Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Đề tài 10: Bước phát triển mới trong lý luận của Đảng qua Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam (1951) và bài học từ phát huy sức mạnh của liên minh công – nông – trí trong thời kỳ hội nhập.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.88 KB, 16 trang )

LƯU Ý: TẤT CẢ NHỮNG BÀI Ở ĐÂY ĐỀU LÀ BÀI MẪU NHẰM MỤC ĐÍCH
THAM KHẢO TỰ LÀM, NẾU MUỐN CÓ BÀI RIÊNG IB
0774220127 ZALO
Đề tài 10: Bước phát triển mới trong lý luận của Đảng qua Chính cương của Đảng
Lao động Việt Nam (1951) và bài học từ phát huy sức mạnh của liên minh cơng –
nơng – trí trong thời kỳ hội nhập.
MỤC LỤC (TỰ LÀM)
PHẦN MỞ ĐẦU
………………………………
PHẦN NỘI DUNG
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Từ ngày thành lập đến nay, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua 13 kỷ đại hội.
Mỗi giai đoạn lịch sử, Đảng ta lại có một sứ mệnh với những chiến lược cách mạng
khác nhau. Tinh thần của Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã được
vận dụng sáng tạo và kết tinh qua các bản cương lĩnh, chính cương của Đảng. Mỗi
văn kiện đó đều chứa đựng những giá trị nội dung, ý nghĩa lớn lao riêng và có vai trị
lịch sử trọng đại đối với vận mệnh của quốc gia dân tộc.Từ năm 1950, phong trào
cách mạng trên thế giới phát triển mạnh mẽ. Hệ thống xã hội chủ nghĩa đã được củng
cố và tăng cường về mọi mặt. Phong trào giải phóngdân tộc vẫn tiếp tục phát triển
làm rung chuyển hậu phương của chủ nghĩa đế quốc. Phong trào bảo vệ hồ bình thế
giới trở thành phong trào quần chúng rộng rãi. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám
1


năm 1945 ở Việt Nam, đã đưa nhân dân ta từ người mất nước lên người làm chủ đất
nước. Nhưng dã tâm xâm lược của thực dân Pháp không dừng lại ở đó, một lần nữa
nhân dân ta lại phải tiếp tục cầm súng đứng lên đánh giặc để bảo vệ nền tự do, độc


lập. Cuộc kháng chiến dần bước sang giai đoạn mới với những yêu cầu mới, đòi hỏi
Đảng ta phải giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách để đưa cách mạng
tiến lên. Đại hội đại biểu lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương được triệu tập trong
khoảng thời gian từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951 tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm
Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Để hiểu rõ hơn bước phát triển mới trong lý luận của Đảng
qua Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam (1951) trong giai đoạn này, em xin
tìm hiểu đề tài Bước phát triển mới trong lý luận của Đảng qua Chính cương của
Đảng Lao động Việt Nam (1951) và bài học từ phát huy sức mạnh của liên minh
cơng – nơng – trí trong thời kỳ hội nhập
2.Mục đích nghiên cứu
Trong thời kì đổi mới, việc nghiên cứu phát triển mới trong lý luận của Đảng qua
Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam (1951) và bài học từ phát huy sức mạnh
của liên minh công – nơng – trí trong thời kỳ hội nhập vơ cùng quan trọng và cần
thiết, để thấy được định hướng quan trọng của Đảng ta trong việc đi lên CNXH thời
kỳ hội nhập.
3.Phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi nghiên cứu: Bước phát triển mới trong lý luận của Đảng qua
Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam (1951) và bài học từ phát huy sức mạnh
của liên minh công – nơng – trí trong thời kỳ hội nhập.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Với phương pháp luận là quan điểm của ĐCSVN đi tìm hiểu sâu giúp cho tư duy
và góc độ nghiên cứu luôn đi đúng hướng và hiệu quả. Kết hợp với phương pháp
phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp liên ngành là ba phương pháp
nghiên cứu chính khi nghiên cứu đề tài này.
2


5. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm 3 phần : Phần mở đầu
Phần nội dung

