Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Bài thu hoạch ccllct, môn quyền con người , quan điểm của đảng về quyền con người, quyền công dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.5 KB, 13 trang )

1

MỞ ĐẦU
Quyền con người là thành tựu chung của cả loài người, là kết tinh của nền
văn minh nhân loại. Lịch sử loài người cho thấy, tri thức về quyền con người có
ý nghĩa quan tọng cho sự phát triển và tiến bộ của các xã hội cũng như là tiền đề
cho sự phát triển đầy đủ về nhân cách và năng lực của mỗi cá nhân. Ở phạm vi
rộng hơn, tri thức về quyền con người là tiền đề cho hịa bình và thịnh vượng của
tồn nhân loại.
Trong thời gian dài dân tộc Việt Nam bị nước ngồi đơ hộ, phải gánh chịu
những hy sinh to lớn để giành độc  lập dân tộc và tự do của Tổ quốc. Bằng cuộc
đấu tranh bất khuất, kiên cường qua nhiều thế kỷ, dân tộc Việt Nam đã khẳng
định rằng, quyền thiêng liêng, cơ bản nhất của con người là quyền được sống
trong độc lập, tự do, quyền được tự quyết định vận mệnh của mình. Đây cũng
chính là ngun tắc có tính nền tảng về quyền tự quyết dân tộc đã được khẳng
định trong Hiến chương Liên hiệp quốc và tại Điều 1 của cả 2 Công ước quốc tế
cơ bản nhất của Liên hợp quốc về quyền con người: Công ước quốc tế về các
quyền Kinh tế, Xã hội, Văn hố và Cơng ước quốc tế về các quyền Dân sự,
Chính trị.
 Xuất phát từ chủ trương khơng ngừng phát triển quyền con người, Nhà
nước Việt Nam đã và đang xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo
đảm các quyền con người được tôn trọng và thực hiện một cách đầy đủ nhất.
Quyền con người, một khi đã được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, sẽ trở thành
ý chí chung của tồn xã hội, được xã hội tuân thủ và được pháp luật bảo vệ.
Trên cơ sở kiến thức đã học và thực tiễn công tác em xin chọn nội dung
“Quan điểm của Đảng về quyền con người, quyền công dân” làm bài thu
hoạch môn Lý luận và pháp luật về quyền con người.


2


NỘI DUNG
1. Cơ sở hình thành quan điểm của Đảng về quyền con người
Với hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đất nước và con người Việt
Nam luôn tự hào có một bề dày lịch sử của một dân tộc sẵn sàng hy sinh xương
máu, kiên cường, bền bỉ đấu tranh để giành lại những quyền cơ bản và thiêng
liêng nhất của con người. Đó là quyền được sống trong độc lập, tự do và quyền
tự quyết định vận mệnh của mình. Vì lẽ đó, giải phóng con người khỏi áp bức,
bất công, đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho người dân đã trở thành mục tiêu
nhất quán và nền tảng hoạch định mọi quyết sách của Đảng Cộng sản Việt Nam
Tư tưởng, đường lối của Đảng về quyền con người - nền tảng cho việc hoạch
định chính sách bảo đảm quyền con người ở Việt Nam
Đường lối của Đảng về quyền con người có cội rễ sâu xa từ truyền
thống lịch sử, văn hóa hàng nghìn năm của một dân tộc ln nêu cao tinh thần
hịa hiếu, u chuộng hịa bình và các giá trị nhân văn, đồng thời phản ánh
nguyện vọng thiết tha của nhân dân Việt Nam - từng là nạn nhân của các cuộc
chiến tranh xâm lược và bị tước đoạt những quyền và tự do cơ bản nhất.
Đường lối ấy cũng được xây dựng từ một nền tảng lý luận vững chắc, trên
cơ sở tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
quyền con người, áp dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam
qua các thời kỳ khác nhau. Con người và quyền con người luôn được chủ nghĩa
Mác khẳng định và đề cao. C. Mác cho rằng “sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” và vấn đề quyền con
người phải được xem xét trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Tiếp tục phát triển tư
tưởng của C.Mác, V.I.Lênin đã có đóng góp nổi bật vào hệ thống lý luận của chủ
nghĩa Mác về quyền con người, với tư tưởng về dân chủ và quyền dân tộc tự
quyết. Theo V.I.Lênin, “Chủ nghĩa xã hội thắng lợi nhất thiết phải thực hiện chế
độ dân chủ hoàn toàn”; và “các dân tộc hồn tồn bình đẳng,... được quyền tự
quyết”.
Kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác - Lênin với chủ nghĩa yêu nước
chân chính và thực tiễn cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền

con người khơng giới hạn ở quyền cá nhân mà bao hàm cả quyền dân tộc. Ngay


3

từ những năm tháng bơn ba tìm đường cứu nước, người thanh niên Nguyễn Ái
Quốc đã thay mặt nhân dân Việt Nam nêu tám yêu sách gửi Hội nghị Vécxây (61919), yêu cầu chính quyền Pháp trả lại những quyền tự do, dân chủ cơ bản cho
người dân Việt Nam, trong đó có cải cách nền pháp lý Đơng Dương, thay đổi chế
độ sắc lệnh bằng luật pháp, người dân Việt Nam được hưởng đầy đủ các quyền tự
do báo chí, tư tưởng, tự do lập hội, tự do cư trú ở nước ngồi, tự do học tập... Đến
bản Tun ngơn độc lập ngày 2-9-1945, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con
người đã có bước phát triển mang tính cách mạng. Mở đầu với việc khẳng định
những quyền cơ bản mà tạo hóa ban cho mỗi con người và khép lại bằng lời
tuyên bố trịnh trọng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự
thật đã thành một nước tự do độc lập” 5, bảnTuyên ngôn độc lập không chỉ là
tuyên bố về sự ra đời của một quốc gia có chủ quyền mà cịn là tun ngơn nhân
quyền của Nhà nước Việt Nam, trong đó thừa nhận các quyền cơ bản của con
người; đồng thời, lần đầu tiên, quyền cá nhân được mở rộng thành quyền dân tộc;
và quyền con người, sự bình đẳng của mỗi cá nhân được xem xét trong mối quan
hệ biện chứng với quyền dân tộc, đó là quyền độc lập dân tộc, thống nhất đất
nước, toàn vẹn lãnh thổ và quyền dân tộc tự quyết.
Trên cơ sở truyền thống văn hóa và nền tảng lý luận Mác - Lênin, đồng
thời xuất phát từ mục tiêu cách mạng Việt Nam, quan điểm của Đảng về quyền
con người đã được hình thành, bổ sung, nâng cao và từng bước hoàn thiện qua
các giai đoạn. Từ những văn kiện đầu tiên, Đảng xác định rõ mục tiêu cơ bản và
lâu dài của cách mạng là bảo đảm quyền con người cho người dân Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta thông qua tại Hội nghị hợp nhất thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930, đã vạch ra đường lối cơ bản của
cách mạng Việt Nam, trong đó nhấn mạnh: đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng người lao động, giải phóng xã hội, để người cày có ruộng, người dân được

tự do tổ chức, nam nữ bình quyền. Cho đến khi đất nước hoàn toàn độc lập, tổng
kết lại 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, một trong bốn bài học kinh nghiệm
được đúc kết tại Đại hội VI - đại hội đổi mới - là toàn Đảng phải quán triệt tư
tưởng “lấy dân làm gốc”. Đây cũng là tư tưởng chủ đạo của Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6-1991), trong đó khẳng định


