Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

Giáo trình nghề chăn nuôi gia cầm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 98 trang )

SỞ GD&ĐT NINH THUẬN
TRUNG TÂM GDTX, DN&HN
NINH SƠN

GIÁO TRÌNH
KỸ THUẬT CHĂM SÓC GÀ THẢ VƯỜN
DẠY NGHỀ THƯỜNG XUYÊN

Ninh Sơn - Năm 2014
1


LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, cùng với ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi của nước ta
đã không ngừng phát triển và đã đạt được kết quả đáng kể.
Chăn ni gia cầm là một loại hình chăn ni phổ biến trong hộ gia đình Việt
Nam.
Chăn ni gà là một nghề đã có từ lâu trong các hộ gia đình ở nơng thơn. Nó cung
cấp phần lớn sản lượng thịt cho ngành chăn ni nói chung và ngành gia cầm nói
riêng. Hơn nữa chu kỳ sản xuất gà ngắn do đó nó đáp ứng được nhu cầu thực phẩm
ngày càng cao trong xã hội cả về số lượng cũng chất lượng sản phẩm. Ngành chăn
ni gà phát triển cịn góp phần bổ trợ đáng kể vào việc phát triển ngành trồng trọt,
ngành chăn nuôi và các ngành kinh tế khác, làm tăng nguồn nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến thực phẩm, xuất khẩu thu ngoại tệ phục vụ cho các ngành kinh tế
khác trong nền kinh tế quốc dân. Ngành chăn ni gia cầm nói chung và chăn ni gà
nói riêng trong những năm gần đây đã từng bước được Nhà nước chú ý hơn.
Giáo trình kỹ thuật chăm sóc gà thả vườn gồm những kiến thức cơ bản nhất,
nhưng quy luật chung nhất, những nguyên lý kỹ thuật chăn ni và cơ sở khoa học
của chúng để góp phần thúc đẩy quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm gà trong thời
gian tới.


2


MODUN 1: GIỐNG VÀ KỸ THUẬT CHỌN GIỐNG
Bài: TÌNH HÌNH CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU CHĂN NUÔI TRONG THỜI GIAN QUA
I. Xu hướng tình hình chuyển đổi cơ cấu chăn ni nước ta trong thời gian qua
Nông nghiệp giữ một vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Đặc biệt với Việt Nam, từ lâu nông nghiệp đã trở thành một thế mạnh và là chỗ dựa
vững chắc để đất nước có thể vượt qua những khó khăn, thử thách để xây dựng đất
nước ngày càng giàu mạnh.
Trong những năm đổi mới vừa qua, sản xuất nông nghiệp trong nước đã đạt
được những thành tựu to lớn. Không những cung cấp đầy đủ lương thực, thực phẩm
cho con người, đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng và công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm mà còn sản xuất ra những
mặt hàng có giá trị xuất khẩu, tăng thêm nguồn thu ngoại tệ góp phần thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng cao, đời sống nhân dân được cải thiện. Hiện tại cũng như trong
tương lai, nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước,
khơng ngành nào có thể thay thế được. Tuy nhiên, sản xuất nơng nghiệp ở nước ta vẫn
cịn tồn tại nhiều vướng mắc cần được tháo gỡ, đặc biệt là trong bối cảnh suy giảm
kinh tế hiện nay. Đó là thị trường hàng hóa bị thu hẹp, sản xuất nơng nghiệp cịn
manh mún chưa tập trung, trình độ phát triển nơng nghiệp cịn lạc hậu, hiệu quả cịn
chưa cao, thiếu đồng đều giữa các vùng miền…
1. Đặc điểm của nông nghiệp hàng hóa
Thứ nhất, hình thành những đơn vị kinh tế không thuần nhất, số lượng những
đơn vị kinh tế thực hiện một chức năng kinh tế giống nhau giảm xuống, số lượng
những ngành kinh tế riêng biệt tăng lên.
Công nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp, sản xuất và trao đổi hàng hóa trở thành
phổ biến, các ngành kinh tế mới trong nội bộ nơng nghiệp mới có điều kiện phát triển
mạnh, thị trường từng bước được mở rộng đưa đến chỗ ngày càng tăng thêm những
ngành công nghiệp riêng biệt tách khỏi nông nghiệp. Xu hướng phát triển này khơng

những biến việc sản xuất mang tính chun biệt tạo ra từng sản phẩm riêng mà còn
sản xuất bộ phận riêng của sản phẩm, thậm chí cả từng thao tác trong việc chế biến
sản phẩm thành một ngành công nghiệp hoặc dịch vụ riêng. Quá trình này cũng diễn
ra trong nội bộ ngành nông nghiệp làm nảy sinh những khu vực nơng nghiệp chun
mơn hóa, dẫn đến sự trao đổi sản phẩm nông nghiệp lấy sản phẩm công nghiệp, giữa
sản phẩm nông nghiệp với nhau.
Thứ hai, sự phân công xã hội ngày càng phát triển dẫn đến sự ra đời của thương
nghiệp. Lúc đầu thương nghiệp chỉ đón những sản phẩm thừa ra, về sau nó tác động
3


vào nền sản xuất, hướng sản xuất vốn nhằm vào nhu cầu tiêu dùng trực tiếp chuyển
sang sản xuất nhằm vào thị trường và từng bước sát nhập lưu thông thành một khâu
của quá trình tái sản xuất và thị trường ngày càng mở rộng. Sự phát triển của sản xuất
hàng hóa sẽ chấm dứt tình trạng phân tán của những đơn vị kinh tế nhỏ (trong kinh tế
tự nhiên) và sẽ tập hợp các thị trường nhỏ địa phương thành một thị trường lớn trong
tồn quốc và sau đó trên tồn thế giới.
Theo tiến độ đó xu hướng phát triển tất yếu của sản xuất xã hội là kinh tế tự
nhiên sẽ chuyển thành kinh tế hàng hóa, các ngành kinh tế chun mơn hóa gắn bó
mật thiết với nhau hơn.
Kinh tế hàng hóa phát huy tính năng động, sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi
đơn vị kinh tế; tạo điều kiện cho sự phát triển tự do, toàn diện của cá nhân; tạo ra cơ
chế phân bổ và sử dụng các nguồn lực của xã hội. Kinh tế hàng hóa phát triển sẽ thúc
đẩy và mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa phương trong cả nước và giữa
các quốc gia trên thế giới trên cở sở tôn trọng, hợp tác lẫn nhau và cùng phát triển.
2. Tính ưu việt của nơng nghiệp hàng hóa
Một là, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh, không ngừng tăng năng
suất lao động.
Hai là, nông nghiệp hàng hóa đẩy mạnh q trình xã hội hóa lực lượng sản xuất.
Ba là, nơng nghiệp hàng hóa thúc đẩy q trình tích tụ và tập trung sản xuất, thúc

