Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Điều kiện và hậu quả pháp lí của việc tuyên bố cá nhân chết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.27 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Bộ luật Dân sự hiện là bộ luật lớn nhất nước ta hiện nay. Với 777 điều
luật, Bộ luật Dân sự điều chỉnh những mối quan hệ có tính phổ biến trong
đời sống của nhân dân ta hiện nay. Nhưng để áp dụng được vào thực tế một
cách chính xác và hiệu quả nhất vẫn còn nhiều điều phải bàn. Trong Bộ luật
này, chế định “Thông báo tìm kiếm người vắng mặt, tuyên bố mất tích, tuyên
bố chết” có ý nghĩa quan trọng, vì trong quan hệ dân sự, mối quan hệ về
quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các cá nhân gắn bó chặt chẽ với nhau, việc
một người vắng mặt ở nơi cư trú trong một thời gian dài mà không có tin tức
chứng minh rằng người đó còn sống hay đã chết sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới
các chủ thể liên quan khá. Các quy định trong chế định này nhằm giúp cho
các giao lưu dân sự được diễn ra thông suốt, bảo vệ được quyền, lợi ích của
những người liên quan và của chính người vắng mặt. Xuất phát từ ý nghĩa
đó, cùng những gì đã được học từ môn pháp luật dân sự cũng như ý kiến của
các luật gia và các thầy cô giáo, e đã quyết định lựa chọn đề tài số 4 cho bài
tập lớn học kì của mình: “Điều kiện và hậu quả pháp lí của việc tuyên bố
cá nhân chết”
1
NỘI DUNG
I. TUYÊN BỐ CÁ NHÂN CHẾT
1. Cơ sở lí luận
Điều 81 BLDS: Tuyên bố một người là đã chết
1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Toà án ra quyết định
tuyên bố một người là đã chết trong các trường hợp sau đây:
a) Sau ba năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Toà án có
hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
b) Biệt tích trong chiến tranh sau năm năm, kể từ ngày chiến tranh kết
thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau một năm, kể từ ngày tai
nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là
còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;


2
d) Biệt tích năm năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn
sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 78 của Bộ luật
này.
2. Tuỳ từng trường hợp, Toà án xác định ngày chết của người bị tuyên bố
là đã chết căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này.
Điều 78, BLDS: Tuyên bố một người mất tích
1. Khi một người biệt tích hai năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy
đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng
dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay
đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án có thể
tuyên bố người đó mất tích. Thời hạn hai năm được tính từ ngày biết được
tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối
cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng
có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối
cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có
tin tức cuối cùng.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly
hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn.
2. Điều kiện để tuyên bố cá nhân chết
Đây là một chế định đặc biệt của luật dân sự nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
của cá nhân cũng như chủ thể khác có liên quan. Cái chết của cá nhân là sự
kiện pháp lí làm chấm dứt tư cách chủ thể của cá nhân. Nhưng cái chết đó
phải được xác định một cách đích xác và theo quy định của pháp luật phải
3
được khai tử (Điều 30 BLDS ). Trong thực tế có những trường hợp, vì các lí
do khác nhau đã không thể xác định được cá nhân đó còn sống hay đã chết.
Để tăng cường tính chính xác và nhằm giảm thiểu những sai sót trong các
tr   ng h p ng   i bi t tích v n còn s ng nh ng  ã b toà án tuyên b  là  ã
ch t, tr   c khi ra quy t   nh tuyên b  ch t đối với một cá nhân Toà án cần

