Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Khóa luận hình phạt tiền trong bộ luật hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng hình phạt này trên địa bàn tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.36 KB, 55 trang )

Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................1
CHƯƠNG I......................................................................................................4
1.1 KHÁI NIỆM, MỤC ĐÍCH , HỆ THỐNG HÌNH PHẠT........................4
1.1.1 Khái niệm hình phạt..........................................................................4
1.1.2.Mục đích hình phạt :........................................................................7
1.2 KHÁI NIỆM, MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA CỦA HÌNH PHẠT TIỀN. .10
1.2.1 Khái niệm hình phạt tiền................................................................10
1.2.2 Mục đích và ý nghĩa của hình phạt tiền ........................................12
1.3 PHÂN BIỆT HÌNH PHẠT TIỀN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VỚI MỘT
SỐ CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ KHÁC CŨNG TÁC ĐỘNG ĐẾN
MẶT KINH TẾ ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ ÁP DỤNG.....................................14
CHƯƠNG II..................................................................................................19
2.1 HÌNH PHẠT TIỀN KHI ÁP DỤNG LÀ HÌNH PHẠT CHÍNH..........20
2.1.1 Phạm vi và điều kiện áp dụng.........................................................20
2.1.2 Mức phạt tiền....................................................................................26
2.1.3 Cách thức nộp tiền phạt....................................................................27
2.2 PHẠT TIỀN KHI ÁP DỤNG LÀ HÌNH PHẠT BỔ SUNG.................28
2.2.1 Phạm vi, điều kiện áp dụng.............................................................28
Mức phạt tiền và cách thức nộp tiền phạt................................................36
2.2 MỘT SỐ QUY ĐỊNH TRONG PHẦN CHUNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
HÌNH PHẠT TIỀN.....................................................................................36
2.3.1 Tổng hợp hình phạt tiền...................................................................36
2.3.2 Miễn hình phạt tiền.........................................................................37
2.3.3.Thời hiệu thi hành bản án phạt tiền................................................37
2.3.4. Giảm mức hình phạt đã tuyên.......................................................38
2.3.5 Xoá án tích đối với người bị kết án phạt tiền.................................38
2.3.6 Hình phạt tiền áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội..39
CHƯƠNG III.................................................................................................42


3.1 THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TIỀN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
PHÚ THỌ...................................................................................................42
3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HÌNH
PHẠT TIỀN TRÊN ĐIẠ BÀN TỈNH PHÚ THỌ.......................................49
KẾT LUẬN....................................................................................................52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................53

Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D


Khóa luận tốt nghiệp

1

LỜI NÓI ĐẦU
Đấu tranh phòng, chống tội phạm, ổn định trật tự xã hội, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị luôn là
nhiệm vụ tất yếu khách quan của bất kì một nhà nước nào trong bất kì một xã
hội nào. Một trong những công cụ hữu hiệu để giai cấp thống trị thực hiện
nhiệm vụ tất yếu khách quan đó chính là hình phạt. Hiệu quả của hình phạt
phụ thuộc rất nhiều vào việc quy định và áp dụng các quy định đó như thế nào
trong thực tế.
Hình phạt tiền - một trong những hình phạt có lịch sử lâu đời trong hệ
thống hình phạt được quy định trong các văn bản pháp luật hình sự đầu tiên của
nhà nước Việt Nam như sắc lệnh số 21/SL ngày 14/2/1946. Cùng với sự phát
triển của pháp luật hình sự Việt Nam các quy định về hình phạt tiền cũng dần
dần được hoàn thiện. Trong BLHS Việt Nam năm 1999 - BLHS hiện hành của
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa - BLHS áp dụng trong thời kì đổi mới, tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong bối cảnh toàn cầu hóa của
thế giới, hình phạt tiền được quy định trong rất nhiều điều luật trong phần các

tội phạm song thực tế hiệu quả áp dụng của hình phạt này còn thấp.
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về hình phạt tiền của các
nhà khoa học, trong các sách, báo, tạp chí hay trong các luận văn, luận án…
Song chưa có một khóa luận tốt nghiệp nào nghiên cứu về hình phạt tiền sau
khi BLHS năm 1999 có hiệu lực. Mặt khác trong xu hướng phát triển của nền
kinh tế thị trường hiện nay xu hướng áp dụng hình phạt này ngày càng cao. Ở
các nước phát triển như: Pháp, Đức, Nhật Bản… hình phạt tiền được áp dụng
rất phổ biến, đạt được hiệu quả cao. Tất cả những điều đó đòi hỏi chúng ta
phải có những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng của hình phạt tiền để hình
phạt tiền không chỉ là những quy định mang tính chất tượng trưng mà không
có ý nghĩa thực tiễn. Chính vì vậy chúng tôi chọn đề tài “Hình phạt tiền
trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng hình phạt này trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ”
Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D


Khóa luận tốt nghiệp

2

Mục đích của đề tài: nhằm đưa ra những nhận thức toàn diện, có hệ
thống về hình phạt tiền trong luật hình sự Việt Nam đặc biệt trong BLHS năm
1999, đánh giá thực tiễn áp hình phạt tiền trong thực tế từ đó đưa ra những
giải pháp nâng cao hiệu quả của hình phạt này trong thực tiễn áp dụng.
Mục đích nghiên cứu đó đặt trong phạm vi cho phép của một khóa luận
tốt nghiệp, chúng tôi chủ yếu tập trung vào khái niệm, mục đích, ý nghĩa, nội
dung, điều kiện áp dụng của hình phạt tiền trong BLHS năm 1999, có sự
phân biệt hình phạt tiền với các biện pháp cưỡng chế khác có những điểm
tương đồng hay nhầm lẫn trong thực tế áp dụng. Khóa luận cũng nghiên cứu
cả những quy định về hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội.

Việc khảo sát thực tiễn áp dụng hình phạt tiền được thực hiện trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ trong 5 năm liên tiếp gần đây nhất.
Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận tốt nghiệp dựa trên cơ sở phương
pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lênin, các nguyên tắc của Hiến
pháp, chính sách hình sự của Nhà nước ta. Phương pháp nghiên cứu được sử
dụng bao gồm phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê…
Cơ cấu của khóa luận: ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo gồm có 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lí luận cơ bản về hình phạt và hình phạt tiền
theo pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương II: Hình phạt tiền trong BLHS năm 1999.
Chương III: Thực tiễn áp dụng hình phạt tiền trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng của hình phạt này.
Thông qua việc nghiên cứu những quy định về hình phạt tiền trong
BLHS hiện hành, đánh giá thực tiễn áp dụng hình phạt này tại địa bàn tỉnh
Phú Thọ, chúng tôi mong muốn góp một phần nhỏ bé công sức của mình
giúp các bạn sinh viên, và có thể nhiều người khác nữa có nhận thức đúng đắn
Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D


Khóa luận tốt nghiệp

3

hơn về vai trò, mục đích, ý nghĩa… của hình phạt tiền, đồng thời đưa ra một
số giải pháp có tính chất tham khảo để nâng cao hiệu quả áp dụng của hình
phạt này.
Đây là lần đầu tiên em thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học
độc lập, mặt khác do trình độ kiến thức còn hạn chế nên không tránh khỏi
những thiếu sót nhất định rất mong quý thầy cô, các bạn sinh viên đóng góp

cho ý kiến để kiến thức của em được hoàn thiện hơn.

Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D


Khóa luận tốt nghiệp

4

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ HÌNH PHẠT VÀ HÌNH
PHẠT TIỀN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1 KHÁI NIỆM, MỤC ĐÍCH CỦA HÌNH PHẠT.

1.1.1 Khái niệm hình phạt.
Tội phạm là một hiện tuợng xã hội tiêu cực có tính nguy hiểm cao cho
xã hội, mang tính lịch sử và bản chất giai cấp sâu sắc. Đấu tranh với tội phạm
là nhiệm vụ tất yếu khách quan nhằm bảo vệ và duy trì điều kiện tồn tại của
giai cấp thống trị, của nhà nước trong bất kì một xã hội nào. Hình phạt được
coi là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, là công cụ hữu
hiệu trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. C. Mác đã từng viết: “Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho lợi ích giai cấp thống trị trong một xã hội
nhất định”(1) và “Hình phạt chẳng qua là thủ đoạn tự vệ của xã hội với những
hành vi xâm phạm những điều kiện tồn tại của xã hội đó”(2).
Trong lịch sử luật hình sự Việt Nam, chế định hình phạt cùng chế định
tội phạm là những chế định quan trọng nhất của luật hình sự Việt Nam. Có rất
nhiều quan điểm khoa học xung quanh chế định hình phạt. Có thể phân chúng
thành hai trường phái quan niệm chính sau:
Quan niệm thứ nhất: Hình phạt là công cụ trả thù người phạm tội. Hình
phạt nhằm gây đau đớn về thể xác, bôi nhọ danh dự nhân phẩm của người

phạm tội. Đây là quan niệm phổ biến về hình phạt trong pháp luật nhà nước
phong kiến và chiếm hữu nô lệ.
Quan niệm thứ hai: Hình phạt là công cụ đấu tranh phòng ngừa tội
phạm. Đây là quan niệm tiến bộ về hình phạt. Quan niệm đó được thể chế hoá
trong đường lối chính sách hình sự của Nhà nước ta, đồng thời được cụ thể
hóa trong pháp luật hình sự nước Việt Nam XHCN.
(

(1)(2)

CácMác, F. Angghen toàn tập, tập 8, trang 531.

Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D


Khóa luận tốt nghiệp

5

Trong Bộ luật hình sự năm 1985 cũng như trong các văn bản pháp luật
hình sự trước đó tuy chưa có khái niệm pháp lý về hình phạt song trong các
công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các cơ sở đào tạo có rất nhiều
quan điểm nhìn chung là thống nhất về hình phạt. Có thể viện dẫn một vài
quan điểm về hình phạt sau đây:
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế Nhà nước nghiêm khắc nhất quy
định trong luật hình sự được Toà án áp dụng cho chính người đã thực hiện
tội phạm nhằm trừng trị và cải tạo họ, góp phần vào việc đấu tranh phòng và
chống tội phạm, bảo vệ chế độ và trật tự xã hội cũng như các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân.” [10 - Tr 271]
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế do Toà án quyết định trong bản án

với người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm và được thể hiện ở việc tước
đoạt hoặc hạn chế các quyền và lợi ích do pháp luật quy định đối với người
bị kết án.” [17 - Tr 194]
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế Nhà nước do Toà án áp dụng đối
với người thực hiện tội phạm theo quy định của luật hình sự, tước bỏ hoặc
hạn chế quyền và lợi ích nhất định của người bị kết án nhằm mục đích giáo
dục cải tạo người phạm tội nhằm ngăn ngừa họ phạm tội mới.” [14 - Tr 23]
“Hình phạt là biện cưỡng chế Nhà nước được luật hình sự quy định và do
Toà án áp dụng có nội dung tước bỏ hoặc hạn chế quyền và lợi ích của người
phạm tội, nhằm trừng trị, giáo dục họ cũng như nhằm giáo dục người khác tôn
trọng pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.” [24 - Tr 64].
Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc Hội thông qua ngày 21/12/1999
tại kì họp thứ 6, khoá X có hiệu lực từ ngày 1/7/2000, lần đầu tiên đã đưa ra
khái niệm pháp lý chính thức của hình phạt tại Điều 26: “Hình phạt là biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước đoạt hoặc hạn
chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong BLHS
và do Toà án quyết định .”
Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D


Khóa luận tốt nghiệp

6

Thật ra, cách diễn đạt của Điều 26 - BLHS năm 1999 là chưa thật chính
xác: “Hình phạt có nội dung pháp lí là tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích
hợp pháp của người phạm tội chứ không phải có mục đích nhằm tước bỏ
hoặc hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp đó” [25 - Tr 24]. Do vậy, từ “nhằm”
trong Điều 26 là thừa. Tuy vậy việc xây dựng được một khái niệm pháp lý
chính thức tương đối hoàn chỉnh, thể hiện khá đầy đủ nội dung, bản chất, đặc

điểm của hình phạt dưới góc độ một chế tài hình sự có ý nghĩa lí luận và thực
tiễn lớn trong khoa học luật hình sự.
Phân tích khái niệm hình phạt tại Điều 26, ta có thể rút ra những đặc
điểm cơ bản của hình phạt như sau:
Thứ nhất: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước có tính nghiêm
khắc nhất trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế. So với các biện pháp
cưỡng chế khác (biện pháp cưỡng chế hành chính, biện pháp cưỡng chế tố
tụng hình sự, các biện pháp tư pháp khác trong luật hình sự) thì hình phạt hạn
chế hoặc tước bỏ những quyền và lợi ích thiết thân của người phạm tội như
quyền sống (hình phạt tử hình), quyền tự do (hình phạt tù có thời hạn), quyền
sở hữu (hình phạt tiền). Ngoài nội dung trên, hình phạt bao giờ cũng để lại
cho người bị kết án hậu quả pháp lý là án tích trong một thời hạn nhất định
theo quy định của BLHS. Án tích là đặc điểm nhân thân bất lợi cho người
phạm tội trong đời sống xã hội, trong khi người phạm tội có hành vi vi phạm
pháp luật. Án tích có thể bị coi là tình tiết định tội (khoản 1 Điều 143 BLHS
năm 1999), tình tiết định khung tăng nặng (điểm c khoản 2 Điều 143 BLHS năm
1999), tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS).
Thứ hai: Hình phạt chỉ có thể đuợc áp dụng với người có hành vi phạm
tội, điểm này đã thể hiện rõ tính pháp chế của luật hình sự Việt Nam. Mọi
công dân đều phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình theo quy định của
pháp luật. Điều 2 BLHS 1999: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật
hình sự quy định thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự ”. Như vậy Luật hình
Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D