đẩy mở rộng thị trường hàng tiêu dùng, thị trường lao động và thị trường tư liệu sản
xuất.
3. Sự biến đổi của cơ cấu cây trồng, vật ni trong q trình phát triển nơng
nghiệp hàng hóa
a. Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế là tổ hợp các nhóm ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ,
biểu hiện mối quan hệ giữa các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành
phản ánh trình độ phân cơng lao động và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
của nền kinh tế.
Cơ cấu cây trồng, vật nuôi là thành phần các giống và loại cây, con được bố trí
theo khơng gian và thời gian trong hệ sinh thái nông nghiệp nhằm tận dụng hợp lý các
nguồn lợi về tự nhiên, kinh tế - xã hội sẵn có của vùng. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi là
một phận của cơ cấu kinh tế nơng nghiệp, nó cịn là một nội dung chủ yếu của hệ
thống canh tác nông nghiệp. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi là chuyển từ trạng
thái cây trồng, vật nuôi cũ sang trạng thái cây trồng, vật nuôi mới để nâng cao năng
4


suất lao động và hiệu quả kinh tế, phát triển những cây trồng, vật ni có triển vọng
trên thị trường, có giá trị gia tăng cao.
b. Xu hướng chủ yếu trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông nghiệp
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp diễn ra tùy tình hình cụ thể của
từng vùng, từng nước, nhưng theo đà phát triển của nơng nghiệp hàng hóa, xu hướng
chủ yếu nói chung trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế diễn ra như sau:
Thứ nhất, tỷ trọng lao động và giá trị sản lượng nông nghiệp ngày càng giảm,
lao động nông nghiệp được rút bớt để chuyển sang công nghiệp và dịch vụ.
Cơ cấu ngành nông nghiệp biến đổi phải nằm trong xu hướng phát triển kinh tế
nông thôn tổng hợp bao gồm cả công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.
Phân công lao động ở nông thôn diễn ra theo hướng giảm lao động trồng lúa
chuyển sang trồng các cây khác và phát triển chăn nuôi, mở rộng ngành nghề tiểu thủ

công nghiệp và dịch vụ, với việc mở rộng lao động ra thành thị phục vụ cho nhu cầu
phát triển công nghiệp, thương nghiệp và các dịch vụ khác.
Thứ hai, tỷ trọng giá trị sản phẩm trồng trọt giảm xuống và tỷ trọng giá trị sản
phẩm chăn ni tăng lên.
Việc hình thành một cơ cấu ngành nông nghiệp hợp lý cho phép khai thác tốt
nhất các nguồn lực tạo ra sức bật mới trong nông thôn. Xu hướng chung là phải phát
triển cả nông nghiệp (theo nghĩa hẹp), lâm nghiệp, ngư nghiệp; phải phát triển cả
trồng trọt và chăn nuôi, đưa chăn nuôi trở thành một ngành sản xuất chính.
Thứ ba, tỷ trọng giá trị sản lượng lương thực giảm (nhưng sản lượng tuyệt đối thì
tăng lên do năng suất lao động cây trồng tăng cao); tỷ trọng các loại cây công nghiệp
và rau quả tăng lên.
Xu hướng chung ở nước ta hiện nay là giảm tỷ trọng cây lương thực tăng giá trị
cây thực phẩm, cây ăn quả, cây công nghiệp; giảm tỷ trọng và giá trị sản phẩm thô,
tăng tỷ trọng giá trị sản phẩm chế biến… trong tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp.
Điều đó cho phép khai thác tiềm năng và lợi thế các vùng khác nhau, kết hợp hợp lý
nông - lâm - ngư nghiệp đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
c. Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu ngành kinh tế trong nông nghiệp
Một là, năng suất lao động trong nông nghiệp, nhất là năng suất lao động trong
trồng cây lương thực
Hai là, điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu
Ba là, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nhất là giao thông vận tải Bốn là, sự phát
triển công nghiệp chế biến nông sản
5


d. Một vài kinh nghiệm của việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật ni theo
hướng sản xuất hàng hóa ở nước ta
Một là, quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi ở các tỉnh mặc dù điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội cịn có những điểm khác nhau, nhưng cái chung nhất là
dựa trên tiềm năng, thế mạnh của mình, phát triển theo cơ chế thị trường, mỗi tỉnh

từng bước xác định cho mình một cơ cấu kinh tế hợp lý.
Hai là, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi các tỉnh đều xác
định ngành kinh tế mũi nhọn để tập trung đầu tư, nhằm mang lại hiệu quả cao.
Ba là, tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất, thiết bị, nguồn
nhân lực bằng mọi nguồn vốn, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia.
Bốn là, để chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, khi bố trí cơ cấu kinh tế hợp
lý ln chú ý tới các vùng miền lãnh thổ, vùng sâu vùng xa phù hợp với điều kiện
sinh thái thổ những của từng vùng.
Năm là, cụ thể hóa các chủ trương, chiến lược bằng quy hoạch, kế hoạch,
chương trình và biện pháp cụ thể, rõ ràng, phối hợp giữa các ngành, địa phương.
II. Tình hình chuyển đổi cơ cấu chăn ni ở Ninh Thuận
Tỉnh Ninh Thuận thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ. Tổng diện tích đất tự
nhiên 3.358,3 km2. Là tỉnh có cả vùng đồi núi, đồng bằng, ven biển và vùng lãnh hải
rộng lớn với những tiểu vùng khí hậu đặc trưng là lợi thế để phát triển nơng nghiệp
tồn diện (nông, lâm, thủy sản, muối) với những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh theo
hướng tập trung, năng suất, chất lượng cao bề vững.
Trong những năm qua sản xuất nông nghiệp đã phản ánh đúng định hướng và đạt
mục tiêu đề ra, bước đầu hình thành các vùng sản xuất tập trung (chăn ni bị, dê,
cừu, heo, gà…) phục vụ công nghiệp chế biến… từng bước đưa nền nông nghiệp của
tỉnh hội nhập với cả nước và thế giới.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã bộc lộ một số tồn tại chưa phù hợp với
thực tế và xu thế phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh, của ngành và những nhân
tố phát triển mới (cơ hội và thách thức) trong thời kỳ mới. Do đó việc lập chuyển dịch
cơ cấu cây trồng vật nuôi để phù hợp với định hướng phát triển chung của cả nước,
thực hiện Nghị Quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XII, nhiệm kỳ 2011 – 2015 và
từng bước cụ thể hóa mục tiêu phát triển ngành trong quy hoạch Tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh thời kỳ 2011 – 2020 là cần thiết.
Được sự quan tâm của UBND tỉnh và ngành Nông nghiệp, việc chuyển dịch cơ
cấu sản xuất nông nghiệp trong những năm qua đã có những bước chuyển biến tích
cực. Mặc dù tình hình thời tiết khơng thuận lợi, hạn hán kéo dài, thị trường chưa ổn

