Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Sinh thái học côn trùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.67 KB, 13 trang )

TIỂU LUẬN
SINH THÁI HỌC CÔN TRÙNG
ĐỀ TÀI:
“Cân bằng sinh học trong tự nhiên, mục tiêu cao
nhất trong bảo vệ hiện đại”
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS TRẦN ĐÌNH CHIẾN
Nhóm SV thực hiện : Hà Văn Dũng 550181
Vũ Thị Hà My 550209
Nguyễn Thị Hằng 550190
Lê Thị Hồng Hải 550188
Lớp : BVTVB – K55
A – ĐẶT VẤN ĐỀ
Dân số trên thế giới ngày càng tăng vì vậy tăng cường sản xuất nông
nghiệp để đảm bảo cung cấp lương thực, thực phẩm một cách thích ứng sẽ là
mục tiêu ưu tiên hàng đầu của nhân loại. Bên cạnh đó, con người còn phải
nỗ lực rất nhiều để giữ gìn và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang
là cơ sở cho sản xuất nông nghiệp, trong đó có đất, nước, năng lượng và các
nguồn tài nguyên sinh học. Một vấn đề quan trọng luôn đi kèm theo sản xuất
nông nghiệp là nâng cao hiệu quả kinh tế cũng như sinh thái của các biện
pháp bảo vệ mùa màng. Tuy hàng năm người ta đã sử dụng đến 2.5 tấn
thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), nhưng khoảng 40% sản lượng lương thực
trên thế giới vẫn bị mất do sâu bệnh phá hoại. Điều này có nghĩa là khoảng
một nửa lượng lương thực mà con người sản xuất trên thế giới đã bị mất đi
vì sâu bệnh và việc đảm bảo cung cấp lương thực sẽ là một nhiệm vụ rất khó
khăn, hoặc thậm chí không thể hiện được, nếu các công nghệ kiểm soát sâu
bệnh không được cải tiến, tức là chỉ đơn thuần dựa vào thuốc BVTV. Hơn
nữa, thuốc BVTV ảnh hưởng bất lợi đến sức khỏe và gây thiệt hại không
nhỏ cho môi trường sinh thái. Theo thống kê hàng năm trên thế giới có
khoảng 3 triệu vụ ngộ độc thuốc BVTV. Nếu trong việc phòng trừ sâu, bệnh,
cỏ dại mà chỉ sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, không phối hợp với các biện
pháp phòng trừ khác trong hệ thống biện pháp phòng trừ tổng hợp và dùng


thuốc bảo vệ thực vật một cách cẩu thả, không khoa học thì lợi bất cập hại,
có thể gây độc cho bản thân người phun thuốc; môi trường xung quanh vùng
phun thuốc và cho chính những người sử dụng nông sản làm thực phẩm. Có
thể gây độc cho những sinh vật có ích như: ong mật, cá, gia súc, những côn
trùng ký sinh hoặc ăn thịt sâu hại. Gây ô nhiễm môi trường, làm nguồn
nước, đất đai bị nhiễm độc ảnh hưởng đến sức khỏe con người và cây trồng,
nông sản bị nhiễm độc không tiêu thụ được. Tạo ra những nòi sâu, bệnh, cỏ
dại, chuột hại mang tính kháng thuốc cao, thuốc hóa học trở thành vô hiệu
đối với chúng. Chẳng hạn, sâu tơ ở bắp cải tại một số vùng đã trở thành
kháng thuốc, rất khó phòng trừ. Làm phát sinh ra những đối tượng gây hại
mới và có thể gây hiện tượng tái phát của sâu, bệnh hại. Chúng ta không phủ
nhận vai trò của thuốc BVTV trong việc kiểm soát bệnh dịch và sâu bọ có
hại. Tuy nhiên, hiện nay có những kỹ thuật có thể được sử dụng để giảm
mức sử dụng thuốc BVTV mà vẫn duy trì năng suất thu hoạch. Các kết quả
nghiên cứu gần đây ở Mỹ và châu Âu cho thấy có thể giảm tới hơn 50%
lượng thuốc BVTV được sử dụng. Điều này cho phép cải tiến hiệu quả kinh
tế, việc kiểm soát sâu bệnh có hại, cải thiện môi trường sinh thái.
