Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

ảnh hưởng của văn hoá kinh doanh đan mạch đến quan hệ thương mại của đan mạch với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 86 trang )



TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI











KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:

ẢNH HƢỞNG CỦA VĂN HOÁ KINH DOANH ĐAN
MẠCH ĐẾN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI CỦA ĐAN
MẠCH VỚI VIỆT NAM







Sinh viên thực hiện : Bùi Diệu Hƣơng


Lớp : Anh 10
Khóa : 44C
Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Hoàng Ánh












Hà Nội - 05/2009




MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HOÁ KINH DOANH VÀ ẢNH HƢỞNG
CỦA VĂN HOÁ KINH DOANH ĐẾN THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ 3
1.1. Khái niệm về VHKD 3
1.1.1. Văn hoá 3
1.1.2. Văn hoá kinh doanh 16
1.2. Ảnh hưởng của VHKD đến quan hệ thương mại quốc tế 19
1.2.1. Ảnh hưởng của văn hoá kinh doanh đến tư duy trong kinh doanh 20

1.2.2. Ảnh hưởng của văn hoá kinh doanh đến giao tiếp trong kinh doanh 21
1.2.3. Ảnh hưởng của văn hoá kinh doanh đến marketing 23
Chƣơng 2: ẢNH HƢỞNG CỦA VĂN HOÁ KINH DOANH ĐAN MẠCH ĐẾN
QUAN HỆ THƢƠNG MẠI GIỮA ĐAN MẠCH VÀ VIỆT NAM 26
2.1. Giới thiệu chung về Đan Mạch 26
2.1.1. Đất nước Đan Mạch 26
2.1.2. Hệ thống chính trị 27
2.1.3. Con người 27
2.1.4. Kinh tế 29
2.1.5. Văn hóa 33
2.2. Quan hệ thương mại của Việt Nam – Đan Mạch 40
2.2.1. Các hiệp định thương mại đã ký kết 40
2.2.2. Trao đổi thương mại 41
2.3. Ảnh hưởng của văn hoá kinh doanh Đan Mạch đến quan hệ thương mại của
Đan Mạch với Việt Nam 42
2.3.1. Đặc điểm văn hóa kinh doanh của Đan Mạch 42
2.3.3. Ảnh hưởng của văn hoá kinh doanh Đan Mạch đến quan hệ thương mại
Việt Nam – Đan Mạch 55




Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ VĂN HÓA KINH DOANH NHẰM
TĂNG CƢỜNG QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM – ĐAN MẠCH 61
3.1. Đánh giá nhận thức của thương nhân Việt Nam về văn hóa kinh doanh của
Đan Mạch 61
3.1.1. Thành công 61
3.1.2. Hạn chế 62
3.2. Triển vọng phát triển quan hệ thương mại Việt Nam – Đan Mạch 63
3.2.1. Xuất khẩu 64

3.2.2. Nhập khẩu 67
3.3. Một số giải pháp về văn hóa kinh doanh nhằm tăng cường quan hệ thương
mại Việt Nam – Đan Mạch 68
3.3.1.Giải pháp đối với Nhà nước 69
3.3.2. Giải pháp đối với doanh nghiệp 74
3.3.3. Một số giải pháp khác 78
KẾT LUẬN 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO 81












DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1: Bảng xếp hạng nền kinh tế phát triển năng động và cạnh tranh nhất của EU
năm 2008 29
Bảng 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Đan Mạch giai đoạn 2004 – 2008 32
Bảng 3: Tỷ lệ hàng hóa xuất khẩu sang các thị trường chính của Đan Mạch năm
2007 (%) 33
Bảng 4: Tỷ lệ hàng hóa nhập từ các thị trường chính của Đan mạch năm 2007(%) 33
Bảng 6: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Đan Mạch giai đoạn 2003 - 2007 41
Bảng 7: Cơ cấu tiêu dùng của người Đan Mạch 52