4

mục tiêu “xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân” đồng thời “xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”.
Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 12-7-1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
một lần nữa khẳng định quan điểm của Đảng ta về quyền con người được thể
hiện một cách tập trung và tồn diện hơn, trong đó quyền con người được nhìn
nhận là giá trị chung của nhân loại, là kết quả cuộc đấu tranh lâu dài của loài
người; xem xét vấn đề này không thể tách rời phạm trù quyền dân tộc, chủ quyền
quốc gia cũng như truyền thống văn hóa, lịch sử và trình độ phát triển của dân
tộc. Do đó, giải phóng con người gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội. Mặt khác, quyền không tách rời nghĩa vụ; dân chủ phải đi đôi với kỷ cương.
Với cách hiểu cơ bản về quyền con người như vậy, Đảng ta khẳng định, quyền
con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. Và quan trọng hơn cả,
vấn đề quyền con người xuất phát từ chính mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, từ bản
chất của chế độ và bao quát rộng rãi nhiều lĩnh vực. Vì vậy, bảo vệ và phát huy
quyền con người là trách nhiệm chung mà tất cả các cấp, các ngành và địa
phương phải tích cực, chủ động thực hiện.
2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quyền con người
Quan điểm về quyền con người của Đảng và Nhà nước ta dựa trên nền
tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lê- nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống
văn hố dân tộc và xem xét, chọn lọc những tiêu chuẩn về quyền con người được

thế giới thừa nhận rộng rãi. Kế thừa và phát huy giá trị của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền thống văn hoá dân tộc, quan điểm nhất quán
và xuyên suốt về quyền con người của Đảng và Nhà nước ta là giải phóng con
người khỏi áp bức, bóc lột, đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đảng
và Nhà nước ta khẳng định, con người và quyền con người vừa là mục tiêu vừa là
động lực của cách mạng Việt Nam. Mục tiêu của chúng ta là xây dựng một nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn
minh, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung vì mục tiêu hồ bình và tiến bộ xã hội
của nhân dân yêu chuộng hồ bình trên thế giới.
Nội dung cơ bản của các quan điểm và chính sách đó là:


5

2.1. Nhân dân là chủ thể của quyền con người; bảo đảm quyền con
người là mục tiêu, động lực của sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN. 
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến
lược phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với
quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân” (1). Điều 2,
Hiến pháp năm 2013 quy định “Nhà nước pháp quyền XHCN, của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân”(2); nhân dân là chủ nhân của đất nước, tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân. Như vậy, nhân dân là chủ thể của quyền và việc bảo
đảm quyền con người là mục tiêu, động lực của sự nghiệp đổi mới theo định
hướng XHCN, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.
2.2. Quyền con người vừa có tính phổ biến vừa có tính đặc thù; được
thể hiện ở tính nhân loại gắn với tính giai cấp và tính dân tộc
Trong quá trình hình thành và phát triển, quyền con người là sản phẩm của sự
thống nhất của tính phổ biến và tính đặc thù. Vì vậy, muốn nhận thức và giải quyết
đúng đắn những vấn đề thực tiễn cụ thể về quyền con người cần quán triệt quan điểm
kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con người. Tính phổ biến của quyền

con người là thuộc tính, theo đó quyền con người bao hàm những nguyên tắc, những
quyền được áp dụng phổ biến ở khắp nơi, cho mọi đối tượng. Cịn tính đặc thù của
quyền con người là thuộc tính, theo đó cho phép quyền con người ở mỗi quốc gia,
mỗi lãnh thổ do trình độ phát triển kinh tế - xã hội và truyền thống dân tộc khác nhau
mà có những đặc trưng riêng, có mức độ thỏa mãn riêng phù hợp với điều kiện quốc
gia, lãnh thổ đó.
 Vì vậy, trong q trình giải quyết thực tiễn về quyền con người nhất thiết phải
tuân theo sự thống nhất giữa tính phổ biến và tính đặc thù đó, khơng thể đối lập tính
phổ biến với tính đặc thù và ngược lại. Tuyệt đối hóa cái riêng trong nhận thức về
quyền con người sẽ không thể tiếp thu được những giá trị phổ biến vốn có trong lịch
sử và sẽ là yếu tố làm cản trở q trình hịa nhập quốc tế về quyền con người. Ngược
lại, tuyệt đối hóa cái chung, khơng tính đến trình độ phát triển kinh tế và xã hội khác
nhau ở mỗi quốc gia, dễ rơi vào tình trạng áp đặt, can thiệp thô bạo vào công việc nội


