Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

luận văn thạc sĩ Tìm hiểu nền văn hóa phong kiến Nhật Bản từ thế kỷ VII đến cuối thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.16 KB, 134 trang )

Mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chơng 1: Nhật bản - đất nớc và con ngời 7
1.1. Đất nớc Nhật Bản 7
1.2. Con ngời Nhật Bản 8
Chơng 2: Văn hóa nhật bản từ cải cách taika đến
trớc khi thành lập chế độ mạc phủ (từ
thế kỷ Vii đến thế kỷ xii)
11
2.1. Bối cảnh lịch sử của Nhật Bản trong giai đoạn từ cải cách
Taika đến trớc khi thành lập chế độ Mạc Phủ
11
2.2. Văn hóa Nhật Bản từ cải cách Taika đến trớc khi thành
lập chế độ Mạc Phủ
15
Chơng 3: Văn hóa nhật bản thời kỳ đầu của chế độ
mạc phủ (từ cuối thế kỷ xii đến cuối thế
kỷ xvi)
60
3.1. Bối cảnh lịch sử Nhật bản thời kỳ đầu của chế độ Mạc Phủ 60
3.2. Văn hóa Nhật Bản thời kỳ đầu của chế độ Mạc Phủ 64
Chơng 4: văn hóa nhật bản thời kỳ cuối chế độ mạc
phủ (từ thế kỷ xvii đến cuối thế kỷ xix)
90
4.1 Bối cảnh lịch sử trong thời kỳ cuối của chế độ Mạc Phủ 90
4.2 Văn hóa Nhật Bản thời kỳ cuối của chế độ Mạc Phủ 92
Chơng 5: một số văn hóa truyền thống khác 108
5.1 Trà đạo (nghi thức uống trà) 108
5.2. Ngắm hoa anh đào ở Nhật Bản 114
5.3. Nghệ thuật cắm hoa (Ikebana) ở Nhật Bản 117


5.4. Uống rợu sakê ngắm tuyết rơi 121
5.5. Tục lệ tặng quà của ngời Nhật 123
5.6. Tết Trung thu ở Nhật Bản 125
1
KÕt luËn 127
danh môc Tµi liÖu tham kh¶o 130
2
mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Nhật Bản và Việt Nam là hai quốc gia ở Châu á, hai nớc không chỉ
gần nhau về mặt địa lý mà còn có nhiều điểm tơng đồng về văn hóa và tính
dân tộc. Xuất phát từ tình cảm thân thiết đó, từ lâu hai dân tộc đã hình
thành sự giao lu trên nhiều lĩnh vực.
Mặc dù, mối quan hệ giữa hai dân tộc trong lịch sử cũng có những
lúc thăng trầm, nhng tình cảm hữu nghị giữa hai nớc vẫn mãi mãi trờng tồn
cùng với thời gian.
Trong những năm gần đây, chính sách mở cửa và xu hớng xích lại
gần nhau của các quốc gia dân tộc trong khu vực và trên thế giới đang đặt
ra nhu cầu giao lu và hòa nhập trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và đời
sống xã hội. Cùng với xu hớng đó, quan hệ giữa hai nớc Nhật Bản và Việt
Nam đang ngày càng đợc tăng cờng mở rộng, trao đổi với nhau về nhiều
phơng diện. Trong đó, sự giao lu văn hóa giữa hai nớc đợc coi là vấn đề
quan trọng, nhằm để tìm ra tiếng nói chung và để tìm thấy nét đẹp trong
những nét riêng biệt về văn hóa của nhau. Mục tiêu đó đã đợc Hội nghị lần
thứ 5 Ban chấp hành Trung ơng Đảng khóa VIII nêu rõ: "Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là động lực, vừa là mục tiêu, vừa là tấm gơng
phản chiếu để điều tiết sự phát triển kinh tế xã hội".
Ngoài những giá trị chuẩn mực xã hội, văn hóa còn là một thực thể
tinh thần luôn ở trạng thái giao lu, học hỏi. Đặc biệt là trong thời đại bùng
nổ thông tin nh hiện nay, đó là điều kiện cần thiết để nắm bắt những cái

tiến bộ, loại trừ những cái xấu xa, lỗi thời, để tự mình vơn lên chứ không tự
đánh mất mình, hòa nhập mà không hòa tan và hiểu ngời để hiểu mình.
Do vậy, chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của
xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ lành mạnh, không quan tâm giải
3
quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã
hội thì không thể có sự phát triển kinh tế xã hội bền vững. Điều đó, Tổng Bí
th Đỗ Mời đúc kết một câu rằng: Quá trình tiến hóa của một Quốc gia luôn
luôn phải gắn với cội nguồn, phát triển trên nền bản sắc văn hóa dân tộc đi
đôi với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại Nếu phát triển tách
khỏi cội nguồn, xa rời những giá trị văn hóa truyền thống, nhất định sẽ lâm
vào nguy cơ đánh mất bản thân, chẳng những không thể đóng góp cho nền
văn hóa chung của nhân loại mà còn trở thành bản sao mờ nhạt của dân tộc
khác.
Chính bởi vậy, nhận thức đúng về văn hóa là một điều kiện không
thể thiếu trong việc trang bị hành trang tiến vào tơng lai. Để bớc sang thế
kỷ XXI này, làm cho mối quan hệ sâu sắc hơn theo tinh thần "Việt Nam
muốn làm bạn với tất cả các nớc trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa
bình độc lập và phát triển" cũng nh mối quan hệ giữa Việt Nam và Nhật
Bản nói riêng cần phải phát huy hơn nữa thì việc tăng cờng sự hiểu biết lẫn
nhau giữa các dân tộc và nhân dân Việt Nam - Nhật Bản là điều cần thiết.
Bằng những ý nghĩa thực tiễn nh trên, chúng tôi chọn đề tài "Tìm
hiểu nền văn hóa phong kiến Nhật Bản (Từ thế kỷ VII đến cuối thế kỷ
XIX)" làm đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã
hội của các quốc gia dân tộc thì việc tìm hiểu, giao lu văn hóa giữa các
Quốc gia với nhau trở thành một vấn đề quan trọng. Cũng nh nhiều quốc
gia khác, đặc biệt là sự thành công về kinh tế của Nhật Bản sau những thập
kỷ chiến tranh thế giới thứ hai đã thu hút sự quan tâm của các quốc gia trên