CHƯƠNG I: nội dung chính của chính cương Đảng lao động Việt Nam tháng 2 năm
1951.
Chương II. Bước phát triển mới trong lý luận của Đảng qua Chính cương của Đảng
Lao động Việt Nam (1951)
Chương III. Bài học từ phát huy sức mạnh của Liên minh cơng nhân, nơng dân, trí
thức trong hội nhập quốc tế hiện nay
Phần kết luận
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NỘI DUNG CHÍNH CỦA CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG
VIỆT NAM THÁNG 2 NĂM 1951.
Chính cương Đảng lao động Việt Nam tháng 2 năm 1951 có bố cục gồm ba
chương: Chương I: Thế giới và Việt Nam; Chương II: Xã hội Việt Nam và cách
mạng Việt Nam; Chương III: Chính sách của Đảng Lao động Việt Nam.
Nội dung chính của Chính cương được thể hiện trên các phương diện sau:
1.1. Tính chất của Cách mạng Việt Nam Giai đoạn này
Cách mạng Việt Nam có ba tính chất:Dân chủ, nhân dân và một phần thuộc
địa nửa phong kiến. Ba tính chất đó đang đấu tranh lẫn nhau, nhưng mâu thuẫn chủ
yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dânchủ nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu
thuẫn đó đang được giải quyết trong quá trình kháng chiến của dân tộc Việt Nam
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Đảng ta căn cứ vào 3 loại hình cách mạng của
Lênin (cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng tư sản kiểu mới và cách mạng vô
sản) gọi cách mạng Việt Nam là cáchmạng dân tộc, dân chủ, nhân dân. Đồng chí
Trường Chinh giải thích: Gọi là cách mạng dân tộc vì nó đánh đổ đế quốc giành độc
lập cho dân tộc. Gọi là cách mạng dân chủ vì nó đánh đổ giai cấp phong kiến giành
3


lại ruộng đất cho nông dân. Gọi là cách mạng nhân dân vì nó do nhân dân tiến hành
cuộc cách mạng ấy. Đồng thời, Chính cương cịn khẳng định: Cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dânn hất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một quá trình lâu dài và

đại thể trải qua ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hồn thành giải phóng dân tộc.
Giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xố bỏ những di tích phong kiến và nửa
phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế
độ dân chủ nhân dân.
Giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội,
tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau, mà mật thiết
liên hệ, xen kẽ với nhau. Và đường lối, chính sách của Đảng sẽ được bổ sung, phát
triển qua các hội nghị trungương tiếp theo dựa trên thực tiễn lịch sử cách mạng.
1.2. Đối tượng của Cách mạng Việt Nam
Đối tượng chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược cụ thể lúc này là đế quốc
đượcđánh dấu bằng sự ra đời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tuy nhiên, chúng ta
vẫnphải đương đầu với kẻ thù chính thực dân đế quốc. Tiêu diệt được kẻ thù này
chúng tamới có được độc lập dân tộc.Trong nước, tàn dư của chế độ cũ vẫn còn,
chúng biến tướng thành tay sai phảnđộng. Đó là bè lũ phong kiến tay sai sẵn sàng bắt
tay với giặc ngoại xâm mà ra sứcchống phá cách mạng. Chính vì thế, chúng ta phải
sáng suốt nhận định kẻ thù của cáchmạng để đưa ra được những sách lược phù hợp.
1.3 Nhiệm vụ của Cách mạng Việt Nam
Trên cơ sở nhận định kẻ thù và mục tiêu của cuộc cách mạng, Đảng ta xác
địnhrõ ba nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất: Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất
choquốc gia, dân tộc
Thứ hai: Xố bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho
ngườicày có ruộng
4


Thứ ba: Phát triển chế độ dân chủ nhân dân gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Ba
nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song nhiệm vụ chính trước mắt là hồn thành giải
phóng dân tộc. Vì có giải phóng dân tộc thì mới chặt đứt được tay sai phong kiến. Có

