Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tuyên bố chết, mất tích và hậu quả pháp lí của việc tuyên bố cá nhân mất tích và tuyên bố cá nhân chết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.57 KB, 15 trang )

A.LỜI MỞ ĐẦU
Chế định “Thông báo tìm kiếm người vắng mặt, tuyên bố mất tích, tuyên
bố chết” trong bộ Luật dân sự có ý nghĩa quan trọng, vì trong quan hệ dân sự,
mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các cá nhân gắn bó chặt chẽ với
nhau, việc một người vắng mặt ở nơi cư trú trong một thời gian dài mà không có
tin tức chứng minh rằng người dó còn sống hay đã chết sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới
các chủ thể liên quan khác. Các quy định trong chế định này. Các quy định trong
chế định này nhằm giúp cho các giao lưu dân sự được diễn ra thông suốt, bảo vệ
được quyền, lợi ích của những người liên quan và của chính người vắng mặt.
Xuất phát từ ý nghĩa đó, cùng những gì đã được học từ môn pháp luật dân
sự cũng như ý kiến của các luật gia và các thầy cô giáo, e đã quyết định lựa chọn
đề tài số 6 cho bài tập lớn học kì của mình: “Tuyên bố chết, mất tích và hậu quả
pháp lí của việc tuyên bố cá nhân mất tích và tuyên bố cá nhân chết”
B.NỘI DUNG
1. Tuyên bố cá nhân mất tích và hậu quả pháp lí đối với việc tuyên bố cá
nhân mất tích.
Điều 78 Bộ luật dân sự 2005 quy định:
“1. Khi một người biệt tích hai năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ
các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự
nhưng không có tin tức xác thực là người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu
của những người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất
tích. Thời hạn hai năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng của người
đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính
từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác
định được ngày tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu
tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin li hôn thì
Tòa án giải quyết cho li hôn”
Điều 330 Bộ luật tố tụng Dân sự quy định:
“ Khi làm đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích đương sự phải gửi kèm
đơn là chứng cứ để chứng minh người bị yêu cầu tuyên bố mất tích đã biệt tích hai


năm liền trở nên mà không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã
chết và chứng minh cho việc người yêu cầu đẫ áp dụng đầy đủ các biện pháp
thông báo tìm kiếm. Trong trường hợp trước đó đã có quyết định của Tòa án
thông báo tìm kiếm người vắng mặt nơi cư trú thì phải có bản sao quyết định đó”
1.1 Điều kiện để tuyên bố cá nhân mất tích.
Căn cứ vào quy định tại điều 78 Luật Dân sự 2005, điều 330 Luật tố tụng Dân sự
Tòa án có thể tuyên bố một người mất tích khi có các điều kiện sau:
• Thứ nhất: Điều kiện về thời gian.
Theo quy định trên thì Tòa án chỉ tuyên bố một người là mất tích khi
đã biệt tích hai năm liền trở lên mà vẫn không có tin tức nào về người đó còn
sống hay đã chết. Các chứng minh người bị yêu cầu tuyên bố mất tích đã biệt
tích hai năm liền trở lên mà vẫn không có tin tức xác thực là người đó còn
sống hay đã chết có thể là sự xác nhận của công an địa phương về việc người
đó đã đi khỏi nơi đăng kí thường trú quá hai năm liền mà không hay biết họ ở
đâu, công an đã xóa hộ khẩu thường trú (nếu có…).Pháp luật không quy định
rõ phạm vi không gian cũng như chủ thể nhận biết tin tức này nhưng căn cứ
vào điều 74 bộ luật Dân sự có thể xác định phạm vi không gian là nơi cư trú
cuối cùng của người đó (nơi cư trú của cá nhân được xác định tại mục 3
chương 3 phần thứ nhất của Bộ luật Dân sự 2005).
• Thứ hai: Phải thông qua thủ tục tìm kiếm.
Đây là một thủ tục rất cần thiết và không thể thiếu để các Tòa án có
thể tuyên bố một người mất tích. Qua thủ tục này, tính chính xác trong quyết
định của Tòa án được nâng cao. Tòa án có thể tự thông báo hoặc yêu cầu
những người có quyền, lợi ích liên quan thông báo. Hình thức, biện pháp
thông báo được quy định trong Luật tố tụng Dân sự, như phạm vi thông báo,
điều kiện thông báo... Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng
thành phố Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của
pháp luật nêu rõ: “Khi nhận được đơn khởi kiện của đương sự, Tòa án yêu cầu
đương sự đến cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình của tỉnh, trung ương
nhắn tin tìm người vắng mặt và lấy giấy xác nhận của cơ quan đó về việc đã