thế giới và khu vực. ở Việt Nam, việc nghiên cứu Nhật Bản đã đợc quan
tâm từ lâu và đã có những công trình đợc xuất bản, những bài đăng trên tạp
chí.
4
Cùng với quá trình đổi mới, sự quan tâm của các nhà lãnh đạo và
nhân dân Việt Nam ngày càng tăng. Đặc biệt là hiện nay, mối quan hệ Nhật
Bản - Việt Nam ngày càng đợc tăng cờng thì nhu cầu tìm hiểu về Nhật Bản
càng trở nên cần thiết.
Vì thế, khi nghiên cứu về Nhật Bản đã đạt đợc nhiều thành tựu đáng
kể, một số các tác giả đã có những công trình nghiên cứu trên nhiều lĩnh
vực. Trong đó nghiên cứu về văn hóa nh chữ viết, văn học, nghệ thuật, tôn
giáo, tín ngỡng cũng đã đợc nhiều tác giả đề cập đến. Tiêu biểu nh: Năm
1989 tác giả Hữu Ngọc trong cuốn "Hoa Anh Đào và điện tử" đã có nhiều
gợi ý về những thành tựu đã đạt đợc của nền văn hóa đó qua các giai đoạn
lịch sử. Năm 1990 San Som tác giả của hai tập "Lợc sử văn hóa Nhật Bản"
đã miêu tả sơ lợc về nguồn gốc và những đặc điểm của tín ngỡng dân tộc ở
chơng III, quá trình tiếp thu, phát triển về t tởng Nho giáo và Phật giáo ở
chơng VI. Chơng XII bàn về sự hình thành và Nhật Bản hóa hệ thống t tởng
này. Ngoài ra, tác giả còn lý giải về quá trình ra đời và sự hình thành của
chữ viết, văn học, nghệ thuật Nhật Bản ở chơng VI và chơng XII. Sự phát
triển phổ biến của nền văn hóa Nhật Bản mang màu sắc dân tộc đợc tác giả
bàn tới ở chơng XVI và XVIII. Năm 1991 tác giả Vĩnh Sính trong cuốn
"Nhật Bản cận đại" đã đa ra những khẳng định khái quát về những thành
tựu văn hóa trong từng giai đoạn lịch sử của chế độ phong kiến Nhật Bản.
Năm 1995, các tác giả Rechard Bowring và Peter Nikki trong cuốn "Bách
khoa toàn th Nhật Bản" đã đa ra những đặc điểm, mục đích khái quát về văn
học, nghệ thuật, tôn giáo kiến trúc, hội họa điêu khắc v.v
Năm 1997, các tác giả Lơng Duy Thứ, Phan Nhật Chiêu, Phan Thu
Hiền trong "Đại cơng văn hóa phơng Đông" đã viết:
Văn hóa Nhật Bản chịu ảnh hởng cả hai nền văn hóa ấn -

Trung và sau này của phơng Tây mà vẫn kiến tạo đợc một bản sắc
5
độc đáo, Nhật Bản là một biểu mẫu của thân hóa, dung hợp và
phát triển các ngọn nguồn văn minh khác nhau [35, tr. 223].
Trong các công trình ấy, đều nói về các tiêu đề văn học, nghệ thuật,
tôn giáo, kiến trúc hội họa, điêu khắc đã đợc các tác giả đề cập đến.
Ngoài các công trình nghiên cứu trên, các tác giả: Nguyễn Thị Việt
Thanh đã đóng góp nhiều ý kiến trong việc nghiên cứu về hệ thống chữ
Kana của Nhật Bản. Trần Hải Yến trong "Một số nét đặc trng của văn học
Nhật Bản" đã viết:
Văn học Nhật Bản có những nét đặc trng liên quan tới văn
học Trung Quốc và văn học phơng Tây, những đặc trng này gắn
liền với 5 nhân tố chính đó là: Vai trò của văn học trong văn hóa
Nhật Bản với t cách một tổng thể, mô hình phát triển của lịch sử
văn học, ngôn ngữ Nhật Bản và hệ thống chữ viết của nó, cơ sở xã
hội của văn học và những yếu tố tôn giáo và triết học [34].
Trong "Tìm hiểu Đạo Phật ở Nhật Bản", Nguyễn Thị Thúy Anh đã
chia quá trình hình thành và phát triển của Đạo Phật Nhật Bản ra 3 thời kỳ
"Truyền bá, Nhật Bản hóa, Tồn tại" [4].
Các công trình nghiên cứu trên là những t liệu quý có ý nghĩa quan
trọng trong việc gợi ý, hớng dẫn chúng tôi thực hiện đề tài.
Nh vậy, vấn đề mà đề tài đặt ra còn mới mẻ. Theo suy nghĩ của
chúng tôi, nghiên cứu để góp thêm một ý kiến nhằm đáp ứng phần nào đó
về nhu cầu tìm hiểu nền văn hóa phong kiến Nhật Bản là điều cần thiết và
bổ ích.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nghiên cứu, tìm hiểu về nền văn hóa thời
phong kiến Nhật Bản, nhằm nâng cao hơn nữa về sự hiểu biết nền văn hóa,
và những nét truyền thống nổi bật của đất nớc Nhật Bản.
6

Để thực hiện đợc mục đích đó, chúng tôi đã nghiên cứu về các vấn
đề văn hóa nh chữ viết, văn học, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngỡng thông qua
các giai đoạn lịch sử, thiết chế chính trị thời phong kiến Nhật Bản. Qua việc
nghiên cứu cho thấy, quá trình hình thành và phát triển Nhật Bản nói chung,
là một dân tộc gặp nhiều khó khăn. Do sự tác động của điều kiện địa lý
cũng nh chịu sự ảnh hởng nền văn hóa bên ngoài. Nhng nhân dân Nhật Bản
đã tự vợt qua mọi khó khăn, từng bớc vơn lên trở thành một biểu tợng của
một quốc gia phát triển nhất ở phơng Đông thời hiện đại. Quá trình ảnh h-
ởng, tiếp thu và xây dựng đó là cơ sở cho đề tài chúng tôi cần nghiên cứu.
Chúng tôi hy vọng rằng, đề tài thành công sẽ đóng góp một phần
nhỏ bé vào việc nghiên cứu, trao đổi với nhau trong mối quan hệ giữa hai
nền văn hóa Nhật Bản và Việt Nam. Theo mục tiêu thúc đẩy sự phát triển
nền kinh tế, văn hóa mà Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ơng Đảng
khóa VIII đề ra.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài chúng tôi đã sử dụng kết hợp các
phơng pháp sau:
- Nghiên cứu lịch sử là phơng pháp quan trọng. Sử dụng phơng pháp
này dựa trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu sự thật, cụ thể. Bao gồm các tài
liệu có liên quan về văn hóa thời phong kiến Nhật Bản nh: Văn học, nghệ
thuật, kiến trúc, hội họa, tôn giáo và tín ngỡng
- Khi nghiên cứu đề tài, chúng tôi còn sử dụng phơng pháp thống
kê, phơng pháp này dùng để thống kê, phân loại các t liệu đã thu thập đợc,
giúp ngời nghiên cứu nhìn nhận, phân tích, đánh giá tính khả thi của vấn đề
mà đề tài đặt ra.
- Quan sát là phơng pháp không thể thiếu khi nghiên cứu đề tài này.
Chúng tôi sử dụng phơng pháp quan sát để nhìn nhận khái quát một cách
7
toàn diện về văn hóa Nhật Bản, để đi sâu vào nghiên cứu từng giai đoạn nhỏ
trong thời kỳ lịch sử phong kiến Nhật Bản.