6

bộ của các quốc gia. Trong bối cảnh thế giới hiện đại, quan điểm kết hợp tính phổ
biến và tính đặc thù còn là cơ sở phương pháp luận khoa học để nhận thức và giải
quyết đúng các vấn đề cụ thể về quyền con người trong quan hệ quốc gia và quốc tế.
Đó là quan điểm cơ bản vừa bảo đảm “hịa nhập” mà “khơng hịa tan” trên lĩnh vực
nhân quyền.
Con người sinh ra vốn dĩ đã có quyền, quyền đó tồn tại dưới dạng những nhu
cầu bức thiết, những yêu sách hợp lý. Nhưng, để trở thành quyền thực sự cần đến yếu
tố pháp luật thiết định. Pháp luật, như chúng ta đều biết, là pháp luật của các chế độ
chính trị khác nhau, nội dung của nó được ghi nhận trong khuôn khổ đảm bảo trước
hết lợi ích của giai cấp thống trị xã hội. Do vậy, quyền con người mang tính chất giai
cấp sâu sắc. Mặt khác, lịch sử nhân loại là một dòng chảy liên tục, có sự kế thừa lẫn
nhau về tri thức và kinh nghiệm giữa các giai đoạn phát triển xã hội. Quyền con
người là một giá trị được tích lũy trong q trình cải tạo tự nhiên và xã hội, nó có

được nội dung phong phú như ngày nay là thành quả đấu tranh lâu dài, bền bỉ của
nhân loại. Do vậy, đấu tranh bảo vệ quyền con người không chỉ thơng qua cải tạo xã
hội mà cịn thơng qua cải tạo tự nhiên, bảo vệ mơi trường sống. Chính trong cuộc
đấu tranh phức tạp ấy, chúng ta có thể thấy sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính
người trong mỗi con người và mỗi thế hệ người. Đối với sự nghiệp cách mạng vô
sản, ngay từ đầu, Các Mác cũng đã chỉ ra sự thống nhất đó, “giai cấp vơ sản khơng tự
giải phóng mình được nếu khơng giải phóng nhân loại”. Và kết quả của sự giải
phóng ấy tức là đem lại một hệ thống quyền mới mang tính giai cấp sâu sắc, đồng
thời bản thân chúng cũng là những giá trị nhân loại, đó là quan điểm cần được quán
triệt trong quá trình đổi mới ở nước ta.
Quá trình hình thành, phát triển quyền con người có tính phổ biến tồn
nhân loại, chứ khơng phải là “phát hiện” đặc thù của riêng phương Tây.  “Quyền
con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân
lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là thành quả của cuộc đấu
tranh của loài người làm chủ thiên nhiên, qua đó, quyền con người trở thành giá
trị chung của nhân loại”.
Con người thể hiện và khẳng định quyền của mình thơng qua các mối quan
hệ xã hội cụ thể.Vì thế, quyền con người, một mặt, là giá trị phổ biến của nhân


7

loại, bao hàm những quyền và nguyên tắc được áp dụng phổ biến ở mọi nơi, mọi
đối tượng. Mặt khác, quyền con người cịn mang tính đặc thù của mỗi giai cấp,
dân tộc và quốc gia theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội, đặc điểm văn hoá và
truyền thống dân tộc.  Do đó, nhất thiết khơng thể đối lập tính phổ biến với tính
đặc thù của quyền con người và ngược lại. Trong bối cảnh thế giới hiện đại, quan
điểm kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù còn là cơ sở phương pháp luận khoa
học để nhận thức và giải quyết đúng các vấn đề cụ thể về quyền con người trong
quan hệ quốc gia và quốc tế. Đây là phương châm cơ bản để bảo đảm “hội nhập”