Biểu đồ 1: Cơ cấu ngành của Đan Mạch năm 2006 30










1
LỜI NÓI ĐẦU
Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế hiện đang là đặc trưng và xu
hướng phát triển phổ biến của nền kinh tế thế giới. Hòa cùng xu hướng chung đó,
quá trình mở cửa hội nhập kinh tế của Việt Nam cũng ngày càng diễn ra mạnh mẽ
và sâu rộng. Có thể nói quá trình này đã và đang mang lại cho Việt Nam nhiều
thành quả tốt đẹp, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Trong các nội dung của quá trình hội nhập kinh tế thì hoạt động
thương mại quốc tế (bao gồm xuất khẩu và nhập khẩu) là một trong những nội dung
then chốt và mang lại nhiều lợi ích cho phát triển kinh tế. Sau khi Việt Nam gia
nhập WTO, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa đã có nhiều thuận lợi hơn nhờ vào
việc nhiều rào cản trong hoạt động thương mại quốc tế như thuế quan hay hạn
ngạch đã dần dần được dỡ bỏ. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều rào cản khác mà các doanh
nghiệp Việt Nam phải vượt qua nếu muốn thâm nhập sâu rộng hơn vào thị trường
nước ngoài, trong đó có văn hóa kinh doanh. Đây là yếu tố có tác động rất lớn đến
quan hệ thương mại quốc tế và thay đổi theo từng quốc gia. Vì vậy, việc tìm hiểu
văn hóa kinh doanh của đối tác nước ngoài luôn là việc làm cần thiết đối với các
doanh nghiệp Việt Nam.

Đan Mạch là một trong những nước phương Tây đầu tiên đặt quan hệ ngoại
giao với Việt Nam và đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều trong công cuộc khôi phục và
phát triển đất nước trong suốt hơn ba mươi năm qua. Gần đây, quan hệ thương mại
giữa Việt Nam và Đan Mạch cũng bắt đầu khởi sắc và đạt được nhiều thành tựu
song vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước. Một trong những nguyên
nhân là do sự hiểu biết của các doanh nghiệp Việt Nam về văn hóa kinh doanh Đan
Mạch vẫn còn ở mức hạn chế. Với mong muốn được đóng góp một phần vào việc
cung cấp thêm những thông tin bổ ích và thiết thực về vấn đề này, người viết đã lựa
chọn đề tài “Ảnh hưởng của văn hoá kinh doanh Đan Mạch đến quan hệ thương
mại của Đan Mạch với Việt Nam” cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
Mục tiêu cơ bản của khóa luận là nghiên cứu khái quát những nét đặc trưng,
tiêu biểu trong văn hóa kinh doanh (VHKD) Đan Mạch cùng những tác động của nó
trong các hoạt động thương mại giữa Đan Mạch với Việt Nam, qua đó đề xuất một



2
số giải pháp về văn hóa kinh doanh nhằm nâng cao hơn nữa mối quan hệ thương
mại Việt Nam – Đan Mạch. Để giải quyết những vấn đề có liên quan đến đề tài,
khóa luận đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp như phương pháp thu thập thông
tin (thông qua các nguồn giáo trình, sách báo, luận án, Internet…) , phương pháp
phân tích – tổng hợp, phương pháp đối chiếu – so sánh…
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung khóa
luận được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về VHKD và ảnh hưởng của VHKD đến
thương mại quốc tế
Chương 2: Ảnh hưởng của VHKD Đan Mạch đến quan hệ thương mại của
Đan Mạch với Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp về VHKD nhằm tăng cường quan hệ thương
mại Việt Nam – Đan Mạch

VHKD vẫn còn là một đề tài khá mới mẻ ở Việt Nam. Hơn nữa, do giới hạn
về thời gian và trình độ hiểu biết, khóa luận chắc chắn không tránh khỏi những
thiếu sót. Người viết rất mong nhận được sự đóng góp, phê bình từ phía thầy cô và
các bạn sinh viên để có thể hoàn thiện hơn nữa nghiên cứu này.
Qua đây, người viết xin gửi lời cảm ơn chân thành đến nhà trường và các thầy
cô trường Đại học Ngoại thương đã giảng dạy và cung cấp những kiến thức bổ ích
trong suốt quá trình học tập tại trường. Đặc biệt, người viết xin gửi lời cảm ơn sâu
sắc đến Tiến Sĩ Nguyễn Hoàng Ánh, người đã hết sức tận tâm giúp đỡ người viết
hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.