- Ngoài các phơng pháp trên, đề tài còn kết hợp sử dụng phơng pháp
lôgic và phơng pháp lịch sử. Hai phơng pháp này có tác dụng bổ sung hỗ trợ
lẫn nhau giúp ngời nghiên cứu nhìn nhận vấn đề một cách lôgic, khoa học
trong việc xử lý tài liệu, so sánh, đối chiếu theo hệ thống thông tin đã thu
thập đợc. Dựa trên cơ sở đó để giải thích, đánh giá và tìm ra những kết luận
đúng mang tính khách quan.
5. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, vấn đề quan tâm trớc tiên là sự hình thành, tiếp
thu và phát triển của nền văn hóa phong kiến Nhật Bản. Chúng tôi đã
nghiên cứu về tất cả các mặt của nền văn hóa Nhật Bản nh văn học, nghệ
thuật, kiến trúc, hội họa, điêu khắc, tôn giáo theo các giai đoạn phát triển
lịch sử.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn đợc kết cấu thành 5 chơng.
8
Chơng 1
Nhật Bản - đất nớc và con ngời
1.1. Đất nớc Nhật Bản
Nhật Bản - "Xứ sở hoa Anh Đào" là một quần đảo ở phía Đông Bắc
lục địa châu á, nằm giữa biển Nhật Bản và Thái Bình Dơng. Quần đảo này
đợc hình thành bởi những vụ nổ núi lửa cách đây nhiều triệu năm. Nó bao
gồm gần 4000 đảo lớn nhỏ uốn theo hình cánh cung rải từ Đông Bắc xuống
Tây Nam, với chiều dài khoảng 3.900km, từ vĩ độ bắc 45
0
33 đến 20
0
25.
Nhật Bản có tổng diện tích là 377.815km
2

. Tuy là một quần đảo nhng nó
chỉ có 4 đảo lớn, theo thứ tự từ Bắc xuống Nam là: Hokkaido (Bắc Hải đảo);
Honshu (Bản đảo hay Bản Châu); Shikoku (Tứ quốc); Kyushu (Cửu Châu).
Xét về mặt địa lý, Nhật Bản nằm ở một vị trí biệt lập cách xa đại
lục, khoảng cách từ Nhật Bản đến Trung Quốc là 800km, vùng gần miền
Nam bán đảo Triều Tiên là đảo Kyushu cách tới 180km. Có thể nói rằng,
Nhật Bản đủ xa châu á để thoát khỏi các đột biến của lục địa nhng lại đủ
gần để có thể hởng những thành quả của nền văn minh đó. Từ xa xa, quần đảo
Nhật Bản giữ mối quan hệ với lục địa châu á qua ba con đờng: Phía Bắc từ
miền Đông Xibia đến Hokkaido qua Sakhalin; Phía Đông từ bán đảo Triều
Tiên đến Honshu và đờng phía Nam từ đất Trung Hoa đến đảo Kyushu qua
Đài Loan và quần đảo Ryukyu. Từ ba con đờng này, Nhật Bản có mối quan
hệ giao lu kinh tế, văn hóa từ lâu với thế giới. Tuy nhiên, tính chất "đảo" ấy
đã tạo nên ở Nhật Bản một hoàn cảnh địa lý đặc biệt. Nếu nh nữ thần
Amatêraxu đã u ái phú cho Nhật Bản những ngời con gái đẹp và khí hậu ôn
hòa, thì ngời lại dồn cho Nhật Bản nhiều thử thách thiên nhiên mà trong đó
thờng trực tai họa khủng khiếp nh: Bão tố, sóng thần thờng xuyên ập đến,
nhất là khi giao thông còn sơ khai, là một trở ngại lớn đối với Nhật Bản
trong việc quan hệ giao lu với các nớc xung quanh và thế giới. Nhng sự biệt
9
lập của tính chất "đảo" lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và bảo
vệ nền độc lập dân tộc, giúp cho ngời Nhật chủ động cải tạo và xây dựng
nền văn minh thống nhất và độc đáo của mình.
Điều kiện tự nhiên Nhật Bản tuy đẹp nhng quả thật khắc nghiệt đối
với con ngời. Những hòn đảo nghèo nàn này không đợc hởng những thiên
thời và địa lợi. ở Nhật Bản, đất đai canh tác ít chỉ chiếm 15% diện tích, còn
lại là đồi núi. Nhật Bản không những không có con sông lớn, không có
những cánh đồng phù sa màu mỡ nh ở Ai Cập, Lỡng Hà hay Trung Quốc
mà còn là đất nớc phải chịu đựng nhiều nét khắc nghiệt và dữ dội của một
vùng đất đầy núi lửa, động đất, sóng thần, bão lụt và hạn hán. Cho đến ngày

nay, ở Nhật Bản còn hơn 30 ngọn núi lửa đang hoạt động trong số 196 ngọn
núi. Hàng năm có tới hàng nghìn lần rung chuyển địa chất và thỉnh thoảng
lại có những trận động đất lớn, có khi thiêu hủy cả thành phố.
Ngời Nhật đã ý thức sớm đợc những khó khăn bất lợi trong điều
kiện địa lý và tự nhiên. Cho nên, từ thời cổ đại, Nhật Bản đã nhanh chóng
tiếp thu những tinh hoa tiến bộ từ bên ngoài vào, đặc biệt là ảnh hởng của
văn hóa Trung Hoa để tạo điều kiện cho bớc phát triển của mình. Nh vậy,
việc tìm hiểu vị trí địa lý và tự nhiên của Nhật cho chúng ta thấy, Nhật Bản
đã vơn lên thật là mạnh mẽ nh thế nào để trở thành một trong những dân tộc
đứng hàng đầu thế giới về kinh tế, kỹ thuật. Sự thành công đó đã chứng tỏ là
một thắng lợi của con ngời đối với thiên nhiên.
1.2. Con ngời Nhật Bản
Ngời Nhật Bản có nguồn gốc nh thế nào? Hay ngời Nhật từ đâu
đến? Đây là một vấn đề còn đang đợc tranh luận. Nhng có một số điểm gần
nh đợc nhiều nhà nghiên cứu và nhiều nhà khảo cổ học thống nhất với nhau
rằng, tổ tiên xa xa của ngời Nhật là từ nhiều nơi đến. Đặc biệt là nhóm di c
từ phía Bắc lục địa châu á xuống và có một bộ phận từ các miền duyên hải
10
Nam á lên. Những phát hiện trên quần đảo cho thấy, từ thời đại đồ đá cũ
khoảng 10 vạn năm trớc đây có các nhóm c dân săn bắn và hái lợm, rải rác
từ miền Đông Xibia di c sang phía Bắc Nhật Bản qua đờng Hokkaido và
Sakhalin. Nền văn hóa thuộc thời đại này đợc phát hiện nằm rải rác trên
khắp nớc Nhật nh: Những chiếc cầu bằng đất, những kiểu nhà ở và các câu
chuyện truyền thuyết gợi lên nguồn gốc đại dơng, các đặc điểm văn hóa đa
dạng có nhiều nét tơng tự nh ở phía Nam Trung Quốc, các lăng mộ và việc
chế tác đã gợi đến mối liên hệ với việc di c của ngời dân từ vùng Triều Tiên
và vùng phía Bắc Trung Quốc. Tất cả điều đó đã cho thấy: "Chủng tộc Nhật
Bản là kết quả của sự pha trộn các yếu tố của các miền khác nhau trên lục
địa châu á từ thời tiền sử" [26, tr. 14]. Trong đó, nòi giống phơng Bắc
chiếm một phần khá mạnh, chủ yếu là ngời Mông Cổ, ngoài ra còn các yếu