B. NỘI DUNG
I. Cân bằng sinh thái trong tự nhiên
1. Cân bằng sinh học là gì?
Cân bằng sinh học là trạng thái mà số lượng cá thể mỗi quần thể trong quần
xã dao động quanh vị trí cân bằng nhờ khống chế sinh học.
VD: trong quần xã SV rừng, xét 2 quần thể sâu và chim sâu, khi số lượng
sâu tăng > số lượng chim sâu tăng theo > tiêu diệt sâu triệt để > số
lượng sâu giảm > số lượng chim sâu giảm theo.
Khống chế sinh học là hiện tượng số lượng cá thể của một loài bị khống chế
ở một mức độ nhất định, không tăng quá cao hoặc quá thấp do tác động của
các quan hệ hỗ trợ hoặc đối kháng giữa các loài trong quần xã. Cơ chế này
đảm bảo cho sự phát triển của các loài không vượt qua ngưỡng sinh thái với
điều kiện hiện tại của môi trường trạng thái cân bằng như vậy giữa các loài

gọi là cân bằng sinh học hay cân bằng sinh thái giữa tác động của con người.
Mối quan hệ dinh dưỡng của sinh vật trong quần xã sinh vật: Tất cả các sinh
vật trong quần xã có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau qua chuỗi hay
mạng lưới thức ăn qua chuỗi hay mạng lưới thức ăn ở một trong ba pha của
chu trình tuần hoàn vật chất : sản xuất, tiêu thụ, phân hủy, mối quan hệ giữa
các mắt xích thức ăn đa dạng và phức tạp ảnh hưởng đén sự tương quan số
lượng của tất cả các loài trong quần xã .
Biến động về mặt số lượng cá thể của quần thể trong mối quan hệ liên quan
đến tính đa dạng và mức độ chặt chẽ của chuỗi dinh dưỡng qua các giai đoạn
khác nhau của hệ sinh thái.
Trạng thái cân bằng tự nhiên được thành lập trong một hệ sinh thái bằng
cách tương tác các mối qua hệ giữa các thành viên cộng đồng và môi trường
sống, phát triển đầy đủ và trong đó sự tiến hóa đang diễn ra chậm.
Mối quan hệ giữa các cá nhân và môi trường có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự
tồn tại của cân bằng trạng thái là điều kiện cần thiết cho cuộc sống của tất cả
các loài, cả động vật và thực vật. Tự nhiên giống như một chuỗi lớn bao
gồm nhiều liên kết trong đó các loài khác nhau có liên quan đến nhau VD:
Mạng lưới thức ăn.
Góp phần để hỗ trợ cân bằng sinh thái này là một trong những trách nhiệm
của nhân loại hiện nay do vậy chúng ta không được phá vỡ cân bằng sinh
học của hệ sinh thái tự nhiên mà phải biết lợi dụng một cách khoa học, giúp
chúng ta có thể lợi dụng được lợi ích của nó mà không làm ảnh hưởng đến
nó.
2. Điều kiện cân bằng sinh học
Bảo tồn đa dạng sinh học không những cung cấp trực tiếp những phúc lợi
cho xã hội như: lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, vật liệu xây dựng,
năng lượng, mà còn có giá trị đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ sinh học,
trong ứng dụng thực tiễn sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, công
nghiệp, y tế, du lịch…nó còn là một cấu thành quan trọng trong chiến lược
bảo đảm an ninh lương thực, xóa đói giảm. Tuy nhiên việc khai thác quá

mức nguồn tài nguyên thiên nhiên và quy hoạch phát triển chưa hợp lý đã
tác động lớn tới đa dạng sinh học, gây suy thoái đa dạng sinh học. Do vậy,
hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học cần được thực hiện thường xuyên, có
định hướng cụ thể, để đảm bảo sự cân bằng giữa nhu cầu phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước và nhu cầu của cộng đồng chung về một môi trường
sống lành mạnh.
Đa dạng hệ sinh thái là tất cả mọi sinh cảnh, mọi quần xã sinh vật và mọi
quá trình sinh thái khác nhau, cũng như sự biến đổi trong từng hệ sinh thái .