6


định nhưng tổng đàn gia súc gia cầm và sản phẩm chăn nuôi đến tháng 9 năm 2012 đã
đạt được một số kết quả cụ thể như sau:
- Tổng đàn gia súc, gia cầm:
+ Đàn trâu – bò 111.180 con. Trong đó: Trâu 4.380 con, Bị 106.800 con. Tỷ lệ
Sind hóa đàn bị đạt 35%.
+ Đàn dê, cừu 144.570 con. Trong đó: dê 61.230 con, cừu 83.340 con.
+ Đàn heo 69.030 con.
+ Đàn gia cầm 1.368.325 con. Trong đó: gà 644.800 con, vịt 723.525 con.
- Sản phẩm chăn nuôi:
+ Tổng đàn gia súc xuất chuồng: 338.811 con tang 0,39% so với cùng kỳ năm
2011, trong đó: Trâu 1.179 con, bị 47.130 con, dê 84.830 con, cừu 80.552 con, heo
125.120 con.
+ Sản lượng thịt hơi gia súc xuất chuồng: 20.380,2 tấn so với năm 2011 giảm
2,75% (trâu 228,2 tấn; bò 8.078,9 tấn; dê 2.121,2 tấn; cừu 2.109,2 tấn; heo 7.842 tấn)
+ Sản lượng thịt gia cầm xuất chuồng: 4.606,7 tấn tang 4,68% so với cùng kỳ
năm 2011.
- Trong thời gian qua nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật được đưa vào sản xuất
như: chuyển giao nhiều giống mới trong chăn nuôi (bị, dê, cừu, heo….), chăn ni
theo hướng bán thâm canh, thâm canh và vỗ béo gia súc, xây dựng các mơ hình nơng
lâm kết hợp được áp dụng rộng rãi đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nơng
nghiệp, từng bước chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn theo hướng sản xuất
hành hóa có giá trị kinh tế cao và đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
- Trong chăn nuôi đã phát triển mạnh mẽ các loại hình trang trại: Nếu như năm
1992 số trang trại chăn ni khơng đáng kể thì đến nay trên địa bàn tỉnh đã có 702
trang trại, trong đó: 241 trang trại chăn ni bị, 427 trang trại dê cừu, 20 trang trại
chăn nuoi heo, 14 trang trại chăn nuôi gia cầm. các trang trại đã đi vào đầu tư thâm
canh, đưa các giống mới các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất như: Phát triển

trồng cỏ, trang bị kỹ thuật giống mới: máy nghiền cỏ, xây dựng các ao chứa nước, các
mơ hình chăn ni bán thâm canh, từng bước chủ động nguồn thức ăn phục vụ cho
chăn nuôi, tang thu nhập và đặc biệt là tang giá trị sản phẩm ngành chăn nuôi. Đây là
cơ sở để đưa ngành chăn ni lên ngành sản xuất chính của tỉnh.
Chuyển dịch cơ cấu chăn nuôi từ việc mở rộng đầu tư thâm canh, bán công
nghiệp, kết hợp chăn nuôi trang trại và hộ gia đình gắn với quy hạch phát triển đồng
cỏ, chú trọng từ khâu giống, thức ăn, công tác phòng chống dịch bệnh, ứng dụng
những tiến bộ kỹ thuật mới, đảm bảo an toàn thực phẩm trong chăn nuôi để nâng cao
7


chất lượng đàn gia súc, duy trì quy mơ tổng đàn, phát triển chăn nuôi tập trung theo
định hướng của ngành, phát huy lợi thế của từng địa phương trong tỉnh, đặc biệt là các
xã miến núi, từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho người dân và ổn định đời sống.
III. Vai trị, ý nghĩa của chăn ni gia cầm
Ngành chăn nuôi trong những năm qua đạt mức tăng trưởng 5-6%/năm. Trong
đó chăn ni gia cầm đã cơ bản đáp ứng thực phẩm cho nhu cầu trong nước, tạo công
ăn việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận lớn nông dân. Con số này sẽ cao hơn nếu
ngành chăn ni có những giải pháp phát triển bền vững.
Trong quá trình phát triển của kinh tế thị trường, các đối tượng vật ni ln
được thay đổi để có thể phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Phát triển chăn nuôi gia
cầm tập trung bán công nghiệp được xem là bước đi trong thời gian gần đây
Quy luật tất yếu của sự phát triển của chăn nuôi chúng ta trong những năm vừa
qua phần nào giúp chúng ta dự đốn được những khó khăn trong thời gian sắp tới của
việc phát triển rầm rộ mơ hình chăn ni này.
Hiệu quả kinh tế nuôi gà thả vườn
Thứ nhất, Nuôi gà thả vườn theo hướng bán tập trung là bước đi tất yếu của việc
tăng cường khả năng mở rộng hình thức và quy mơ đàn. Ni lớn có nghĩa chúng ta
chấp nhận cạnh tranh giá cả nhưng chưa chắc nó đem lại lợi nhuận lớn như chúng ta
nghĩ. Trước đây, giá gà thả vườn luôn ở mức 80.000 -100.000 đ/kg trong các thời