Khóa luận tốt nghiệp

7

sự Việt Nam không cho phép người khác chịu hình phạt thay cho người

phạm tội.
Thứ ba : Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự. Trong BLHS
năm 1999 hình phạt được quy định ở phần chung và phần các tội phạm. Phần
chung quy định về khái niệm, mục đích, hệ thống hình phạt... Phần các tội
phạm quy định các loại và mức hình phạt cho từng tội phạm cụ thể. Việc quy
định hình phạt trong BLHS đảm bảo tính nghiêm minh, tính hợp pháp, và
thống nhất cho việc quyết định hình phạt trên thực tế.
Thứ tư: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế được áp dụng theo trình tự
riêng biệt. Toà án là cơ quan duy nhất có quyền nhân danh nhà nước áp dụng
hình phạt cho người phạm tội. Điều 45 BLHS năm 1999 quy định về căn cứ
quyết định hình phạt: “Khi quyết định hình phạt Toà án căn cứ vào quy định
của BLHS, cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự”.
Như vậy chỉ có Toà án dựa trên những căn cứ luật định mới được quyết định
hình phạt đối với người phạm tội khi họ thực hiện một tội phạm nhất định.
Những đặc điểm cơ bản trên đây giúp ta phân biệt hình phạt với các
biện pháp cưỡng chế khác của nhà nước như các biện pháp cưỡng chế hành
chính (cảnh cáo, phạt tiền); cưỡng chế trong luật tố tụng hình sự (bắt người,
tạm giam, tạm giữ...); các biện pháp tư pháp khác trong luật hình sự và góp
phần làm rõ bản chất của hình phạt.
1.1.2.Mục đích hình phạt :
Hình phạt tuy không ảnh hưởng trực tiếp đến những điều kiện và
nguyên nhân làm phát sinh tội phạm. Nhưng hình phạt với nội dung hạn chế
hoặc tước bỏ những quyền và lợi ích của người phạm tội có những ảnh
hưởng, những tác động nhất định đối với người phạm tội cũng như những
nguời khác trong xã hội theo những khuynh hướng khác nhau. Những khuynh
hướng tác động đó chính là mục đích của hình phạt.
Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D



Khóa luận tốt nghiệp

8

Mục đích của hình phạt sẽ quyết định việc quy định từng loại hình phạt
nói riêng và hệ thống hình phạt nói chung, quyết định những quy định về hình
phạt trong luật và việc áp dụng hình phạt trong thực tế. Chính vì vậy mục đích
của hình phạt là vấn đề có ý nghĩa không chỉ về mặt lí luận mà còn có ý nghĩa
đặc biệt trong thực tiễn.
Bộ luật Hình sự 1985 tuy chưa đưa ra được khái niệm pháp lý về hình
phạt xong mục đích hình phạt thì đã được quy phạm hoá tại Điều 20. Trong
BLHS năm 1999 mục đích hình phạt được quy định tại Điều 27: “Hình phạt
không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm cải tạo họ trở thành
người có ích cho xã hội, tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã
hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm mục đích giáo
dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm”.
Tuy mục đích hình phạt đã được quy định trong luật hiện hành nhưng
trong nhận thức của các nhà nghiên cứu vẫn chưa đạt được sự thống nhất.
Một số học giả trong các công trình nghiên cứu của mình cho rằng:
“Trừng trị là nội dung, là thuộc tính, là phương thức thực hiện hình phạt,
trừng trị là tiền đề quan trọng để đạt được mục đích phòng ngừa tội phạm”
[14 - Tr 25]. Các nhà khoa học theo trường phái này chỉ thừa nhận giáo dục,
phòng ngừa là mục đích của hình phạt còn trừng trị chỉ là tiền đề để đạt được
mục đích đó mà thôi.
Nhưng trong giáo trình của một số trường đại học, của nhiều cơ sở đào
tạo khác nhau các tác giả đều thống nhất hình phạt trong luật hình sự có mục
đích trừng trị. Trong giáo trình Luật hình sự (phần chung) của trường Đại học
Luật Hà Nội cho rằng hình phạt trong luật hình sự Việt Nam có hai mục đích
phòng ngừa riêng và mục đích phòng ngừa chung. “Trong mục đích phòng
ngừa riêng, trừng trị và cải tạo, giáo dục người phạm tội, ngăn ngừa họ

phạm tội mới là hai mục đích song song tồn tại và có mối quan hệ chặt chẽ,
chỉ có thể đạt được mục đích cuối cùng và chủ yếu là cải tạo giáo dục người
Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D


Khóa luận tốt nghiệp

9

phạm tội nếu hình phạt áp dụng với họ là tương xứng với hành vi phạm tội
mà họ gây ra.” [12 - Tr 224]. Việc nhà nước trừng trị người phạm tội một
cách công minh chính là nội dung chủ yếu và quan trọng tạo cơ sở cho cải tạo,
giáo dục người phạm tội; Ngược lại cải tạo, giáo dục người phạm tội chính là
phát huy tính tích cực của nội dung trừng trị. Như vậy, có thể nói rằng trong
mối quan hệ giữa trừng trị và cải tạo của hình phạt thì “trừng trị là mục đích
nhưng đồng thời cũng là phương tiện để đạt mục đích cuối cuối cùng và chủ
yếu của hình phạt đối với người phạm tội là giáo dục, cải tạo họ”.[25 - Tr 33]
Bên cạnh mục đích phòng ngừa riêng, hình phạt theo luật hình sự Việt
Nam còn có mục đích giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm. Mục đích này được thể hiện trong khoa học
luật hình sự với thuật ngữ “phòng ngừa chung”. Với mục đích phòng ngừa
chung hình phạt có khả năng giáo dục, răn đe những thành viên “không vững
vàng” trong xã hội, dễ bị lôi kéo vào con đường phạm pháp, những người đã
và đang phạm tội hay có ý định phạm tội, cho họ thấy rằng hình phạt là hậu
quả pháp lí họ có khả năng phải gánh chịu nếu thực hiện một tội phạm do luật
hình sự quy định. Từ đó giáo dục, nâng cao ý thức tôn trọng và tuân theo pháp
luật giúp họ từ bỏ ý định phạm tội. Nhưng luật hình sự Việt Nam không lấy
sự trừng trị chỉ để răn đe mà chủ yếu nhằm làm cho người dân tin vào sự công
minh của pháp luật, tin vào các cơ quan bảo vệ pháp luật, động viên họ tham
gia tích cực vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Đó chính là nội

dung chủ yếu của mục đích phòng ngừa chung của hình phạt.
Chúng tôi đồng ý với quan điểm trừng trị là mục đích đồng thời cũng là
phương tiện để đạt được mục đích cải tạo. Mục đích cuối cùng và chủ yếu của
hình phạt là giáo dục người phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội mới; đồng thời
giáo dục người khác có ý thức tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng và chống
tội phạm. Bởi xét cho cùng: “Trừng trị là cơ sở để giáo dục, cải tạo, giáo dục
cải tạo là sự phát huy tính tích cực của trừng trị” [25 - Tr 33].
Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D