tố Trung Hoa và ngời Ainu. Trải qua nhiều thời đại lịch sử, sự pha trộn ấy
đã sản sinh ra một dân tộc tơng đối thuần nhất để phân biệt với các nớc láng
giềng nh Trung Quốc, Triều Tiên, Mông Cổ, cả trong ngôn ngữ, sinh hoạt,
tôn giáo, cơ cấu chính trị và xã hội Những nét riêng đó đã sớm trở thành
bản chất của ngời Nhật Bản.
Trong lịch sử phát triển của mình, yếu tố Trung Hoa đóng một vai
trò quan trọng. Từ xa xa, ngời Nhật đã có sự khát khao đối với các nền văn
minh khác, và trong lịch sử tiến hóa của mình, ngời Nhật hoan nghênh các
yếu tố văn hóa nớc ngoài mà không gạt bỏ các tập tục truyền thống đã có.
Có thể nói, nhân dân Nhật Bản đã hấp thụ có chọn lọc nhiều phát kiến văn
hóa của các nền văn minh trên thế giới. Ngay từ thời tiền sử, văn hóa Trung
Hoa đã thấm đợm trong văn hóa Nhật Bản. Do sự kết hợp giữa con ngời,
điều kiện địa lý và thiên nhiên độc đáo, tạo nên tính cách đặc trng của con
ngời Nhật Bản.
Trớc tiên là tính hiếu kỳ, nhạy cảm với văn hóa nớc ngoài. Điều đó
có thể nói, không có một dân tộc nào nhạy bén về văn hóa nớc ngoài nh ng-
11
ời Nhật, họ không ngừng phát triển, theo dõi những biến đổi của thế giới
bên ngoài. Khi họ biết trào lu nào đang thắng thế thì họ sẵn sàng chấp nhận,
học hỏi, nghiên cứu để bắt kịp trào lu đó không để lỡ thời cơ. Ví nh: Khi
thấy văn hóa Trung Quốc phát triển mạnh mẽ, ngời Nhật đã nhanh chóng
tiếp thu nền văn hóa ấy, nhng họ rất ý thức về tài sản văn hóa của họ, một
nền văn hóa đã đợc trang trọng bồi dỡng và tích lũy qua các thời đại lịch sử
vì thế ngời Nhật rất trân trọng nó.
Ngời Nhật cũng có óc thẩm mỹ, sự bền bỉ, kiên trì cũng là tính cách
của ngời Nhật. Họ a chuộng cái đẹp, điều đó đợc thể hiện trong tính cách ăn
mặc, kiến trúc và lối sống. Những đặc trng trong tính cách ngời Nhật là
điều kiện thuận lợi cho sự tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, đồng thời
nó giúp cho ngời Nhật Bản chủ động nắm bắt và cải tiến nền văn hóa ấy
mang màu sắc dân tộc mình.

12
Chơng 2
Văn hóa Nhật Bản từ cải cách taika
đến trớc KHI thành lập chế độ Mạc Phủ
(từ thế kỷ VII đến thế kỷ XII)
2.1. Bối cảnh lịch sử của Nhật Bản trong giai đoạn từ
cải cách Taika đến trớc khi thành lập chế độ Mạc Phủ
Từ cuối thế kỷ VI, một bộ phận quý tộc Nhật Bản chịu ảnh hởng của
nền văn hóa, đặc biệt là những học thuyết chính trị và pháp luật của Trung
Quốc, muốn cải cách nớc Nhật theo mô hình của nhà Đờng. Nhng lúc đó,
dòng họ Soga (Tô Ngã) đang nắm quyền lực lớn trong triều đình, chiếm
đoạt nhiều ruộng đất và nhiều bộ dân, đó là chớng ngại chủ yếu trên con đ-
ờng xây dựng và củng cố Nhà nớc Trung ơng tập quyền ở Nhật Bản. Vì vậy
chỉ có thủ tiêu thế lực Soga thì việc cải cách mới có thể thực hiện đợc. Năm
645, trong khi tiếp kiến với sứ giả Triều Tiên, quan nhiếp chính Soga Iruca
(Tô Ngã Nhập Lộc) đã bị ám hại. Những ngời đảo chính sau đó bao vây và
đốt cháy dinh phủ, giết hại những ngời thuộc dòng họ Soga. Quyền lực thực
sự trả về cho Thiên hoàng Kotoku (Hiếu Đức), đặt niên hiệu là Taika (Đại
Hòa).
Khi lên nắm chính quyền Thiên hoàng Kotoku đã ban hành một loạt
cải cách, vào tháng giêng năm 646 (năm Taika thứ hai). Thiên hoàng Kotoku
hạ chiếu cải cách và tiếp đó ban hành một số luật lệnh cụ thể dựa trên cơ sở
của chế độ chính trị và tô thuế nhà Đờng. Những cuộc cải cách này trong
lịch sử Nhật Bản gọi đó là cuộc cải cách Taika (Đại Hòa Cách Tân).
Nội dung chủ yếu của cuộc cải cách Taika là thiết lập một hệ thống
chính trị từ trung ơng đến địa phơng theo mô hình nhà Đờng ở Trung Quốc,
đồng thời tuyên bố xóa bỏ chế độ sở hữu t nhân về ruộng đất của các quý
13
tộc thị tộc. Trừ ruộng đất của các đền chùa, còn lại tất cả ruộng đất trong n-
ớc đều thuộc quyền sở hữu của Nhà nớc. Chế độ bộ dân (những ngời dân

bán tự do) cũng bị xóa bỏ và bộ dân đợc giải phóng, đợc tự do bình đẳng
nh những ngời dân tự do khác. Nhng tất cả mọi ngời đều trở thành thần dân
chịu sự quản lý của Thiên hoàng.
Sau cải cách Taika, xã hội Nhật Bản có sự chuyển biến lớn lao, với
cuộc cải cách này, chế độ bộ dân bị xóa bỏ, sức lao động của bộ dân đợc
giải phóng và đợc coi nh dân tự do. Thực chất là xác lập quan hệ sản xuất
phong kiến, tức là Nhà nớc có quyền sở hữu tối cao về ruộng đất. Chính
sách "ban điền" của Nhà nớc đã đem lại ruộng đất cho nông dân, kể cả bộ
dân đợc giải phóng cũng đợc chia ruộng đất, họ có kinh tế và gia đình nên
họ hứng thú sản xuất hơn. Tuy nhiên, họ phải chịu nộp mức thuế cố định
theo chế độ bóc lột Tô-Dung-Điệu của Nhà nớc. Những nguyên tắc chính
của chế độ này đã đợc cụ thể hóa trong bộ luật Taiho Retsurgo. Các gia
đình, những ngời nông dân đợc chia ruộng đất nhng họ không có quyền rời
khỏi phần ruộng đất đợc chia của mình và họ phải trả tô thuế cho Nhà nớc
và các nghĩa vụ lao động bắt buộc khác.
Nh vậy, chế độ "ban điền" sau cải cách Taika đã xác nhận quan hệ
sản xuất phong kiến ở Nhật Bản. Mặc dù những biện pháp trên giải phóng
đợc chế độ bộ dân và đem lại ruộng đất cho nông dân, nhng đồng thời nó
cũng trói chặt nông dân vào ruộng đất để Nhà nớc và bọn chủ ruộng thống
trị, nô dịch họ.
Bên cạnh việc chia ruộng đất cho nông dân, Nhà nớc còn phân
phong đất đai cho tầng lớp quý tộc tùy theo tớc vị, chức sắc và công lao của
họ. Những phần đất đặc quyền này đợc quy định theo ba loại là: tớc vị và
chức sắc chỉ đợc ban tặng tạm thời một hoặc hai, ba đời. Còn công lao là tối
đa, phần lớn đất đai này là của con cháu giới quý tộc có quyền thế trong bộ
máy chính quyền ở trung ơng và địa phơng, nên đã dần dần biến ruộng đất
14
đợc ban cấp thành ruộng đất t hữu. ở những vùng đất đặc quyền có nông
dân sinh sống thì những ngời nông dân đã trở thành "phong hộ" cho giai
cấp quý tộc, họ phải nộp phần lớn thu nhập sản phẩm của mình cho giai cấp

