Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẤN ĐỀ THỜI CƠ TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.11 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-----------------------------

TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VẤN ĐỀ THỜI CƠ TRONG CÁCH MẠNG THÁNG
TÁM NĂM 1945 VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO QUÁ TRÌNH
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY


1


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................4
NỘI DUNG.......................................................................................................6
Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ THỜI CƠ.......................................6
1.1. Khái niệm thời cơ................................................................................6
1.2. Vai trò của thời cơ...............................................................................6
Chương 2. VẤN ĐỀ THỜI CƠ TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
6
2.1. Bối cảnh lịch sử của cuộc cách mạng tháng Tám............................ 6
2.1.1. Bối cảnh lịch sử thế giới...............................................................6
2.1.2. Bối cảnh lịch sử trong nước.........................................................7
2.2. Thời cơ trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.............................. 8
2.2.1. Xác định thời cơ trong Cách mạng.............................................. 8
2.2.2. Nhận xét nghệ thuật nắm bắt thời cơ của Đảng....................... 13
2.2.3. Kết quả đạt được......................................................................... 14
2.2.4. Bài học rút ra từ thời cơ cách mạng tháng Tám.......................15
Chương 3. LIÊN HỆ BÀI HỌC VỀ THỜI CƠ CỦA CÁCH MẠNG


THÁNG TÁM NĂM 1945 TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP VÀ PHÁT
TRIỂN HIỆN NAY....................................................................................17
3.1. Bối cảnh hiện nay............................................................................. 17
3.1.1. Cơ hội.......................................................................................... 17
3.1.2. Thách thức.................................................................................. 19
3.2. Bài học về lựa chọn và nắm bắt thời cơ cho sự phát triển của đất
nước hiện nay...........................................................................................20
3.3. Liên hệ vai trò của thành niên trong quá trình vận dụng bài học
thời cơ đối với quá trình đổi mới và hội nhập hiện nay:........................22
3.3.1. Thời cơ và thách thức đối với thanh niên hiện nay:.................22
3.3.2. Trách nhiệm của Thanh niên :.................................................. 24
KẾT LUẬN....................................................................................................26
2


TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 28

3


LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là một đất nước có vị trí địa lý thuận lợi cùng nguồn tài
nguyên thiên nhiên, khống sản dồi dào, nhân cơng rẻ… Những yếu tố trên đã
khiến Việt Nam trở thành một “miếng mồi” béo bở lúc bấy giờ. Trong quá
trình xâm chiếm, mở rộng hệ thống thuộc địa, các nước tư bản chắc hẳn
không thể bỏ qua Việt Nam. Năm 1958, tại bán đảo Sơn Trà, thực dân Pháp
nổ súng xâm lược nước ta. Bên cạnh đó, triều đình nhà Nguyễn kí Hiệp ước
Pa-tơ-nốt biến nước ta thành thuộc địa của Pháp. Dưới sự đàn áp, thống trị,
bóc lột nặng nề, nhân dân phải sống trong đau khổ, lầm than.
Sự ra đời của Đảng vào ngày 3/2/1930 là một cột mốc quan trọng đánh

dấu bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời là kết quả của sự chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lênin đưa ra đường lối
chiến lược và sách lược cho cách mạng Việt Nam. Việc Đảng ra đời và xác
lập vai trò lãnh đạo là điều tất yếu, khách quan, phù hợp với xu hướng của
thời đại. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đã giành được hết thắng lợi
này đến thắng lợi khác. Cách mạng tháng Tám năm 1945 là tiêu biểu cho một
trong những chiến thắng lẫy lừng đó.
Cách mạng tháng 8 mang ý nghĩa vơ cùng lớn lao, là mốc son chói lọi
trong lịch sử dân tộc bởi nó đã phá tan hai tầng xiềng xích nơ lệ của thực dân
Pháp và phát xít Nhật, đồng thời lật đổ chế độ phong kiến đã “giam giữ” nước
ta gần ngàn năm, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra một kỷ
nguyên mới: kỷ nguyên độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Có rất nhiều
yếu tố hội tụ để đem đến chiến thắng oanh liệt này tuy nhiên có thể nói rằng
vấn đề thời cơ là một trong những nhân tố hàng đầu quyết định sự thắng lợi
của Cách mạng tháng Tám. Nhận xét về thời cơ, Tổng Bí thư Trường Chinh
đã từng nói: “Mau lẹ, kịp thời, nổ ra đúng lúc phải nổ, đó là một ưu điểm nữa
của Cách mạng tháng Tám”.
Cho đến ngày nay, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 vẫn để
lại những bài học kinh nghiệm quý báu, mang ý nghĩa lớn lao trong thời đại
4


ngày nay. Để có thể tìm hiểu rõ hơn về nghệ thuật chớp thời cơ tài tình này để
từ đó đưa ra bài học ứng dụng vào cơng cuộc, nhóm tác giả xin được nghiên
cứu đề tài: “Vấn đề thời cơ trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự
vận dụng vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước hiện nay”. Theo
đó, tiểu luận này là báo cáo kết quả nghiên cứu với cấu trúc sau. Ngoài lời mở
đầu, kết luận, mục lục và phần tài liệu tham khảo, nội dung tiểu luận gồm 3
chương:

Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ THỜI CƠ
Chương 2: VẤN ĐỀ THỜI CƠ TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
Chương 3: LIÊN HỆ BÀI HỌC VỀ THỜI CƠ CỦA CÁCH MẠNG THÁNG
TÁM NĂM 1945 TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN HIỆN
NAY

5


NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ THỜI CƠ
1.1. Khái niệm thời cơ
Thời cơ có thể hiểu theo nghĩa chung nhất là thời gian, điều kiện, hoàn
cảnh chủ quan, khách quan thuận lợi để tiến hành thắng lợi một việc gì đó.
Thời cơ là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong nghệ thuật chỉ đạo
cách mạng của Đảng. Thời cơ có thể do thực lực cách mạng trong nước tạo ra,
cũng có thể do hồn cảnh bên ngoài đưa lại, song theo quan điểm của Đảng,
nhân tố chủ quan là quyết định và phải chuẩn bị sẵn sàng cho thời cơ. Như
vậy, muốn có thời cơ thì phải biết tạo ra thời cơ, thúc đẩy thời cơ và khi thời
cơ đến thì phải chớp lấy thời cơ, khơng được bỏ lỡ. Việc xác định chính xác
thời cơ, thúc đẩy và chớp thời cơ không chỉ là khoa học, mà còn là nghệ thuật
cách mạng. Cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám 1945 là một
minh chứng sinh động về sự nhạy bén trong nhận định và chỉ đạo chớp thời
cơ khởi nghĩa của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1.2. Vai trị của thời cơ
Thời cơ xuất hiện trong một thời điểm nhất định sẽ tạo lên những cơ hội
để phát huy sức mạnh. Trong chiến tranh, vấn đề thời cơ đóng một vai trị vơ
cùng quan trọng, quyết định sự thành bại của cá nhân, tập thể thậm chí cả dân
tộc. Việc biết nắm bắt thời cơ tạo lên lợi thế, bên nào nắm được thời cơ sẽ
giành thắng lợi.

Chương 2. VẤN ĐỀ THỜI CƠ TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
2.1. Bối cảnh lịch sử của cuộc cách mạng tháng Tám
2.1.1. Bối cảnh lịch sử thế giới
Đầu năm 1945, chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết
thúc. Ngày 15/8/1945, Nhật đầu hàng Liên Xô và các nước đồng minh không
điều kiện. Sự sụp đổ của Chính phủ Nhật đã đẩy qn Nhật ở Đơng Dương
vào tình thế tuyệt vọng, hoang mang đến đỉnh điểm.
Đêm 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương.

6


Ngày 9/5/1945, quân Đức đầu hàng không điều kiện, chiến tranh kết thúc
ở Châu Âu. Ngày 8/8/1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão tiêu diệt
quân đội Nhật. Trước đó, nhằm gây sức ép với Chính phủ Nhật và phơ trương
sức mạnh vũ khí hạt nhân, trong hai ngày 6 và 9/8/1945, Mỹ đã ném hai quả bom
nguyên tử xuống hai thành phố của Nhật là Hiroshima và Nagasaki làm hàng
chục vạn người chết và để lại những hậu quả nặng nề kéo dài.

Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng đồng minh, chiến tranh thế giới
lần thứ hai chấm dứt. Theo kế hoạch của một số nước Đồng minh, ngay khi
phát xít Nhật sụp đổ, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để tiêu diệt
quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp dựa vào Đồng minh để củng cố
sự cai trị của mình; đế quốc Hoa Kỳ đứng sau những lực lượng chống đối
cũng muốn can dự vào Đông Dương. Những phần tử cực đoan, bảo thủ trong
chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu đổi chủ để chống đối lại việt minh..
2.1.2. Bối cảnh lịch sử trong nước
Phong trào cách mạng đến giai đoạn cao điểm:
Ngày 9/3/1945, phát xít Nhật mở một cuộc đảo chính đánh bay Pháp.
Trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát

động một cao trào cách mạng tạo tiền đề tiến hành khởi nghĩa, đổi mới nhiều
hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh chính trị thích hợp.
Ngày 12/3/1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật - Pháp

bắn nhau và hành động của chúng ta”
Nội dung chỉ thị:
Chỉ thị nhận định cuộc đảo chính đã tạo ra cuộc khủng hoảng chính trị
sâu sắc nhưng điều kiện của cuộc khởi nghĩa chưa chín muồi.
Xác định đế quốc Nhật hiện là kẻ thù chính và duy nhất của nhân dân
Đơng Dương. Khẩu hiệu đánh đuổi phát xít Pháp - Nhật được thay bằng đánh
đuổi phát xít Nhật.
Tháng 4/1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ,
quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành
Việt Nam giải phóng quân. Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ
7


chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải
phóng dân tộc Việt Nam hay được gọi là Chính phủ lâm thời cách mạng Việt
Nam. Tháng 5/1945, Hồ chủ tịch từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào
làm căn cứ địa cách mạng. Vào ngày 14-15/8/1945 diễn ra Hội nghị toàn quốc
của Đảng tại thời điểm lịch sử phong trào cách mạng của toàn dân ta diễn ra cao
điểm trong cả nước và cũng là thời điểm phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện.
Hội nghị tiếp tục thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh như lệnh tổng khởi
nghĩa, quyết định Quốc Kỳ nền đỏ sao vàng, chọn bài “Tiến quân ca” làm Quốc
ca và bầu Uỷ ban giải phóng Trung ương, Chính phủ lâm thời do đồng chí Hồ
Chí Minh làm Chủ tịch. Nhận thấy đây có lẽ là cơ hội chín muồi nhất để tồn
dân đồng lịng đứng lên đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc Việt. Quyết định
được Hội nghị đưa ra là Đảng cần phải nắm thời cơ kịp thời, nhanh nhạy; khẩn
trương phát động và lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền và

giành thắng lợi trước khi quân đồng minh vào Đông Dương.

Đêm 13/8/1945, Lệnh khởi nghĩa (quân lệnh số 1 của Uỷ ban khởi nghĩa)
được ban bố: Chúng ta phải hành động cho nhanh, với tinh thần vô cùng quả
cảm, vơ cùng thận trọng! Cuộc thắng lợi hồn toàn sẽ thuộc về ta. Cũng ở thời
điểm lịch sử đó, Hồ Chí Minh có thư kêu gọi tổng khởi nghĩa nêu rõ: “Giờ
quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy
đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc
bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và toàn thế giới sự
ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
2.2. Thời cơ trong Cách mạng tháng Tám năm 1945
2.2.1. Xác định thời cơ trong Cách mạng
Soi rọi vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, tháng 9-1939, khi Chiến tranh
thế giới thứ II nổ ra và lan rộng khắp châu Âu, tình hình thế giới và phong trào
cách mạng trong nước có những chuyển biến mau lẹ. Tháng 11-1939, Đảng ta đã
họp Hội nghị Trung ương 6 và đưa ra những nhận định hết sức quan trọng về
tình thế cách mạng, trên cơ sở đó kịp thời chỉ đạo chuyển hướng chiến lược
8


cách mạng. Hội nghị Trung ương 6 đã phân tích sâu sắc tình hình thế giới và
tính chất chiến tranh trong giai đoạn đầu là đế quốc chiến tranh; dự báo khả
năng phát xít sẽ chuyển sang tiến cơng Liên Xơ do đó chiến tranh đã thay đổi
về tính chất, dự báo tiền đồ cách mạng thế giới là rất sáng lạn.
Tháng 11-1940, Hội nghị Trung ương 7 được tổ chức tại Đình Bảng (Bắc
Ninh) để đánh giá tình hình và đề ra nhiệm vụ mới. Trên cơ sở phân tích sâu
sắc về tình hình chính trị thế giới và những tác động, ảnh hưởng của cuộc
Chiến tranh thế giới thứ II đối với cách mạng Việt Nam, Hội nghị nhận định
thời cơ của cách mạng Việt Nam đang đến gần: “Một cao trào cách mạng

nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng
liêng: lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động
giành lấy quyền tự do độc lập”. Đảng ta xác định nhiệm vụ chủ yếu thời kỳ
này là tích cực xây dựng lực lượng, chờ thời cơ.
Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, tháng 5 năm 1941, căn
cứ vào những dự đốn ban đầu của tình hình cách mạng cả trong nước và thế
giới, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 đã có nhận định:
Nếu Liên Xơ thắng trận và Trung Quốc cũng tiến hành phản công phát xít
Nhật thì đây sẽ là những điều kiện vơ cùng thuận lợi để Đảng ta xây dựng
được lực lượng đông đảo tiến tới khởi nghĩa rộng lớn.
Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật đảo chính quân Pháp. Lúc này, Ban Thường
vụ Trung ương Đảng đang họp và nhanh chóng đưa ra những nhận định về thời
cơ khởi nghĩa đang đến rất gần: “những cơ hội tốt đang giúp cho những điều
kiện khởi nghĩa mau chín muồi”; và ra Chỉ thị: “Nhật Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta”. Đảng quyết định phát động cao trào kháng Nhật cứu nước.
Đến tháng 7-1945, phát xít Đức, Ý đã thất bại trên chiến trường châu Âu.
Ởchâu Á, phát xít Nhật đang trên đường thảm bại. Đảng ta khẳng định tình thế
cách mạng đã xuất hiện, đây là cơ hội giải phóng dân tộc nghìn năm có một:

“Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy
đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”
9