Cân bằng sinh thái là trạng thái ổn định tự nhiên của hệ sinh thái, hướng tới
sự thích nghi cao nhất với điều kiện sống. Cân bằng sinh thái được tạo ra bởi
chính bản thân hệ và chỉ tồn tại được khi các điều kiện tồn tại và phát triển
của từng thành phần trong hệ được đảm bảo và tương đối ổn định. Con
người cần phải hiểu rõ các hệ sinh thái và cân nhắc kỹ trước khi tác động lên
một thành phần nào đó của hệ, để không gây suy thoái, mất cân bằng cho hệ
sinh thái.
Bảo tồn thiên địch có lẽ là quan trọng nhất. Thiên địch là những loài sinh
vật có khả năng tiêu diệt một hoặc nhiều loài sinh vật thường gây hại khác
đối với cuộc sống con người. Ở đây chúng ta chỉ nói đến thiên địch là những
loài ăn thịt và ký sinh với những đóng góp quan trọng của chúng trong đời
sống nhân loại trên khắp hành tinh, mà thường ngày ít được chúng ta biết
đến bọ cánh cứng, kí sinh trùng rệp xác ướp gần như luôn luôn hiện diện ở
các thuộc địa rệp. Ruồi trưởng thành bị nhiễm nấm theo thời gian của độ ẩm
cao. Mà không gây ô nhiễm môi trường và chi phí sản xuất.
3. Các loài thiên địch có sẵn
Thiên địch là các loài sinh vật được sử dụng để diệt trừ các sâu bệnh hại,
bảo vệ mùa màng. Có hơn 100 loại côn trùng có sẵn trong tụ nhiên, bao gồm
cả ăn thịt côn trùng và nhện bắt mồi, côn trùng kí sinh trùng , tuyến trùng kí
sinh trùng, và tác nhân gây bệnh côn trùng. Các loài thiên địch phổ biến
là: chuồn chuồn, bọ ba khoang, chim chích bông, chim sâu
Ngày nay, sử dụng thiên địch là một trong những biện pháp sinh học được

ứng dụng rất nhiều trong thực tiễn sản xuất.
Thiên địch là từ chỉ các loài sinh vật sống bằng ăn cơ thể các loài sinh vật
hại cây, là kẻ thù tự nhiên của các loài dịch hại. Thiên địch gồm nhiều loài
động vật (như côn trùng, nhện, chim, rắn, ) và vi sinh vật (nấm, vi khuẩn,
virut). Có bốn tác nhân được sử dụng trong kiểm soát sinh học đó là:
+ Các loài gây bệnh cho sâu hại bao gồm các loại nấm, vi khuẩn, virut gây
bệnh cũng như các động vật nguyên sinh.Chúng tiêu diệt động vật chân đốt
gây hại bằng cách lây nhiễm.
Các loại mầm bệnh ảnh hưởng tới côn trùngđược lựa chọn cẩn thận để tiêu
diệt các loài chân đốt song không lây nhiễm cho người. Một số mầm bệnh có
thể được phun lên cây trồng giống như thuốc trừ sâu, chẳng hạn chế phẩm
Bt (Bacillus thuringiensus) và các chế phẩm chứa nấmBeauvaria bassiana.
+ Các loài bắt mồi bao gồm mọi sinh vật ăn các sinh vật khác, thường yếu
hoặc chậm chạp hơn. Nhện dệt mạng là một ví dụ về loài bắt mồi ăn các côn
trùng bay. Các loài bắt côn trùng, có phạm vi vật chủ hẹp, được coi là hiệu
quả nhất trong kiểm soát sâu bệnh hại cây trồng.
+ Vật ký sinh thường là ong bắp cày và ruồi ký sinh. Chúng tiêu diệt sâu hại
bằng cách đẻ trứng bên trong hoặc trên một vật chủ, chẳng hạn trứng, ấu
trùng, nhộng hoặc con trưởng thành. Ngay khi trứng của chúng nở, con non
sẽ tiêu diệt vật chủ bằng cách ăn vật chủ đó. Vật ký sinh thường là thiên địch
rất hiệu quả bởi vật ký sinh cái có thể sống ký sinh trên một lượng lớn sâu
hại trong một thời gian tương đối ngắn.