xem xét đầy đủ các điều kiện sau:
+ Thứ nhất, đã qua thời hạn quy định mà cá nhân đó vẫn không có tin
tức là còn sống. Theo điều kiện trên, Toà án chỉ tuyên bố một cá nhân đã
chết nếu qua thời hạn luật định mà họ vẫn không có tin tức là còn sống. Thời
hạn đó là khoảng thời gian bao nhiêu sẽ được xác định theo từng trường hợp
cụ thể. Theo quy định tại khoản 1 điều 81 BLDS thì thời hạn để tuyên bố
chết đối với một cá nhân như sau:
Nếu tuyên bố chết đối với một cá nhân đã qua thủ tục tuyên bố mất tích
thì phải qua thời hạn là ba năm kể từ ngày tuyên bố mất tích của Toà án có
hiệu lực pháp luật.
Nếu tuyên bố chết đối với người chưa qua thủ tục tuyên bố mất
tích thì phải qua thời hạn là năm năm kể từ ngày chiến tranh kết thúc ( nếu
người đó mất tích trong chiến tranh) hoặc là một năm kể từ ngày tai nạn,
thiên tai, thảm hoạ kết thúc (nếu người đó mất tích trong đợt thiên tai, thảm
hoạ đó).
Nếu là tuyên bố chết đối với người biệt tích lâu ngày mà chưa qua thủ tục
tuyên bố mất tích thì phải qua thời hạn là năm năm kể từ ngày, tháng, năm
biết được tin tức cuối cùng về sự sống còn của họ. Trong trường hợp này,
thời điểm bắt đầu để tính thời hạn năm năm là ngày có tin tức cuối cùng về
người đó. Nếu không xác định được ngày thì tính từ ngày đầu tiên của tháng
4
tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng, nếu không xác định được ngày, tháng
thì tình từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo có tin tức cuối cùng.
Trong bộ luật dân sự không quy định phạm vi không gian về ngày biết tin
tức cuối cùng, nên hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này.
Nhiều người căn cứ vào hướng dẫn của Nghị quyết 03/HĐTP ngày
19/10/1990 của Toà án nhân dân tối cao để xác định không gian của nơi có
tin tức cuối cùng là nơi cư trú của người đó.
Có quan điểm cho rắng, nơi cư trú của cá nhân đã được BLDS quy định
với tinh thần hoàn toàn mới nên việc xác định phạm vi không gian về nơi có

tin tức cuối cùng theo hướng dẫn của nghị quyết nói trên không còn
phù hợp nữa. Mặt khác khi xác định sự sống còn của một người còn phải
chú trọng tính thực tế của nó. Chẳng hạn người không có tin tức còn sống tại
nơi cư trú cuối cùng của họ đã quá năm năm nhưng nếu có căn cứ chính xác
về việc người đó có lần xuất hiện( có mặt) tại địa phương khác thì vẫn phải
coi ngày họ có mặt tại địa phương đó( không phải là nơi cư trú cuối cùng) là
thời điểm bắt đầu tính thời hạn.
+ Thứ hai, phải thông qua thủ tục tìm kiếm
Việc thông báo tìm kiếm với mục đích xác định lại lần cuối cùng về tin
tức sống còn của một người trước khi Toà án quyết định về thân phận pháp
lí của họ. Vì vậy, nếu thủ tục này là không thể thiếu khi tuyên bố cá nhân
mất tích thì cũng không thể thiếu khi tuyên bố cá nhân chết.
Mặc dù BLDS không quy định điều này nhưng nhiều ý kiến cho rằng
không thể thiếu được điều này khi muốn tuyên bố là môt người đã chết. Bởi
lẽ, qua thủ tục này có thể nâng cao tính xác thực trong quyết định của Toà
5
án. Mặt khác, về nguyên tắc, Toà án chỉ được phép tuyên bố một người là đã
chết khi họ “vẫn không có tin tức là còn sống”.
Qua việc phân tích ở trên cho chúng ta thấy rằng, việc thông báo tìm
kiếm là thủ tục rất cần thiết để tuyên bố chết đối với một cá nhân khi chưa
qua thủ tục tuyên bố mất tích. Vậy đối với người đã bị tuyên bố mất tích,
nay muốn tuyên bố họ là đã chết vì đã “sau ba năm, kể từ ngày quyết định
tuyên bố mất tích của Toà án có hiêu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức
là còn sống” thì có cần thủ tục thông báo tìm kiếm không?
Đối với trường hợp này, có trường hợp cho rằng đã được thực hiện trong
thủ tục tố tụng khi tuyên bố người đó mất tích nên khi tuyên bố là họ đã
chết thì không cần thực hiện lại nữa. Tuy nhiên, em cho rằng mục đích chủ
yếu và thiết thực của việc thông báo tìm kiếm là để xác định lần cuối cùng
về tin tức sống còn của một người nên trước khi tuyên bố một người là đã
chết cần phải thông báo lại việc tìm kiếm (mặc dù họ là người đã được tuyên