độc lập dân tộc thì mới có thể đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa đẻ đem lại cuộc sống
ấm no cho nhân dân. Và hơn lúc nào hết, chúng ta phải tập trung lực lượngvào cuộc
kháng chiến để hồn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
1.4. Lực lượng của Cách mạng Việt Nam
Đó là tập hợp cách lực lượng bao gồm các giai – tầng yêu nước. Họ là những
người cơng nhân bị bóc lột trong xưởng máy, là người nơng dày bị cướp mất ruộng,
là tiểu tư sản, tư sản dân tộc u nước, sẵn sàng vì cuộc chiến tranh chính nghĩa. Ngồi
ra cần phải quy tụ những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng
lớp và phần tử đó họp lại thành nhân dân, mà nền tảng là công nơng, lao động trí óc.
Giai cấp cơng nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Điều này được Chính cương nêu
rất rõ: "Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân. Đảng lao động Việt Nam là
Đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động Việt Nam. Mục đích của
Đảng là phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất
cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam”.
1.5. Chính sách của Đảng
Để cụ thể hóa Đảng đưa ra 15 chính sách nhằm đẩy phát triển chế độ dân chủ
nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh kháng chiến đến
thắnglợi. 15 chính sách là sự tổng hợp các lĩnh vực khác nhau. Cụ thể bao gồm:
1. Kháng chiến, 2. Chính quyền nhân dân, 3. Mặt trận dân tộc thống nhất, 4.
Quân đội, 5. Kinh tế tài chính, 6. Cải cách ruộng đất, 7. Vǎn hố giáo dục, 8. Đối với
tơn giáo, 9. Chính sách dân tộc, 10. Đối với vùng tạm bị chiếm, 11. Ngoại giao, 12.
Đối với Miên, Lào,13. Đối với ngoại kiều,14. Đấu tranh cho hồ bình và dân chủ thế
giới, 15. thi đua ái quốc.
5


Như vậy, Chính cương đã xác định đối tượng của cách mạng Việt Nam là chủ
nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ, bọn
phong kiến phản động. Kẻ thù chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược.Nhiệm vụ cơ bản

của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ là đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành độc lập
và thống nhất thật sự cho dân tộc; xố bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong
kiến, làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhândân, gây dựng cơ sở
cho chủ nghĩa xã hội. Ba nhiệm vụ đó quan hệ khăng khít với nhau, song nhiệm vụ
chính trước mắt lúc đó là hồn thành giải phóng dân tộc. Động lực của cách mạng là
nhân dân, bao gồm: công nhân, nơng dân, tiểu tư sản thành thị, trí thức, tư sản dân tộc
và những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Nền tảng của nhân dân là công nhân,
nơng dân và trí thức. Người lãnh đạo là giai cấp cơng nhân. Đó là một cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến lên chủ nghĩa xã hội; là một quá trình đấu
tranh lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn; các giai đoạn ấy không tách rời nhau mà mật
thiết liên hệ xen kẽ với nhau. Nhưng mỗi giai đoạn có một nhiệm vụ trung tâm, phải
tập trung lực lượng để thực hiện nhiệm vụ trung tâm đó.Chính cương cũng đã đề ra
các chính sách lớn để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và đặt cơ sở để kiến thiết
quốc gia.
Chương II. Bước phát triển mới trong lý luận của Đảng qua Chính cương
của Đảng Lao động Việt Nam (1951)
1.Nhận thức về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tại Đại hội
II của Đảng  
Đầu năm 1951, những biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc của tình hình trong nước và
quốc tế đặt ra yêu cầu mới đối với cách mạng Việt Nam, đòi hỏi Đảng phải bổ sung
và phát triển đường lối cách mạng và chính sách đối ngoại. Trước yêu cầu của thời kỳ
cách mạng mới, Đảng triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ II diễn ra từ ngày 11 đến ngày
19-2-1951. Đại hội đã quyết định những vấn đề quan trọng về xây dựng Đảng, đường
lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, thảo luận và thông qua Chính cương Đảng
Lao động Việt Nam, Tun ngơn và Điều lệ mới của Đảng; đề ra đường lối, chủ
trương đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn.
Tại Đại hội II, nhận thức của Đảng về mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH) tiếp tục được khẳng định, bổ sung, phát triển, làm
6