Một số loại sinh vật có ích trên đồng lúa
+ Vật ăn cỏ dại thường là côn trùng ăn các loại cỏ dại ngoại lai hoặc gây hại
nhất định. Một ví dụ điển hình là bọ cánh chét cánh cứng ăn cỏ spurge.
Nhờ hoạt động tích cực của các loài thiên địch đã giúp giảm mật độ quần thể
gây hại trên cây trồng. Tuy nhiên, tác động tới môi trường của biện pháp sử
dụng thiên địch ít hơn so với các phương pháp kiểm soát sâu hại khác (biện
pháp sử dụng thuốc hoá học ) do thiên địch không làm ô nhiễm đất hoặc
nước, cũng không để lại dư lượng hoặc mùi vị. Ngoài ra, sâu hại không

kháng lại thiên địch như chúng đã làm đối với thuốc trừ sâu.
Với những ưu điểm của phương pháp dùng thiên địch để kiểm soát sâu hại
như trên, thì nhiều nơi đã tiến hành nhân nuôi các loài thiên địch và thả ra
đồng ruộng. Các phương pháp kiểm soát mọi loại sâu hại đều có nguy cơ.
Ba lo lắng chính khi thả các thiên địch là:
1) Liệu chúng có áp đảo các thiên địch khác cùng tấn công một loại sâu
hại hay không?
2) Liệu chúng có tấn công các loài hữu ích?
3) Ngay khi được thả vào môi trường, liệu chúng có trở thành mối phiền
toái trong tương lai?
Thật may là hầu hết các thiên địch được thương mại hoá là những loài bản
địa hoặc giống nhập ngoại hữu ích, đã được thử nghiệm để đảm bảo chúng
không gây rắc rối sau này.
Mặc dù một số loài sâu hại có thể được kiểm soát bằng thiên địch song
những loài khác đòi hỏi phải sử dụng nhiều phương pháp và kỹ thuật, trong
đó có hoá chất, cơ học, vệ sinh, canh tác, bẫy và giám sát.
Với các phương thức sinh sống như trên, các loài thiên địch góp phần rất
lớn trong việc hạn chế sự phát triển của dịch hại, giữ thế cân bằng sinh học
trong tự nhiên. Tuy nhiên thực tế hiện nay nông dân thấy xuất hiện sâu bệnh
là sử dụng thuốc hóa học để phòng trừ mà không nghĩ đến hậu quả, là tiêu
diệt hết các loài thiên địch, ảnh hưởng rất lớn đến hệ sinh thái nông nghiệp
và môi trường. Vì thế, để bảo vệ các loài thiên địch, môi trường sinh thái,
hạn chế sử dụng thuốc hóa học một cách vô tội vạ, thiếu khoa học, thì việc
giúp bà con nông dân hiểu vai trò của thiên địch có ích, từ đó có ý thức bảo
vệ những người bạn có ích này là rất cần thiết.
Để làm được điều này trước hết là việc tuyên truyền bà con nông dân phải
loại bỏ dần thói quen lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc hoá học
để ít hại đến thiên địch, vì các loại thuốc này nói chung đều độc hại với thiên
địch.
Điều quan trọng hơn là Nhà nước, các nhà khoa học cần vào cuộc một

cách mạnh mẽ hơn. Cụ thể như việc chú trọng đầu tư nghiên cứu các loài
thiên địch cho từng vùng sinh thái phù hợp với dịch hại trên cây trồng; hỗ
trợ kinh phí cho các nhà khoa học nuôi thiên địch, sản xuất các chế phẩm
sinh học để phòng trừ sâu - bệnh hại và chuyển giao cho nông dân.
II - Mục tiêu cao nhất trong bảo vệ hiện đại
• Bảo vệ thực vật vào giai đoạn khoa học chưa phát triển
+ Tác động rất ít lên sâu bệnh
+ Chính yếu là sử dụng dịch trích từ thực vật và phân chuồng để trị sâu bệnh
+ Giải pháp rất gần với tự nhiên, ít phá vỡ cân bằng sinh học
+ Hệ sinh thái trồng trọt tương đối bền vững
Sự mất cân bằng do sự thay đổi đột biến của môi trường (mưa, nắng, nhiệt,
ẩm. vv….) hoặc do tác động thô bạo của con người.