điểm trong năm nhưng giá dành cho hình thức chăn ni bán cơng nghiệp này chỉ từ
60.000 – 75.000 đ/kg.
Thứ hai, sự trung hòa này còn lớn hơn khi gần đây một số công ty tăng cường
các con giống nhằm “thống trị” một giá trị khác của ngành, đó là thức ăn gia cầm. Các
con giống này được lai tạo để tạo ra giống gà thả vườn (gần giống với gà màu công
nghiệp), thời gian nuôi ngắn hơn, tốc độ lớn nhanh, bộ lông đẹp. Tuy nhiên, đây chỉ là
bước khởi đầu của việc tạo ra sự hịa nhập mà tất cả gia đình dựa vào chăn ni
truyền thống khơng muốn nghĩ tới.
Thứ ba, tình hình dịch bệnh ln là vấn đề nan giản. Nó cản trở tất cả nổ lực của
người chăn nuôi muốn tăng cường hoạt động của mình. Virus thay đổi độc lực liên tục
để “chống lại” sự kiểm soát của các loại vaccine hay thay đổi hình thái để kháng lại
các loại kháng sinh thông thường.
Thứ tư, con giống luôn là một “nền móng” vững chắc cho sự phát triển thương
hiệu và kiểm soát dịch bệnh. Điều mà bất cứ ai muốn phát triển kinh tế nơng nghiệp
trên “sân nhà” của mình ln ao ước nghĩ tới. Thực trạng này ngày càng trở nên khó
8


khăn hơn khi sự thay thế con giống mới trở nên chậm trể trong vài năm trở lại đây và
“có vẻ” như chẳng còn một lò ấp trứng nào nghĩ tới.
Giai nhập thị trường là chúng ta chấp nhận cạnh tranh, tuy nhiên nếu hiểu cho
đúng là phải đem sản phẩm của mình cạnh tranh với bên ngồi. Có phải chúng ta đang
làm mất dần những giá trị lớn nhất của thương hiệu chăn ni mà đáng lẽ ra nó cần
được đầu tư đúng mức.
Thời gian đầu tư để phát triển lại cần lâu hơn, chậm hơn nữa để tránh những xu
hướng thị trường làm thay đổi luôn tập quán sản xuất mà phải quan tâm đến lợi ích
của người chăn ni và vệ sinh an tồn thực phẩm cho người tiêu dùng.
Theo Cục chăn nuôi, hiện tổng đàn gia cầm của cả nước khoảng hơn 308 triệu
con, trong đó hai vùng có số lượng gia cầm lớn nhất là đồng bằng sông Hồng và đồng
bằng sông Cửu Long, với tốc độ bình quân mỗi năm tăng 4,4 và 6%. Trong đó, các

loại giống gia cầm khá phong phú, với hơn 50 loại giống gia cầm các loại, tuy nhiên
chủ yếu là tự phát, thiếu sự quản lý và quy hoạch giống.
Để ngành chăn ni nói chung và ngành chăn ni gia cầm nói riêng phát triển
bền vững, theo TS Trần Công Xuân, Chủ tịch Hiệp hội gia cầm Việt Nam: Trước hết,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần phối hợp Tổng cục Thống kê để thống
nhất phương pháp thống kê sản lượng sản phẩm sản xuất ra trong năm của ngành chăn
ni, vì đây là chỉ tiêu cực kỳ quan trọng đối với ngành chăn nuôi nhằm đánh giá
đúng vị trí và đóng góp của ngành chăn nuôi, là cơ sở để xây dựng chiến lược phát
triển ngành chăn nuôi.
Hai là, cần đầu tư các cơ sở nuôi giữ, bảo tồn, chọn lọc, nhân các giống gia cầm
trong nước quý để làm nguyên liệu lai giữa các giống gia cầm nội và lai giữa các
giống gia cầm nội với gia cầm ngoại, tạo con lai thương phẩm có năng suất, chất
lượng cao, cung cấp cho thị trường trong nước và hướng xuất khẩu. Khuyến khích
phát triển cây nguyên liệu làm thức ăn chăn nuôi để giảm nhập, giảm giá thành thức
ăn. Có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng và nâng cấp
các cơ sở giết mổ tập trung và kinh doanh thực phẩm có nguồn gốc và động vật, giao
đất vĩnh viễn hoặc có thời hạn dài để chủ đầu tư yên tâm đầu tư phát triển cơ sở giết
mổ tập trung và công nghiệp. Quy hoạch xây dựng chợ đầu mối để kiểm soát vận
chuyển trước khi cung ứng cho các cơ sở giết mổ theo vùng và theo chuỗi cung ứng.
Ba là, khả năng sản xuất của ngành chăn nuôi trong nước rất lớn, không những
cung cấp dư thừa cho nhu cầu trong nước mà còn hướng tới xuất khẩu, do đó cần phải
bảo hộ người chăn ni trong nước. Muốn vậy, cùng với việc quan tâm đào tạo nghề
chăn ni nói chung, chăn ni gia cầm nói riêng cho người chăn nuôi kể cả quản lý
9


và khoa học kỹ thuật, các cơ quan chức năng, nhất là ủy ban nhân dân các cấp của các
tỉnh biên giới và giáp biên giới cần thực hiện nghiêm túc Cơng điện 1180 ngày 31-72012 của Thủ tướng Chính phủ về việc ngăn chặn nhập lậu các sản phẩm chăn ni
chưa kiểm sốt qua biên giới. Nên chăng khơng khuyến khích các tập đồn, các cơ sở
nước ngồi vào Việt Nam tổ chức sản xuất chăn ni nói chung, chăn ni gia cầm