Qua phân tích bối cảnh tình hình cách mạng trong và ngoài nước, Đảng
ta nhận thấy thời cơ Cách mạng Tháng Tám 1945 chín muồi khi phe phát xít
thua trận, Nhật đầu hàng đồng minh vơ điều kiện. Chính phủ bù nhìn Trần
Trọng Kim hoang mang lo sợ. Đồng thời, lực lượng đấu tranh của ta đã khá
hùng hậu. Nhân dân thì khơng thể chịu đựng bị áp bức thêm được nữa. Với
quyết tâm chiến đấu để giành độc lập tự do cho dân tộc, khơng khí cách mạng

của nước ta sục sơi hơn bao giờ hết. Bên cạnh đó, ta phải chạy đua gấp rút với
quân Anh, Mỹ trước khi chúng tiến vào Đông Dương, mượn cớ giải giáp qn
phát xít để chiếm nước ta. Trong tình hình đó, Hội nghị toàn quốc của Đảng
họp tại Tân Trào, Tuyên Quang (từ ngày 13/8 đến ngày 15/8/1945) đã phân
tích cẩn thận những điều kiện chủ quan và khách quan đã chín muồi để giúp
cuộc tổng khởi nghĩa của chúng ta có thể thuận lợi nổ ra và thắng lợi. Hội
nghị quyết định: Đảng phải kịp thời phát động và lãnh đạo tồn dân cùng
đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân
Đồng minh vào Đơng Dương. Hồ Chí Minh đã kiên quyết khẳng định: “Lúc
này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy
Trường Sơn cũng phải cương quyết giành cho được độc lập”.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, nhân dân cả nước đã quyết tâm vùng
lên khởi nghĩa, giành lại chính quyền từ tay phát xít Nhật và chính quyền tay
sai. Chỉ trong vịng 2 tuần (từ ngày 14/8 đến ngày 28/8/1945), Hồ Chí Minh
đã đứng ra dẫn dắt tất cả các tầng lớp nhân dân Việt Nam tranh thủ từng phút
giây, phát động cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 thành công. Cách
mạng Tháng Tám 1945 đã thắng lợi nhanh, gọn, ít đổ máu. Chế độ thuộc địa
và chế độ quân chủ từng ngự trị trên đất nước ta bị hoàn toàn bị lật đổ.
Ngày 02/9/1945, trong cuộc mít tinh dưới sự góp mặt của toàn thể quần
chúng nhân dân, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng cơng bố Tun ngơn độc lập, thành
lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa.
Như vậy, bối cảnh khách quan và cả chủ quan đã tạo ra một cơ hội (hay
vẫn còn được gọi là “thiên thời” vơ cùng thuận lợi, thậm chí là trăm năm có
10


một. Nhưng nếu chỉ có “thiên thời” ấy mà khơng gặp “địa lợi”, và tất nhiên là
cả “nhân hịa”, thì thời đó cũng vơ dụng. Vấn đề chủ chốt ở đây là khi trong
tay đã có các điều kiện cụ thể thì phải biết nắm bắt và tận dụng triệt để thì

mới có thể biến các điều kiện đó thành một cơ hội thực sự.

Điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam bấy giờ có thể kể đến một số
yếu tố chính sau:
Thứ nhất, về vấn đề xác định thời cơ.
Thời điểm tháng 8 năm 1945, tình thế đã thay đổi rất nhiều so với thời
điểm ngày 9/3/1945, khi mà Nhật đảo chính Pháp. Vào lúc đó, trong Chỉ thị
“Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” được ban hành ngày
12/3/1945, Đảng ta đã xác định “những điều kiện cho cuộc khởi nghĩa chưa
thực sự chín muồi”, do giữa Pháp và Nhật còn “chưa chia rẽ, hoang mang, do
dự đến cực điểm”; sự giác ngộ và đoàn kết của nhân dân vẫn cần có thêm thời
gian tuyên truyền, khích lệ; lực lượng cách mạng vẫn chưa được chuẩn bị đầy
đủ và sẵn sàng. Đến tháng 8/1945, lúc này tình thế đã thay đổi: Pháp chưa thể
nắm lại được chính quyền, Nhật thì đã hoang mang cực độ, chế độ quân chủ
gần như suy sụp hoàn toàn, nhân dân ta đã vùng dậy (từ tự phát - phá kho thóc
của Nhật đến việc nổi dậy giành chính quyền tại một số nơi khác), ….
Thứ hai, về chủ trương.
Từ tháng 3 đến tháng 8 năm 1945, Đảng ta đã đề ra rất nhiều chủ trương
nhằm mục đích chuyển hướng đấu tranh cách mạng, củng cố thêm lực lượng…
Qua nhiều hình thức, Trung ương Đảng đã chỉ đạo các Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
Nam Kỳ, đề ra các nhiệm vụ cụ thể cho từng phạm vi hoạt động. Đặc biệt, vào
ngày 17/7/1945, Tổng Bí thư Trường Chinh đã viết bài “Để thống nhất Đảng bộ
Nam kỳ hãy kíp đi vào đường lối” - được đăng trên báo Cờ giải phóng. Bài viết
nêu rõ các sai lầm, thiếu sót của Đảng bộ trong việc đưa ra các chủ trương cách
mạng. Ngồi ra cịn nêu rõ: “Khẩu hiệu cách mạng, nhất là khẩu hiệu chiến lược,
phải đặt một cách hết sức khách quan, căn cứ vào sự phân tích
11


khoa học tình hình trong nước và ngồi nước, căn cứ vào sự nhận định sáng suốt

kẻ thù và các hạng đồng minh xa gần, và cố nhiên phải thích hợp với nhiệm vụ
cách mạng của từng giai đoạn”. Đây có thể nói là một ngọn đuốc sáng chỉ đường
cho lãnh đạo Nam Kỳ nói riêng và cho Cách mạng cả nước nói chung .