bố là đã chết).
+ Thứ ba, cần phải có yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan.
Người có quyền, lợi ích liên quan là những người có mối liên hệ nào đó
(hôn nhân gia đình, quan hệ hành chính, quan hệ lao động, quan hệ dân sự, )
với người vắng mặt mà sự vắng mặt của người đó ảnh hưởng tới quyền lợi
của họ.
Mục đích của việc tuyên bố chết đối với một cá nhân là tạo ra cơ sở pháp
lí để những người nói trên có thể thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích của
mình. Chẳng hạn một chủ nợ yêu cầu Toà án tuyên bố một người (vốn là
một con nợ của mình) là đã chết khi họ đã biệt tích lâu ngày nhằm thu hồi
6
khoản nợ từ tài sản mà người đó để lại theo quy định của pháp luật về thừa
kế.
Mặt khác, theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì Toà án chỉ thụ lí
vụ việc khi có đơn khởi kiện của đương sự. Vì vây, Toà án chỉ có thể ra
quyết định tuyên bố môt cá nhân chết khi có yêu cầu của người có quyền, lợi
ích liên quan.
3. Xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết.
Việc xác định ngày chết của một người có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Đó là một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn, liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp
của nhiều người. Ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết là cơ sở
để xác định ngày mở thừa kế đối với di sản của người đó và là ngày để xác
định các quan hệ khác mà người đó tham gia được coi là chấm dứt. Tuy
nhiên bộ luật dân sự mới quy định một cách chung chung nhất về việc xác
định ngày chết như sau: “Tùy từng trường hợp, Tòa án xác định ngày chết
của người bị tuyên bố là đã chết căn cứ vào các trường hợp quy định tại
khoản 1 điều này”. Trong quá trình soạn thảo Bộ luật dân sự, đây là một vấn
đề có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng cần sửa đổi quy định trên
về việc xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết theo hướng
không căn cứ vào ngày quyết định của Tòa án tuyên bố người đó là đã chết

có hiệu lực pháp luật mà tùy trường hợp cụ thể, Tòa án sẽ xác định ngày chết
của người đó và nêu rõ trong quyết định tuyên bố chết. Việc sửa đổi này là
cần thiết, vì nếu giữ nguyên như quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995 sẽ
không bảo vệ được các quyền, lợi ích chính đáng của người khác là người có
các quyền, lợi ích liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố chết.
Trên thực tế, cách giải quyết của các Tòa án cũng có nhiều điểm khác biệt.
7
Có trường hợp Tòa án tuyên bố ngày chết là căn cứ vào ngày người đó vắng
mặt tại nơi cơ trú, nhưng cũng có trường hợp lại xác định là ngày Tòa án mở
phiên tòa, nhưng có trường hợp xác định vào ngày quyết định của Tòa án có
hiệu lực. Qua nội dung các bản án cho thấy mặc dù tình tiết của Tòa án
tương đối giống nhau, nhưng cách xác định ngày chết của mỗi Tòa án lại
khác nhau, không thống nhất, trong khi đó đây lại là một vấn đề rất quan
trọng, có liên quan đến việc xác định thời điểm mở thừa kế, diện người thừa
kế, thời hiệu khởi kiện về thừa kế.
Bên cạnh ý kiến nêu trên có ý kiến cho rằng nên xác định ngày chết của
người bị tuyên bố chết là ngày người đó biệt tích khỏi nơi cư trú, vì các lí do
sau:
- Quyết định này đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân có
liên quan, đặc biệt là các đối tượng thuộc diện được hưởng di sản thừa kế thế
vị.
Thực tế cho thấy người bị Tòa án tuyên bố chết bị biệt tích ở nơi cư trú
trong khoảng thời gian rất dài, tính đến ngày người có quyền, lợi ích liên
quan yêu cầu Tòa án xác định người đó đã chết. Do đó nếu xác định ngày
chết là ngày người đó biệt tích tại nơi cư trú sẽ tránh được các vấn đề phức
tạp phát sinh từ khối tài sản của người thừa kế.
- Do khoảng thời gian kể từ khi người đó biệt tích cho đến khi bị Tòa án
tuyên bố chết là khá dài (khoảng 5 năm),nếu xác định ngày chết là ngày
quyết định của Tòa án có hiệu lực như quy định của Bộ luật dân sự 1995 thì
sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của những người có quyền, lợi ích liên quan đến