2. Bảo vệ thực vật trong thời kỳ công nghệ phát triển cao
- Các nghiên cứu tìm lối thoát:
+ Nghiên cứu tìm biện pháp canh tác có quan hệ tốt đến BVTV
+ Nghiên cứu tìm các giải pháp sinh học cho BVTV
+ Nghiên cứu tìm các giải pháp sử dụng thuốc BVTV ít ảnh hưởng đến môi
trường
+ Nghiên cứu tìm các giải pháp sử dụng thuốc BVTV ít ảnh hưởng đến sự
bền vững của nông nghiệp
-Chúng ta đang đứng ở bước đầu giai đoạn này.
3. Kết quả nghiên cứu tìm giải pháp BVTV có tính bền vững trên thế
giới và trong nước khá phong phú, như:
3.1 Sử dụng thiên địch hoặc vi sinh vật trong tự nhiên để khống chế dịnh
hại
Càng thâm canh cây trồng cao thì sâu bệnh phát sinh càng nhiều, càng phun
thuốc bảo vệ thực vật nhiều thì càng hủy diệt nhiều sinh vật có ích đối với
con người và càng gây tính kháng thuốc với sâu hại, làm mất cân bằng sinh
thái.
Trong mỗi hệ sinh thái nông nghiệp có những nhóm sinh vật có ích giữ vai

trò quan trọng trong việc giữ mối cân bằng về số lượng sâu hại. Với mỗi loại
cây trồng có cả một tập đoàn sâu hại và vi sinh vật gây hại sống và ký sinh
trên đó, đi kèm với nó là một tập đoàn thiên địch khống chế những côn trùng
và vi sinh vật khống chế gây hại này
3.2 Sử dụng công nghệ sinh học để tuyển chọn các dòng vi sinh vật hiệu
quả và bền vững cao , hướng đến sự phát triển bền vững trong nông
nghiệp .
Sử dụng các chế phẩm sinh học : phần lớn các chế phẩm sinh học có nguồn
gốc vi sinh vật : nấm , vi khuẩn , virus
-Các chế phẩm từ nấm như: Beauveria và Metarhizum đang được thử
nghiệm ở nước ta để trừ rầy nâu, châu chấu và một số sâu hại khác.
-Các chế phẩm từ vi khuẩn phổ biến nhất hiên nay là BT (Bacillus
Thurigiensis) dùng để trừ sâu non bộ cánh phấn như: sâu tơ, sâu keo da láng.
-Các chế phẩm từ virus nagỳ nay đang được nghiên cứu và sử dụng trừ sâu
rất có hiệu quả, đặc biệt là các virsus nhân đa diện (NPV). Chúng được phân
lập từ kí chủ bị chết, nhân lên trong phòng thí nghiệm để tạo thành chế phẩm
NPV, có tác dụng cao để trị sâu xanh hại bông, sâu tơ bắp cái, sâu khoang,
sâu keo da láng.
-Chế phẩm từ tuyến trùng và nguyên sinh động vật cũng đang được ngiên
cứu sử dụng như tuyến trùng Romanomermis Spp để trừ ruồi đục nõn,sâu
năn và ruồi đục lá hại lúa, tuyến trùng Neoplecta Spp để trừ sâu tơ,sâu keo
da láng.
3.3 Nghiên cứu sự biến động trong quần thể vi sinh vật, giúp dễ dàng
hơn trong quản lý dịch hại bền vững.