Thứ ba, về lực lượng.
Đây là sự chuẩn bị cần rất nhiều thời gian, trong đó đáng chú ý nhất có
thể kể đến là từ khi lãnh tụ Hồ Chí Minh về nước hoạt động. Tháng 5 năm
1941, sau chỉ hơn 3 tháng về nước, Người đã thành lập Mặt trận Việt Minh, từ
đó tập hợp tất cả các lực lượng tham gia kháng chiến. Từ năm 1941, Người
tiếp tục khích lệ tinh thần đấu tranh của nhân dân qua nhiều tác phẩm về quân
sự, như về cách đánh du kích, về binh pháp Tơn Tử, kinh nghiệm chiến tranh
của các nước… Người còn mở nhiều lớp huấn luyện quân sự cho cán bộ, các
khóa huấn luyện xây dựng căn cứ địa... Ngày 22/12/1944, Người giao nhiệm
vụ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân cho đồng chí Võ
Nguyên Giáp. Người cũng tranh thủ sự hỗ trợ của lực lượng Đồng minh về vũ
khí và huấn luyện quân sự. Tuy nhiên, trong quá trình đó, điều cốt lõi vẫn là
các tầng lớp nhân dân đã được giác ngộ tư tưởng, vận động và tập hợp trong
nhiều tổ chức, dưới nhiều hình thức về việc đấu tranh giành lại chính quyền.
Thứ tư, về các chỉ đạo cụ thể.
Tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh đã viết thư kêu gọi và ban hành mệnh
lệnh khởi nghĩa, công bố Quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi nghĩa… Sau đó,
Người cùng Trung ương Đảng họp Hội nghị toàn quốc của Đảng (ngày 14 và
15/8/1945) và tổ chức Đại hội Quốc dân ở Tân Trào (ngày 16/8/1945). Đại
hội vô cùng tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng cũng như của
Tổng bộ Việt Minh. Đại hội đã quyết định toàn dân sẽ đoàn kết đứng lên vũ
trang khởi nghĩa giành chính quyền; bên cạnh đó cịn thơng qua 10 chính sách
lớn của Việt Minh; bầu Ủy ban Dân tộc giải phóng (tức Chính phủ lâm thời)
do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch; thống nhất quy định Quốc hiệu, Quốc
kỳ, Quốc ca của nước Việt Nam mới…


12


2.2.2. Nhận xét nghệ thuật nắm bắt thời cơ của Đảng
Thực tế cho ta thấy rằng, nghệ thuật quan sát, nắm bắt tình hình và nghệ
thuật chỉ đạo nhân dân chớp đúng thời cơ cách mạng của Đảng được thể hiện
trong hai bối cảnh khác nhau: Khi thấy điều kiện đấu tranh chưa chín muồi thì
kiên quyết phản đối mọi chủ trương manh động, từ đó bảo tồn lực lượng
cách mạng. Nhưng khi xác định “tình thế trực tiếp cách mạng” đã xuất hiện
thì mau chóng, kịp thời khích lệ quần chúng nhân dân quyết tâm vượt qua
gian khó để đánh đòn quyết định và giành được thắng lợi.
Nét đặc sắc nhất của nghệ thuật đánh giá tình hình và chớp thời cơ của
Đảng trong Cách mạng Tháng Tám phải kể đến:
Thứ nhất, Đảng đã xác định cuộc Tổng khởi nghĩa của chúng ta sẽ
không nổ ra trước ngày quân Nhật đầu hàng - để qn đội Nhật Bản khơng
cịn vị thế cũng như cơ hội can thiệp vào nội tình Việt Nam;
Thứ hai, cuộc Tổng khởi nghĩa cũng xác định phải được nổ ra trước
ngày quân Tưởng đã vào miền Bắc, từ đó buộc tướng lĩnh Quốc dân đảng
Trung Hoa phải “nói chuyện” với Chính phủ lâm thời -vì tại thời điểm này,
Việt Nam đã có chủ sau khi Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Ngồi ra, khơng thể khơng kể đến nghệ thuật xem xét nắm bắt các quy
luật biến đổi của các điều kiện để thúc đẩy quá trình xuất hiện và chuyển hóa
thời cơ. Để xuất hiện một thời cơ chiến lược thì bao giờ cũng phụ thuộc vào
rất nhiều điều kiện, chính vì thế, quan điểm tồn diện của Đảng ta là quan sát,
nhận xét khả năng xuất hiện và phát triển của các điều kiện, thời cơ. Điều này
có thể hiểu là, Đảng ta đã nắm vững cả điều kiện khách quan lẫn chủ quan,
tính tốn cả điều kiện bên trong lẫn bên ngoài, trong nước và quốc tế, vừa
nhìn tồn cục dựa trên cơ sở phân tích quy luật phát triển của các điều kiện
thuận lợi cho thời cơ, cũng khơng qn phân tích cụ thể các điều kiện riêng
biệt trong mối liên hệ tổng thể của thời cơ.