tài sản của người bị tuyên bố chết (ví dụ: người đang có quan hệ hợp đồng
8
mua bán tài sản với người đó, người đã đồng sở hữu với tài sản thuộc sở hữu
chung với người bị tuyên bố chết) và các quan hệ dân sự đó sẽ bị ngưng trệ
cho đến khi Tòa án có quyết định tuyên bố người đó chết. Tuy nhiên ý kiến
này không được chấp nhận và khoản 2 điều 81 Luật dân sự 2005 sửa lại
theo hướng tùy từng trường hợp, Tòa án xác định ngày chết của người bị
tuyên bố chết căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 81 Bộ
luật này.
4. Hậu quả pháp lí đối với người bị tuyên bố là đã chết.
Việc tuyên bố một người là đã chết gây ra các hậu quả pháp lí như sau:
- Tư cách chủ thể của người bị ra quyết định tuyên bố là đã chết chấm dứt
hoàn toàn.
- Về quan hệ nhân thân: quan hệ về hôn nhân gia đình và các quan hệ nhân
thân khác của người đó được giải quyết như đối với người đã chết.
- Về quan hệ tài sản: được giải quyết như đối với người đã chết, tài sản của
người bị tuyên bố là đã chết được giải quyết theo quy định của pháp luật về
thừa kế.
5. Quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố một cá nhân là đã chết và hậu
quả pháp lí của sự hủy bỏ đó.
Khi Tòa án ra quyết định tuyên bố là đã chết với cá nhân thì cái chết đó
chỉ là cái chết mang tính “suy đoán pháp lí”. Do đó, sự suy đoán này có thể
chính xác hoặc không chính xác. Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về
hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó
9
hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ
quyết định tuyên bố người đó là đã chết.
Hậu quả pháp lí của quyết định hủy bỏ này là:
- Thứ nhất, tư cách chủ thể của người bị tuyên bố là đã chết được trở
lại tình trạng ban đầu như khi họ còn sống.

- Thứ hai, quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết được khôi phục
khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết
nhưng cần lưu ý các trường hợp sau:
• Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết được tòa án cho li
hôn theo quy định tại khoản 2 điều 78 BLDS 2005 thì quyết định cho li hôn
vẫn có hiệu lực pháp luật. Nếu người bị tuyên bố là đã chết trở về mà
muốn xác lập lại quân hệ vợ chồng đối với vợ hoặc chồng đã được Tòa án
cho li hôn sẽ phải làm thủ tục đăng kí kết hôn theo quy định của pháp luật.
• Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác
thì việc kết hôn với người đó vẫn có hiệu lực pháp luật.
• Thứ ba, về quan hệ tài sản: người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có
quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản. Trong
trường hợp người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết biết người này
còn sống mà cố tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế thì người đó phải hoàn
trả lại toàn bộ tài sản đã nhận, kể cả hoa lợi lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải
bồi thường.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VƯỚNG MẮC KHI TUYÊN BỐ CÁ NHÂN CHẾT
VÀ HƯỚNG GIẢI QUYẾT
10
1. Một số vướng mắc trong việc giải quyết li hôn đối với người đã được
tuyên bố là đã chết
Theo quy định của pháp luật hầu hết về việc tuyên bố một người mất tích
hoặc đã chết và quyền yêu cầu li hôn với người mất tích thì: “Khi một người
biệt tích hai năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp
thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn
không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu
cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó
mất tích” và “trong trường hợp người vợ/chồng của người bị tuyên bố mất
tích xin li hôn thì Tòa án giải quyết cho li hôn”. Một tình trạng khó phổ biến
hiện nay là trong quan hệ hôn nhân, khi xảy ra tình trạng cơm không lành