quý tộc. Ngoài ra, chúng còn cớp đoạt ruộng đất của nông dân để mở rộng
thêm phần đất của mình.
Do vậy, quy mô và hình thức sở hữu đất đai ngày càng lớn và đa
dạng, đó là tiền đề làm cho cuộc cải cách Taika trong thực tế đã bị thất bại.
Thêm vào đó, sự yếu kém của chính quyền từ trung ơng đến địa phơng,
quyền lực bị chia cắt nhỏ trong việc quản lý đất đai, thu thuế cũng là những
bối cảnh dẫn đến hệ quả trên. Chế độ ban điền đã bị bãi bỏ từ năm 850. Lợi
dụng chính sách khai khẩn đất hoang của triều đình, lại đợc sự che chở của
giới quý tộc ở kinh đô, nên tầng lớp địa chủ ở địa phơng đã chiếm đoạt
nhiều ruộng đất. Các thế lực mạnh lên nhanh chóng, họ muốn có quyền sở
hữu vĩnh viễn đối với đất đai của họ. Cùng với thời gian, các phần đất đợc
chia bị biến thành trang viên (Shoen) phong kiến. Các Tự Viện (đền chùa)
cũng đợc Thiên hoàng và quý tộc ban tặng nhiều ruộng đất và cũng trở
thành các trang viên, đợc miễn thuế hoàn toàn. Các chủ trang viên đã trở
thành các chúa đất độc lập, họ không chịu sự kiểm soát của triều đình.
Những ngời nông dân trở thành sở hữu riêng của các chủ lãnh địa
phong kiến. Sự bóc lột tàn bạo, tô thuế cao cùng với việc chiếm đoạt ruộng
đất của nông dân đã gây ra những cuộc phản kháng rõ rệt, những ngời nông
dân chạy trốn khỏi lãnh địa. Một số ngời chạy trốn đã tổ chức thành các đội
chuyên đi ăn cớp, từ đó xuất phát các cuộc khởi nghĩa chống phong kiến đ-
ợc hình thành.
Từ sau cuộc đảo chính năm 645, chính quyền trở về tay Thiên
hoàng. Đến năm 710, kinh đô thờng trực đầu tiên của Nhật Bản đợc xây
dựng hoàn thành theo lệnh của nữ hoàng Genmei, đó là kinh đô Nara (Nại
Lơng). Trong suốt 70 năm, từ năm 710 đến năm 794, Nara trở thành trung
15
tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của Nhật Bản. Tuy nhiên, có những cuộc đấu
tranh giữa tầng lớp quý tộc cũ, muốn khôi phục lại quyền lợi và địa vị trớc
kia với tầng lớp quan lại diễn ra thờng xuyên. Đại diện cho tầng lớp quý tộc
cũ là họ Otomo và tầng lớp quan lại mới là họ Fujiwara. Vì dòng họ này có

công trong việc tiêu diệt họ Soga trong cuộc cải cách Taika, nên đợc Thiên
hoàng u đãi, nh đợc giữ chức vụ cao trong triều đình, phong cấp nhiều bổng
lộc làm cho dòng họ Fujiwara ngày càng mạnh lên. Cuối cùng họ
Fujiwara đã đánh bại hoàn toàn tầng lớp quý tộc cũ và lên nắm chính
quyền, chấm dứt thời Nara.
Sau khi đánh bại những tàn d quý tộc cũ, dòng họ Fujiwara ngày
càng độc đoán về quyền lực, họ lấn át cả Thiên hoàng, buộc Thiên hoàng
phải rời đô từ Nara đến Heian-Kyo (Bình An kinh), từ đó đợc gọi là thời kỳ
Heian.
Trong thời kỳ Heian, dòng họ Fujiwara càng trở nên lớn mạnh,
chiếm lĩnh mọi quyền lực thực tế của Thiên hoàng, và không ngừng củng cố
địa vị thống trị của mình. Từ giữa thế kỷ IX đến giữa thế kỷ XI, họ Fujiwara
kế tiếp nhau chiếm đoạt quyền hành của nhà vua. Trên thực tế chính quyền
trung ơng ngày càng trở nên suy yếu về mọi mặt.
Sự chấp chiếm quyền lực của dòng họ Fujiwara đã gây ra tình trạng
thù địch lẫn nhau giữa các phe phái phong kiến, những cuộc xung đột xảy
ra thờng xuyên. ở kinh đô, các thế lực phong kiến thù địch với dòng họ
Fujiwara ngày càng gay gắt. Từ thế kỷ XI, các Thiên hoàng đã tìm mọi
cách thoát khỏi sự khống chế và ràng buộc của dòng họ Fujiwara nhằm để
khôi phục lại quyền lực của mình bằng cách dựa vào tầng lớp quý tộc quan
lại bị sa sút, tầng lớp s sãi Phật giáo có thế lực, đồng thời bãi bỏ chế độ
nhiếp chính, không tuyển hoàng hậu thuộc họ Fujiwara, thiết lập chế độ
nghị chính. Theo chế độ này, Thiên hoàng nhờng ngôi cho con và trở thành
Thợng hoàng rồi lên Pháp hoàng.
16
Vào năm 1086, khi Thiên hoàng Shirakawa nhờng ngôi cho con và
ông trở thành Thợng hoàng. Cùng năm đó, ông thiết lập một cơ quan mới
gọi là Isne (Viện chính). Thực chất của Viện chính là một tổ chức theo dõi
việc chính trị của triều đình để giúp đỡ Thiên hoàng, và là cơ sở của Hoàng
gia để chống lại họ Fujiwara. Đến đầu thế kỷ XII, Viện chính của Thiên

hoàng dựa vào hai họ Taira và Minamoto để đấu tranh với họ Fujiwara, cũng
làm cho thế lực này ngày càng giảm sút. Trong khi đó họ Taira lại nhanh
chóng phát triển thế lực của mình, nắm lấy mọi quyền hành. Điều đó, làm
cho mâu thuẫn giữa Viện chính và họ Minamoto diễn ra gay gắt. Vào năm
1181, cuộc nội chiến giữa họ Taika và Minamoto nổ ra nhằm tranh giành bá
quyền với nhau. Năm 1185, họ Minamoto đánh bại hoàn toàn họ Taika
trong trận Dannoura, từ đó quyền hành chuyển sang tay dòng họ Minamoto.
2.2. Văn hóa Nhật Bản từ cải cách Taika đến trớc khi
thành lập chế độ Mạc Phủ
2.2.1. Tôn giáo
2.2.1.1. Thần đạo
Từ xa xa, ngời Nhật luôn luôn gắn bó đời sống của mình với lễ bái,
thờ phụng thiên nhiên, các ch thần, tổ tiên Nói chung việc lễ bái, thờ
phụng ấy không bị ảnh hởng bất cứ một dòng tôn giáo nào. Cho nên, lúc
đầu nó cha có tên gọi. Đến thế kỷ VI, khi Phật giáo du nhập vào Nhật Bản.
Để phân biệt với Đạo Phật, các nhà t tởng học Nhật Bản mới đặt tên cho tôn
giáo đó là Thần đạo.
Thần đạo là tôn giáo sơ khai bản địa của ngời Nhật, do ngời Nhật
sáng tạo ra từ thời nguyên thủy và tồn tại cho đến ngày nay. Nó hình thành
từ niềm tin, từ lòng thành kính của mỗi ngời dân Nhật Bản đối với tổ tiên,
thiên nhiên và thánh thần. Họ tin rằng, tất cả mọi sự vật, hiện tợng trong tự
nhiên đều do thánh thần sinh ra, kể cả tổ tiên của họ cũng là con cháu của
17
thánh thần. Từ đó, họ coi là một thế giới thần quyền, có quyền quyết định
đến số phận của con ngời trong một xã hội nông nghiệp. Thế giới ấy đợc
phản ánh qua các thần núi, thần ma, gió, thần sông, thần suối, thần mặt
trăng, mặt trời và cần phải thờ phụng nó.
Đối với ngời Nhật, thế giới thánh thần là biểu hiện tình cảm cao quý
của nhân dân Nhật Bản. Tình cảm đó giống nh một phần nào của tín ngỡng
đa thần giáo ở Hy Lạp, La mã cổ đại, nó cha phải là tôn giáo theo đúng giáo