nói riêng, cũng như hạn chế nhập khẩu các sản phẩm chăn ni kể cả chính ngạch.
1. Thành tựu của ngành chăn nuôi gia cầm thế giới
Trong vài thập niên trở lại đây, ngành chăn nuôi gia cầm trên thế giới phát triển
mạnh về cả số lượng và chất lượng. Đó là kết quả của việc áp dụng những thành tựu
di truyền chọn giống kết hợp với các biện pháp chăm sóc ni dưỡng có cơ sở khoa
học.
Trước đây, chăn nuôi gia cầm chỉ là một ngành sản xuất phụ. Ni gia cầm chỉ
để có thêm ít thức ăn hàng ngày, có thêm chút ít tiền và trong nhiều trường hợp ni
gia cầm chỉ mang mục đích tiêu khiển (gà nuôi làm cảnh xem chơi, gà nuôi để tham
gia lễ hội...). Trong vài ba chục năm trở lại đây, chăn ni gia cầm đã có bước phát
triển nhảy vọt. Chăn nuôi gia cầm đã chuyển từ phương thức chăn nuôi - nông
nghiệp” sang phương thức chăn nuôi - công nghiệp”. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã
được nghiên cứu, ứng dụng nhanh chóng trong chăn ni gia cầm. Kết quả của quá
trình này là các đơn vị chăn nuôi gia cầm quy mô lớn thay thế dần cho các cơ sở chăn
nuôi nhỏ - một sự chuyển đổi cơ bản trên tất cả các lĩnh vực của ngành sản xuất chăn
nuôi gia cầm. Nhờ việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật về di truyền, giống,
dinh dưỡng, công nghệ sản xuất, máy ấp trứng... mà chăn gia cầm thế giới đã phát
triển nhanh cả về số lượng đầu con, sản lượng trứng, thịt, chất lượng sản phẩm, giá
thành trong sản xuất sản phẩm gia cầm giảm đi, chất dinh dưỡng cung cấp cho con
người với giá rẻ ngày càng tăng lên nhờ vào nguồn trứng và thịt gia cầm.
Trong vài thập niên trở lại đây, ngành chăn nuôi gia cầm trên thế giới phát triển
mạnh về cả số lượng và chất lượng. Đó là kết quả của việc áp dụng những thành tựu
di truyền chọn giống kết hợp với các biện pháp chăm sóc ni dưỡng có cơ sở khoa
học.
Sản xuất trứng và thịt gia cầm ngày càng tăng lên, nhất là ở các nước có ngành
cơng nghiệp phát triển.
Theo các số liệu thống kê của FAO thì sản lượng trứng gia cầm của thế giới từ
401,5 tỉ năm 1975 tăng lên 552 tỉ năm 1985. Tính trong cả giai đoạn từ 1965-1981,
sản lượng trứng sản xuất ra của thế giới tăng 64,79%; trung bình mỗi năm tăng
10



5,05%. Cũng trong thời gian đó thì sản xuất thịt gia cầm tăng 2,47 lần và đạt 28,7
triệu tấn năm 1985.
Trên thế giới có 7 nước đạt sản lượng trứng gia cầm trên 1 triệu tấn: Trung Quốc
22,332 triệu tấn; Mỹ 5,123 triệu tấn; Nhật Bản 2,5 triệu tấn; Ấn Độ 2,200 triệu tấn;
Nga 2,04 triệu tấn; Mexico 1,882 triệu tấn; Brazin 1,55 triệu tấn. Trong khi đó Việt
Nam là 0,2345 triệu tấn trứng gà đứng thứ 30 trên thế giới.
Sản xuất trứng trên thế giới không ngừng tăng lên, nhưng tốc độ tăng không
đồng đều giữa các vùng trên thế giới. Cịn có những vùng riêng biệt, thậm chí cả châu
lục (Châu Phi) mà ở đó sản phẩm gia cầm là chưa đáng kể.
Sự tăng sản xuất trứng gia cầm trên thế giới chủ yếu là tăng sản lượng trứng
trung bình của một gia cầm mái. Trung bình ở Hà Lan, Mỹ, Nhật, sản lượng trứng
trung bình của một gà mái là 250280, hoặc 300, trên 300 quả mỗi năm. Triển vọng là
sản lượng trứng nhận được từ một gà mái đẻ/ năm sẽ đạt đến 300 quả trên phạm vi
toàn thế giới. Sản xuất trứng tăng làm tăng sức tiêu thụ trứng trên một người dân.
Thành tựu trong sản xuất thịt gia cầm là rất to lớn (sản xuất gà thịt broiler). Khối
lượng giết thịt lý tưởng đạt được chỉ sau 8 tuần, 6 tuần, thậm chí là ở 4 tuần tuổi. Kết
quả lớn hơn nữa là xét trong mối quan hệ giữa thể trọng và chi phí thức ăn cho 1 kg
thể trọng thấp. Ví dụ như hãng Marsel (Đức): thể trọng gà đạt 2,90 kg ở 56 ngày tuổi,
chi phí 2,17 kg thức ăn cho 1 kg thể trọng. Hãng Scotlan: thể trọng gà đạt 2,8 kg ở 42
ngày tuổi.
Các tiến bộ khoa học kỹ thuật được nghiên cứu và ứng dụng một cách rộng rãi,
nhanh chóng trong chăn ni gia cầm. Các phương thức chăn nuôi gia cầm cũng thay
đổi, từ phương thức chăn nuôi nông nghiệp chuyển sang phương thức chăn nuôi theo
qui mô công nghiệp với số lượng lớn, quản lý chặt chẽ và chăm sóc tốt. Dự báo đầu
năm 2010 sản xuất thịt và trứng tăng lên ở nhiều khu vực trên thế giới, đặc biệt là các
nước có ngành cơng nghiệp phát triển và các nước có dân số cao. Mức tiêu thụ thịt gà
trên thế giới dự kiến sẽ tăng cao hơn.
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, nhu cầu tiêu dùng của con người về

nguồn protein động vật ngày càng cao. Để đáp ứng nhu cầu của thị trường, hàng loạt
công nghệ mới được ứng dụng nhằm tăng khả năng sản xuất thịt và trứng của gia
cầm. Việc ứng dụng các công nghệ mới và công nghệ sinh học để cải tiến bản chất di
truyền nhằm tạo ra những giống gia cầm mới có phẩm chất trứng - thịt thơm ngon.
Sự tăng nhanh các sản phẩm gia cầm trên thế giới là do các nguyên nhân sau:
*Tạo ra và ứng dụng nhanh các giống và các dòng gia cầm lai có năng suất cao
(sản lượng trứng cao và tốc độ sinh trưởng nhanh).
11