Sự biến động trong quần thể vi sinh vật là sự tăng giảm số lượng vi sinh vật
trong quần thể sinh vật. sự biến động của khí hậu do các nhân tố sinh thái vô
sinh ( khí hậu , thổ nhưỡng ) và do sự thay đổi các nhân tố hữu sinh ( sự
chiếm đoạt của bầy đàn , số lượng kẻ thù ăn thịt ) .Để duy trì lượng dịch hại
trong ngưỡng tối đa và tối thiểu trong một giai đoạn nhất định , yếu tố kiểm
soát dịch hại bao gồm như khí hậu, thiên địch ,nguồn thức ăn , không gian ,

áp lực tiến hóa. Sự phát triển của quần thể sinh vật được hạn chế bởi cơ chế
kiểm soát rất phức tạp, vì vậy mà ta cần nghiên cứu sự biến động của sinh
vật trong quần thể sinh vật để kiểm soát được thiên địch, nắm được điều
kiện thời tiết thuận lợi như thế nào mà quần thể sinh vật tăng , giảm nhờ đó
mà có thể quản ký được dịch hại bền vững
Thông thường khi các loại sâu bệnh hại xâm nhập đến những vùng lãnh thổ
mới nếu gặp điều kiện khí hậu thích hợp,chúng sẽ phát triển mạnh mẽ vì
không gập sự khống chế của các loài thiên địch nơi bản địa.Các loại cỏ dại
cũng phát triển nhanh vì không có côn trùng gây hại hoặc VSV gây bệnh
khống chế.Sự xâm nhập của ốc bươu vàng (Pomacea canaliculata) vào nước
ta trong thời gian qua là một ví dụ.
3.4 Kích thích tính kháng bệnh trên cây trồng cũng là xu hướng của các
công ty thuốc BVTV :
Tính kháng sâu bệnh là thuộc tính cho phép cây trồng tránh hoặc chống
lại được sự tấn công của sâu bệnh hoặc bù đắp được những tổn hại do sâu
bệnh gây nên, trong khi các cây khác cùng loại không chịu được. Tính kháng
sâu bệnh của thực vật nói chung của cây trồng nói riêng được hình thành do
sự tương tác giữa sâu bệnh, cây và môi trường. Do vậy, tính kháng của thực
vật cũng mang tính chất tương đối. Về thực chất, tính kháng là một dòng cho
năng suất cao với phẩm chất tốt hơn so với các dòng bình thường trong cùng
điều kiện, khi mật độ quần thể sâu bệnh như nhau. Phân biệt ba dạng cơ bản
của tính kháng: tính không thích hợp (nonpreference); tính kháng sinh
(antibiosis) và tính chống chịu (tolerance). Tính kháng của cây trồng là tổ
hợp những đặc điểm di truyền và nhờ đó từng loài, phân loài, từng dòng
hoặc từng cá thể cây trồng có vai trò như là cây chủ có thể làm giảm hiệu
quả tấn công của từng loài, từng dòng hoặc biotip sâu hại. TKSB được quyết
định bởi thuộc tính di truyền và được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Trong điều kiện di truyền của cả sâu hại và cả cây chủ đều có thể thay đổi
theo hướng đồng tiến hoá và tính kháng cũng có thể thay đổi. Hoặc xuất hiện
một biotip mới có khả năng gây hại cho cây có tính kháng. Trong thực tiễn

bảo vệ thực vật, tính kháng của cây trồng được xem là biện pháp có hiệu quả
để phòng trừ sâu bệnh. Nhiều giống bông kháng rầy xanh đã được tuyển
chọn như U - 4, Hadah - 1, Dezi; các giống lúa kháng rầy nâu như CR - 203,
IR - 32, PTB - 21.
3.5 Sử dụng pheramone trong phòng trừ sâu hại là giải pháp phát triển
ở mức khá cao :
Pheromone là những chất được sử dụng như những tín hiệu hóa học giữa
các cá thể cùng loài, những chất này được tiết ra ngoài cơ thể côn trùng và
có thể gây ra những phản ứng chuyên biệt cho những cá thể khác cùng loài.
Đôi khi chất nầy còn được gọi là hormone xã hội (social hormone) hay được
xem như một hệ thống thông tin hóa học. Có loài chỉ sản xuất một số ít
pheromone, một số loài khác lại có khả năng sản xuất nhiều hơn. Hệ thống
pheromone khá phức tạp ở các loài côn trùng sống thành xã hội.
Thông tin hóa học này khác với cơ quan thị giác hay thính giác . Sự truyền
bá thông tin bởi pheromone tương đối chậm ( pheromone phân tán
trong không khí ) nhưng tín hiệu của pheromone được duy trì lâu, xa và đôi
khi đến 2 km hay xa hơn nữa.