lý có nguồn gốc lịch sử, nó cũng không phải là sản phẩm của một cuộc cách
mạng về ý thức. Không giống nh Đạo Hồi, Đạo Phật và Đạo Kitô, nó không
có ngời sáng lập, không có các vị thánh thần có tên tuổi cụ thể, và những kẻ
tử vì đạo, không có kinh thánh và thầy tu, nó là một "tập tục không đợc một
tổ chức hay một đạo giáo nào hớng dẫn mà chỉ là dân gian tập tục" [38, tr.
4].
Do vậy, có thể coi đây là một hình thái tín ngỡng tự nhiên xuất phát
từ nhận thức con ngời cho rằng, tất cả mọi sự vật đều có linh hồn và đều có
tình cảm. Những biểu hiện của tự nhiên lớn hay nhỏ đều do sự hiện diện
của thánh thần hay linh hồn "Kami". Kami sẽ căn cứ vào sự đối xử của con
ngời mà đáp lại một cách thuận lợi hay không thuận lợi. Vì thế, tất cả mọi
sự vật và linh hồn đều đợc thờ cúng để nó phù hộ cho con ngời.
Đối với ngời Nhật, "Kami" (Thánh thần) để chỉ "ngời trên" hoặc
"cấp trên" và ai đợc phong là Kami có nghĩa là ngời đó có một số phẩm
chất và quyền lực cao hơn ngời thờng, là tổ tiên vĩ đại, là những anh hùng vĩ
đại. Tuy nhiên, từ ngữ "Kami" không chỉ dùng cho ngời mà còn dùng cho
cả thiên nhiên nh: Cây cối, tảng đá, khu rừng và các vật dụng, nh một số
công cụ, thanh gơm Từ những ý nghĩa trên, ta thấy sự tôn thờ thần thánh
của ngời Nhật cũng giống nh tất cả các dân tộc trong giai đoạn sơ khai. Nh-
ng, sự tôn thờ thánh thần đối với ngời Nhật là những thế lực vô hình, không
có hình ảnh cụ thể nh các tôn giáo khác. Chẳng hạn Phật giáo có Thích Ca
18
Mâu Ni, Kitô giáo, có Giêsu. Đối với "Kami", nó mang lại cho con ngời no
ấm, che chở cho con ngời khỏi thiên tai, dịch bệnh, khiến cho ngời Nhật tin
yêu hơn là sợ sệt.
Trong việc tôn thờ "Kami" (Thánh thần) của ngời Nhật thì việc tôn
thờ thần Mặt trời là đặc trng tiêu biểu nhất. Theo truyền thuyết, có hai vị
thần Izanagi và nữ thần Izanami, vừa là anh em, vừa là vợ chồng đã sinh ra
mọi thứ trong vũ trụ. Trong đó có những hòn đảo sẽ là lãnh thổ của Nhật
Bản. Nhng đến khi sinh ra vị thần lửa thì nữ thần Izanami bị thiêu chết.

Nam thần Izanagi đi theo bà xuống dới âm phủ, vì quá muộn nên xác bà đã
bắt đầu thối rữa, Izanagi hoảng sợ bỏ chạy để khỏi nhìn thấy cảnh chết rục
của vợ, về đến trần gian chàng vội vã tẩy uế thân thể bằng cách nhảy xuống
biển tắm. Tất cả quần áo của chàng cởi ra đều là thánh thần "Kami" của
Thần đạo. Trong số những vị thần đó thì Amateraxu đợc tôn là đại thần đã
phái xuống trần gian 800 vị thần để phò tá Thiên hoàng. Về sau Amateraxu
nhờng ngôi trị vì các đảo Nhật Bản cho con cháu của mình và đó chính là
Thiên hoàng. Dòng dõi hoàng tộc đó vẫn trị vì ở Nhật Bản cho tới ngày nay.
Có lẽ, chính vì tôn sùng thần Mặt trời nên ngời Nhật thờng gọi đất nớc
mình là "Đất nớc Mặt trời mọc". Cùng với thời gian, những tín ngỡng này
ngày càng ăn sâu vào đời sống tinh thần của ngời Nhật. Dần dần phát triển
lên gọi là Thần đạo.
Nh vậy, Thần đạo là kết quả của sự pha trộn từ những tín ngỡng từ
thời tiền sử, hay nói cách khác là có nguồn gốc bái vật giáo. Đối tợng chính
trong các nghi lễ của Thần đạo là những vị thần đợc gọi là Kami. Kami có
thể có nhiều loại khác nhau và đợc phân biệt bằng những tên riêng, nhng lại
có đặc điểm chung. Kami không có hình dạng cố định và chỉ biểu lộ hình
thức khi đợc mời gọi trú ngụ trong những vật cụ thể nh cái bình, gậy, tảng
đá Những ngời có khả năng về tâm linh sẽ đóng vai trò cầu nối giữa
Kami với thế giới loài ngời. Kami sống ở thế giới riêng và hàng năm đợc
19
mời đến với thế giới loài ngời vào các mùa thông qua các nghi lễ để mong
đợc ban phớc lành.
Đặc điểm chủ yếu của nghi lễ Thần đạo là chú ý đến sự trong sạch,
vi phạm điều này có nghĩa là xúc phạm đến Kami, nh vậy sẽ là có tội. Do
đó, muốn tránh đợc tội thì phải kiêng giữ sạch sẽ khi đến gần Kami. Trớc
khi hành lễ, phải tắm rửa, thay quần áo sạch sẽ, vì ngời bẩn là điều tối kỵ.
Tuyệt đối không đợc hành lễ khi phải mang trong ngời những thứ bẩn nh
đang hành kinh hay trong thời kỳ sinh đẻ. Trong những truyện thần thoại có
nói đến "những lều đẻ" hay "lều cới" phải làm cách xa nhà nhằm tránh cho

