Để hiểu rõ về công tác THQCT, kiểm sát việc áp dụng hình phạt của
VKS, trớc hết chúng ta cần tìm hiểu về Quyền công tố, THQCT nh khái niệm,
nội dung, phạm vi và đối tợng của nó trên cả phơng diện lý luận và thực tiễn ở
Việt Nam.
* Về Quyền công tố
ở nớc ta, Quyền công tố là một chức năng rất quan trọng của Nhà nớc
đợc giao cho VKSND thực hiện. Hiến pháp năm 1980 tại điều 138 quy định:
VKSND thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật đợc chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất. Luật tổ chức VKSND năm 1981 quy định tại
điều 1: VKSND tối cao thực hành quyền công tố bảo đảm cho pháp luật đ-
ợc nghiêm chỉnh và thống nhất.
Trong lý luận cũng nh trong thực tiễn cha có sự hiểu thống nhất và đầy
đủ về khái niệm, nội dung và phạm vi của Quyền công tố. Đã có một số tác giả
nghiên cứu vấn đề này và đa ra khái niệm về Quyền công tố, song cách hiểu
cũng cha thống nhất và cha đợc cơ quan lập pháp ghi nhận, giải thích.
Nghiên cứu lịch sử lập pháp ở nớc ta thấy rằng, trớc khi Quốc hội thông
qua Hiến pháp nớc Việt Nam dân chủ Cộng hoà năm 1959 và Luật tổ chức
VKSND năm 1960, thì đã có Viện Công tố. Theo Nghị quyết ngày 29/4/1958
của Quốc hội về việc thành lập Viện Công tố và hệ thống Viện Công tố, thì
Quyền công tố của Viện Công tố là giám sát việc tuân thủ và chấp hành pháp

luật Nhà nớc, truy tố theo Luật hình sự kẻ phạm pháp để bảo vệ chế độ, giữ gìn
trật tự an ninh, bảo vệ tài sản của công, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân
Về nhiệm vụ của Viện Công tố đợc quy định trong Nghị định số 256/TTg ngầy
01/7/1959 của Thủ tớng Chính phủ là: Điều tra, truy tố trớc TA những kẻ phạm
pháp về hình sự, giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều tra của
Cơ quan điều tra; giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác xét xử của
Toà án; giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác thi hành án.
Viện Công tố thời kỳ năm 1958 tuy đã xác định đợc phần nào chức
năng của Viện Công tố l giám sát các hoạt động t pháp. truy tố kẻ phạm pháp
theo pháp luật hình sự. Nhng về mặt lập pháp, thuật ngữ Quyền công tố chính
thức đợc ghi nhận từ Hiến pháp năm 1980 (điều 138) và Luật tổ chức VKSND
năm 1981. Cho đến nay vẫn cha có văn bản pháp luật của Uỷ ban Thờng vụ
Quốc hội chính thức giải thích nội dung của Quyền công tố [13, tr.13, 14].
Theo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi bổ sung một số điều của
Hiến pháp năm 1992, thì chức năng của VKSND đã có sự thay đổi. Điều 137
của Hiến pháp quy định VKSND THQCT và kiểm sát các hoạt động t pháp
[20, tr.71]. Trên cơ sở Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND năm 2002 cũng có sự
thay đổi về chức năng. Điều 1: VKSND THQCT và kiểm sát các hoạt động t
pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật [20, tr.195].
Nghị quyết 08 của Đảng về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác t pháp
trong thời gian tới đã nhấn mạnh:
VKS các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động t pháp. Hoạt động công tố phải đ-
ợc thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng
nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và ngời phạm tội, không làm
oan ngời vô tội [5, tr.2].
Theo chúng tôi, Quyền công tố chỉ thực hiện trong lĩnh vực hình sự nh
quy định ở Luật tổ chức VKSND năm 2002 là đúng. Phạm vi của nó trong
TTHS bắt đầu từ khi phát hiện tội phạm, khởi tố vụ án đến truy tố bị can ra
Toà và kết thúc bằng một bản án của Toà án có hiệu lực pháp luật.

Với những lý do phân tích ở trên về Quyền công tố, tác giả đồng nhất
với quan điểm của Tiến sĩ Luật học Lê Thị Tuyết Hoa : Quyền công tố là
quyền của VKSND nhân danh Nhà nớc thực hiện trên cơ sở các quy định của
pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự để tiến hành việc khởi tố vụ án,
truy tố và buộc tội ngời phạm tội trớc Toà án; nhằm góp phần ra đợc bản án
có căn cứ, công minh, đúng ngời, đúng tội, đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng nh các lợi ích hợp pháp của
Nhà nớc, của xã hội.
* Công tác thực hành quyền công tố nói chung và thực hành quyền
công tố trong xét xử các vụ án hình sự nói riêng
Điều 137 Hiến pháp 1992 (sửa đổi) quy định VKSND Tối cao THQCT
và kiểm sát các hoạt động t pháp, góp phần đảm bảo cho pháp luật đợc chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các VKSND địa phơng, các VKS Quân sự
THQCT và kiểm sát các hoạt động t pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật
định [20, tr.71].
Điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định VKSND THQCT
trong TTHS, quyết định việc truy tố ngời phạm tội ra trớc TA.
Điều 13 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định:
Khi THQCT trong giai đoạn điều tra, VKSND có những nhiệm
vụ và quyền hạn sau đây: 1. Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can,
yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ
án hình sự, khởi tố bị can; 2. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ
quan điều tra tiến hành điều tra; trực tiếp tiến hành một số hoạt
động điều tra theo quy định của pháp luật; 3. Yêu cầu thủ trởng cơ
quan điều tra thay đổi điều tra viên theo quy định của pháp luật; nếu
hành vi của điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình
sự; 4. Quyết định áp dụng thay đổi, huỷ bỏ biện pháp bắt, tạm giữ,
tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác. Phê chuẩn, không phê
chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra theo quy định của pháp
luật; 5. Huỷ bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra; 6.

Quyết định việc truy tố bị can, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình
chỉ điều tra, đình chỉ, hoặc tạm đình chỉ vụ án [20, tr.202].
Điều 16 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định Trong giai đoạn xét
xử các vụ án hình sự, VKSND có trách nhiệm THQCT, bảo đảm việc truy tố
đúng ngời đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và ngời phạm tội;
kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự nhằm đảm bảo việc xét xử đúng pháp
luật, nghiêm minh, kịp thời [20, tr.204, 205].
Điều 17 Luật tổ chức VKSND 2002 quy định:
Khi THQCT trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, VKSND
có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Đọc cáo trạng, quyết
định của VKSND liên quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên toà; 2.
Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên toà sơ thẩm. Phát biểu
quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên toà phúc thẩm; tranh luận
với ngời bào chữa và những ngời tham gia tố tụng khác tại phiên toà sơ
thẩm, phúc thẩm; 3. Phát biểu quan điểm của VKSND về việc giải
quyết vụ án tại phiên toà giám đốc thẩm [20, tr.205].
Nh vậy, có thể hiểu THQCTlà việc sử dụng tổng hợp các quyền năng
pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
ngời phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
Việc THQCT của VKSND tại phiên toà chỉ là một bộ phận của Quyền
công tố nói chung và hoạt động công tố của VKSND nói riêng. Thực hiện tốt
Quyền công tố trong giai đoạn điều tra có ý nghĩa quan trọng quyết định đến

×