Hà Nội, tháng 5 năm 2009
Sinh viên thực hiện
Bùi Diệu Hương






3
Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HOÁ KINH DOANH VÀ ẢNH HƢỞNG
CỦA VĂN HOÁ KINH DOANH ĐẾN THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm về văn hóa kinh doanh
Văn hoá kinh doanh là một bộ phận của văn hoá nói chung nên để có cái nhìn
sâu sắc và toàn vẹn hơn khi nghiên cứu về mảng này chúng ta không thể không đề
cập đến khái niệm văn hoá.
1.1.1. Văn hoá
1.1.1.1. Khái niệm văn hoá
Có thể nói văn hoá là một lĩnh vực rộng lớn, phong phú và phức tạp, do đó

khái niệm văn hoá cũng rất đa dạng.
Tiếp cận từ khía cạnh ngôn từ, thuật ngữ văn hoá - tiếng Anh và tiếng Pháp
gọi là culture, tiếng Đức gọi là kultur – có nguồn gốc từ tiếng Latin là cultus. Khi
lần đầu tiên được đưa vào sử dụng ở Châu Âu thế kỷ thứ XVIII, từ cultus mang ý
nghĩa là sự khai hoang, trồng trọt cây lương thực. Sang thế kỷ thứ XIX, nghĩa của
từ này được mở rộng ra, bao hàm cả nghĩa nuôi dưỡng, giáo dục và đào tạo con
người. Còn ở phương Đông, trong tiếng Hán Việt, văn hoá là một từ ghép giữa chữ
văn và chữ hoá. Văn là vẻ đẹp của nhân tính, cái đẹp của tri thức, trí tuệ con người
có thể đạt được bằng sự tu dưỡng của bản thân và cách thức cai trị đúng đắn của
người cầm quyền. Còn hoá trong văn hoá chính là việc đem cái văn (cái đẹp, cái tốt,
cái đúng) để cảm hoá, giáo dục và hiện thực hoá trong thực tiễn đời sống.
1
Như vậy,
xét về mặt chữ nghĩa, văn hoá chính là sự nuôi dưỡng và phát triển con người một
cách toàn diện.
Xét về khía cạnh nội dung bên trong, văn hoá cũng được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau tuỳ thuộc vào lĩnh vực nghiên cứu. Từ nửa sau thế kỷ thứ XIX, các học
giả bắt đầu tập trung nghiên cứu sâu khái niệm văn hoá và từ đây văn hóa được đề
cập đến trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu như dân tộc học, nhân loại học, tâm lý học,

1
Đỗ Minh Cương (2001), Văn hoá kinh doanh và Triết lý kinh doanh, NXB Chính trị Quốc Gia, tr.18.



4
dân gian học, văn hóa học, xã hội học và thậm chí là cả kinh tế học. Trong mỗi lĩnh
vực nghiên cứu đó định nghĩa về văn hóa cũng khác nhau. Năm 1952, hai nhà nhân
loại học Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164
định nghĩa khác nhau về văn hóa.

2

Nhân loại học và xã hội học là những lĩnh vực có nhiều nghiên cứu sâu sắc và
rộng rãi về văn hoá hơn cả. Định nghĩa về văn hoá đầu tiên được công nhận rộng rãi
là định nghĩa của nhà nhân loại học người Anh Edward Tylor (1832 – 1917) đưa ra
vào những năm 1980. Theo ông, “Văn hoá là một tổng thể phức tạp bao gồm các
kiến thức, niềm tin, nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục và bất cứ khả năng, tập
quán nào khác mà con người thu nhận được với tư cách là một thành viên trong xã
hội” (Culture is that complex whole which includes knowledge, belief, art, morals,
law, customs and other capabilities and habits acquired by man as a member of
society).
3
Định nghĩa này đã nêu ra khá đầy đủ những giá trị “vô hình” song vẫn
chưa bao hàm đầy đủ những khía cạnh “hữu hình” - một phần không thể thiếu của
văn hoá. Nhà nhân chủng học người Mỹ Melville Jean Herskovits (1985 – 1963) đã
bù lấp được phần thiếu hụt này của Edward Tylor với định nghĩa “Văn hoá là phần
môi trường do con người tạo nên” (the human made part of the environment).
4
Như
vậy văn hoá là sự kết hợp của cả hai nhân tố khách quan và chủ quan. Nhân tố
khách quan hay còn gọi là mặt “hữu hình” của văn hoá, bao gồm những công cụ,
đường xá, chương trình truyền hình, kiến trúc và những vật chất khác do con người
tạo ra. Còn nhân tố chủ quan hay còn gọi là mặt “vô hình” của văn hoá, bao gồm
những quy tắc, giá trị, tư tưởng, phong tục và những biểu tượng có ý nghĩa khác. Có
thể thấy, hai khái niệm trên của hai nhà nhân loại học đều đi theo con đường cổ điển.
Trong khi đó, giáo sư tâm lý học người Mỹ Harry Triandis lại có cái nhìn khá mới
mẻ. Theo ông, “văn hoá bao hàm những sự tương đồng và khác biệt; các nền văn
hoá đều chứa đựng đồng thời những điểm giống và khác nhau” (views culture as an
interplay of sameness and differences; all cultures are simultaneously very similar