Khóa luận tốt nghiệp

10

Tóm lại vấn đề mục đích của hình phạt luôn là vấn đề có ý nghĩa lí luận
và thực tiễn rất lớn trong khoa học luật hình sự. Giải quyết tốt mối quan hệ
giữa phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng, giữa trừng trị và thuyết phục là
những đòi hỏi tất yếu nhằm thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước và đạt
được hiệu quả cao trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong luật hình sự,
việc quy định hình phạt trong luật cũng như áp dụng hình phạt trên thực tế
đều hướng tới những mục đích đặt ra cho hình phạt, có nhận thức đúng đắn về
hình phạt và mục đích của hình phạt thì mới có thể sử dụng hình phạt như là
một công cụ hữu hiệu để đấu tranh với tội phạm.
1.2 KHÁI NIỆM, MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA CỦA HÌNH PHẠT TIỀN

1.2.1 Khái niệm hình phạt tiền.
Lịch sử lập pháp pháp luật hình sự đã có những bước phát triển nhất
định trong các quy định về hình phạt tiền. Xong vẫn chưa có một khái niệm
pháp lí chính thức nào về hình phạt tiền trong các văn bản pháp luật hình sự
dưới góc độ luật thực định. Trong BLHS năm 1985 cũng như trong BLHS

năm 1999 mới chỉ dừng lại ở việc quy định về phạm vi, điều kiện, nguyên tắc
áp dụng của hình phạt tiền.
Dưới góc độ khoa học luật hình sự, trong các giáo trình, các sách báo
pháp lí chuyên nghành có nhiều khái niệm khác nhau về hình phạt tiền. Sau
đây là một số ví dụ:
“Phạt tiền là hình phạt không tước tự do, nhẹ hơn hình phạt cải tạo
không giam giữ, buộc người bị kết án phải nộp sung công quỹ nhà nước một
khoản tiền nhất định”. [25 - Tr 51]
“Phạt tiền là hình phạt tước của người phạm tội một khoản tiền nhất
định sung công quỹ nhà nước”. [12 - Tr 195]

Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D


Khóa luận tốt nghiệp

11

Theo chúng tôi khái niệm “Phạt tiền là hình phạt tước của người phạm
tội một khoản tiền nhất định sung công quỹ nhà nước” là chưa chính xác việc
sử dụng thuật ngữ pháp lý “người phạm tội” để chỉ đối tượng bị áp dụng hình
phạt tiền là chưa thật hợp lí. Nên thay thuật ngữ “người phạm tội” bằng thuật
ngữ “người bị kết án” sẽ chính xác hơn.
Tuy nhiên qua nghiên cứu về hình phạt tiền có thể đưa ra một khái niệm
ngắn gọn như sau: “Phạt tiền là hình phạt được quy định trong Bộ luật hình
sự Việt Nam tước đi của người bị kết án một khoản tiền nhất định sung công
quỹ nhà nước”. Đây là khái niệm ngắn gọn phản ánh tương đối đầy đủ các
dấu hiệu đặc trưng cũng như nội dung pháp lí của hình phạt tiền.
* Là một hình phạt trong hệ thống hình phạt được quy định trong Bộ
luật hình sự Việt Nam hình phạt tiền mang đầy đủ những đặc điểm đặc trưng

của hình phạt với tư cách là chế tài hình sự. Đó là những đặc điểm sau:
- Biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước.
- Chỉ có thể áp dụng với người phạm tội.
- Được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam.
- Được áp dụng theo trình tự riêng biệt.
* Bên cạnh đó hình phạt tiền có những đặc trưng riêng so với các hình
phạt khác trong hệ thống hình phạt, thể hiện ở những nội dung chính sau:
- Hình phạt tiền với nội dung pháp lý “tước đi của người bị kết án một
khoản tiền nhất định sung công quỹ Nhà nước”. Biện pháp này có khả năng
tác động trực tiếp và mạnh mẽ về mặt kinh tế đối với người phạm tội. Nó đặc
biệt phát huy hiệu quả trong việc đấu tranh với các loại tội có tính chất vụ lợi,
các tội dùng tiền làm phương tiện phạm tội ... mà chưa đến mức phải áp dụng
các hình phạt có tính chất nghiêm khắc hơn.

Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D


Khóa luận tốt nghiệp

12

- Hậu qủa pháp lí của việc áp dụng hình phạt tiền: Người bị kết án
không phải chịu bất kì trách nhiệm nào khác ngoại trừ việc mang án tích như
các hình phạt khác nói chung sau khi chấp hành xong hình phạt.
Những đặc điểm cơ bản trên giúp chúng ta phân biệt hình phạt tiền
trong chế tài luật hình sự với phạt tiền trong xử lí vi phạm hành chính hay
với các biện pháp tư pháp được quy định trong luật hình sự như tịch thu tài
sản, tịch thu vật tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm ... Điều đó có ý nghĩa
lí luận cũng như thực tiễn rất lớn trong việc quy định và áp dụng các biện
pháp cưỡng chế một cách đúng đắn.

1.2.2 Mục đích và ý nghĩa của hình phạt tiền .
*** Mục đích của hình phạt tiền.
Hình phạt tiền với vai trò là một loại hình phạt trong hệ thống hình
phạt, với nội dung pháp lí tước bỏ một khoản tiền nhất định của người bị
kết án để sung công quỹ Nhà nước cũng nhằm đạt được mục đích chung
của hình phạt. Vì vậy khi áp dụng hình phạt tiền trên thực tế, Tòa án cũng
nhằm hướng tới những mục đích như trừng trị người phạm tội, đồng thời
giáo dục cải tạo họ và phòng ngừa tội phạm. Với những mức hình phạt có
thể lên đến hàng trăm triệu đồng thậm chí hàng tỷ đồng, khả năng trừng trị
của hình phạt tiền là tương đối nghiêm khắc, cho phép áp dụng với nhiều
loại tội phạm có mức độ nguy hiểm khác nhau. Tước đi một khoản tiền của
người bị kết án, Tòa án còn nhằm giáo dục họ, làm cho họ nhận ra sai lầm,
nhận ra tính tất yếu của hình phạt đối với tội phạm mà họ đã thực hiện để
tự giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội và nhằm đạt được
mục đích phòng ngừa chung của tội phạm.
Tuy nhiên phải thấy rõ rằng phạt tiền không phải chỉ là một biện
pháp kinh tế thuần tuý. “Khả năng tác động về mặt kinh tế của hình phạt
này chỉ là một thuộc tính vốn có của nó, cùng các thuộc tính khác (áp dụng
với chính người phạm tội, để lại án tích trong thời gian nhất định, hậu qủa

Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D


Khóa luận tốt nghiệp

13

pháp lí của hành vi phạm tội) tạo nên những đặc điểm cơ bản phân biệt
hình phạt tiền với các biện pháp cưỡng chế khác”.[13 - Tr 167]
Khi quy định và áp dụng hình phạt tiền trên thực tế luật hình sự không

đặt ra mục đích kinh tế với hình phạt tiền, không phải dùng hình phạt tiền để
tăng thu cho ngân sách. Tước đi của người bị kết án một khoản tiền nhất định
sung công quỹ Nhà nước đương nhiên tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhưng
“nguồn thu này chỉ là hệ quả của việc áp dụng hình phạt tiền, chứ không phải
mục đích hình phạt tiền”. [13 - Tr 167]
*** Ý Nghĩa của hình phạt tiền.
Việc quy định và áp dụng hình phạt tiền trong luật hình sự Việt Nam có
những ý nghĩa sau đây:
- Việc áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội sẽ tiết kiệm được
những chi phí xã hội cho việc giáo dục, cải tạo, hạn chế mặt tiêu cực có thể phát
sinh do áp dụng hình phạt tù có thời hạn (xây dựng nhà tù, hệ thống quản lí, cơ
sở vật chất...) mà vẫn đạt được mục đích giáo dục cải tạo. Người phạm tội không
phải cách li khỏi xã hội, được sống và lao động trong môi trường bình thường.
- Việc quy định hình phạt tiền trong luật hình sự nước ta góp phần đa
dạng hoá các biện pháp xử lí hình sự trong hoạt động đấu tranh phòng chống
tội phạm. Hình phạt tiền và cải tạo không giam giữ đã rút ngắn khoảng cách về
mức độ nghiêm khắc giữa hình phạt cảnh cáo và tù có thời hạn giúp Toà án có
cơ sở thực hiện việc xét xử một cách công bằng.
- Hình phạt tiền góp phần thực hiện nguyên tắc phân hóa và cá thể hoá
hình phạt với các trường hợp phạm tội khác nhau về tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội, góp phần thực hiện chính sách nghiêm trị kết hợp với khoan
hồng của luật hình sự Việt Nam.
- Tính chất lưỡng tính của hình phạt tiền không cho phép áp dụng nó với
cả hai tư cách trong trường hợp phạm tội cụ thể với một loại tội phạm cụ thể
mà chỉ mở ra khả năng đa dạng hoá, tăng cường sự linh hoạt trong áp dụng
Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D


Khóa luận tốt nghiệp


14

hình phạt tiền, bổ sung, hỗ trợ tác dụng cho các hình phạt khác (khi áp dụng là
hình phạt bổ sung) nhằm đạt được hiệu quả cao nhất của hình phạt. Việc nhận
thức một cách đúng đắn hình phạt tiền với tư cách là hình phạt bổ sung không
chỉ củng cố, tăng cường hiệu quả của hình phạt chính mà với khả năng tác
động riêng của mình thông qua một cơ chế nhất định nó tạo ra sức mạnh tổng
hợp của hình phạt được áp dụng với người phạm tội.
1.3 PHÂN BIỆT HÌNH PHẠT TIỀN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VỚI
MỘT SỐ CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ KHÁC CŨNG TÁC ĐỘNG ĐẾN
MẶT KINH TẾ ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ ÁP DỤNG

Trong luật hình sự bên cạnh hình phạt tiền còn nhiều biện pháp cưỡng
chế hình sự khác cũng có nội dung pháp lí là tước “một khoản tiền nhất định
của người phạm tội” như cải tạo không giam giữ (hình phạt chính); tịch thu
tài sản (hình phạt bổ sung); tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm;
bồi thường thiệt hại (biện pháp tư pháp). Nếu không nắm rõ được sự khác
nhau giữa các biện pháp cưỡng chế này sẽ gây khó khăn, nhầm lẫn dễ dẫn đến
việc hiểu và áp dụng không đúng trên thực tế, không phát huy được hiệu quả
của việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế, không phản ánh đúng chính sách
hình sự của nhà nước ta.
* Phân biệt hình phạt tiền với cải tạo không giam giữ trong hệ thống
hình phạt chính.
Cải tạo không giam giữ (Điều 31 BLHS năm 1999): “Người bị kết án
phải thực hiện một số nghĩa vụ theo quy định về cải tạo không giam giữ và bị
khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ Nhà nước”. Tuy có
cùng có đối tượng là người bị kết án, cùng có nội dung pháp lí “tước một
khoản tiền nhất định”. Nhưng tước một khoản tiền nhất định chỉ là một nội
dung pháp lí bên cạnh “thực hiện một số nghĩa vụ theo quy định về cải tạo
không giam giữ”. Chính vì vậy hình phạt tiền với nội dung pháp lí duy nhất

“tước một khoản tiền nhất định” sẽ có tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến lợi
Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D


Khóa luận tốt nghiệp

15

ích vật chất của người phạm tội hơn. Tuy xét về mức độ nghiêm khắc thì hình
phạt cải tạo không giam giữ là loại hình phạt nặng hơn hình phạt tiền. Chính
điều đó giúp phạt tiền khi được quy định và áp dụng là hình phạt chính sẽ tạo
ra khả năng phân hoá, cá thể hoá tối ưu trách nhiệm hình sự với những trường
hợp cần áp dụng hình phạt có khả năng tác động mạnh vào kinh tế mà chưa
cần sử dụng đến các hạn chế pháp lí khác nghiêm khắc hơn.
* Phân biệt hình phạt tiền và hình phạt tịch thu tài sản với tư cách là
hình phạt bổ sung.
Đây là hai loại hình phạt bổ sung đồng tính chất chỉ khác ở một số điểm
nhỏ sau:
Thứ nhất: Tịch thu tài sản có đối tượng áp dụng là người bị kết án về
các tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng còn hình phạt tiền chỉ là những
người bị kết án về các tội ít nghiêm trọng.
Thứ hai: Tịch thu tài sản là “tước một phần hoặc toàn bộ tài sản” còn
phạt tiền là “tước một khoản tiền nhất định” thuộc sở hữu của người bị kết án.
Tài sản bị tước phải thuộc sở hữu của người bị kết án. Tài sản đó có thể là tài
sản người bị kết án đang sử dụng hoặc là tài sản đã cho vay, mượn, thuê, gửi
sửa chữa; tài sản cầm cố, thế chấp…Tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án
có thể tồn tại dưới dạng hiện vật hoặc là tiền kể cả tiền gửi ngân hàng, quỹ tín
dụng, tín phiếu, trái phiếu …
Nhưng những điểm khác biệt nhỏ này trở nên càng khó nhận thấy khi
thực tế hình phạt tiền được áp dụng cho cả các tội nghiêm trọng thậm chí là rất

nghiêm trọng, và tiền thực ra cũng chỉ là một loại tài sản. Chính vì vậy trong
các báo cáo tổng hợp về công tác xét xử của ngành Toà án ta thường thấy có
thực trạng là hình phạt tiền thường được tổng hợp chung với tịch thu có tài sản,
mặc dù chúng đều là các hình phạt bổ sung nhưng hoàn toàn khác nhau.

Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D


Khóa luận tốt nghiệp

16

* Phân biệt hình phạt tiền (Điều 30 BLHS năm 1999) với tịch thu vật,
tiền liên quan trực tiếp đến tội phạm (Điều 41 BLHS năm 1999) và bồi
thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra (Điều 42 BLHS năm 1999).
- Tịch thu vật tiền liên quan trực tiếp đến tội phạm (Điều 41) với tư
cách là biện pháp tư pháp cần phân biệt với hình phạt tiền dưới những nội
dung sau đây:
Thứ nhất: Đối tượng áp dụng biện pháp tịch thu vật, tiền liên quan trực
tiếp đến tội phạm là người phạm tội khi đã có căn cứ chứng minh họ sở hữu
vật, tiền thuộc phạm vi quy định tại Điều 41 BLHS năm 1999. Còn hình phạt
tiền có đối tượng áp dụng là người bị kết án phạt tiền theo quy định của Điều
30 BLHS năm 1999.
Thứ hai: Tịch thu vật, tiền liên quan trực tiếp đến tội phạm là tịch thu
công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội, vật hoặc tiền do phạm tội hoặc
do mua bán đổi trác những thứ ấy mà có, vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu
hành. Trong khi đó phạt tiền là tịch thu tiền thuộc sở hữu của người phạm tội.
Thứ ba: Thời điểm áp dụng tịch thu vật, tiền liên quan trực tiếp đến tội
phạm bất kì giai đoạn tố tụng nào khi đã có căn cứ kết luận vật, tiền đó thuộc
phạm vi quy định tại Điều 41 BLHS 1999. Còn hình phạt tiền chỉ được áp

dụng khi bản án phạt tiền đã có hiệu lực pháp luật.
Thứ ba: Hậu quả pháp lí của việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế này
cũng khác nhau . Sau khi bị áp dụng biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền liên
quan trực tiếp đến tội phạm người phạm tội không bị mang án tích. Riêng
hình phạt tiền sau khi thi hành hình phạt tiền xong người bị kết án sẽ mang án
tích một năm.
Thứ tư: Cơ quan có thẩm quyền áp dụng tịch thu vật, tiền liên quan trực
tiếp đến tội phạm là các cơ quan tư pháp. Trong khi đó chỉ Toà án mới có
thẩm quyền áp dụng hình phạt tiền với người bị kết án phạt tiền.
- Phân biệt bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra (Điều 42
BLHS năm 1999) khi áp dụng với tư cách là biện pháp tư pháp với hình phạt tiền:
Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D


Khóa luận tốt nghiệp

17

Trong báo cáo tổng kết ngành Toà án (năm 1991) của Toà án nhân dân
tối cao đã kết luận. Một số Toà án đã nhầm lẫn giữa tiền phạt (hình phạt tiền)
với khoản tiền bồi thường thiệt hại. Dẫn đến nhận tiền nộp phạt trước khi xét
xử để coi là tình tiết giảm nhẹ “bồi thường, sửa chữa thiệt hại”. Đó là một
sai lầm đã dần được khắc phục nhưng không có nghĩa là không còn ở một
số Toà án địa phương. Cần thấy rõ rằng bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh
khi có thiệt hại thực tế do hành vi phạm tội gây ra. Còn hình phạt tiền chỉ
được áp dụng khi đủ điều kiện luật định tại Điều 30 BLHS 1999 và từng
điều luật cụ thể khi phạm tội do điều luật đó quy định. Thẩm quyền áp
dụng hai biện pháp cưỡng chế này cũng khác nhau (xem phần phân biệt
hình phạt tiền với tịch thu vật, tiền liên quan trực tiếp đến tội phạm)
Không chỉ có sự nhầm lẫn giữa hình phạt tiền và các biện pháp cưỡng

chế hình sự khác trong luật hình sự mà trong thực tế nhiều người còn nhầm
lẫn giữa phạt tiền trong luật hình sự và phạt tiền trong xử lí vi phạm hành
chính. Có thể thấy những điểm khác nhau căn bản giữa 2 biện pháp cưỡng
chế này như sau:
Thứ nhất: Về căn cứ áp dụng.
Phạt tiền trong luật hình sự được áp dụng theo quy định tại Điều 30
BLHS năm 1999 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Còn phạt tiền với tư
cách xử lí vi phạm hành chính được quy định trong Pháp lệnh xử lí vi phạm
hành chính năm 2001 và các văn bản pháp luật chuyên ngành (văn bản
pháp luật đất đai, văn bản pháp luật thuế...).
Thứ hai: Về điều kiện áp dụng.
Hình phạt tiền chỉ áp dụng với chính người phạm tội khi họ phạm
một tội cụ thể có quy định áp dụng hình phạt tiền. Trong khi đó phạt tiền
trong xử lí vi phạm hành chính được áp dụng với cá nhân, tổ chức có hành
vi cố ý vi phạm các quy định quản lí Nhà nước mà chưa đến mức bị truy
cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định phải xử phạt vi phạm hành chính.

Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D


Khóa luận tốt nghiệp

18

Thứ ba: Về thẩm quyền áp dụng.
Chỉ có Toà án mới có thẩm quyền áp dụng hình phạt tiền với người bị
kết án. Còn phạt tiền trong hành chính thì thẩm quyền áp dụng được trao
cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử phạt như: Uỷ ban nhân dân các
cấp, Thanh tra...(Chương V Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2001)
Thứ tư: Về đối tượng bị áp dụng.