nhắn tin tìm người vắng mặt nộp cho Tòa án để Tòa án thụ lí vụ án.
Các chứng minh cho việc người yêu cầu đã áp dụng đầy đủ các biện
pháp thông báo, tìm kiếm như đăng thông báo tìm kiếm trên báo hàng ngày
của trung ương trong 3 số liên tiếp và phát sóng trên đài phát thanh hoặc đài
truyền hình trung ương 3 lần trong 3 ngày liên tiếp. Như vậy, để thuận lợi cho
cho việc xin tuyên bố công dân mất tích cách tốt nhất là phải trình báo ngay
với công an địa phương đồng thời đăng kí tìm kiếm trên.
• Thứ ba: Phải có yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan.
Người có quyền, lợi ích liên quan là những người có mối liên hệ nào đó
(hôn nhân gia đình, quan hệ hành chính, quan hệ lao động, quan hệ dân
sự,..)với người vắng mặt mà sự vắng mặt của người đó ảnh hưởng tới quyền
lợi của họ.
Mục đích của việc tuyên bố chết đối với một cá nhân là tạo ra cơ sở
pháp lí để những người nói trên có thể thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích
của mình.
Mặt khác, theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì Toà án chỉ thụ
lí vụ việc khi có đơn khởi kiện của đương sự. Vì vây, Toà án chỉ có thể ra
quyết định tuyên bố môt cá nhân chết khi có yêu cầu của người có quyền, lợi
ích liên quan. Bởi vậy, khi xem xét yêu cầu của đương sự, Tòa án phải kiểm
tra các điều kiện cần thiết và nếu thấy đáp ứng đầy đủ các yêu cầu mà pháp
luật quy định, Tòa án ra quyết định người biệt tích đó là mất tích.
1.2 Hậu quả pháp lí của việc tuyên bố cá nhân mất tích.
Việc tuyên bố một người là mất tích kéo theo những hậu quả pháp lí nhất định:
• Thứ nhất: Tạm thời đình chỉ tư cách chủ thể của người bị tuyên bố là mất
tích, tuy nhiên quyết định này không làm chấm dứt tư cách chủ thể của họ.
• Thứ hai: Tài sản của người bị tuyên bố mất tích được quản lí theo quy định
của Tòa án được quy định tại các điều 75, 76, 77, 79 Bộ luật Dân sự 2005
về quản lí tài sản của người vắng mặt, của người bị tuyên bố là mất tích. Cụ
thể: Tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú do người được người vắng
mặt ủy quyền quản lí. Trong trường hợp người đó không ủy quyền cho ai

quản lí tài sản, nếu là tài sản thuộc sở hữu chung thì sẽ do chủ sở hữu
chung còn lại quản lí; nếu tài sản đang do vợ/ chồng của người đó quản lí
thì vợ/ chồng tiếp tục quản lí, nếu vợ/ chồng chết hoặc mất năng lực hành
vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì con đã thành niên hoặc
cha mẹ của người vắng mặt quản lí. Trong trường hợp không có những
người quản lí nói trên thì Tòa án chỉ định một trong những người thân thích
của người vắng mặt tại nơi cư trú quản lí tài sản; nếu không có người thân
thích thì Tòa án chỉ định cho người khác quản lí tài sản.
• Thứ ba: Trong trường hợp vợ/ chồng của người bị tuyên bố là mất tích xin
li hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. Sau khi li hôn thì tài sản của người
mất tích được giao cho con đã thành niên hoặc cha, mẹ của người mất tích
quản lí; nếu không có người thân thích thì Tòa án chỉ định người khác quản
lí tài sản.
1.3 Hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích và hậu quả pháp lí của việc hủy bỏ
đó.
Việc tuyên bố một người mât tích chỉ tạm dừng năng lực chủ thể của
người đó. Việc tạm dừng này có thể thay đổi theo hai hướng: phục hồi năng lực
chủ thể hoặc chấm dứt tư cách chủ thể. Việc chấm dứt tư cách chủ thể được diễn
ra khi có tin tức rằng họ đã chết hoặc bị tuyên bố là đã chết. Phục hồi tư cách chủ
thể của người bị tuyên bố là mất tích xảy ra trong hai trường hợp: Người bị tuyên
bố mất tích trở về hoặc có tin tức chứng tỏ người đó còn sống. Khi có một trong
hai trường hợp đó thì theo yêu cầu của người đó hoặc người có quyền, lợi ích liên
quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó mất tích. Việc
Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích khi người đó trở về hoặc
khi có tin tức xác thực là người đó còn sống là vấn đề rất quan trọng vì sẽ kéo
theo các hậu quả liên quan đến quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của người
đó. Bên cạnh quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của người bị tuyên bố mất tích,
pháp luật cũng đảm bảo sự ổn định của các quan hệ dân sự có liên quan đến
người bị tuyên bố mất tích phát sinh trong khoảng thời gian người đó bị tuyên bố
mất tích.