*Nhờ việc nghiên cứu và áp dụng các hệ thống chăn nuôi hợp lý; công thức thức
ăn hợp lý; quy trình cơng nghệ thích hợp đối với từng đối tượng gia cầm; điện khí hố
và tự động hố việc kiểm tra tiểu khí hậu trong chuồng ni...
*Cung cấp các thiết bị hồn chỉnh phục vụ chăn ni gia cầm cơng nghiệp: Máy
ấp trứng công suất cao, tỷ lệ ấp nở cao; máy đếm gia cầm con - trong 1 giờ chuẩn bị
và đếm được 25.000 con; máy soi trứng trong máy ấp - 70.000 quả/giờ; máy chủng
vác-xin cho gia cầm 1 ngày tuổi; thiết bị sấy khô và làm sạch phân gia cầm; thiết bị,
dụng cụ phục vụ thụ tinh nhân tạo gia cầm...
2. Chăn nuôi gia cầm ở Việt Nam
Ở Việt Nam trước đây, chăn nuôi gia cầm mang tính tự cấp tự túc, chưa có ý
nghĩa như là một ngành sản xuất hàng hố. Ngành chăn ni gà cơng nghiệp có thể
lấy mốc từ năm 1974, khi mà hai trung tâm giống Quốc gia được xây dựng đó là trung
tâm giống gà hướng trứng Ba Vì (Sơn Tây) và trung tâm giống gà thịt Tam Đảo (Vĩnh
Phúc). Đàn gà giống hướng thịt và hướng trứng được nhập vào nước ta từ Cuba cũng
từ năm 1974 với 2 vạn trứng giống của các dòng thuần.
Gà dòng thuần hướng trứng giống Leghorn, nhập về 2 dòng là X và Y. Ban đầu
ni ở Ba Vì, xí nghiệp gà Lương Mỹ (Hà Tây), xí nghiệp gà Minh Tâm (Sơng Bé) và
các trại gà thương phẩm khác trong nước.
Gà dòng thuần hướng thịt giống Plymouth Rock, nhập về 3 dòng là 799; 488;
433. Ban đầu nuôi ở trung tâm gà thịt Tam Đảo, sau đó phát triển ni nhiều ở Tam

Đảo, xí nghiệp gà Tam Dương (Vĩnh Phúc), Trại gà Hồng Sanh (Sông Bé) và nhiều
cơ sở nuôi khác trong cả nước.
Ngành chăn nuôi gia cầm đã tiếp cận một số công nghệ tiên tiến của thế giới về
giống, thức ăn, thuốc thú y và quy trình chăm sóc ni dưỡng. Ở nước ta cũng đã hình
thành nhiều cơ sở chăn ni gia cầm quy mơ lớn. Theo ước tính, đến nay cả nước có
trên 100.000 hộ chăn ni theo hình thức trang trại tại 8 vùng sinh thái khác nhau,
thay thế dần kiểu chăn nuôi tự cấp, tự túc, tận dụng sản phẩm phụ của trồng trọt như
trước đây bằng kiểu chăn ni hàng hóa quy mơ vừa và một số ít trang trại có quy mơ
chăn ni hàng hóa lớn đã xuất hiện.
Cơ cấu giống gia cầm 80% là các giống địa phương, chỉ có 20% là các giống cao
sản nhập nội, và những giống gia cầm cao sản này được nuôi chủ yếu theo phương
thức chăn nuôi công nghiệp.
Phân bố đàn gia cầm: Đàn gà chủ yếu tập trung tại các tỉnh phiá Bắc (từ khu bốn
cũ trở ra) 75%, cịn 25% tập trung ở phía Nam. Đàn vịt chủ yếu tập trung ở đồng bằng
sông Cửu Long (55%), cịn lại phân bố ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung.
12


Ngành chăn nuôi gia cầm trong những năm gần đây đạt được những thành tựu to
lớn, tuy vậy còn gặp khơng ít khó khăn. Ngành chăn ni gia cầm nước ta chủ yếu là
quy mô nhỏ, phân tán, chăn nuôi hộ gia đình, tận dụng phụ phế phẩm nơng nghiệp.
Các trang trại chăn nuôi gia cầm với quy mô vừa và lớn mặc dù đã hình thành tại một
số vùng sinh thái, song chiếm tỷ lệ chưa cao, thị trường tiêu thụ sản phẩm chăn ni
gia cầm cịn khó khăn, cơ sở hạ tầng và dịch vụ chăn ni nhìn chung cịn thấp kém,
hầu hết chưa đảm bảo quy trình kỹ thuật. Nguy cơ dịch bệnh đối với đàn gia cầm và
an toàn thực phẩm cho người ngày càng nghiêm trọng.
Ngày 16 tháng 01 năm 2008, Chính phủ đã có Quyết định số 10/2008/QĐ-TTg
về chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020. Theo quyết định đó, đến năm 2010
và 2015, mức tăng trưởng bình quân: giai đoạn 2008-2010 đạt khoảng 8-9% năm; giai
đoạn 2010-2015 đạt khoảng 6-7% năm và giai đoạn 2015-2020 đạt khoảng 5-6%

năm; Sản lượng thịt xẻ các loại: đến năm 2010 đạt khoảng 3.200 ngàn tấn, trong đó:
thịt lợn chiếm 68%, thịt gia cầm chiếm 27%, thịt bò chiếm 3%; đến năm 2015 đạt
khoảng 4.300 ngàn tấn, trong đó: thịt lợn 65%, thịt gia cầm 31%, thịt bò 3%; đến năm
2020 đạt khoảng 5.500 ngàn tấn, trong đó: thịt lợn 63%, thịt gia cầm 32%, thịt bò 4%;
Sản lượng trứng, sữa: đến năm 2010 đạt khoảng 7 tỷ quả và 380 ngàn tấn; đến năm
2015: khoảng 11 tỷ quả và 700 ngàn tấn; đến năm 2020: khoảng 14 tỷ quả và trên
trọng thịt được giết mổ, chế biến công nghiệp so với tổng sản lượng thịt đến năm
2010 đạt khoảng 15%; đến năm 2015 đạt 25% và đến năm 2020 đạt trên 40%.
Đến năm 2020, tổng đản gà tăng bình quân trên 5% năm, đạt khoảng trên 300
triệu con, trong đó đàn gà ni cơng nghiệp chiếm khoảng 33%. Đàn thủy cầm giảm
dần còn khoảng 52-55 triệu con; đàn thủy cầm nuôi công nghiệp trong tổng đàn tăng
dần, bình quân 8% năm.
1.000 ngàn tấn. Bình quân sản phấm chăn nuôi/người: đến năm 2010 đạt: 36 kg
thịt xẻ, 82 quả trứng, 4,3 kg sữa; đến năm 2015 đạt: 46 kg thịt xẻ, 116 quả trứng, 7,5
kg sữa và đến năm 2020 đạt trên 56 kg thịt xẻ, trên 140 quả trứng và trên 10 kg sữa.
3. Định hướng phát triển của ngành chăn nuôi gia cầm
Ngành chăn nuôi gia cầm trong thời gian tới phát triển theo định hướng sau đây:
a.Về giống
*Gia cầm hướng đẻ trứng
-Tập trung theo hướng tăng sản lượng trứng tính theo mái đầu kỳ. Giữ nguyên
hoặc giảm số đầu gia cầm mái. Khai thác trứng đến 75-78 tuần tuổi, sản lượng trứng
đạt 290-315 quả/con/năm.
-Tăng hiệu quả sử dụng thức ăn đồng thời giảm khối lượng cơ thể gà.
13


-Gà mái đạt 50% tỉ lệ đẻ ở lứa tuổi sớm hơn trước. Hàng loạt
các hãng gia cầm đã cố định thời gian đạt 50% tỉ lệ đẻ là 150-155 ngày
(Lomann, Dekalb); nhưng ở một số hãng khác (Goto của Nhật, Nicchic, Hailain của
Mỹ) lại cố định thời gian này là 161-168 ngày.