canh không ngọt, một bên vợ chồng thường bỏ đi mất tích. Để chấm dứt
quan hệ hôn nhân đó, người có quyền yêu cầu ly hôn với người mất tích phải
khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn. Trước đây, theo Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án dân sự để ly hôn với người mất tích trước hết
phải thực hiện thủ tục tuyên bố người đó mất tích sau đó mới giải quyết việc
ly hôn trong cùng một vụ án. Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19/10/1990 của
Hội đồng thành phố Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy
định của pháp luật nêu rõ: “Khi nhận được đơn khởi kiện của đương sự, Tòa
án yêu cầu đương sự đến cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình của tỉnh,
trung ương nhắn tin tìm người vắng mặt và lấy giấy xác nhận của cơ quan
đó về việc đã nhắn tin tìm người vắng mặt nộp cho Tòa án để Tòa án thụ lí
vụ án. Tòa án cũng có quyền yêu cầu người khởi kiện nộp tiền tạm ứng cho
việc thông báo tìm người vắng mặt trên báo chí, đài phát thanh, đài vô
tuyến truyền hình của tỉnh và trung ương để Tòa án thụ lí vụ án và thông
báo tìm kiếm người vắng mặt. Người khởi kiện phải chịu phí tổn về việc
11
thông báo tìm kiếm người vắng mặt”. Như vậy, Nghị quyết 03 không quy
định cụ thể cần phải đăng kí hoặc phát sóng thông báo tìm kiếm vắng mặt
trên đài báo là bao nhiêu lần. Do vậy, thực tiễn giải quyết vụ việc này trong
thời gian qua thường là Tòa án chỉ gửi thông báo tìm kiếm người vắng mặt
cho cơ quan báo chí đăng báo hoặc đài phát sóng một lần. Chi phí cho việc
này hết khoảng vài ba trăm ngàn đồng. Hiện nay, theo quy định của bộ luật
tố tụng Dân sự, có hiệu lực kể từ ngày sự 01/01/2005 thì yêu cầu tuyên bố
mất tích là việc dân sự còn ly hôn là vụ án dân sự (trừ tường hợp thuận tình
ly hôn được coi là việc dân sự). Nếu đương sự vừa có yêu cầu tuyên bố một
người mất tích vừa có yêu cầu xin li hôn thì phải yêu cầu để Tòa án giải
quyết việc tuyên bố trước, sau đó mới giải quyết việc li hôn. Theo quy định
của Pháp luật hiện hành thì “thông báo tìm người vắng mặt tại nơi cư trú
phải được đăng trên báo hàng ngày của Trung ương trong 3 số liên tiếp” và
“chi phí cho việc đăng, phát thông báo tìm kiếm người vắng mặt tai nơi cư

trú do người yêu cầu chịu”. Việc quyết định thông báo tìm kiếm người vắng
mặt tại nơi cư trú là cần thiết để tòa án có cơ sở giải quyết yêu cầu tuyên bố
một người mất tích hoặc giải quyết vụ án ly hôn đối với họ. Tuy nhiên
vướng mắc phát sinh từ quy định này là ở chỗ chi phí để thực hiện cho việc
thông báo, nhắn tin đó không phải là nhỏ đặc biệt là với những người có
hoàn cảnh kinh tế khó khăn (để thực hiện việc thông báo tìm kiếm nêu trên
phải hết hơn 1 triệu đồng). Trong những năm qua nhà nước có nhiều chế độ,
chính sách để hỗ trợ những đối tượng gặp khó khăn như trợ giúp pháp lí
miễn phí, miễn giảm tiền án phí dân sự. Những quy định trên đã góp phần
tạo nên sự bình đẳng cho các chủ thể tham gia tố tụng, bảo vệ quyền và lợi
ích của mình. Tuy nhiên đối với các chi phí khác như giám định, nhắn tin
cho đến nay, chưa có quy định nào về việc miễn giảm các khoản này. Chính
bởi vậy không ít trường hợp do không đủ điều kiện để thực hiện việc thông
12
báo theo quy định của pháp luật hiện hành, đơn sự đã phải rút đơn yêu cầu
tuyên bố một người mất tích và do đó Tòa án cũng không thể giải quyết
được yêu cầu xin li hôn của người đó. Trong quan hệ hôn nhân, mỗi người
đều mong muốn xây dựng được một quan hệ hạnh phúc, bền vững, dài lâu.
Nhưng vì nhiều lí do khác nhau, khi mục đích này không đạt được thì li hôn
là một trong những cách thức hợp pháp để giải quyết sự rằng buộc về quan
hệ hôn nhân đó. Thiết nghĩ trong thời gian tới, cần có những quy định về
việc miễn, giảm chi phí cho việc nhắn tin cho những đối tượng có hoàn
cảnh khó khăn để cho họ có hướng đi mới trong trường hợp họ có yêu cầu
xin li hôn với người mất tích.
2. Vẫn còn sự thiếu chính xác khi tuyên bố một người chết
Mặc dù, pháp luật Việt Nam tuyên bố khá cụ thể về việc tuyên bố một
người là đã chết. Tuy nhiên pháp luật vẫn còn có những lỗ hổng cần khắc
phục, cần bổ sung thêm một số điều cần lưu ý khi tuyên bố một người là đã
chết.
Cụ thể là: khi Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì chỉ tuyên bố dưới