sâu sắc thêm những vấn đề lý luận từ thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đây là con
đường mà Đảng và nhân dân Việt Nam lựa chọn từ năm 1930, con đường phát triển
theo quy luật khách quan của lịch sử xã hội lồi người nói chung.
Ći thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản
là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp; yêu cầu bức bách của dân tộc Việt Nam
lúc này là phải tìm ra con đường giải quyết một cách triệt để đồng thời hai mâu th̃n
đó nhằm giải phóng dân tợc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con
người. Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm cho
CNXH từ lý luận trở thành hiện thực, mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi thế giới. Vào thời điểm lịch sử ấy, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc, với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú, thấm nhuần tri
thức lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đã khẳng định: “Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng
vơ sản” (1). Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2) được hoạch định tại Hội nghị thành lập
Đảng (tháng 2-1930) xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam: “Chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”(3). Cương lĩnh khẳng định sự lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
là con đường cách mạng vơ sản, gắn kết độc lập dân tộc và CNXH, đưa cách mạng
Việt Nam hòa vào dòng chảy chung của cách mạng thế giới. Đường lối chiến lược
của cách mạng Việt Nam được tiếp tục phát triển trong Luận cương chính trị của
Đảng (tháng 10-1930).
Con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH phản ánh sự lựa chọn khách
quan của chính thực tiễn, mang tính đặc thù Việt Nam, đã được Đảng ta khẳng định.
Chủ trương chiến lược cách mạng đó được tiếp tục phát triển thêm một bước tại Hội
nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941), dưới sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc. Độc lập dân tộc là điều kiện, là tiền đề giải phóng giai cấp, xã hội và con
người để đi tới CNXH. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự
ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin, được vận dụng sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phù hợp với quy luật
phát triển của lịch sử xã hội loài người trong thời đại mới. Ngay sau khi giành được

độc lập, bắt tay vào xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân, Đảng đã đồng thời lãnh
đạo toàn dân tộc tiếp tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước. Trước sự trở lại
xâm lược của thực dân Pháp (ngày 23-9-1945), Việt Nam chưa có điều kiện trực tiếp
tiến lên CNXH. Củng cố và giữ vững nền độc lập dân tộc vừa giành lại được là
nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa và của tồn
dân tộc.
7


Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội II của Đảng (tháng 2-1951), Chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu rõ phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam: “Đảng Lao
động Việt Nam đoàn kết và lãnh đạo toàn dân kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn
toàn, tranh lại thống nhất và độc lập hoàn toàn; lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ
mới, xây dựng điều kiện để tiến đến chủ nghĩa xã hội” (4). Chính cương của Đảng
Lao động Việt Nam được Đại hội II thông qua, xác định: “Nhiệm vụ cơ bản hiện nay
của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống
nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho
người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã
hội”(5). Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. “Song nhiệm vụ chính trước mắt là
hồn thành giải phóng dân tộc”(6). Cuộc cách mạng nhằm đánh đổ đế quốc và phong
kiến, do nhân dân làm động lực và giai cấp công nhân lãnh đạo, là một cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Khái
niệm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chứa đựng cả mục tiêu, lực lượng thực
hiện và chế độ chính trị phù hợp để xây dựng CNXH. Đại hội khẳng định con đường
tiến lên của cách mạng Việt Nam: “Con đường tất yếu của nó tiến tới chủ nghĩa xã
hội, quyết khơng thể có một con đường nào khác” (7).
Như vậy, nhận thức luận về thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam lần đầu tiên
được Đảng ta nêu ra tại Đại hội này. Con đường cách mạng Việt Nam với 3 nhiệm vụ
như trên, trải qua ba giai đoạn:
1 - Giai đoạn tiêu diệt đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, củng cố Nhà nước dân

chủ nhân dân;
2 - Giai đoạn xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, triệt để thực hiện
khẩu hiệu “người cày có ruộng”, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân;
3 - Giai đoạn làm xong nhiệm vụ dân chủ nhân dân, tạo đầy đủ điều kiện để tiến lên
CNXH. Trong đó, giai đoạn thứ ba là thời kỳ quá độ với nhiệm vụ xây dựng, củng cố
và hoàn thiện chế độ dân chủ nhân dân.
Đại hội phân tích, với điều kiện Việt Nam, con đường tiến lên CNXH là một sự
nghiệp khó khăn, lâu dài. “Khơng thể giạng chân ra mà bước một bước khổng lồ để
đến ngay chủ nghĩa xã hội. Phải bước nhiều bước, chia thành nhiều độ mà đi” (8).
Mỗi giai đoạn có nhiệm vụ trọng tâm, trung tâm. Giải phóng dân tộc, người cày có
ruộng, xây dựng cơ sở cho CNXH, ba nhiệm vụ đó khơng thể cùng làm một lúc. Đại
hội chỉ rõ, trong mỗi giai đoạn, kẻ thù và đồng minh của cách mạng có thay đổi,...
đường lối cách mạng vì thế mà phải tiếp tục hoàn thiện. Quan niệm giản đơn và
“vượt bỏ giai đoạn” cũng như khuynh hướng “từ từ từng bước” đều sai (9).
Báo cáo Hồn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới
chủ nghĩa xã hội (Luận cương cách mạng Việt Nam) nêu rõ những cơ sở, tiền đề
8


chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tiền đề tư tưởng, lý luận là Đảng phải nắm
vững lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin về cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung và
những luận điểm về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước thuộc địa, phong kiến
lạc hậu nói riêng. Tiền đề kinh tế được xác định là: “Kinh tế dân chủ nhân dân là kinh
tế của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội” (10). Tiền đề xã hội là sự đoàn kết
của các giai cấp, tầng lớp trong Mặt trận dân tộc thống nhất phấn đấu theo mục tiêu
cách mạng do Đảng đề ra. Tiền đề văn hóa tinh thần là xây dựng nền văn hóa dân tộc,
khoa học và đại chúng. Những tiền đề, điều kiện cho sự chuyển lên cách mạng xã hội
chủ nghĩa được Đại hội II của Đảng phân tích sâu sắc, định hướng nhiệm vụ mà tồn
Đảng, toàn dân phải thực hiện ngay trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, để tạo dựng cơ sở vững chắc cho giai đoạn kế tiếp.

Đường lối đúng đắn mà Đại hội II đề ra chính là sự bổ sung, phát triển Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng; đặc biệt là nhận thức lý luận về lộ trình, bước đi trong
giai đoạn quá độ lên CNXH phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam đã được Đảng nêu cụ
thể, rõ nét ngay trong hoàn cảnh kháng chiến đang diễn ra ác liệt.
2.Nhận thức về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn
trong tiến trình cách mạng sau đó
Trong thời kỳ 1954 - 1975, Đảng lãnh đạo nhân dân đồng thời thực hiện hai
chiến lược: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Độc lập dân tộc và CNXH được
thể hiện sinh động và mạnh mẽ trên cả 2 miền Bắc - Nam, tác động, thúc đẩy nhau
tạo nguồn xung lực để đưa sự nghiệp thống nhất đất nước đến thành công.
Trong giai đoạn 1975 - 1986, sự nghiệp xây dựng CNXH đạt được
những thành tựu nhất định; tuy nhiên, những sai lầm trong chỉ đạo chiến lược và tổ
chức thực hiện do chủ quan duy ý chí, nóng vội, thiếu kinh nghiệm, đã làm cho đất
nước lâm vào khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội. Đại hội VI của Đảng
(tháng 12-1986) với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật, đã thẳng thắn đánh giá những sai lầm và đề ra đường lối đổi mới toàn diện, sâu
sắc, triệt để; đặc biệt là, đổi mới tư duy lý luận, nhận thức đúng đắn về CNXH và
những đặc trưng, những quy luật khách quan, những hình thức, bước đi của thời kỳ
quá độ lên CNXH ở Việt Nam, đã mở ra thời kỳ mới của sự nghiệp cách mạng trên
con đường đi lên CNXH.
Trong Cương lĩnh năm 1991, Đảng đã đúc kết: Nắm vững ngọn cờ độc lập dân
tộc và CNXH là bài học xuyên suốt của cách mạng nước ta và khẳng định, đối với
nước ta, không cịn con đường nào khác ngồi con đường duy nhất đúng đắn là đi lên
CNXH để có độc lập dân tộc thực sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
9


Tại Đại hội VII, nhiều nội dung lý luận và thực tiễn mới được Đảng nêu ra,
trong đó đã xác định những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây

dựng. Đây là một bước phát triển lý luận mới mang tính đột phá. Từ 6 đặc trưng được
nêu tại Cương lĩnh năm 1991, Đại hội X của Đảng đã bổ sung, nêu 8 đặc trưng của xã
hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam phấn đấu xây dựng. Đây là những phác thảo quan
trọng làm cơ sở để Đại hội XI của Đảng thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011).
Trên cơ sở tổng kết 25 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 và đánh giá 30
năm đổi mới (1986 - 2016), Đại hội XII của Đảng (năm 2016) đã bổ sung mới quan
hệ lớn thứ chín cần được nghiên cứu làm sáng tỏ cả về phương diện lý luận và thực
tiễn. Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) bổ sung mối quan hệ lớn thứ mười là mối
quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Đây là một bước tiến mới, quan trọng của Đảng trong nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn, phát triển hệ thống quan điểm lý luận về CNXH ở Việt Nam, phản ánh các
quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi trong đường lối đổi mới
của Đảng ta.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới chính là thành
quả từ việc hiện thực hóa lý luận về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, với những
nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đất nước ta đã
vươn mình thốt khỏi vị trí một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ phát triển thấp trở
thành một nước phát triển trung bình; tiềm lực kinh tế liên tục tăng cao; đời sống
nhân dân được cải thiện và nâng cao rõ rệt; chính trị - xã hội ổn định; dân chủ ngày
càng được mở rộng; chủ quyền quốc gia được bảo vệ vững chắc; vị thế, uy tín quốc
tế không ngừng được nâng cao…
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh một đánh giá mới, rất quan trọng về vị thế
của đất nước sau 35 năm đổi mới: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực,
vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.Việt Nam xếp thứ 42/131 quốc gia và nền kinh
tế về chỉ số đổi mới sáng tạo, tăng 17 bậc so với năm 2016, dẫn đầu nhóm 29 quốc
gia có cùng mức thu nhập và đứng thứ 3 khu vực Đông Nam Á.
Đối với tiến trình phát triển đất nước giai đoạn từ nay đến giữa thế kỷ XXI,
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo là: “Kiên định và không ngừng
vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp

với thực tiễn cách mạng Việt Nam trong từng giai đoạn. Kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. “Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở
thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Những mục tiêu to lớn mà
Đại hội XIII của Đảng nêu ra cho các mốc thời gian năm 2025, năm 2030 và năm
10


2045 địi hỏi quyết tâm chính trị cao; nỗ lực lớn, khát vọng phát triển mạnh mẽ, giải
phóng mọi nguồn lực để xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
Trong tiến trình đổi mới, Đảng nhận diện ngày càng rõ hơn vấn đề độc lập dân
tộc và CNXH trước bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Tiến trình
đổi mới là sự tiếp tục vận động của những quan niệm mới về CNXH và con đường
xây dựng CNXH của Đảng, được hình thành dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa những nhận thức đúng đắn mà Đảng đã
tích lũy được trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là mục tiêu, là nội dung nổi bật, xuyên
suốt và chủ đạo trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đường lối độc
lập dân tộc gắn liền với CNXH là một trong những nguyên nhân của mọi thắng lợi vẻ
vang trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc và mãi là ánh sáng soi đường cho sự
nghiệp đổi mới, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tích cực, chủ động hội nhập
quốc tế sâu rộng trong thế kỷ XXI của Đảng và nhân dân Việt Nam./.
ChươngIII. Bài học từ phát huy sức mạnh của Liên minh cơng nhân, nơng
dân, trí thức trong hội nhập quốc tế hiện nay
Trước hết, để trở thành một thành viên tích cực trong Hiệp hội các nước Đơng
Nam Á (ASEAN), Hiệp hội kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) cũng như để
trở thành một thành viên đáng tin cậy trong Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
như bạn bè quốc tế mong đợi, chúng ta phải tích cực phát huy sức mạnh của Liên
minh cơng, nơng, trí. Nói đến sức mạnh của Liên minh cơng, nơng, trí, chúng ta cần
nhìn qua nguồn gốc ra đời và lịch sử vẻ vang của tổ chức chính trị quan trọng này.

1- Từ Liên minh công - nông đến Liên minh công, nông, trí.
Chính trong q trình tìm đường thốt ra khỏi khủng hoảng, Trung ương
Đảng đã coi trọng sử dụng trí thức khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, khiến các
ngành khoa học này có đóng góp đáng kể vào Đại hội VI và vào quá trình thực hiện
Nghị quyết của Đại hội. Nếu trước kia khoa học xã hội chỉ nhằm để thuyết minh các
nghị quyết của Đảng thì từ nay các chương trình khoa học xã hội đã góp phần tích
cực vào việc xây dựng các Nghị quyết của Đảng, xây dựng Cương lĩnh, Chiến lược
của Đảng và Nhà nước.
Đó là một trong những nguyên nhân làm chuyển biến nhận thức của Đảng,
đưa đến sự ra đời Liên minh cơng, nơng, trí trong Đại hội VII.
Đại hội VII nêu rõ: “Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội địi hỏi mở rộng nền
tảng của khối liên minh cơng-nơng, từ liên minh công-nông thành liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức’’ (Văn kiện Đại hội VII, Nxb
ST, 1991, tr.114). Từ đây kinh tế xã hội tăng trưởng ngày một cao, văn hóa, khoa học
ngày càng phát triển. Q trình “Cơng-nơng trí thức hóa” và “Trí thức cơng nhân
11