-Giữ tỉ lệ đẻ cao (hơn 90%) trong vịng 9-15 tuần, có tỉ lệ đẻ cao trong suốt thời
gian sử dụng (76-78 tuần tuổi) và không thấp hơn 60% ở cuối giai đoạn khai thác.
-Chất lượng trứng tốt, tỉ lệ trứng dập vỡ không quá 5%.
-Tỉ lệ nuôi sống cao, tỉ lệ thụ tinh và tỷ lệ ấp nở cao.
- Chọn tạo các giống/dòng gà lai đẻ trứng vỏ màu thay cho gà đẻ trứng vỏ trắng
nhằm tăng tỷ lệ gà lai đẻ trứng vỏ màu trong cơ cấu đàn gà hướng trứng.
*Gia cầm hướng thịt
-Chọn gia cầm có thể trọng lớn, tốc độ sinh trưởng nhanh, sử dụng thức ăn tốt và
có lơng màu trắng. Gia cầm có độ sinh trưởng đồng đều cao, sức sống cao, phẩm chất
thịt tốt.
Ở nước ta, tiếp tục đa dạng các đối tượng gia cầm nuôi. Đưa gia cầm vào cơ cấu
cây trồng vật nuôi phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xố đói giảm nghèo. Chọn giữ
và bảo tồn quỹ gen các giống gia cầm quý đã có từ lâu đời ở nước ta. Nhập nội và lai
tạo các giống gà thích hợp với ni chăn thả trong nơng hộ và các trang trại nông
nghiệp. Cải tiến phương thức chăn nuôi truyền thống để nâng cao năng suất, chất
lượng sản phẩm và khống chế được dịch bệnh, hướng tới sản xuất bền vững và sản
xuất thực phẩm sạch đáp ứng nhu cầu trong nước và một phần cho xuất khẩu.
b.Về thức ăn và ni dưỡng
-Tìm cách giảm chi phí thức ăn trên một đơn vị sản phẩm thịt, trứng; tiết kiệm
các thành phần dinh dưỡng trong thức ăn, nhất là thức ăn đạm, để có lợi nhuận sản
xuất cao.
-Tìm các nguồn nguyên liệu mới, tận dụng tối đa các phế thải trong công nghiệp
giết mổ gia cầm. Nghiên cứu ảnh hưởng của các thức ăn này tới chất lượng thịt gia
cầm.
-Hoà thiện định mức các chất dinh dưỡng, trước hết là protein và axít amin.
-Nghiên cứu hiệu quả bổ sung các hoạt chất sinh học (vitamin, enzyme...)
vào khẩu phần nuôi gia cầm.
Theo các định hướng trên, nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu theo hướng sử
dụng phần lớn năng lượng từ khẩu phần vào việc tăng trọng và tạo trứng, cịn phần
nhỏ cho duy trì. Làm tăng tính thành thục ở gia cầm để rút ngắn thời gian nuôi gà

14


broiler. Nghiên cứu đưa các axít amin khơng thay thế vào khẩu phần để giảm hàm
lượng protein thô...
c. Nghiên cứu quy trình ni thích hợp
Tập trung các nghiên cứu tạo ra điều kiện nuôi lý tưởng. Hạn chế đến mức thấp
nhất tác động của ngoại cảnh đến năng suất chăn ni. Xây dựng các quy trình ni
thích hợp cho từng đối tượng gia cầm riêng biệt. Tăng cường đưa các thiết bị tự động
hố, đồng bộ các q trình chăm sóc, ni dưỡng, chế biến sản phẩm. Tạo sản phẩm
có độ an tồn cao. Xây dựng các quy trình thú y chặt chẽ, kiểm sốt, phịng ngừa tích
cực dịch bệnh, vệ sinh môi trường và tạo ra các sản phẩm an tồn từ chăn ni gia
cầm...

15


Bài: GIỚI THIỆU CÁC GIỐNG GIA CẦM ĐANG ĐƯỢC NUÔI THẢ
VƯỜN PHỔ BIẾN Ở VIỆT NAM
Gà là một giống gia cầm vô cùng gần gũi với đời sống con người. từ rất lâu
người xưa đã biết thuần hóa, ni và phát triển giống gia cầm này. Hầu như tất cã các
quốc gia trên thế giới đều, có chí ít một hay nhiều giống gà. Sơ khỡi người ta nuôi Gà
chủ yếu phục vụ cho nhu cầu lương thưc. Dần dà người ta nhận thấy ở gà có nhìu
điễm hay, chúng có thể dùng ni cảnh, báo thức hay dùng như một trò chơi trong
những dịp hội hè. “Chọi Gà” ra đời từ đây. Khơng ai biết được chính xác người xưa
đã chọi gà từ khi nào cũng như không ai phũ nhận tính hữu ích cũa lồi gia cầm này.
Cũng từ đó người ta đã bõ ra khá nhìu cơng sức, thuần hóa và lai tạo ngày càng nhìêu
giống gà mang những tính năng nỗi trội, và GÀ đã trở nên tồn cầu hóa.
I. Các giống gà nội
1. Gà ri:


• Nguồn gốc: Được chọn và thuần hóa từ gà rừng, ni khắp nơi trong cả nước.
• Đặc điểm ngoại hình:
Màu lông:
- Gà mái màu vàng nhạt, điểm các đốm đen ở cổ, cánh và chót đi.
- Gà trống lơng sặc sở nhiều màu, phần lớn màu vàng đậm và đỏ tía ở cổ, đi,
cánh và ngực. Ở đi cịn điểm các lơng xanh đen.
Mào: Có nhiều dạng khác nhau, phổ biến nhất là mào cờ có nhiều khía răng cưa.
Mỏ, chân, da: Màu vàng nhạt.
• Tính năng sản xuất:
16