dạng pháp lí nhưng chưa dự liệu hay đề cập đến cái chết sinh học của người
đó. Thực tế cho thấy, khi tuyên bố một người là đã chết cũng chỉ là sự suy
đoán của Tòa án về sự sống còn của họ. Điều đó đòi hỏi pháp luật cần phải
có trình tự thủ tục, điều kiện để tuyên bố một người là đã chết cần phải rõ
ràng, cụ thể cho từng trường hợp để hạn chế những hậu quả nhất định.
Thiết nghĩ, Tòa án cần xem xét kĩ lưỡng những tình tiết, điều kiện để giảm
thiểu sai sót, tăng cường tính chính xác của các suy đoán. Ngoài ra việc xác
định không gian nơi có tin tức cuối cùng của người đó cũng phải điều chỉnh,
bởi vì khi xác định sự sống của một người cần phải chú trọng đến tính thực
13
tế của nó. Chẳng hạn khi không có tin tức là họ còn sống tại nơi cư trú cuối
cùng của họ đã quá năm năm thì sẽ bị Tòa án tuyen bố là đã chết, nhưng nếu
có căn cứ chính xác về việc người đó đã từng xuất hiện (có mặt) tại địa
phương khác thì vẫn phải coi ngày mà họ có mặt tại địa phương đó (không
phải nơi cư trú cuối cùng) là thời điểm tính thời hạn.
3. Có nên tuyên bố mất tích và tuyên bố chết đối với người đang bị truy nã
Xung quanh vấn đề này còn có rất nhiều tranh cãi, những ý kiến trái
chiều:
Ta có thể hiểu rõ vấn đề này thông qua ví dụ sau: “Mới đây, bà M đã gửi
đơn ra Tòa án nhân dân quận X (TP.HCM) yêu cầu tuyên bố người chồng
của bà mất tích. Theo bà, trước đây chồng bà cùng một số người khác thực
hiện nhiều vụ cướp giật tài sản, bị công an truy bắt. Sợ phải vào tù chồng bà
đã gom sạch số tài sản quý bỏ đi biệt tích. Gần 5 năm nay, chồng bà không
hề liên lạc với gia đình. Hiện nay chồng bà vẫn bị truy nã. Nhận được đơn
của bà M, Tòa án nhân dân quận X sau khi nghiên cứu đã trả đơn, từ chối
thụ lí. Theo tòa, chồng bà M thuộc trường hợp trốn lệnh truy nã của công an
chứ không phải mất tích thông thường nên không thể giải quyết yêu cầu của
bà M được. Trong khi người chồng cứ biệt tích không tung tích, bà muốn
làm lại cuộc đời, xây dựng hạnh phúc mới cho mình mà không biết
phải làm sao”. Trong thực tế, những trường hợp như trên xảy ra không phải