Sự thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chính là minh chứng
hùng hồn cho sự kịp thời đúng đắn, sáng suốt trong việc dự đoán thời cơ, nhận
định chính xác thời cơ, thúc đẩy và nắm bắt thời cơ hợp lí của cuộc khởi nghĩa
13


giành chính quyền vẻ vang lịch sử này. Nhờ tất cả những điều đó, Cách mạng
tháng Tám 1945 giành được thắng lợi vẻ vang.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng
Tám như sau: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có
thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có
thể tự hào rằng lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân
tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng
thành cơng, đã nắm chính quyền toàn quốc... Cách mạng tháng Tám đã lật đổ
nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100
năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây nền tảng cho nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc”.
2.2.3. Kết quả đạt được
Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, nhờ có sự lãnh đạo tài tình
của Đảng, sự phối hợp đoàn kết của quần chúng nhân dân, trải qua bao gian
khổ và hy sinh, cuộc tổng khởi nghĩa của chúng đã giành thắng lợi hồn tồn,
chính quyền đã về tay nhân dân.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịch sử, trước cuộc
mít tinh với sự tham gia của gần một triệu đồng bào khắp cả nước, Chủ tịch
Hồ Chí Minh - thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn
Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới rằng: Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa đã ra đời.
Sự thành cơng của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã lật đổ hoàn toàn
ách thống trị của cả đế quốc và phong kiến, lập ra nước Việt Nam dân chủ
Cộng hồ. Qua đó, nước ta từ một nước thuộc địa bị đàn áp bóc lột trở thành

một nước độc lập tự do, có chính quyền riêng. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ
bị chà đạp trở thành những người làm chủ đất nước, và Đảng ta trở thành
Đảng hợp pháp nắm chính quyền.
Cách mạng Tháng Tám đã đánh dấu bước chuyển mình, nhảy vọt trong
lịch sử tiến hóa của cả dân tộc Việt Nam, nó mở ra một kỷ nguyên mới cho
dân tộc - kỷ nguyên của độc lập, tự do.
14


Ngoài ra với thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng và
nhân dân ta đã góp phần làm đa dạng thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, cung cấp thêm rất nhiều kinh nghiệm quý báu cho các phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giành quyền dân chủ trên thế giới.
2.2.4. Bài học rút ra từ thời cơ cách mạng tháng Tám
Cách mạng tháng Tám thành công đã để lại cho Đảng và nhân dân Việt
Nam nhiều bài học quý báu, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận
về Cách mạng giải phóng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc:
Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn và hợp lý hai
nhiệm vụ là chống đế quốc và chống phong kiến. Tuy nhiên, trong đó, nhiệm vụ
chống đế quốc phải được coi là hàng đầu, còn nhiệm vụ chống phong kiến phải
phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và được thực hiện từng bước với những khẩu
hiệu thích hợp. Để thực hiện thành cơng chiến lược này, Đảng và nhân dân Việt
Nam đã phải trải qua một quá trình đấu tranh thực tiễn đầy gian truân và không
ngừng tự phát triển, với mồ hôi xương máu của biết bao chiến sĩ, đồng bào.
Ngồi ra cịn có sự sự vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa MácLênin và truyền thống đấu tranh của dân tộc. Một trong những yếu tố rất quan
trọng trong chiến lược này có thể kể đến là khối liên minh cơng

- nơng vững chắc, và bên cạnh đó cũng cần khơi dậy tinh thần dân tộc trong
mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp toàn bộ lực lượng yêu nước trong mặt trận
dân tộc thống nhất rộng rãi. Việt Minh chính là một điển hình thành cơng của

Đảng trong việc huy động lực lượng toàn dân tộc lên trận địa cách mạng, đưa
cả dân tộc vùng dậy trong cao trào kháng Nhật cứu nước, tiến lên tổng khởi
nghĩa giành chính quyền.
Hai là, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi dựa trên nền tảng
khối liên minh công - nông vững chắc. đây là một chiến lược quan trọng để xây
dựng một đất nước thống nhất và phát triển bền vững. Việt Minh là một ví dụ
điển hình cho sự thành công của chiến lược này trong việc huy động lực lượng
toàn dân tộc lên trận địa cách mạng và đưa cả dân tộc vùng dậy trong cao trào
kháng Nhật cứu nước, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Việc khơi
15


