Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bài thu hoạch ccllct, môn lich su dang, sự lãnh đạo đúng đắn của đảng nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.21 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
NỘI DUNG.......................................................................................................3
1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời - chấm dứt sự khủng hoảng bế tắc về
đường lối cứu nước...........................................................................................3
2. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt
Nam dân chủ Cộng hòa – mở ra kỷ nguyên mới độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội................................................................................................3
3. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đất nước bước sang kỷ ngun mới – kỷ
ngun hịa bình, thống nhất, quá độ lên chủ nghĩa xã hội...............................4
4. Công cuộc đổi mới - đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, từng bước xác
lập vị thế của Việt Nam trên chính trường quốc tế...........................................4
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TỒN TẠI CÓ NGUY CƠ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ
LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG..........................................................5
III. NHỮNG ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA
ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ HÀNG ĐẦU QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CÁCH
MẠNG VIỆT NAM..........................................................................................8
2. Trong mọi hoàn cảnh lịch sử, phải hoạch định được đường lối chính trị đúng
đắn và xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng....................................................9
4. Kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc và truyền thống
vẻ vang của Đảng............................................................................................11
KẾT LUẬN.....................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................14


2

MỞ ĐẦU
“Đảng Cộng sản Việt Nam vinh quang,


Ánh sáng soi đường đưa ta về chiến thắng.
Tổ quốc độc lập tự do mn năm…”
Khơng chỉ có lời bài hát: Việt Nam ơi! Mùa xuân đến rồi của nhạc sỹ
Huy Du ngợi ca về Đảng, mà hàng triệu trái tim của dân tộc Việt Nam luôn
biết ơn, tin yêu và đi theo Đảng Cộng sản Việt Nam – một Đảng khơng có lợi
ích nào khác ngồi lợi ích của giai cấp, của dân tộc, của tổ quốc.
Trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và lãnh đạo cách
mạng, hơn 86 năm qua Đảng ta ln giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất
cách mạng và khoa học; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; thường xuyên tự đổi mới,
tự chỉnh đốn và ngày càng lớn mạnh.
Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã giành
được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã
lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữ vững ổn định chính trị; phát triển kinh tế - xã
hội, đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước; tăng cường
quốc phòng - an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của nước ta
trên trường quốc tế; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng chính là nhân tố hàng đầu quyết định sự thắng lợi của
cách mạng Việt Nam, Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và
xã hội. Chúng ta có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng
và lịch sử vẻ vang của Đảng ta.


3

NỘI DUNG
I. NHỮNG BƯỚC NGOẶT VĨ ĐẠI CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
TỪ KHI CÓ ĐẢNG

1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời - chấm dứt sự khủng hoảng bế
tắc về đường lối cứu nước
Với khát vọng giải phóng dân tộc, sau quá trình trăn trở khảo nghiệm con
đường cứu nước, được ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê nin soi rọi, Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm ra chân lý "khơng có con đường nào khác
ngồi con đường cách mạng vô sản". Từ đây, Người chỉ rõ để làm cách mạng
vơ sản "Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi
nơi". Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (mùa xuân năm 1930) là sản
phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với
phong trào cơng nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó cũng là kết quả
của sự phát triển cao và thống nhất của phong trào công nhân và phong trào
yêu nước.
Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 đã chấm dứt
sự khủng hoảng về đường lối cứu nước và tổ chức lãnh đạo phong trào yêu
nước Việt Nam diễn ra từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Ngay từ khi ra
đời Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực sự trở thành người lãnh đạo, đưa cách
mạng Việt Nam vượt qua mn vàn khó khăn, thử thách, từng bước đi lên,
làm nên những kỳ tích, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt
Nam, đáp ứng khát vọng của nhân dân Việt Nam và phù hợp với xu thế phát
triển của lịch sử.
2. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của
nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa – mở ra kỷ nguyên mới độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội


4

Chỉ 15 năm sau đi theo đường lối cách mạng của Đảng, dân tộc Việt
Nam đã làm nên kỳ tích vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Thắng lợi vĩ đại ấy đã khẳng định trên thực tế đường lối đúng đắn, năng lực
và hiệu quả lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là một mốc son chói lọi
trên con đường cách mạng do Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã hoạch định
từ đầu năm 1930, và là nền tảng vững chắc cho dân tộc Việt Nam tiếp nối trên
con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
3. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đất nước bước sang kỷ nguyên
mới – kỷ ngun hịa bình, thống nhất, q độ lên chủ nghĩa xã hội
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ là thành quả
vĩ đại nhất trong sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh lãnh đạo. Chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài hơn một thế kỉ của
chủ nghĩa thực dân trên đất nước, hoàn thành về cơ bản cuộc CMDTDCND
trên cả nước, non sông thu về một mối. Chiến công ấy là“một biểu tượng sáng
ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử
thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỉ XX, một sự kiện có tầm quan
trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc". Thắng lợi đó đã đánh dấu
một bước ngoặt quyết định mở đường cho dân tộc Việt Nam tiến vào một kỉ
ngun mới - kỉ ngun cả nước hịa bình, thống nhất, cùng quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
4. Công cuộc đổi mới - đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, từng
bước xác lập vị thế của Việt Nam trên chính trường quốc tế
Qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước đã vượt qua thử thách hiểm nghèo,
phá thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, phát triển kinh tế, văn hoá,
xã hội, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo tiền đề vững chắc để đất nước ngày càng


5

phát triển cơng nghiệp hố, hiện đại hố vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng trưởng

thành và có thêm kinh nghiệm lãnh đạơ nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước
trong hoàn cảnh mới. Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của hơn 30
năm đổi mới của đất nước đã minh chứng trong thực tế :“Đi lên chủ nghĩa xã
hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch
sử”.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TỒN TẠI CÓ NGUY CƠ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG
Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã giành
được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ
XX. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn,
thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên
bên cạnh những thành tựu, bước ngoặt đã đạt được, Đảng ta cũng đang đứng
trước nguy cơ không hề nhỏ và Đảng ta cũng đã nhận diện kịp thời về các yếu
kém, khuyết điểm. Tại Hội nghị lần thứ 4, Ban chấp hành Trung ương khóa
XI Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay và Hội
nghị lần thứ 4, Ban chấp hành Trung ương khóa XII về tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ, Đảng ta đã chỉ rõ cơng tác xây
dựng Đảng vẫn cịn khơng ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém
khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút
lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách
thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Nổi lên một
số vấn đề cấp bách sau đây:


6

Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên

giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý
tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi,
tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vơ nguyên
tắc...
Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng nhưng
chưa được xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập
trung thực hiện ở địa phương, chưa thực hiện được ở cấp trung ương, dẫn đến
sự hẫng hụt, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong cơng tác bố trí,
phân công cán bộ. Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật cơng
tâm, khách quan, khơng vì u cầu cơng việc, bố trí khơng đúng sở trường,
năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa
phương và cả nước.
Nguyên tắc "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách" trên thực tế ở nhiều nơi
rơi vào hình thức, do khơng xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa
tập thể và cá nhân, khi sai sót, khuyết điểm khơng ai chịu trách nhiệm. Do
vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân,
vừa khơng khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ,
dám làm, tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền
lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn,
giảng dạy và học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa đáp
ứng yêu cầu. Nội dung sinh hoạt đảng ở nhiều nơi còn đơn điệu, hình thức,
hiệu quả chưa cao. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của khơng ít tổ chức
đảng cịn thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu. Cơng tác tổ chức, cán bộ
và quản lý cán bộ, đảng viên còn yếu kém. Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó


7


có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện
quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Công tác kiểm tra,
giám sát và kỷ luật đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối.
Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn cịn tình trạng nể
nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận
khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong cơng việc được giao. Việc phân
định thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của người đứng đầu với
tập thể cấp uỷ, lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa rõ ràng. Tình trạng suy thối về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận cịn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn;
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng
viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đồn kết
nội bộ khơng chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đồn
kinh tế, tổng cơng ty. Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận
thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn
"tự diễn biến", "tự chuyển hoá"; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai
trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất
mãn chính trị cịn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao. Trong khi đó,
sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự
chuyển hoá" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khơn lường,
có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại
lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trị lãnh đạo của
Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ.