mà “khơng hịa tan” trong lĩnh vực nhân quyền.  
2.3. Bảo đảm quyền con người theo phương châm thực hiện các giá trị
nhân quyền phổ quát trên cơ sở chủ quyền quốc gia.
Quyền của các quốc gia, dân tộc trong việc lựa chọn chế độ chính trị, lựa
chọn con đường phát triển và chủ quyền quốc gia là những quyền phổ biến được
thừa nhận trong pháp luật quốc tế. Việc thực hiện các giá trị phổ quát của quyền
con người cơ bản diễn ra trong quá trình chuyển hóa hay “nội luật hóa” pháp luật
quốc tế trong pháp luật quốc gia. Ở nước ta, các giá trị phổ quát của quyền con
người đã được thể chế hóa trong Hiến pháp.
Quyền con người thống nhất với quyền dân tộc cơ bản, nhân quyền không
được cao hơn chủ quyền. Đây là nguyên tắc bất di, bất dịch, xuyên suốt. Đảng ta
cho rằng, sự nghiệp giải phóng con người, đưa lại các quyền tự do cá nhân gắn
liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, cải tạo xã hội cũ. Bài
học “nước mất - nhà tan” đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam được đúc rút
qua lịch sử trên 4000 năm dựng nước và giữ nước.
Qua kinh nghiệm đấu tranh cách mạng, Đảng ta khẳng định rằng, chỉ ở
một nước độc lập thực sự, chỉ dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người
mới được thực thi đầy đủ và có điều kiện để đảm bảo một cách chắc chắn. Đấu
tranh chống các thế lực thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc cũng là nhằm
giành quyền tự do cho cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng, nếu nước độc
lập mà dân khơng được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý
nghĩa gì. Chủ quyền quốc gia hay quyền dân tộc tự quyết và quyền con người tuy


8

là những phạm trù khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết và thống nhất với
nhau. Thực thi quyền con người phải dựa trên cơ sở ưu tiên bảo vệ quyền dân tộc
tự quyết, chủ quyền quốc gia. Nếu dân tộc không được độc lập, chủ quyền quốc
gia không được xác lập thì khơng có quyền con người.

Việc bảo đảm quyền con người theo phương châm trên giúp mỗi cá nhân
được bảo đảm các quyền dân chủ, tự do cơ bản. Bảo đảm quyền và nghĩa vụ cá
nhân không được tách rời bảo đảm quyền và nghĩa vụ của cộng đồng. Bảo đảm
quyền con người phải trên cơ sở chủ quyền quốc gia, trên cơ sở các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật nhân quyền quốc tế, như quyền bình đẳng và tự quyết của
các dân tộc, khơng can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác,...  để loại
trừ mọi mưu toan lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” trên con đường phát triển đất
nước.
Mặt khác, các tiêu chí nhân quyền của Liên Hợp quốc trong nhiều trường
hợp bị chi phối hoặc bị ảnh hưởng tiêu cực bởi tiêu chí nhân quyền của các nước
phương Tây. Vì thế, nhằm thực hiện các giá trị phổ quát của quyền con người
trên cơ sở chủ quyền quốc gia, Việt Nam chủ động và tích cực đối thoại, hợp tác
quốc tế trên lĩnh vực nhân quyền, vừa giúp bạn bè quốc tế hiểu hơn về thành tựu,
quan điểm và giá trị nhân quyền của nước ta, vừa là cơ hội học hỏi kinh nghiệm
của các nước trong việc chuyển hóa pháp luật quốc tế về nhân quyền vào pháp
luật trong nước. Từ đó góp phần bảo đảm tốt hơn các quyền con người ở Việt
Nam, cũng như đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền trong khu
vực và trên thế giới .
2.4.Quyền con người không đồng nhất với quyền công dân, gồm cả
quyền tập thể và quyền cá nhân; quyền gắn liền với nghĩa vụ, giới hạn quyền
do luật định, trên cơ sở xác định rõ chủ thể quyền và chủ thể có nghĩa vụ
bảo đảm quyền
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn thừa nhận quyền con người là thuật
ngữ độc lập so với thuật ngữ quyền công dân. Dựa trên luận điểm “sửa sang thế
đạo kinh dinh nhân quyền” của Nguyễn Ái Quốc, Nghị quyết Đại hội Quốc dân
Tân Trào (16-8-1945) đã xác định phải: “Ban bố những quyền của dân, cho dân:


9


Nhân quyền, tài quyền (quyền sở hữu), dân quyền; quyền phổ thông đầu phiếu,
quyền tự do dân chủ...”.
Các Cương lĩnh của Đảng trong thời kỳ đổi mới, Hiến pháp năm 1992,
2013, các Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội luôn nhất quán phân định rõ
quyền con người, quyền công dân.
Để bảo đảm quyền con người trong thực tế, việc thể chế hóa chủ thể quyền
và chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm quyền có ý nghĩa rất quan trọng. Đường lối, chủ
trương của Đảng, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam xác định và thể chế hóa
nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân;
đồng thời xác định và thể chế hóa quyền của người dân trong việc tham gia quản
lý nhà nước, nhằm ràng buộc nghĩa vụ của Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền
con người, quyền công dân. Khoản 2, Điều 119, Hiến pháp năm 2013 khẳng
định: “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định. Đây là quy định có tính ngun tắc
nhằm thiết lập cơ chế bảo vệ Hiến pháp, trong đó có các quyền con người đã
được hiến định một cách hiệu quả.
2.5. Quyền con người gắn với các điều kiện phát triển kinh tế, xã hội
và văn hóa.
Quyền con người là nhu cầu vốn có của con người, nhưng trạng thái thực
hiện và mức độ thỏa mãn lại phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, văn
hóa và truyền thống dân tộc của mỗi quốc gia. Quyền con người phụ thuộc vào trình
độ phát triển kinh tế, rằng: “Việc thực hiện quyền tự do của con người tùy thuộc vào
lực lượng sản xuất và trong phạm vi cho phép của lực lượng sản xuất, chứ không
phải tùy thuộc ở điều người ta mong muốn” (Các Mác). Tuy nhiên, việc thực hiện
quyền con người tốt hay xấu, rộng hay hẹp còn phụ thuộc vào những yếu tố khác
như bản chất của chế độ xã hội, vai trò của Nhà nước và các thể chế chính trị, ý thức
dân chủ và sự trưởng thành của cá nhân và cộng đồng.
Theo C.Mác, quyền “không bao giờ có thể ở mức cao hơn chế độ kinh tế
và sự phát triển văn hóa do chế độ kinh tế đó quyết định”. Do đó, khơng thể thúc
đẩy nhân quyền bằng mọi giá, mà phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, xã
hội, văn hóa và con người. Chỉ như vậy mới không làm tổn hại đến bản thân các



10

quyền con người. Đây là tư tưởng chỉ đạo quan trọng trong giải quyết các vấn đề
về quyền con người, nhằm tránh tình trạng chủ quan, duy ý chí trong xây dựng
pháp luật, cũng như tình trạng lạc hậu của pháp luật so với điều kiện phát triển
kinh tế, xã hội và văn hóa.
“Quyền khơng thể cao hơn trình độ phát triển kinh tế” là định hướng quan
trọng cho việc giải quyết đúng đắn vấn đề quyền con người trong đời sống hiện
thực, vừa tránh được chủ quan duy ý chí trong xây dựng pháp luật vừa tránh được
tình trạng lạc hậu của pháp luật so với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Trong
thời kỳ quản lý theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, pháp luật Việt Nam đã quy
định nhiều quyền, trong đó có cả quyền “đi học không mất tiền”, “chữa bệnh không
mất tiền”. Đó là những quy định đúng với bản chất của chế độ ta, nhưng do trình độ
kinh tế thấp nên pháp luật đã không đi vào cuộc sống được.
Về văn hóa, dân trí là điều quan trọng để xác lập và thực hiện quyền con
người. Điều này đòi hỏi con người có sự hiểu biết nhất định về dân chủ, pháp luật và
ý thức về quyền của công dân mới có thể đảm bảo thực hiện quyền trong thực tế.
Bởi quyền của con người là kết quả do đấu tranh mới giành được, chứ không thể là
sự ban ơn, bố thí của bất kỳ ai. Như vậy, pháp luật quy định quyền con người, quyền
công dân phải gắn và phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa của đất nước trong mỗi
thời kỳ lịch sử, đồng thời quá trình xây dựng pháp luật về quyền con người, quyền
cơng dân phải giữ gìn và phát huy truyền thống dân tộc. Cụ thể, do truyền thống
cộng đồng Việt mà Hiến pháp Việt Nam năm 1992 đã quy định: Cha mẹ có trách
nhiệm ni dạy con thành những người cơng dân tốt. Con cháu có bổn phận kính
trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ” (Điều 64). Đây là điều hiếm thấy trong hiến
pháp của các nước phương Tây.
Từ nhận thức nêu trên, chúng ta không chấp nhận sự áp đặt tiêu chuẩn nhân
quyền của nước này cho nước khác và “dứt khoát bác bỏ mọi mưu toan lợi dụng