dậy tinh thần dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân và tập hợp mọi lực lượng
yêu nước trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi là cần thiết để đoàn kết và
phát triển đất nước. Nền tảng khối liên minh công-nông vững chắc cũng là
một yếu tố quan trọng để tạo điều kiện cho việc xây dựng mặt trận dân tộc
thống nhất.
Ba là, kịp thời nắm bắt thời cơ, chủ động, sáng tạo tiến hành khởi nghĩa
giành chính quyền. Một trong những yếu tố giúp chúng ta nhìn nhận, phân
tích, đón bắt, tận dụng tốt thời cơ chính là nhân tố con người. Đặc biệt trong
bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt, việc đào tạo, bồi dưỡng, và
sử dụng nguồn nhân lực có tri thức, đủ đức, tài, và khả năng đón đầu, làm chủ
khoa học công nghệ là yếu tố quan trọng giúp Việt Nam tăng cường năng lực
cạnh tranh và phát triển bền vững. Ngoài ra, việc tập trung vào nội lực và kết
hợp tốt với ngoại lực cũng là một chiến lược đúng đắn để tạo ra sức mạnh
tổng hợp phát triển đất nước. Việc tận dụng các nguồn lực nội địa, cùng với
việc hội nhập và tận dụng các nguồn lực ngoại đối với các lĩnh vực có lợi thế
cạnh tranh, sẽ giúp Việt Nam tăng cường năng lực cạnh tranh và phát triển
bền vững. Tuy nhiên, để thực hiện được những mục tiêu này, cần có sự quan
tâm và đầu tư nghiêm túc của chính phủ và các tổ chức, đặc biệt là trong việc

cải tiến hệ thống giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực. Việc tạo ra một nguồn
nhân lực chất lượng cao sẽ là một nền tảng quan trọng giúp Việt Nam tiến tới
phát triển và cạnh tranh toàn cầu.
Bốn là, xây dựng Đảng vững mạnh, trung thành vô hạn với dân tộc và giai
cấp. Phải xây dựng một Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp cơng nhân,
nhân dân lao động và tồn dân tộc Việt Nam, tuyệt đối trung thành với lợi ích
giai cấp và dân tộc; vận dụng và phát triển lý luận Mác- Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, đề ra đường lối chính trị đúng đắn; xây dựng một đảng vững mạnh về
tư tưởng, chính trị và tổ chức, liên hệ chặt chẽ với quần chúng và với đội ngũ cán
bộ đảng viên kiên cường được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng.

16


Chương 3. LIÊN HỆ BÀI HỌC VỀ THỜI CƠ CỦA CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM NĂM 1945 TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP VÀ PHÁT
TRIỂN HIỆN NAY
3.1. Bối cảnh hiện nay
3.1.1. Cơ hội
Quá trình hội nhập quốc tế với việc tham gia các cơ chế hợp tác đa
phương và song phương đã chuyển đổi khơng những nền kinh tế trong nước
mà cịn tác động đến những biến chuyển xã hội, tạo nên một hình ảnh xã hội
Việt Nam đang ngày càng năng động hơn. Xu hướng tồn cầu hóa ngày nay
đã mở ra nhiều cơ hội cho tất cả các cá nhân, quốc gia, dân tộc. Đảng đã xác
định rõ những thời cơ húng ta đang sống trong một thế giới hịa bình, ổn định,
phát triển và hội nhập.
Trước tiên về kinh tế, hiện nay, Việt Nam đang có quan hệ thương mại với
hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Điều này đã giúp cho hoạt động thương mại
quốc tế của Việt Nam được thúc đẩy mạnh mẽ góp phần mở rộng thị trường xuất
nhập khẩu đồng thời mở ra cánh cửa nhằm thu hút nguồn vốn nước ngồi. Tính

tới thời điểm 31/12/2020, số lượng doanh nghiệp FDI hoạt động tại Việt Nam là
22.200, chiếm 3,2% tổng số doanh nghiệp. Ngoài ra, q trình hội nhập kinh tế
quốc tế đã góp phần lưu chuyển công nghệ sản xuất tiên tiến và khoa học quản lý
hiện đại, nhờ đó mà Việt Nam có cơ hội được tiếp cận và sử dụng công nghệ tiên
tiến vào quá trình tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, việc Việt Nam tham gia vào các
tổ chức kinh tế tài chính, kinh tế khu vực cũng như quốc tế đặc biệt là WTO tạo
sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam trên trường quốc tế, mang giá trị không
nhỏ trong đà tăng trường cho nền kinh tế Việt Nam.
Về văn hóa - xã hội, q trình hội nhập quốc tế như sợi dây tạo sự liên kết,
không chỉ mang ý nghĩa trong việc thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động giao lưu văn
hoá và tri thức quốc tế mà còn tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau và tình
hữu nghị giữa các dân tộc. Dưới tác động đó, tri thức, văn minh nhân loại được
phổ biến rộng rãi, tạo động lực cho sự bùng nổ trí tuệ nhân loại.