hóa’’ diễn ra nhanh chóng. Nhiều gia đình cơng nhân, nơng dân, trí thức có con cháu
trở thành trí thức. Từ tiểu trí thức, tốt nghiệp cấp III phổ thơng (xưa là tú tài) đến
trung trí thức (đại học, cao đẳng - cử nhân, kỹ sư) đến trí thức cao cấp (tiến sĩ, giáo
sư). Các nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nhà thơ, kể cả các doanh nhân và lớp chủ trang
trại làm ăn khá giả ngày càng nhiều, có khi bằng cấp khơng cao nhưng trí tuệ lại
rộng, hàm lượng trí thức chứa trong sản phẩm lại cao. Tất cả đều mang trong mình
cái chất mới của thời đại: chất cơng-nơng-trí kết hợp ở thế kỷ XXI. Cơng, nơng, trí
đan xen lẫn nhau, thâm nhập vào nhau, chuyển hóa, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát
triển.
2- Phát huy tác dụng của Liên minh cơng, nơng, trí “Đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức” trong quá trình hội
nhập quốc tế.

Hiện nay giai cấp cơng nhân Việt Nam đang phấn đấu để có thể đóng được vai
trị chính trong phát triển lực lượng sản xuất đưa đất nước chuyển nhanh từ nền văn
minh công nghiệp lên nền văn minh trí tuệ mà nền tảng là kinh tế tri thức.
Về kinh tế tri thức, trong phần “Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức”, Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ:
“Tranh thủ thời cơ thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước
ta để rút ngắn q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng
XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của
nền kinh tế và cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa’’ (ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu
tồn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr.87). Kinh tế tri thức tuy khơng phải là
một hình thái kinh tế xã hội, nhưng lại là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế
của mỗi nước hiện nay và là một trong những nhân tố có tính quyết định trong sự
phát triển của hình thái kinh tế xã hội XHCN của chúng ta. Kinh tế tri thức là nền
kinh tế tạo ra sản phẩm xã hội mới là “người công nhân tri thức” (knowledge
worker). Lớp người lao động này đang xuất hiện trong các ngành công nghệ thông
tin, công nghệ vật liệu mới, trong công nghiệp điện tử, nguyên tử, vũ trụ học, điều
khiển học, vật lý, hóa học, thiên văn, hàng khơng, bưu chính viễn thơng, dầu khí vv...
ở đây sản phẩm chủ yếu là từ tri thức mà ra. Để “Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức” theo Nghị quyết của Đảng, chúng ta phải
đặc biệt coi trọng phát triển nhanh đội ngũ “Cơng nhân trí thức” - đội ngũ chủ chốt
của giai cấp cơng nhân trong nền văn minh trí tuệ.
Biện pháp cụ thể trong thực hiện mục tiêu này là:
a. Kiểm tra thực trạng các ngành công nghệ cao và đề ra chỉ tiêu cụ thể cho việc đào
tạo, tuyển dụng, phát triển hàng năm và trong cả kế hoạch 5 năm.
12


b. Có chính sách ưu tiên trong chu cấp kinh phí, tạo nguồn nhân lực và đào tạo nhân
tài trong lĩnh vực cơng nghệ thơng tin.
c. Có chính sách thu hút nhân tài trong và ngồi nước.