Hậu quả pháp lí của việc tuyên bố này được quy định như sau:
Thứ nhất: Tư cách chủ thể của người bị tuyên bố mất tích trở về được phục hồi.
Thứ hai: Người bị tuyên bố mất tích trở về được nhận lại tài sản do người quản lí
tài sản chuyển giao sau khi đã thanh toán chi phí quản lí.
Thứ ba: Trong trường hợp vơ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích đã được
li hôn thì dù người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người
đó còn sống, quyết định cho li hôn vẫn có hiệu lực pháp luật.
2.Tuyên bố cá nhân chết và hậu quả của việc tuyên bố cá nhân chết
Điều 81 Bộ luật dân sự 2005 quy định:
1.Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu toà án ra quyết định tuyên
bố một người là đã chết trong các trường hợp sau:
a, Sau ba năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của toà án có hiệu lực
pháp luật mà vẫn có tin tức xác thực là còn sống.
b, Biệt tích trong chiễn tranh sau năm năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc
mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống.
c, Bị tai nạn hoặc thảm hoạ thiên tai mà sau một năm, kể từ ngày tai nạn hoặc
thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có thông tin xác thực là người đó còn
sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác
d, Biệt tích năm năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống;
thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 78 của Bộ luật này.
2. Tuỳ từng trường hợp, Toà án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là
đã chết căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 điều này.
2.1 Điều kiện để tuyên bố cá nhân chết.
Đây là một chế định đặc biệt của luật dân sự nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của
cá nhân cũng như chủ thể khác có liên quan. Cái chết của cá nhân là sự kiện pháp
lí làm chấm dứt tư cách chủ thể của cá nhân. Nhưng cái chết đó phải được xác
định một cách đích xác và theo quy định của pháp luật phải được khai tử (Điều
30 BLDS ). Trong thực tế có những trường hợp, vì các lí do khác nhau đã không
thể xác định được cá nhân đó còn sống hay đã chết. Để tăng cường tính chính xác
và nhằm giảm thiểu những sai sót trong các trường hợp người biệt tích vẫn còn

sống nhưng đã bị toà án tuyên bố là đã chết, trước khi ra quyết định tuyên bố chết
đối với một cá nhân Toà án cần xem xét đầy đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, đã qua thời hạn quy định mà cá nhân đó vẫn không có tin tức là
còn sống.
Theo điều kiện trên Toà án chỉ tuyên bố một cá nhân đã chết nếu qua thời
hạn luật định mà họ vẫn không có tin tức là còn sống. Thời hạn đó là khoảng thời
gian bao nhiêu sẽ được xác định theo từng trường hợp cụ thể. Theo quy định tại
khoản 1 điều 81 BLDS thì thời hạn để tuyên bố chết đối với một cá nhân như sau:
Nếu tuyên bố chết đối với một cá nhân đã qua thủ tục tuyên bố mất tích thì
phải qua thời hạn là ba năm kể từ ngày tuyên bố mất tích của Toà án có hiệu lực
pháp luật.
Nếu tuyên bố chết đối với người chưa qua thủ tục tuyên bố mất tích thì
phải qua thời hạn là năm năm kể từ ngày chiến tranh kết thúc ( nếu người đó mất
tích trong chiến tranh) hoặc là một năm kể từ ngày tai nạn, thiên tai, thảm hoạ kết
thúc (nếu người đó mất tích trong đợt thiên tai, thảm hoạ đó).
Nếu là tuyên bố chết đối với người biệt tích lâu ngày mà chưa qua thủ tục
tuyên bố mất tích thì phải qua thời hạn là năm năm kể từ ngày, tháng, năm biết
được tin tức cuối cùng về sự sống còn của họ. Trong trường hợp này, thời điểm
bắt đầu để tính thời hạn năm năm là ngày có tin tức cuối cùng về người đó. Nếu
không xác định được ngày thì tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có
tin tức cuối cùng, nếu không xác định được ngày, tháng thì tình từ ngày đầu tiên
của năm tiếp theo có tin tức cuối cùng.
Trong bộ luật dân sự không quy định phạm vi không gian về ngày biết tin
tức cuối cùng, nên hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Nhiều
người căn cứ vào hướng dẫn của Nghị quyết 03/HĐTP ngày 19/10/1990 của Toà
án nhân dân tối cao để xác định không gian của nơi có tin tức cuối cùng là nơi cư
trú của người đó.
Có quan điểm cho rắng, nơi cư trú của cá nhân đã được BLDS quy định
với tinh thần hoàn toàn mới nên việc xác định phạm vi không gian về nơi có tin
tức cuối cùng theo hướng dẫn của nghị quyết nói trên không còn phù hợp nữa.

Mặt khác khi xác định sự sống còn của một người còn phải chú trọng tính thực tế
của nó. Chẳng hạn người không có tin tức còn sống tại nơi cư trú cuối cùng của
họ đã quá năm năm nhưng nếu có căn cứ chính xác về việc người đó có lần xuất

×