Cũng như đối tượng áp dụng các hình phạt khác trong BLHS năm 1999
đối tượng áp dụng hình phạt tiền chỉ có cá nhân người phạm tội. Trong khi đó
phạt tiền trong xử lí vi phạm hành chính ngoài cá nhân thì các tổ chức cũng có
thể bị áp dụng xử phạt tiền.
Thứ năm: Về hậu quả pháp lí.
Kể từ ngày thi hành xong bản án phạt tiền người bị kết án trở thành
người có án tích trong vòng 1 năm, nếu người đó không phạm tội mới thì sẽ
được xoá án tích (Điều 64 BLHS năm 1999). Nhưng phạt tiền trong hành
chính nếu qua một năm kể từ ngày thi hành xong quyết định xử phạt mà
không tái phạm thì được coi như chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.
Việc phân biệt hình phạt tiền với các biện pháp cưỡng chế khác cũng
tác động đến mặt kinh tế của người bị áp dụng có ý nghĩa lí luận và thực tiễn
nhất định với việc xây dựng và áp dụng những quy định về các biện pháp
cưỡng chế.

Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D


Khóa luận tốt nghiệp

19

CHƯƠNG II
HÌNH PHẠT TIỀN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
BLHS năm 1999 quy định hình phạt tiền và hình phạt trục xuất là hai
hình phạt vừa được áp dụng là hình phạt chính, vừa được áp dụng là hình phạt
bổ sung (khi không áp dụng là hình phạt chính).
Khắc phục những hạn chế của BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 đã có
những quy định cụ thể về điều kiện, phạm vi, áp dụng hình phạt tiền là hình
phạt chính hay hình phạt bổ sung, mức tối thiểu, cách thức nộp tiền phạt... tại

Điều 30 phần chung BLHS 1999 tạo cơ sở cho việc quy định cụ thể trong
phần các tội phạm, đảm bảo tính pháp chế, tính nhân đạo khi quyết định và áp
dụng hình phạt trên thực tế. Điều 30 BLHS 1999 quy định về hình phạt tiền
như sau:
“1. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít
nghiêm trọng, xâm phạm trật tự quản lí kinh tế, trật tự công cộng, trật tự
quản lí hành chính và một số tội phạm khác do bộ luật này quy định.
2. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với người phạm các
tội về tham nhũng, ma túy hoặc những tội phạm khác do bộ luật này quy định.
3. Mức phạt tiền được quyết định tùy theo tính chất và mức độ nghiêm
trọng của tội phạm đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội,
sự biến động của giá cả, nhưng không được thấp hơn mức một triệu đồng.
4. Tiền phạt có thể được nộp một lần hoặc nhiều lần trong thời hạn do
Tòa án quyết định”
Quy định tại Điều 30 BLHS năm 1999 đã xác định rõ phạm vi, điều
kiện áp dụng hình phạt tiền khi áp dụng là hình phạt chính, khi áp dụng là
hình phạt bổ sung, tạo căn cứ pháp lí cho phần quy định tại các điều luật cụ
thể trong phần các tội phạm. Chúng ta sẽ đi nghiên cứu cụ thể những quy định đó:
Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D


Khóa luận tốt nghiệp

20

2.1 HÌNH PHẠT TIỀN KHI ÁP DỤNG LÀ HÌNH PHẠT CHÍNH.

2.1.1 Phạm vi và điều kiện áp dụng.
Khoản 1 Điều 30 BLHS năm 1999 quy định: “Phạt tiền được áp dụng
là hình phạt chính đối với người phạm các tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật

tự quản lí linh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lí hành chính và một số tội
phạm khác do bộ luật này quy định”.
Phạm vi áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính căn cứ vào khách thể
mà các tội đó xâm phạm chứ không căn cứ vào tính chất của tội phạm như
BLHS năm 1985. Cụ thể hình phạt tiền trong BLHS năm 1999 được áp dụng
với các trường hợp sau:
* Trường hợp thứ nhất: Áp dụng hình phạt tiền với người phạm các tội ít
nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lí kinh tế. Đó là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội xâm phạm những quy định của Nhà nước trong quản lí kinh tế. Có
thể là những quy định chung cho toàn bộ hệ thống kinh tế, nhưng cũng có thể chỉ
có tính chất riêng cho từng lĩnh vực hoặc từng nghành. Ví dụ: Tội trốn thuế
(Điều 161); tội sản xuất, tàng trữ vận chuyển, buôn bán hàng cấm (Điều 155) …
* Trường hợp thứ hai: Áp dụng hình phạt tiền cho các tội ít nghiêm
trọng xâm phạm trật tự công cộng. Trong 55 tội quy định tại chương XIX
(Các tội xâm phạm trật tự công cộng, an toàn công cộng ) thì hình phạt tiền
được áp dụng là hình phạt chính chủ yếu với các tội có tính chất vụ lợi, dùng
tiền làm phương tiện phạm tội. Ví dụ: Tội đánh bạc (Điều 248). Hoặc các tội
không có tính chất vụ lợi nhưng áp dụng hình phạt tiền vẫn đảm bảo mục đích
của hình phạt. Ví dụ: Các tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện
giao thông (Điều 202, Điều 208, Điều 216 BLHS).
* Trường hợp thứ ba: Áp dụng đối với các tội xâm phạm trật tự quản lí
hành chính. Đó là các tội ít nghiêm trọng xâm phạm hoạt động bình thường
của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội. Ví dụ: Tội làm giả con dấu,
tài liệu của cơ quan, tổ chức.(Điều 267)
Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D


Khóa luận tốt nghiệp

21


* Trường hợp thứ tư: Áp dụng với các tội phạm khác do BLHS năm
1999 quy định. Đó là những trường hợp không phạm các tội thuộc nhóm các
tội xâm phạm trật tự quản lí kinh tế, trật tự an toàn công cộng, trật tự quản lí
hành chính nhưng nhà làm luật thấy áp dụng hình phạt tiền vẫn đạt được mục
đích của hình phạt. Ví dụ:
- Các tội phạm về môi trường: Tội gây ô nhiễm không khí ( Điều 182)…
- Các tội xâm pham quyền tự do dân chủ của công dân: Tội xâm phạm
quyền tác giả (Điều 131)…
- Các tội phạm về ma tuý: Tội vi phạm các quy định về quản lí sử dụng,
thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác (Điều 201)…
Phạt tiền chỉ được áp dụng là hình phạt chính khi điều luật có quy định
áp dụng hình phạt này là hình phạt chính. BLHS năm 1999 không cho phép
áp dụng hình phạt tiền thay cho các hình phạt chính khác và ngược lại. Vì vậy
dù trong trường hợp phạm tội cụ thể có đủ khả năng chuyển sang áp dụng
hình phạt khác nhẹ hơn theo quy định tại Điều 47 nhưng điều luật cụ thể
không quy định áp dụng hình phạt này là hình phạt chính thì cũng không được
áp dụng. Đặc biệt khi xét xử Toà án không được xử phạt liên đới đối với hình
phạt tiền có nghĩa là Tòa án không được tuyên các bị cáo phải liên đới cùng
nhau nộp số tiền phạt mà phải cá thể hoá đối với từng bị cáo.

Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D


Khóa luận tốt nghiệp

22

Danh mục các điều luật có quy định hình phạt tiền là hình phạt chính
(bảng1 )


TT Điều Khoản
1

153

1

2

154

1

3

155

1

4

158

1

5
6
7


159
160
161

8
9

162
163

1
1
1
2
1
1

10

164

1

11

168

1

12


171

1

13

172

1

14

173

1

15

175

1

16

177

1

17


178

1

18

179

1

19
20
21

182
183
184

1
1
1

22

185

1

Tội danh

Tội buôn lậu
Tội vận chuyển trái phép hàng hóa
hoặc tiền tệ qua biên giới.
Tội sản xuất, tàng trữ, buôn bán, vận
chuyển hàng cấm.
Tội sản xuất, buôn bán, hàng giả là
thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón,
thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật,
giống cây trồng vật nuôi
Tội kinh doanh trái phép
Tội đầu cơ
Tội trộm thuế
Tội trốn thuế
Tội lừa dối khách hàng
Tội cho vay nặng lãi
Tội làm tem giả, vé giả, tội buôn bán
tem giả, vé giả
Tội quảng cáo gian dối
Tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp
Tội vi phạm các quy định về nghiên
cứu thăm dò, khai thác tài nguyên
Tội vi phạm các quy định về sử dụng
đất đai
Tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng
Tội vi phạm các quy định về cung
ứng điện
Tội sử dụng trái phép quỹ tín dụng
dự trữ, bổ sung vốn điều lệ của tổ

chức tín dụng
Tội vi phạm các quy định về cho vay
trong hoạt động của các tổ chức tín
dụng
Tội gây ô nhiễm không khí
Tội gây ô nhiễm nguồn nước
Tôi gây ô nhiễm đất
Tội nhập khẩu công nghệ, máy móc
thiết bị, phế thải hoặc các chất không
đảm bảo tiêu chuẩn bảo vệ môi
trường

Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D

Mức phạt
Theo tiền mặt
Theo giá trị
(đ/v: 1.000.000 đ)
(số lần)
Tối
Tối
Tối
Tối đa
thiểu
thiểu
đa
10
100
5


20

5

50

10

100

5
5

50
50

5

1
1

5
5

1

10

50


5

50

10

100

20

200

50

1000

5

50

5

50

5

50

10


500

10

50

10
10
10

100
100
100

10

100


Khóa luận tốt nghiệp
23

187

1

24
25

188

189

1
1

26

190

1

27

191

1

28

201

1

29

202

1

30


203

1

31

204

1

32

205

1

33
34

206
207

1
1

35

208


1
4

36

209

1
4

37

210

1

38

211

1

39

212

1
4

40


213

1
4

41

214

1

42

215

1

23

Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm
cho động vật, thực vật
Tội hủy hoại quyền lợi thủy sản
Tội hủy hoại rừng
Tội vi phạm các quy định về bảo vệ
động thực vật hoang dã quý hiếm
Tội vi phạm chế độ bảo vệ đặc biệt
đối với khu bảo tồn thiên nhiên
Tội vi phạm các quy định về quản lí,
sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các

chất ma túy khác
Tội vi phạm các quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường
bộ
Tội cản trở giao thông đường bộ
Tội đưa vào sử dụng các phương tiện
giao thông đường bộ không đảm bảo
an toàn
Tội điều động hoặc giao cho người
không đủ điều kiện điều khiển các
phương tiện giao thông đường bộ
Tội tổ chức đua xe trái phép
Tội đua xe trái phép
Tội vi phạm các quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường
sắt
Tội vi phạm các quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường
sắt
Tội cản trở giao thông đường sắt
Tội cản trở giao thông đường sắt
Tội đưa vào sử dụng các phương tiện
giao thông đường sắt không đảm bảo
an toàn
Tội điều động hoặc giao cho người
không đủ điều kiện điều khiển các
phương tiện giao thông đường sắt
Tội vi phạm các quy định về điều
khiển giao thông đường thủy
Tội vi phạm các quy định về điều

khiển giao thông đường thủy
Tội cản trở giao thông đường thủy
Tội cản trở giao thông đường thủy
Tội đưa vào sử dụng các phương tiện
giao thông đường thủy không bảo
đảm an toàn
Tội điều động hoặc giao cho người
không đủ điều kiện điều khiển các
phương tiện giao thông đường thủy

Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D

10

100

10
10

100
100

5

50

5

50


5

100

5

50

5

30

10

50

3

30

10
5

50
50

10

100


10

50

10
3

50
30

10

50

10

50

10

50

5

30

10
5

50

30

10

50

10

50


Khóa luận tốt nghiệp
43

216

1

44

217

1
4

45

220

1


46

222

1
2
3

47

1
2
3

48

224

1

49

225

1

50

226


1

51

228

1

52

229

1

53
54
55
56

245
247
248
249

1
1
1
1


57

250

1

58

253

1

59

266

1

60

267

1

61

268

1


24

Tội vi phạm các quy định về điều
khiển tàu bay
Tội cản trở giao thông đường không
Tội cản trở giao thông đường không
Tội vi phạm các quy định về duy trì,
sửa chữa, quản lí các công trình giao
thong
Tội điều khiển tàu bay vi phạm các
quy định về hàng không của nước
CHXHCN Việt Nam
Tội điều khiển tàu bay vi phạm các
quy định về hàng không của nước
CHXHCN Việt Nam
Tội điều khiển tàu bay vi phạm các
quy định về hàng không của nước
CHXHCN Việt Nam
Tội điều khiển phương tiện hàng hải
vi phạm quy định về hàng hải của
nước CHXHCN Việt Nam
Tội điều khiển phương tiện hàng hải
vi phạm quy định về hàng hải của
nước CHXHCN Việt Nam
Tội điều khiển phương tiện hàng hải
vi phạm quy định về hang hải của
nước CHXHCN Việt Nam
Tội tạo ra và lan truyền phát tán
chương trình vi - rút tin học
Tội vi phạm các quy định về vận

hành, khai thác và sử dụng mạng
máy tính điện tử
Tội sử dụng trái phép thông tin trên
mạng và trong máy tính
Tội vi phạm quy định về sử dụng lao
động trẻ em
Tội vi phạm các quy định về xây
dựng gây hậu quả nghiêm trọng
Tội gây rối trật tự công cộng
Tội hành nghề mê tín dị đoan
Tội đánh bạc
Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có
Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy
Tội sửa đổi, sử dụng giấy chứng
nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ
chức
Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ
quan tổ chức
Tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy

Phạm Thị Thùy Linh – Lớp HS28D

5

50

10
5


50
20

5

100

100

300

300

500

500

1000

50

200

200

500

500


800

5

100

5

100

5

50

5

50

10

100

1
5
5
10

10
50
50

300

5

50

5

50

1

10

5

50

1

10


×