2
Nguyễn Hoàng Ánh (2004), Vai trò của văn hoá trong kinh doanh quốc tế và vấn đề xây dựng văn hoá kinh
doanh ở Việt Nam, Luận Án TS Kinh tế, tr.9.
3
Charles W.L.Hill (2007), International Business, NXB Mc Graw Hill, xuất bản lần thứ 6, tr. 89.
4
S. Tamer Cavusgil, Gary Knight, John R. Riesenberger (2007), International Business: Strategy,
Management and The New Reality, NXB Prentice Hall, tr. 129.



5
and very different).
5
Với tư cách là một cá nhân, chúng ta sở hữu những đặc tính
chung, đặc trưng cho loài người nhưng với tư cách là những nhóm người hay những
xã hội thì chúng ta lại có rất nhiều điểm khác biệt. Chẳng hạn, một số xã hội mang
tính cá nhân cao như xã hội Mỹ trong khi đó lại có những xã hội mang tính tập thể
cao như xã hội Nhật Bản. Sự thay đổi và phát triển của văn hoá trong từng xã hội
giúp tạo nên những nét đặc trưng để phân biệt xã hội đó với các xã hội khác. Như
vậy, theo quan điểm của Harry Triandis thì văn hoá chính là yếu tố biểu hiện lối
sống của các thành viên trong một xã hội như cách ăn, mặc, ở, đi lại Thêm vào đó,
văn hoá còn biểu hiện trong cách đối xử của cá nhân với nhau và với những nhóm
người khác. Và quan trọng nhất là qua văn hoá chúng ta thấy được niềm tin và các
giá trị của một xã hội cũng như thế giới quan của họ.
Nếu như ban đầu khi được chính thức trở thành một khái niệm mang tính khoa
học, văn hoá mới chỉ được đề cập nhiều trong nhiều nghiên cứu về mặt xã hội thì
hiện nay nó còn được nghiên cứu sâu sắc trong cả lĩnh vực kinh tế - lĩnh vực dường
như “ít liên quan” đến văn hoá. Định nghĩa về văn hoá tiêu biểu trong kinh tế được
đưa ra bởi Geert Hofstede, một chuyên gia trong lĩnh vực giao lưu văn hoá và quản

lý người Hà Lan. Ông định nghĩa “Văn hoá là sự chương trình hoá chung của tinh
thần, giúp phân biệt các thành viên của nhóm người này với thành viên của nhóm
người khác… Theo đó, văn hoá bao gồm các hệ thống giá trị và các giá trị là một
trong những yếu tố nền tảng của văn hoá” (Culture is defined as the collective
programming of the mind which distinguishes the members of one human group
from another Culture, in this sense, includes systems of values; and values are
among the building blocks of culture).
6
Một mặt, văn hoá bao hàm những ý niệm
trừu tượng về cái họ cho là đúng đắn và luôn khát khao vươn tới. Mặt khác, văn hoá
còn bao hàm những quy tắc, luật lệ làm hình thành nên cách cư xử của con người
trong những tình huống cụ thể.
Như vậy, có thể thấy trong mỗi định nghĩa, văn hoá lại được nhìn nhận dưới
những góc độ khác nhau, đặc trưng cho từng lĩnh vực nghiên cứu của các học giả.