17


Về đối ngoại, uy tín và vị thế của Việt Nam khơng ngừng được nâng
cao. Từ một nước khơng có tên trên bản đồ thế giới, sau 70 năm Việt Nam đã
có quan hệ thương mại với 230 tổ chức quốc tế, quốc gia và vùng lãnh thổ;
thiết lập quan hệ ngoại giao với 179 nước, trong tổng số hơn 200 nước trên
thế giới. Việt Nam đã đổi mới căn bản cả về thế và lực, đang đứng trước
những cơ hội to lớn.
Về nguồn lực và triển vọng phát triển: Việt Nam có nguồn tài nguyên
phong phú, nguồn lao động chất xám trẻ dồi dào, đầy nhiệt huyết và tiềm
năng sáng tạo. Đất nước ta đang ở thời kỳ “Dân số vàng” với hơn 65 triệu
người đang ở độ tuổi lao động. Để nắm bắt được thời cơ, chớp thời cơ trong
thời đại phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, thời đại văn minh
tri thức, Đảng ta chỉ ra rằng, ngồi quyết tâm chính trị, yếu tố con người,
nguồn lực con người có tri thức là yếu tố quyết định. Do đó,nhiệm vụ đào tạo,

bồi dưỡng, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao, có đủ đức, tài, có khả năng nắm bắt, đón đầu, làm chủ khoa học
cơng nghệ, chính là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, bởi đó là sức mạnh nội
lực to lớn của tồn dân tộc.
Trên cơ sở phát huy nội lực, kết hợp nội lực với ngoại lực, tạo nên sức
mạnh tổng hợp phát triển đất nước.Việt Nam có hơn 300 nghìn người đang độ
tuổi lao động có trình độ cử nhân và thạc sĩ khơng có việc làm, trong khi
nhiều nhà máy, cơng ty sản xuất lại thiếu lao động; Cuộc khủng hoảng kinh
tế, tài chính thế giới đã, đang và sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia,
trong đó có Việt Nam. Ngồi ra, sự biến đổi khí hậu toàn cầu, sự bùng nổ dân
số, sự chênh lệch giàu nghèo, nạn tham nhũng, sự cản trở phá hoại của các thế
lực thù địch..., là những thách thức lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng
và nhân dân ta) trong công cuộc đổi mới đất nước
Nhận biết, vận dụng, phát huy kịp thời những thuận lợi, học tập, vận dụng
sáng tạo bài học thành cơng về nhìn nhận thời cơ và chớp thời cơ giành thắng lợi
trong Cách mạng Tháng Tám 1945 của Hồ Chí Minh; nếu chúng ta biết phân
tích, dự báo tình hình trong nước và thế giới trên cơ sở khách quan, khoa
18


học, để xác định được nhân tố thuận lợi nảy sinh trong khó khăn thách thức
(nguồn nguyên liệu, nhiên liệu, nhân công rẻ, nhiều nước sẵn sàng chuyển
giao công nghệ mới...), nếu chúng ta quyết tâm, đoàn kết, tận dụng, tranh thủ
được thời cơ, chắc chắn sẽ vượt qua mọi thách thức, tiếp tục tiến lên, vững
bước trên con đường đổi mới.
3.1.2. Thách thức
Bên cạnh những cơ hội mà tiến trình hội nhập quốc tế mang đến, đất
nước ta cũng đang phải đối mặt với vơ vàn thách thức, khó khăn.
Trước hết, trên lĩnh vực kinh tế, thách thức lớn nhất và dễ nhận thấy xuất phát
từ điểm nước ta là một nước đang phát triển với trình độ kinh tế cịn thấp;

trình độ quản lý nhà nước cịn nhiều bất cập, quy mô doanh nghiệp và đội ngũ
doanh nhân cịn nhỏ dẫn đến sức cạnh tranh của hàng hóa kém. Ngoài ra, tăng
trưởng kinh tế chưa ngang tầm với tiềm năng; hệ thống pháp luật, chính sách
kinh tế chưa hồn chỉnh (quyền sở hữu trí tuệ về thương mại, thiết kế công
nghiệp…) Đặc biệt, từ năm 2020 đến nay, những khó khăn, thách thức càng
tăng lên do ảnh hưởng tiêu cực từ dịch COVID-19. Đà tăng trưởng về kinh tế
nước ta bị chặn lại; đời sống của nhân dân, cả về vật chất, tinh thần, việc làm
… đều gặp mn vàn khó khăn. Thế giới đang bị khủng hoảng lớn về kinh tế
và nhiều mặt khác, tình hình an ninh khu vực và thế giới còn nhiều diễn biến
phức tạp, khó lường…
Tiếp đến, trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, quá trình hội nhập quốc tế đã đặt ra
thách thức đối với nước ta trong việc tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo vệ
môi trường sinh thái, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ cơng bằng xã hội.
Bên cạnh đó, vấn đề bảo vệ an an ninh quốc gia cũng gặp khơng ít khó khăn
khi các nguy cơ đe dọa an ninh trên thế giới ngày càng phức tạp hơn. Ngồi
ra, đời sống văn hóa tinh thần cũng bị ảnh hưởng không nhỏ dưới tác động
của q trình hội nhập quốc tế. Trong kỷ ngun tồn cầu hóa, Việt Nam có
cơ hội được mở rộng, giao lưu, trao đổi với nhiều quốc gia trên thế giới dẫn
tới tình nguy cơ đồng hóa, băng hoại giá trị truyền thống, xói mịn bản sắc dân
tộc, tiềm ẩn nguy cơ gây mất đồn kết, bất ổn an ninh, chính trị.
19



×