Pheromone giữ vai trò trong nhiều hoạt động của đời sống côn trùng.
Pheromone có thể là chất báo động, chất giúp cho côn trùng biết và nhận ra
nhau, chất hấp dẫn sinh dục, chất quyết định cho việc tụ tập lại thành đàn
của côn trùng, và cũng là chất quyết định cho các loài hình cá thể (caste
determination) của các côn trùng sống thành xã hội.
Chất pheromone báo động ở các loài kiến thường được tiết ra từ hàm trên
hay tuyến hậu môn. Những chất hấp dẫn sinh dục thường được tiết ra từ con
cái để hấp dẫn con đực. Ở các loài kiến thì các chất sử dụng để đánh dấu
đường đi được tiết ra từ hậu môn. Đối với các côn trùng sống thành xã hội
thì hormone điều khiển việc tạo nên các loài hình cá thể khác nhau bao gồm
"chất chúa" (queen substance) được tiết ra từ mật của ong chúa, tương tự với
những chất tác động được tiết ra từ mối và kiến và thường những chất này
chỉ có hiệu quả khi được côn trùng tiêu hóa trong cơ thể.

3.6 Áp dụng biện pháp canh tác hợp lý và hiệu quả :
Làm cân bằng sinh học tự nhiên do thay đổi cơ cấu đất làm cân bằng sinh
vật trong đất bằng cách làm đất và vệ sinh đồng ruộng
Làm đất sớm và vệ sinh đồng ruộng sau mỗi vụ gieo trồng rất có ý nghĩa để
diệt trừ mầm mống sâu bệnh trong đất và trên tàn dư cây trồng .Cày lật đất
sớm có thể diệt được nhiều sâu non và nhộng đục thân,sâu keo trong gốc
rạ.Vệ sinh đồng ruộng ,dọn sạch tàn dư cây trồng có nghĩa là làm mất nơi cư
trú của các loại rầy và tiêu diệt hạch nấm bệnh khô vằn là mầm mống sâu
bệnh trung chuyển sang gây hại vụ lúa tiếp theo.Nguyên lý tác động của biện
pháp vệ sinh đồng ruộng và xử lý tàn dư cây trồng sau mỗi vụ là để cắt đứt
vòng chu chuyển của sâu bệnh từ vụ này sang vụ khác,hạn chế nguồn sâu
bệnh tích luỹ và lây lan ngay từ đầu vụ gieo trồng
Làm cân bằng sinh học tự nhiên do thay đổi cơ cấu đất làm cân bằng sinh
vật trong đất
Luân canh là trồng liên tiếp nhiều loài cây trên cùng một khoảnh đất, mỗi
thời gian một loài, nhằm cải tạo đất (chẳng hạn, dùng cây này sản sinh ra
những chất dinh dưỡng cần cho cây sau), tận dụng các lớp đất (liên tiếp bằng
những loài có rễ ăn xuống những độ sâu khác nhau
Thời vụ gieo sạ thích hợp:
+ Xác định thời vụ thích hợp còn phải dựa trên đặc điểm phát sinh phá hại
của
sâu bệnh quan trọng ở địa phương,bảo đảm cho cây trồng tránh khỏi dịch
bệnh làm tổn thất sản lượng.
+ Hạn chế tối đa sự phát triển của sâu bệnh hại, chống sâu bệnh phát triển
thành dịch.
+ Biện pháp canh tác hợp lý không cần lạm dụng thuốc hoa học mà vẫn
phòng trừ tốt sâu bệnh hại và quan trộng là giảm ô nhiễm môi trường rất
hiệu quả.
Phân bón có ảnh hưởng trực tiếp đến cây trồng và thông qua cây trồng có
ảnh hưởng đến sự phát sinh gây hại của nhiều loại sâu bệnh. Phân bón là

thành phần dinh dưỡng không thể thiếu giúp cây trồng phát triển
Chế độ nước tưới :
+ Mỗi giai đoạn cây trồng có nhu cầu nước khác nhau. Sau giai đoạn lúa đẻ
rộ nên rút nước để hạn chế sự đẻ nhánh và giúp rễ đâm sâu để tăng tính
chống đổ ngã. Khi có bệnh khô vằn không nên giữ mực nước cao vì hạch
nấm sẽ dễ dàng tấn công phần ngọn lúa. Nhưng nếu bị bệnh đạo ôn thì nên
giữ nước để điều tiết nhiệt độ tiểu khí hậu ruộng lúa nà nếu ruộng khô lúa sẽ
hút dạng đạm tự do trong đất làm cho bệnh đạo ôn càng nặng thêm.