nhà khỏi bị bẩn. Ngoài ra, bệnh tật, ngời chết ốm đau cũng là nguồn gây
bẩn. Vì thế, ngay từ thời cổ đại đã có một danh sách những tội cần đợc rửa
trong các kỳ lễ.
Đó là việc cơ bản, trớc khi tiến hành nghi lễ đều đợc thực hiện ba
cách sau: "Trừ tà" - do thầy cúng thực hiện nhằm tẩy trừ sự ô uế do tội lỗi
gây ra, bằng cách ngời làm lễ phải nộp tiền phạt về tội lỗi của mình. "Tẩy
uế" (Misogi), là nghi lễ nhằm tẩy trừ sự ô nhiễm do đụng chạm với những
thứ bẩn thỉu từ cái chết và bệnh tật. Thông thờng là tắm rửa hoặc vẩy nớc
muối, nghi thức này còn tồn tại cho đến ngày nay. "Trai giới", là phơng
pháp chủ yếu liên quan đến các thầy cúng, họ phải tuân thủ những điều cấm
kỵ, không đợc đụng chạm đến bệnh tật, cái chết, tang ma, chỉ đợc mặc quần
áo đã đợc tẩy uế cẩn thận, "phải cách ly với bên ngoài và ăn kiêng gồm
những sản vật từ cây, nớc lã" [5, tr. 4].
Nói chung, nghi lễ của Thần đạo với mục đích chủ yếu là mong
muốn mùa màng bội thu. Nghi lễ này, đợc biểu hiện qua rất nhiều lễ hội,
những lễ hội quan trọng nhất đều có liên quan ít nhiều đến nghề nông nh:
Lễ hội hoa quả đầu mùa (Niiname), Hội thần nếm (Kanname) đợc tổ chức
tại cung điện của Thiên hoàng và các đền miếu, Hội cùng nếm (Ainame) là
Thiên hoàng cùng với các thần nếm cơm gạo mới và rợu mới nấu.
20
Trong các nghi lễ đó, có lễ lớn nhất là hội cùng nếm hoa quả đầu
mùa, lễ hội này thờng đợc tiến hành sau lễ lên ngôi chính thức của Thiên
hoàng. Lễ hội đợc tiến hành ở cung điện của Thiên hoàng trong tòa nhà
bằng gỗ đợc dựng lên một cách đặc biệt, sau khi kết thúc lễ hội ngôi nhà đó
đã bị phá hủy ngay. "Những nghi lễ đó đã giữ lại đợc từ thời cổ với một kỹ
thuật nguyên thủy về sản xuất và cất giữ lơng thực và đậm nét quan tâm đến
việc bảo vệ cho sự phong phú mùa màng" [5, tr. 4]. Bên cạnh những nghi lễ
cầu tạ ơn về mùa màng, còn có những nghi lễ chống lại hoặc xua đuổi dịch
bệnh, rủi ro, ô uế
Tóm lại: Thần đạo là thứ tôn giáo sơ khai bản địa của ngời Nhật, nó

đợc hình thành từ thời tiền sử trên quần đảo Nhật Bản. Thần đạo không phải
là quốc giáo của Nhật Bản, vì nó không cấu thành nổi một triết lý, không kinh
kệ, giáo điều của màu sắc cá tính Thần đạo. Trên thực tế, thần đạo cũng không
phải là thứ tôn giáo riêng của ngời Nhật Bản. Vì cũng giống nh ngời Trung
Quốc, Việt Nam đều thờ cúng trời đất, vua chúa, tổ tiên, thần thánh của
mình. Nhng t tởng tôn giáo trong đạo đức của ngời Nhật đợc đồng hóa với
tín ngỡng ngay từ tiền khởi của nền tôn giáo sơ khai
2.2.1.2. Phật giáo
Từ sau công nguyên, Đạo Phật đã vợt ra khỏi biên giới và phạm vi
của triết lý truyền thống ấn Độ, mở rộng ra nhiều nớc trong khu vực Trung
á và Đông á. Đặc biệt, Trung Quốc là nơi Phật giáo đợc truyền bá rất
thành công, và sau quá trình du nhập nó đã đợc nhào nặn ở Trung Quốc
mang những nét khác biệt cơ bản so với Phật giáo ở ấn Độ. Từ Trung Quốc,
Đạo Phật đã du nhập vào Triều Tiên, và từ đó đợc truyền bá sang Nhật Bản
vào thế kỷ VI.
Theo sử sách, vào năm 552, vua Triều Tiên Bách Tế (Packeche) cử
hai học giả Achiki và Wani, sang cầu viện triều đình Yamato giúp đỡ về
mặt quân sự và hy vọng Nhật Bản sẽ trợ giúp mình chống lại kẻ thù. Cho
21
nên, đã gửi cho Thiên hoàng Yamato một tợng phật bằng vàng và nhiều
tặng phẩm khác. Trong đó, có một số bộ kinh phật và kèm theo một bức th
hết lòng tán dơng Phật giáo rằng: "Phật giáo tuy khó giải thích và khó hiểu,
đây là một thứ học thuyết hay nhất và có thể giúp thực hiện mọi nguyện
vọng" [26, tr. 75]. Điều này đã tác động lớn đến tầng lớp quý tộc Nhật Bản,
đặt vấn đề có nên tiếp nhận tôn giáo mới hay không? Do đó, đã thờng
xuyên xảy ra những cuộc xung đột giữa hai phe phái, đại diện cho phái
chống đối là họ Nakatomi và Mononobe, còn phái ủng hộ Phật giáo là họ
Soga, cuộc đấu tranh giữa hai phái diễn ra trong suốt gần nửa thế kỷ. Cuối
cùng, phái Soga giành thắng lợi. Đến cuối thế kỷ VI, Phật giáo đã trở thành
tôn giáo chính thức của Nhật Bản, khi đó mới chấm dứt đợc những mâu

thuẫn giữa thần đạo và Phật giáo. Thật ra Phật giáo cũng có nhiều yếu tố
gần giống với thần đạo. ở Nhật Bản, các thần (Kami) cũng trở thành thần
bảo vệ chùa chiền.
Sau khi giành đợc sự bảo trợ của triều đình thì Phật giáo dờng nh đã
mở rộng cửa đón nền văn minh đại lục sâu xa hơn trớc. Một trong những
nhân vật lịch sử xuất hiện để hoàn thành sứ mệnh văn hóa ấy, đó là Thái tử
Shotoku (574-622). Ông là một ngời có học vấn uyên thâm, nhãn quan
chính trị sáng suốt, trở thành nhiếp chính cho nữ Thiên hoàng Suiko vào
năm 593. Trong 30 năm hoạt động, Thái tử đã biến đổi nớc Nhật trên nhiều
phơng diện. Trong đó, Nho giáo và Phật giáo đợc khuyến khích, nâng đỡ và
ngày càng phát triển nhanh chóng. Ngay trong bộ luật 17 điều của Thái tử
Shotoku cũng nêu ra quy định, những ngời phục vụ Thiên hoàng phải tôn
trọng và đi theo tín ngỡng Phật giáo. Ngoài ra, Thái tử cũng là ngời hiểu rất
sâu sắc về phật học. Trong tác phẩm đầu tiên do Thái tử Shotoku viết vào
năm 599 là cuốn Sankyogisho (Tam kinh nghĩa sớ) để giải thích những triết
lý về Phật giáo. Thái tử còn cho xây dựng rất nhiều chùa Phật ở khắp nơi.
Trong đó, nổi tiếng nhất là chùa Horyuji (Pháp Long Tự) ở Ikaruga
Yamato. Đây là ngôi chùa đợc xây dựng bằng gỗ cổ nhất thế giới còn tồn
22
tại cho đến ngày nay. Tính đến cuối năm 624, ở Nhật Bản đã có 46 ngôi
chùa, 816 s sãi và 569 tăng ni, đồng thời triều đình Nhật Bản còn mời nhiều
thầy dạy từ Triều Tiên và Trung Quốc sang truyền bá Đạo Phật.
Cùng với việc tiếp thu và tôn sùng Đạo Phật. Thái tử còn gửi nhiều
học sinh sang học tập, tiếp thu nền văn hóa của Trung Quốc. Phái đoàn đầu
tiên lên đờng vào năm 607, mang theo quốc th của Thái tử Shotoku viết
rằng: "Đợc biết Phật giáo tại quý quốc đơng hồi hng thịnh, tệ quốc gửi sứ
sang triều bái và đa theo mấy chục sa môn để học thêm giáo lý cao thâm
của Phật pháp" [35, tr. 243]. Trong thời Thái tử, ba phái đoàn đã thực hiện
sứ mệnh văn hóa ấy.
Từ cải cách Taika năm 645, Nhật Bản đã xây dựng Nhà nớc theo mô