- Khối lượng lúc trưởng thành: Trống: 1,8 - 2,2 kg; Mái : 1,2 - 1,6 kg
- Tuổi đẻ trứng đầu: 135-140 ngày tuổi (19-20 tuần)
- Năng suất trứng : 90 - 125 quả/mái/năm
- Khối lượng trứng: 38 – 42 gram
- Chất lượng thịt: Thơm ngon.
2. Gà mía:

• Nguồn gốc: Xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Tây.
• Đặc điểm ngoại hình:
- Gà mái: Lơng màu vàng nhạt, pha lẫn lông phớt trắng ở phần bụng, điểm các
đốm đen ở cổ và đi, thân mình ngắn, ngực rộng nhưng khơng sâu, mào cờ.
- Gà trống: Lơng có 3 màu chính: nâu đậm, đỏ tía và xanh đen. Thân hình to,
chắc, cổ dài hơi cong, mào cờ có 5 khía, tích to và dài, màu đỏ tươi.
• Tính năng sản xuất:
- Khối lượng lúc trưởng thành : Trống : 3,5 - 4,0 kg; Mái : 2,5 - 3,0 kg.
- Tuổi đẻ quả trứng đầu: 180 - 200 ngày tuổi.
- Năng suất trứng: 60- 65 quả/mái/năm.

- Khối lượng trứng: 50 – 58 gram.
- Chất lượng thịt: Kém gà ri.
3. Gà Đông Tảo:

17


• Nguồn gốc: Thôn Đông Tảo, xã Cấp Tiến, huyện Khối Châu, tỉnh Hưng n.
• Đặc điểm ngoại hình :
- Gà mái: Lơng tồn thân vàng nhạt hoặc trắng đục,thân hình to, mập, mào nụ,
màu đỏ.
- Gà trống: Lơng đen bóng pha lẫn vàng nhạt hoặc đỏ thẫm. Cổ to ngắn, ngực
sâu rộng. Vùng bụng, ngực ít lơng da dày màu đỏ. Chân to có 3 hàng vảy xù xì màu
đỏ nhạt. Thân hình chắc, đi lại chậm chạp.
• Tính năng sản xuất:
- Khối lượng lúc trưởng thành: Trống 3,5 - 4,0 kg; Mái 3,0 - 3,5 kg.
- Tuổi đẻ quả trứng đầu: 200 - 215 ngày tuổi
- Năng suất trứng: 50 - 60 quả/mái/năm
- Chất lượng thịt: Thớ thịt thơ, màu đỏ.
4. Gà Hồ:

• Nguồn gốc: xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
18


• Đặc điểm ngoại hình:
- Gà mái: Lơng màu trắng đục tồn thân, tầm vóc to, cân đối, mào nụ.
- Gà trống: Lơng có 3 màu điển hình: Tía ở cổ, xanh và đen xen kẽ ở lưng và
màu mận chín. Đầu to thơ, ngực nở, lườn đùi, bụng ít lơng da đỏ. Chân cao, to, xù xì
có 3 - 4 hàng vảy màu đỏ nhạt. Thân hình to dáng đi nặng nề, mào nụ.

• Tính năng sản xuất:
- Khối lượng lúc trưởng thành: Trống : 3,5 - 4,0 kg; Mái : 2,5 - 3,0 kg.
- Tuổi đẻ quả trứng đầu: 200 - 210 ngày tuổi.
- Năng suất trứng:50 - 60 quả/mái/năm.
- Tỉ lệ ấp nở kém
- Chất lượng thịt: Kém gà ri.
II. Các giống gà ngoại:
1. Gà Tam Hoàng:

Nguồn gốc: Hồng Kơng, nhập nội năm 1995.
• Đặc điểm ngoại hình:
- Gà mái: Lơng vàng đậm, chân vàng, da vàng; thân hình cân đối, mào cờ nhiều
khía răng cưa.
- Gà trống: Lơng vàng xen kẽ đỏ tía ở cổ, đi mào cờ, nhiều khía răng cưa.
• Tính năng sản xuất: (gà bố mẹ)
- Khối lượng lúc 20 tuần tuổi: Trống:2,8 - 3,2 kg; Mái : 1,7 - 1,85 kg
- Tuổi đẻ quả trứng đầu:133 - 140 ngày tuổi ( 19 - 20 tuần)
- Năng suất trứng: 140 - 160 quả/mái/năm
- Khối lượng gà thịt lúc 12 tuần tuổi: 1,7 - 1,9 kg
- Tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng: 2,8 - 3,0 kg
- Chất lượng thịt: Thơm mềm, ngon.
2. Gà Lương Phượng (Lượng phượng Hoa)
19


• Nguồn gốc: Quảng Tây, Trung Quốc, nhập nội năm 1998.
• Đặc điểm ngoại hình:
- Gà mái: Lơng vàng nhạt, pha lẫn đốm đen ở cổ, cánh. Da, mỏ, chân vàng; Mào
và tích tai phát triển, màu đỏ tươi.
- Gà trống: Lơng sặc sỡ nhiều màu, sắc tía ở cổ, nâu cánh gián ở lưng, cánh và

xanh đen ở đuôi (tương tự gà ri). Da, mỏ và chân vàng, mào, yếm và tích tai phát
triển, màu đỏ tươi có 5 - 6 khía.
• Tính năng sản xuất: (gà bố mẹ)
Gà bố mẹ :
- Khối lượng lúc 20 tuần tuổi : Trống 3,0 - 3,2 kg; Mái : 2,1 - 2,2 kg
- Tuổi đẻ quả trứng đầu : 22 - 23 tuần
- Năng suất trứng: 177 quả/mái/năm
Gà thương phẩm:
- Khối lượng gà thịt lúc 12 tuần tuổi : 2,0 - 2,5 kg
- Tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng : 2,4 - 2,6 kg
3. Gà Kabir :
• Nguồn gốc: Cơng ty Kabir, Israel; nhập nội năm 1997.
• Đặc điểm ngoại hình:
- Gà mái: Lông ánh vàng hoặc nâu vàng lúc 1 ngày tuổi, có 3 vệt nâu xám ở
lưng, mào cờ, chân da vàng nhạt.
- Gà trống: Lông đỏ sẫm, cánh dán, mào cờ, chân da vàng.
• Tính năng sản xuất: (gà bố mẹ)
- Khối lượng lúc 20 tuần tuổi:
20



×