5
S. Tamer Cavusgil, Gary Knight, John R. Riesenberger (2007), International Business: Strategy,
Management and The New Reality, NXB Prentice Hall, tr. 129.
6
Charles W.L. Hill (2007), International Business, NXB Mc Graw Hill, xuất bản lần thứ 6, tr. 89.



6
Đó là yếu tố tạo nên tính đa dạng và phức tạp đúng với bản chất đa chiều của văn
hoá. Tuy vậy, hiện nay cộng đồng quốc tế cũng đã hầu hết công nhận định nghĩa về
văn hoá của Tổng giám đốc UNESCO, ông Frederico Mayor. Định nghĩa được chấp
nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá năm 1970 họp tại
Venice, Ý và được phát biểu như sau: “Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho
dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại nhất cho

đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và lao động”.
7
Theo đánh giá của cá
nhân người viết, đây là định nghĩa rất rộng và khá hoàn chỉnh. Nó đã bao hàm
những giá trị vật chất và giá trị tinh thần, những giá trị truyền thống và những giá trị
hiện đại do con người kiến tạo nên. Từ đó hình thành nên những nét đặc trưng trong
văn hoá của từng quốc gia, từng dân tộc. Định nghĩa này được người viết chọn làm
cơ sở để nghiên cứu các vấn đề tiếp theo.
1.1.1.2. Đặc điểm của văn hoá
Văn hóa mang rất nhiều đặc điểm khác nhau đúng như tính chất đa chiều, phức
tạp của nó nhưng tựu chung lại nó mang những nét đặc trưng sau:
8

- Văn hoá mang tính tập quán: Thật vậy, các nền văn hoá khác nhau thì biểu
hiện đầu tiên là sự khác nhau trong tập quán. Đó là những thói quen, nếp sống khác
nhau. Chẳng hạn như người Châu Á có thói quen dùng cơm bằng đũa trong khi đó
người Châu Âu lại có thói quen dùng cơm bằng dao, dĩa.
- Văn hoá mang tính cộng đồng cao: Văn hoá không thể tồn tại do chính bản
thân nó mà phải dựa vào sự tác động qua lại và củng cố của mọi thành viên trong
cộng đồng. Tính cộng đồng trong văn hoá thể hiện ở việc các thành viên dù muốn
hay không vẫn thường bị chi phối bởi nó. Một ví dụ là ở Việt Nam thời phong kiến
thường có tục lệ “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Và theo đó, rất nhiều trường hợp
con cái không được tự do lựa chọn mà phải nghe theo sự sắp đặt của cha mẹ trong
chuyện hôn nhân.

7
Nguyễn Hoàng Ánh, “Vai trò của văn hoá trong kinh doanh quốc tế và vấn đề xây dựng VHKD tại Việt
Nam”, Luận án TS Kinh tế, 2004, tr. 10.
8
Nguyễn Hoàng Ánh, “Vai trò của văn hoá trong kinh doanh quốc tế và vấn đề xây dựng văn hoá kinh

doanh ở Việt Nam”, Luận án TS Kinh tế, 2004, tr. 11.