3.7 Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM)
a. Trồng và chăm cây khoẻ:
- Chọn giống tốt, phù hợp với điều kiện địa phương.
- Chọn cây khoẻ, đủ tiêu chuẩn.
- Trồng, chăm sóc đúng kỹ thuật để cây sinh trưởng tốt có sức chống chịu và
cho năng suất cao.
b. Thăm đồng thường xuyên- Kiểm tra đồng ruộng thường xuyên, nắm được
diễn
biến về sinh trưởng phát triển của cây trồng; dịch hại; thời tiết, đất, nước
để có
biện pháp xử lý kịp thời.
c. Nông dân trở thành chuyên gia đồng ruộng
- Nông dân hiểu biết kỹ thuật, có kỹ năng quản lý đồng ruộng cần tuyên
truyền cho nhiều nông dân khác.
d. Phòng trừ dịch hại
- Sử dụng các biện pháp phòng trừ thích hợp tuỳ theo mức độ sâu bệnh,
thiên địch ký sinh ở từng giai đoạn.
- Sử dụng thuốc hoá học hợp lý và phải đúng kỹ thuật.
e.Bảo vệ thiên địch
- Bảo vệ những sinh vật có ích, giúp nhà nông tiêu diệt dịch hại.
III – KẾT LUẬN
Tóm lại, con người là nền tảng của hệ thống sống và sử dụng sai các

nguồn tài nguyên thiên nhiên liên quan đến sự hủy diệt của chúng sinh, bao
gồm cả con người, kể từ khi hệ sinh thái giúp chúng ta hiểu được sự cân
bằng tinh tế giữa các hiện tượng ảnh hưởng đến thế giới sống.
Sự mất cân bằng sinh thái có ảnh hưởng lớn về sự thay đổi của khí hậu,
bị ảnh hưởng tất cả các sinh vật sống và môi trường sống của họ.
Những thay đổi trong sản xuất khai thác một hệ sinh thái, có thể bắt đầu từ
một loạt các phản ứng sẽ ảnh hưởng đến sự cân bằng tự nhiên và theo cách
này đưa đến sự mất cân bằng.
Đa dạng sinh học là tài nguyên thiên nhiên của Trái Đất, và sự sống còn
của hành tinh này phụ thuốc vào bảo tồn, như nguyên vẹn nhất có thể, sự đa
dạng này sử dụng bừa bãi thuốc trừ sâu và phân bón hóa học có thể gây hại
cho sức khỏe đất và môi trường cân bằng. Do vậy việc sử dụng tài nguyên
thiên nhiên một cách khoa học sẽ làm hạn chế sự mất cân bằng sinh học
trong tự nhiên và hạn chế sử dụng thuốc BVTV là một việc cần thiết phải
làm. Chúng ta phải tạo điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển
của thiên địch từ đó sẽ hạn chế được dịch hại và sẽ giúp môi trường trong
sạch hơn.
C. Tài liệu tham khảo
1.Giáo trình sử dụng thuốc BVTV, PGS.TS. NGUYỄN TRẦN OÁNH
2.Giáo trình CÔN TRÙNG HỌC ĐẠI CƯƠNG, GS.TS NGUYỄN VIẾT
HÙNG
3.Tạp chí BVTV ĐH Nông Nghiệp Hà Nội
4. />%C3%A0ol%C3%A0c%C3%A2nb%E1%BA%B1ngsinhth%C3%A1i.aspx
5. />6. />%E1%BB%87m-kh%E1%BB%91ng-ch%E1%BA%BF-sinh-h%E1%BB
%8Dc-v%C3%A0-c%C3%A2n-b%E1%BA%B1ng
7. />8. />qid=20100520195731AANMjSj

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×