hình của Trung Quốc, đồng thời trong cải cách Thái tử Kotoku đã tiến hành
ban bố nhiều sắc lệnh. Trong đó, Phật giáo đợc công nhận là quốc giáo,
khuyến khích mỗi quận, mỗi làng đều xây dựng chùa chiền, mỗi ngành,
mỗi nhà đều phải có ngời xuất gia và tăng ni trụ trì ở đền chùa Những nơi
thiếu phơng tiện còn đợc triều đình giúp đỡ. Vì thế nhiều đền chùa nguy
nga đợc dựng lên nhờ sự giúp đỡ của Nhà nớc, những nghi lễ sang trọng
cũng đợc tổ chức dới sự bảo trợ của triều đình hay quý tộc. Vì vậy, đến cuối
thế kỷ VII trong cả nớc đã có trên 450 ngôi chùa.
Đến thế kỷ VIII, hệ thống chính quyền Nhà nớc theo mô hình nhà
Đờng đợc hoàn thành, mở đầu cho thời kỳ Nara. Trong thời kỳ này, do triều
đình muốn khuếch trơng Phật giáo nhằm thống nhất uy quyền chính trị mà
trớc kia bị phân tán bởi chế độ thị tộc, đồng thời cũng muốn xóa nhòa tôn
giáo thị thần ở địa phơng để quy các giai tầng hào tộc vào chung một hệ
thống, chịu sự chi phối của nhà nớc. Để làm đợc điều đó, đối với triều đình,
Phật giáo trở thành một thế lực quan trọng, là một quyền lực thiêng liêng
bảo vệ xứ sở. Một ngôi chùa vĩ đại kiến tạo ở Nara mang tên là Todaiji
(Đông Đại Tự) với tợng Đại Phật uy nghi, làm trung tâm của Phật giáo, liên
23
kết và điều khiển chùa chiền ở các địa phơng. Ngoài ra, triều đình còn có
những u tiên đặc biệt đối với các nhà s, nh: Phong tớc cho các nhà s, còn
nhà chùa thì đợc ban cấp nhiều ruộng đất, miễn thuế. Điều này đã thúc đẩy
cho Phật giáo phát triển nhanh chóng. Nhng dần dần các chùa và giới tăng
lữ do đợc u tiên đã tự do lộng quyền câu kết với các quý tộc ở địa phơng,
giúp cho tầng lớp này không phải đóng thuế rồi chia nhau lợi tức. Do đó, đã
làm cho ngân sách của Nhà nớc ngày càng giảm sút, đời sống nhân dân đói
khổ bên cạnh cuộc sống giàu sang của tầng lớp quý tộc và s sãi. Hơn nữa,
do sự u đãi của triều đình về kinh tế nên các s sãi đã vợt ngoài giới hạn của
lĩnh vực tôn giáo, can thiệp sang lĩnh vực chính trị. Do đợc nữ Thiên hoàng
Shotoku sủng ái, Dokyo trở thành đại thần Thiền s và đợc phong tớc hiệu là
Pháp Vơng, nhng vẫn cha hài lòng, âm mu chiếm cả ngôi Thiên hoàng.

Hành động này đã làm đảo lộn chính trị trong triều đình và cả hệ thống
Hoàng gia, dẫn đến cuộc đảo chính năm 770 do nhà quý tộc Fujiwara lãnh
đạo và đã đoạt đợc quyền từ tay nhà s tên là Dokyo.
Nh vậy, ở thời Nara Đạo Phật đã trở thành quốc giáo, tăng lữ trở
thành một thế lực chính trị, trong số đó không thiếu những ngời mang đầy
tham vọng quyền lực nh trờng hợp Dokyo.
Thời Nara còn hình thành nhiều tông phái khác nhau của Đạo Phật,
các tông phái từ ấ n Độ vào Trung Quốc rồi truyền sang Nhật Bản và hầu
nh về giáo lý của các tông phái này không có sự chống đối gì với nhau, nó
chỉ là những biến thể của một chủ đề chung gọi là sáu tông phái Nara.
Tông phái đầu tiên là Tam Luận Tông (Sanron), do nhà s Triều Tiên
tên là Eikwan truyền bá vào Nhật. Giáo lý của tông phái này dựa theo bộ
Trung luận của Nagarjuna (Long Thọ Bồ Tát) mang một triết lý hết sức duy
tâm và tuyệt đối, cho rằng: Mọi hiện tợng là không thực, không tồn tại riêng
biệt mà chỉ tồn tại trong đối với nhau mà thôi, một quan niệm rất khó hiểu
đối với ngời Nhật học nó. Tuy nhiên là tông phái đầu tiên, nên vẫn tồn tại
24
và đến cuối thời Nara đã bị sa sút. Sau Tam Luận Tông là Thành Thực Tông
(Jojitsu) du nhập từ Triều Tiên. Các giáo lý của Tông phái này cũng giống
nh Tam Luận Tông, vì thế Tông phái này hầu nh không phải là riêng biệt
mà lẫn vào Tam Luận Tông. Một Tông phái nữa ở Nhật là Pháp Tớng Tông
(Hosso) còn gọi là Duy Thực Tông (Yuishiki). Tông phái này dựa theo bộ
luận Joyuishiki-ron (Thành duy thức luận) là một bộ tóm tắt những lời bình
luận về một bài phát biểu ngắn bằng thơ triết học duy tâm của
Vashubundhu (Thiên thần Bồ Tát) và những vấn đề khác, do nhà s Huyền
Trang nổi tiếng ngời Trung Quốc sắp xếp năm 648. Toàn bộ tác phẩm này
đa ra học thuyết cho rằng thực tại duy nhất chính là tâm thức của con ngời.
Câu Xá Tông (Kusha) cũng không phải là một Tông phái riêng biệt,
các giáo lý của nó dựa trên một bộ luận có tính chất bách khoa của
Nannubandhu. Bộ luận này là một bản trình bày về t tởng siêu hình của các

trờng phái phật học ban đầu. Tông phái này chép từ bộ luận đó gọi là Kusha
(Câu Xá Luận) nghĩa là kho tàng của phép siêu hình, cho rằng mọi sự vật
đều tồn tại và coi những yếu tố tâm lý, vật lý trong hoạt động sống của mọi
vật thể là vĩnh hằng.
Một trong những Tông phái khác biệt so với những tông phái khác,
nó không phải là vì giáo lý siêu hình mà vì tính chất thiết yếu đặc biệt của
nó. Đó là Luật Tông (Ritsu), đúng nh tên gọi của nó. Tông phái này không
quan tâm nhiều đến các vấn đề triết lý, mà chỉ chuyên chú vào giới luật, sao
cho đúng sự kế thừa các bậc tu hành. Thực ra nhánh của tông phái này phát
triển nh một sự phản ứng lại với những cái tinh tế siêu hình của các tông
phái khác, và nh một sự phản đối với lối sống buông thả của Tăng Lữ lúc
đó. Vì thế, họ rất coi trọng những cuộc lễ thụ giới, chủ trơng rằng chỉ có
các nhà s nào đợc thụ giới đúng đắn thì mới có thể thụ giới đúng cho ngời
khác đợc.
25

×