d. Có chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài và trong đào tạo, tuyển dụng, sử dụng
lao động.
d. Có chính sách khen thưởng, cổ vũ những “Nhân tài đất Việt” trong các lĩnh vực.
e. Mục tiêu nhằm đưa số lượng công nhân trí thức từ trên dưới 10% hiện nay, lên đạt
tới 20% năm 2010...
Liên minh cơng, nơng, trí với sự tăng cường số lượng cơng nhân tri thức sẽ có
thể góp phần giải quyết được những yêu cầu mà hội nhập quốc tế đặt ra:
Yêu cầu từ thực tiễn trong nước đặt ra với liên minh cơng, nơng, trí là phải:
a. Làm thế nào để có thật nhiều cánh đồng cho trên 50 triệu đồng/ha sản phẩm năm?
Có thật nhiều nơng hộ có doanh thu trên 50 triệu đồng/năm?
b. Làm thế nào để nông sản biến thành sản phẩm công nghiệp, không phải xuất thô
với giá rẻ mạt?
c. Làm thế nào để cung cấp đủ nhân lực có tay nghề đáp ứng cho sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và số lao động dơi dư ở nơng thơn có được việc làm, hạn
chế được nạn thất nghiệp?
d. Làm thế nào để các khu công nghiệp mới triển khai xây dựng hay các trục giao
thông cần mở rộng lại, được nông dân tích cực góp phần nhanh chóng giải phóng mặt
bằng?
đ. Làm thế nào để ngăn chặn được nạn ma túy?
e. Làm thế nào để nhanh chóng xóa được đói, giảm được nghèo?
g. Làm thế nào để hạn chế được nạn tham nhũng hiện đang là quốc nạn?…
Yêu cầu do thực tiễn hội nhập quốc tế đặt ra đối với liên minh cơng, nơng,
trí là phải :
a. Làm thế nào để tăng được hàm lượng trí tuệ trong mọi loại sản phẩm xã hội?
b. Làm thế nào để ngoại thương của ta có thể mở rộng ra thị trường quốc tế và tăng
cường được sức cạnh tranh quốc tế?
c. Làm thế nào để có thể cân bằng được xuất-nhập khẩu, cố gắng đạt tới xuất siêu,
giảm thiểu nhập siêu?
d. Làm thế nào để bảo đảm được Việt Nam ln có vai trò là một thành viên đáng tin
cậy trong ASEAN, WTO và APEC...

đ. Liên minh cơng, nơng, trí phải tăng cường sức mạnh của mình để góp phần tích
cực, thậm chí đóng vai trị chủ chốt trong giải quyết các u cầu trên.
Thực tế lịch sử vừa qua đã cho thấy rõ: Từ thiếu đói những năm 80 của thế kỷ
trước, đến nay mới qua hơn 20 năm, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng
13


thứ hai, xuất khẩu hạt tiêu, hạt điều đứng thứ nhất trên thế giới... Đó là điều chứng
minh hùng hồn cho vai trị liên minh giữa nhà nơng và cơng nhân nông nghiệp, chế
biến sản phẩm nông nghiệp với các nhà khoa học nơng nghiệp, thương nghiệp, tài
chính, ngân hàng... Các ngành kinh tế khác cũng có những thành quả đáng khích lệ
do Liên minh cơng-nơng góp phần tạo nên. Lịch sử đang mở ra một chân trời mới
cho sự phát triển của Liên minh cơng, nơng, trí.
PHẦN KẾT LUẬN
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược trong suốt
thế kỷ XX ở Việt Nam là một điển hình về một dân tộc nhỏ bé có thể thắng một dân
tộc lớn, một quân đội trang bị vũ khí kém có thể thắng một đội qn xâm lược đơng
có trang bị tốt hơn. Đường lối chiến tranh nhân dân, nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngọn đuốc rực sáng đã dẫn dắt nhân dân ta làm
nên những thắng lợi vẻ vang “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”Có thể nói,
Cách mạng là sự vận động có quy luật, đồng thời trong từng hồn cảnh và điều kiện cụ
thể thì lịch sử cách mạng đặt ra những yêu cầu khác nhau. Điều đó địi hỏi lực lượng
lãnh đạo cách mạng mà cụ thể ở đây là Đảng cộng sản Việt Nam phải luôn sáng tạo
không ngừng để đưa ra những chiến lược, sách lược linh hoạt qua từng thời kỳ lịch
sử.Từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930, cho đến Chính cương của đảng lao
động Việt Nam năm 1951 hay Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 sau này và những văn kiện khác của Đảng đều đã thể
hiện sức mạnh tập trung, sáng suốt, là tư tưởng nhất quán về cách mạng dân tộc dân
chủ Việt Nam tất yếu đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn với chủ
nghĩa xã hội; nhân dân là động lực cách mạng; Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng;

Nhà nước, Chính phủ, quân đội của nhân dân; xây dựng nước Việt Nam hịa bình,
thống nhất dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Các Cương
lĩnh đó đều được xây dựng dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh,quan điểm đường lối của Đảng, thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng
thế giới
14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 30
2. Gồm các văn kiện Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt
3.Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998,  t. 2, tr. 2
4. Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 12, tr. 3, 433 434, 434, 87, 91, 97, 106
5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.
109
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021, t. I, tr. 25

15


16



×