“dân chủ”, “nhân quyền” nhằm gây rối về chính trị, chống phá chế độ hoặc can
thiệp vào nội bộ nước ta”.
2.6. Quyền con người được bảo đảm bằng chế độ dân chủ và Nhà nước
pháp quyền XHCN


11

Dân chủ là quyền lực xã hội của con người, được thể chế hóa cơ bản theo
nguyên tắc bảo đảm quyền cơng dân và quyền con người nói chung. Quyền con
người phải thông qua thể chế dân chủ mới được hiện thực hóa, được mở rộng,
bảo đảm gắn với quá trình xây dựng, hồn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN và
các tổ chức xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảm bảo bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để các
quyền con người, quyền công dân được thực hiện. Khi trở thành quyền pháp định,
quyền con người, quyền công dân là ý chí chung của tồn xã hội, được xã hội phục
tùng, được quyền lực nhà nước bảo vệ. Quyền con người, quyền công dân khi được
Hiến pháp, pháp luật ghi nhận trở thành độc lập đối với bất kỳ quyền uy nào, kể cả
các cơ quan, viên chức nhà nước cao nhất. Hiện nay, ở mọi quốc gia trên thế giới,
tuy mức độ và hình thức ghi nhận khác nhau, nhưng hiến pháp các nước đều có chế
định về địa vị pháp lý của công dân.
Ở nước ta, ngay sau khi giành được độc lập, quyền con người, quyền công
dân đã được Hiến pháp năm 1946 ghi nhận và sau đó được tiếp tục củng cố, mở
rộng trong các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và 2013. Hiện nay, trên lĩnh vực
pháp luật bảo vệ quyền con người, Nhà nước ta đã ban hành Bộ luật Dân sự, Bộ luật
Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, Luật
Lao động, Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân, Luật Phổ cập giáo dục tiểu học, Luật
Bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em, Luật Báo chí, Pháp lệnh về tổ chức luật sư, Pháp
lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân, Pháp lệnh xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại của

người nước ngồi ở Việt Nam... Có thể khẳng định rằng, Hiến pháp và pháp luật
Việt Nam hiện nay đã thể hiện đầy đủ các quyền cơ bản, phổ biến của con người.


12

KẾT LUẬN
Trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, Đảng ta
chủ trương “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt
Nam”, đó là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, quản lý xã hội bằng pháp luật, chắc
chắn sẽ mở rộng hơn nữa phạm vi quyền con người, quyền công dân theo đà phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. 
Xuyên suốt chiều dài lịch sử, Việt Nam đã khơng ngừng đấu tranh vì các
quyền tự do cơ bản của con người, nhất là quyền độc lập và quyền tự quyết của
dân tộc; quyền được sống trong hịa bình, tự do, ấm no và hạnh phúc cho mỗi
người dân. Từ năm 2005, thời điểm Bộ Ngoại giao đã công bố cuốn sách “Thành
tựu bảo vệ và phát triển các quyền con người ở Việt Nam”, Việt Nam đã chứng
kiến những thành tựu quan trọng trong công tác bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người, đặc biệt là việc thơng qua Hiến pháp năm 2013 và hồn thiện hệ thống
pháp luật về quyền con người. Việt Nam đã duy trì tăng trưởng kinh tế ổn định,
khơng ngừng cải thiện mức sống của người dân, giảm mạnh tỉ lệ nghèo, thúc đẩy
bình đẳng xã hội, góp phần bảo đảm việc thụ hưởng các quyền kinh tế, xã hội,
cũng như việc thực hiện quyền con người trong nhiều lĩnh vực khác.


13

Tài liệu tham khảo
(1) Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.

(2)  Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2016.
(3) Xem: Chỉ thị 12- CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, ngày 12-71992.
(4) Trung tâm Nghiên cứu quyền con người: Văn kiện quốc tế về quyền
con người.
 (5) Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
(6) Đảng CSVN: Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2000.
 
   



×