8

III. NHỮNG ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN

CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ HÀNG ĐẦU QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI
CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Xác định đúng nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng, chú trọng công
tác lý luận, thường xuyên nâng cao trình độ lý luận của Đảng trong quá
trình lãnh đạo cách mạng
- Xác định đúng đắn và không ngừng bổ sung, phát triển nền tảng tư
tưởng lý luận của Đảng. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Đảng có vững cách mệnh mới
thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn
vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải
theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng giống như người khơng
có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam". Trên nền tảng tư tưởng lý luận mang
bản chất cách mạng và khoa học, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng
tạo vào đặc điểm thực tiễn Việt Nam, tập hợp đông đảo các giai tầng yêu
nước Việt Nam, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sự
đồng thuận cả nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam, trở thành
một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc. Việc xác lập tư
tưởng Hồ Chí Minh đã thúc đẩy mạnh mẽ tư duy sáng tạo trong quá trình xây
dựng CNXH phù hợp với điều kiện, đặc điểm Việt Nam.
- Chú trọng công tác lý luận, thường xuyên nâng cao trình độ lý luận của
Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Điều hết sức quan trọng trong việc
nâng cao trình độ lý luận là phải rèn luyện, nâng cao năng lực tư duy. Đổi mới
tư duy trong mọi lĩnh vực hoạt động của Đảng và Nhà nước là việc cấp bách,
đồng thời cũng là việc thường xuyên lâu dài.
Trong công tác nghiên cứu lý luận phải thường xuyên và kiên quyết
đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại, khắc phục bệnh chủ


9


quan, duy ý chí, giáo điều và kinh nghiệm chủ nghĩa. Để tiếp tục trở thành
nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng, trước hết, Đảng Cộng
sản Việt Nam thấm nhuần sâu sắc vai trò, tầm quan trọng của công tác lý luận
theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Lý luận như cái kim chỉ nam, nó
chỉ phương hướng cho chúng ta trong cơng việc thực tế. Khơng có lý luận thì
lúng túng như nhắm mắt mà đi”.
2. Trong mọi hoàn cảnh lịch sử, phải hoạch định được đường lối
chính trị đúng đắn và xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng
- Xác định đường lối chính trị đúng đắn, độc lập, sáng tạo, đáp ứng với
nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử. Thực tiễn cách mạng thế giới
cũng như cách mạng Việt Nam đã minh chứng rằng, khi nào chính đảng lãnh
đạo sai lầm về đường lối, cách mạng không những khơng thành cơng, mà cịn
gây nên những tổn thất lớn đối với nhân dân, đối với Đảng, đối với dân tộc.
Đường lối chính trị đúng đắn có ý nghĩa quyết định hiệu quả và chất lượng
lãnh đạo của Đảng.
Sau 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đại hội XII của Đảng (2016)
xác định mục tiêu: “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng
lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính
trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ XHCN. Đẩy mạnh
tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, xây
dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN. Giữ gìn hồ bình, ổn định để
phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và
trên thế giới”.
- Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam có bản lĩnh chính trị vững vàng,


10


bản lĩnh chính trị của Đảng thể hiện trước hết là sự kiên định con đường cách
mạng, bằng nhiệt tình cách mạng và trình độ trí tuệ kiên trì thực hiện mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Khơng bi quan, dao động trước những
khó khăn thử thách, giữ vững niềm tin vào lý tưởng cách mạng, vào con
đường cách mạng mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Bản lĩnh
chính trị của Đảng thể hiện ở những thời điểm khó khăn, cam go của cách
mạng, Đảng đã có những quyết sách sáng suốt, kịp thời, chủ động chèo lái
con thuyền cách mạng vượt qua thách thức. Bản lĩnh chính trị cịn là tinh thần
đấu tranh để bảo vệ lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phê phán
và bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch. Bản lĩnh chính trị chẳng những
là cần thiết trong hoạch định đường lối chính sách mà cả trong lãnh đạo và tổ
chức thực tiễn. Bản lĩnh chính trị trở thành một nội dung quan trọng trong xây
dựng Đảng về chính trị ở các thời kỳ lịch sử trước đây và cũng đặt ra thường
xuyên hiện nay.
3. Xây dựng hệ thống tổ chức Đảng vững mạnh và đội ngũ cán bộ,
đảng viên trung kiên, luôn đổi mới, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ
- Xây dựng hệ thống tổ chức Đảng từ Trung ương đến cơ sở vững
mạnh, Từ ngày thành lập đến nay, qua 12 nhiệm kỳ đại hội, Đảng đều luôn
chăm lo xây dựng Đảng về tổ chức, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong tổ chức và sinh hoạt Đảng. Nguyên tắc đó bảo đảm cho mọi đảng viên
được thảo luận và tham gia quyết định các chủ trương công tác của tổ chức
Đảng, phát huy dân chủ trong Đảng. Để bảo đảm thống nhất ý chí và hành
động trong Đảng, địi hỏi thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức,
cấp dưới phục tùng cấp trên, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội
đại biểu toàn quốc của Đảng và Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Xây dựng