là hiếm. Hiện nay, pháp luật Dân sự chưa có quy định điều chỉnh vấn đề này
đang có hai luồng quan điểm trái ngược nhau. Một số ý kiến cho rằng,
không được tuyên bố người đang bị truy nã là mất tích hoặc đã chết. Một số
ý kiến khác cho rằng, việc tuyên bố một người mất tích, tuyên bố một người
đã chết và việc truy nã để bắt người bị kết án buộc chấp hành hình phạt là
14
hai quan hệ pháp luật độc lập không phụ thuộc, khống chế lẫn nhau. Sẽ là vô
lí nếu xảy ra trường hợp Tòa án đưa cơ quan cánh sát điều tra đã có lệnh truy
nã vào tham gia tố tụng trong việc giải quyết vụ việc dân sự. Mặt khác, khi
một người thuộc vào một trong các trường hợp vào điều kiện để tuyên bố là
đã chết theo quy định tại điều 81 Bộ luật Dân sự không có nghĩa là họ đã
chết về mặt sinh học mà chỉ là đối tượng để Tòa án xem xét, tuyên bố đã
chết trên phương diện pháp lí để nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của
những người liên quan. Chính điều này mà Bộ luật Dân sự có thêm quy
định về hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết khi người đó trở về
hoặc khi có tin tức xác thực là người đó còn sống. Mặc dù pháp luật chưa
quy định cụ thể nhưng cần phải hiểu rằng căn cứ pháp lí để chấm dứt việc
thi hành bản án hình sự là người đó bị chết thực tế về mặt hình sự. Theo đó
việc tuyên bố một người bị truy nã mất tích, chết theo Điều 81 Bộ luật Dân
sự năm 2005 sẽ không phủ nhận triệt tiêu giá trị pháp lí của quyết định truy
nã và không phải là cơ sở làm chấm dứt nhiệm vụ chấp hành bản án của
người bị kết án. Hơn nữa, việc pháp luật quy định về việc một người tuyên
bố mất tích, một người tuyên bố chết là nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính
đáng của những người tham gia quan hệ pháp luật mà người biệt tích là một
chủ thể trong quan hệ pháp luật đó. Việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
người liên quan là nhu cầu, đòi hỏi thực tế cần thiết mà không cần phải tính
đến người đó biệt tích vì lí do gì và Bộ luật Dân sự chỉ quy định điều kiện
thời gian của sự biệt tích để tuyên bố một người mất tích, một người chết mà
hoàn toàn không đưa ra lí do mà họ biệt tích là gì. Vì những lí do trên có thể
khẳng định hoàn toàn có thể tuyên bố một người bị truy nã là mất tích, là đã

chết nếu có đủ các điều kiện quy định tại điều 78 và điều 81 Bộ luật Dân sự
2005. Để phù hợp với thực tế và tạo nên sự thống nhất giữa các ngành luật,
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần ban hành văn bản dưới luật để quy
15
định cụ thể hơn về việc Toà án có thể ra quyết định cụ thể hơn về việc Toà
án có thể ra quyết định tuyên bố chết đối với cá nhân hay không nếu họ là
người đang bị cơ quan điều tra truy nã.
KẾT BÀI.
Như vậy, có thể thấy, tuyên bố chết là một chế định đặc biệt của Luật
Dân sự nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân cũng như của các chủ thể có liên
quan. Chế định này đã được quy định khá cụ thể trong Bộ luật Dân sự 2005
nhưng do sự phức tạp và biến đổi nhanh chóng của các quan hệ xã hội nên
không tránh khỏi những vướng mắc, cần được nghiên cứu để được sửa đổi,
bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Do phạm vi đề tài khá rộng mà
kinh nghiệm chưa tích lũy được nhiều nên trong quá trình làm bài không
tránh khỏi những sai sót, rất mong các thầy cô giáo đóng góp ý kiến để bài
làm được hoàn thiện hơn, em xin chân thành cảm ơn.
16
MỤC LỤC
17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO :
1. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam – Tập 1, NXB Công an nhân dân,
trường Đại học Luật Hà Nội.
2. Bộ Luật Dân sự nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
3. Những trang web tham khảo:
- www.sggp.ovg.vn
- www.edu.hochiminhcity.com
- www.tintuc.timnhanh.com
18

×