11

hệ thống tổ chức Đảng phải gắn liền với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
đảng viên. Xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức khơng phải chỉ vì sự tồn tại
và sức chiến đấu của bản thân tổ chức Đảng mà cịn vì sự nghiệp vận động và
tổ chức quần chúng nhân dân thực hiện mục tiêu của cách mạng.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trung kiên, luôn đổi mới và chỉnh
đốn Đảng là quy luật phát triển của Đảng. Những thành quả vĩ đại của dân tộc
Việt Nam gần 90 năm qua gắn liền với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự
trưởng thành về mọi mặt của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng đã
chú trọng phát triển đội ngũ đảng viên về cả số lượng và chất lượng. Về số
lượng, chỉ tính từ thời điểm Đại hội VI (12-1986), tồn Đảng có 1,9 triệu
đảng viên; đến Đại hội XII (1-2016), Đảng đã có hơn 4,5 triệu đảng viên. Đến
Đại hội XII của Đảng khẳng định “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược
cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”, với quyết tâm chính trị:“Tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ
năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách phát hiện,
thu hút, sử dụng nhân tài”
4. Kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc và
truyền thống vẻ vang của Đảng
Là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong
của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, ngay từ khi ra đời, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã luôn luôn kế thừa và phát huy những giá trị truyền
thống, những tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam gần 90 năm nay đã khẳng định:
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cách mạng chân chính nhất, là đảng cầm
quyền, là đảng duy nhất lãnh đạo đất nước. Vai trị, vị trí đó được không ngừng
củng cố và phát triển từ thực tiễn lãnh đạo đấu tranh cách mạng của Đảng suốt



12

từ năm 1930 đến nay. Trong công cuộc đổi mới tồn diện đất nước, hội nhập
quốc tế, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, cơng tác
xây dựng Đảng càng trở nên cấp thiết. Hồ Chí Minh khẳng định "Đảng ta là
đạo đức, là văn minh" . Đó chính là bản chất cách mạng, khoa học và nhân
văn của Đảng và cũng là cội nguồn làm nên sức mạnh của Đảng Cộng sản
Việt Nam gần 90 năm qua. Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng luôn đứng vững
trên lập trường của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lợi ích của
giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, coi đó là điểm xuất phát, là mục tiêu của
mọi đường lối, chính sách của Đảng, đúng như lời chỉ giáo của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: "Đảng ta vĩ đại, vì ngồi lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân
tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác".


13

KẾT LUẬN
Đất nước trải qua bao thăng trầm của lịch sử, có vinh quang nhưng cũng
đầy nước mắt. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, Đảng ta vẫn thể hiện bản lĩnh
của một Đảng cách mạng – Đảng mà lịch sử dân tộc Việt Nam đã lựa chọn
tiếp tục giữ vững mái chèo, đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua
khó khăn, băng qua thách thức, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước.
Tiếp nối truyền thống lịch sử hào hùng của cha ông, hơn 85 năm qua kể từ
ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nhìn lại những chặng đường dài thăng
trầm của lịch sử, nhân dân ta đã đúc kết, rút ra một chân lý: Thắng lợi của
cách mạng Việt Nam do nhiều yếu tố tạo thành, song nhân tố chủ yếu, quan

trọng và quyết định nhất chính là vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là
chân lý mang tầm thời đại, là sự khẳng định cả về phương diện lịch sử và lý
luận.
Ngày nay trong công cuộc đổi mới, hội nhập, đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta tiếp tục phát huy sức mạnh dân tộc, sức
mạnh thời đại, không ngừng nâng cao bản chất cách mạng, bản lĩnh trí tuệ,
sức chiến đấu, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân,
giữa nhân dân với Đảng, chúng ta có đủ cơ sở và niềm tin vững chắc vào
những thắng lợi tiếp theo.


14

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo
tổng kết: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi
mới (1986-2016), Nxb CTQG, H, 2015.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và
hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb, Chính trị quốc gia.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.
4. Nguyễn Phú Trọng: Đổi mới ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, Nxb CTQG, H,2008.
5. Giáo trình cao cấp lý luận chính trị, khối kiến thức thứ hai, Đường lối
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 5 Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, nhà xuất bản lý luận chính trị.
6. Một số tài liệu tham khảo khác.




×