7
- Văn hoá mang tính dân tộc: Mỗi dân tộc có một nền văn hoá riêng, đặc trưng
cho tư duy, cho quan niệm của họ. Chẳng hạn, tặng quà là một truyền thống của
người Việt Nam. Quà tặng biểu thị tình cảm của người tặng đối với người nhận và
là một cách để tăng cường mối quan hệ. Tuy nhiên, đối với nhiều nước phương Tây
như Đan Mạch hay Mỹ, họ rất ít khi tặng và nhận quà, thậm chí những quà tặng có
giá trị lớn lại bị coi là đồ hối lộ.
- Văn hoá có thể học hỏi được: Mặc dù mỗi dân tộc có bản sắc văn hoá riêng
song họ vẫn có thể học hỏi văn hoá của các dân tộc khác. Trong bối cảnh giao lưu
và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, việc học hỏi những tinh hoa của các nền văn
hoá tiến bộ đã trở nên ngày càng phổ biến. Một ví dụ dễ thấy là trước đây, người
Việt Nam chỉ quen ăn cơm thì giờ đây đồ ăn nhanh đã được chấp nhận rộng rãi.
- Văn hoá mang tính chủ quan: Đặc điểm này của văn hoá được biểu hiện ở
chỗ, người dân thuộc các nền văn hoá khác nhau có những suy nghĩ, thái độ và cách
nhìn nhận khác nhau đối với cùng một sự việc, hoàn cảnh. Ở Việt Nam, việc đưa
cha mẹ vào viện dưỡng lão là không chấp nhận được trong khi đó ở các nước
phương Tây thì bố mẹ về già vào sống ở viện dưỡng lão là hoàn toàn bình thường.
- Văn hoá mang tính khách quan: Văn hoá được hình thành trong quá trình
sống và lao động của con người. Nó là kết quả của quá trình con người thích nghi
với môi trường cho nên nó tồn tại khách quan, độc lập với ý muốn chủ quan của
từng thành viên trong cộng đồng. Chúng ta với tư cách là các cá nhân chỉ có thể học
hỏi và chấp nhận nó chứ không thể biến đổi nó.
- Văn hoá mang tính lịch sử: Từ những giai đoạn đầu xuất hiện của loài người,
những mầm mống của văn hoá cũng bắt đầu được hình thành và nó không ngừng
được củng cố và phát triển theo từng bước phát triển của con người. Bởi vậy văn
hoá mang tính lịch sử cao và những quan niệm của nó rất khó bị phá vỡ.

- Văn hoá có tính kế thừa: Cùng với quá trình phát triển của loài người từ thế
hệ này sang thế hệ khác, văn hoá cũng được tích luỹ và kế thừa. Những giá trị kế
thừa từ thế hệ trước cộng thêm những giá trị tạo ra ở hiện tại đã làm cho kho tàng
văn hoá của dân tộc ngày càng phong phú và đa dạng.



8
- Văn hoá luôn thay đổi: Có thể thấy rất rõ điều này qua sự thay đổi trong cách
nghĩ, cách sinh hoạt và làm việc của con người trong các giai đoạn phát triển. Một
ví dụ điển hình là quan niệm về chữ “hiếu” của dân tộc Viêt Nam. Thời phong kiến
người ta quan niệm “Trung với nước, hiếu với vua”, còn ngày này người ta quan
niệm “Trung với nước, hiếu với dân”.
Nắm được những đặc trưng của văn hoá nói chung sẽ giúp chúng ta có phương
tiện để nghiên cứu sâu vào từng nền văn hoá, từ đó sẽ tránh được những hiểu lầm trong
giao tiếp cũng như trong quan hệ thương mại với các quốc gia khác nhau.
1.1.1.3. Các thành phần của văn hoá
Theo các chuyên gia kinh tế phương Tây thì văn hoá bao gồm tám thành tố
chính
9
, đó là:
- Ngôn ngữ
- Tôn giáo
- Những giá trị và quan điểm
- Các phong tục tập quán và thói quen
- Yếu tố vật chất của văn hoá
- Mỹ học
- Giáo dục
- Cấu trúc xã hội
 Ngôn ngữ (Language)

Ngôn ngữ là phương tiện truyền đạt thông tin và ý tưởng giúp con người có thể
làm việc cùng nhau, giao lưu trao đổi kiến thức với nhau. Ngôn ngữ chính là công
cụ để xây dựng và duy trì các giá trị văn hoá. Ngôn ngữ bao gồm hai thành phần
chính là ngôn ngữ có lời và ngôn ngữ không lời.
Ngôn ngữ chính là chìa khoá mở ra những cánh của mới cho nền văn hóa của
từng dân tộc, từng quốc gia.
10
Nếu không có ngôn ngữ, con người sẽ tự khoá mình
trong cái phạm vi văn hoá nhỏ hẹp của họ mà không có sự giao lưu, mở rộng với
văn hoá bên ngoài. Đồng thời, khi học tiếng của một quốc gia khác, người ta sẽ

9
Nguyễn Hoàng Ánh (2004), Vai trò của văn hoá trong kinh doanh quốc tế và vấn đề xây dựng văn hoá kinh
doanh ở Việt Nam, Luận án TS Kinh tế, tr. 14.
10
Donald Ball, Wendell McCulloch, Michael Geringer, Paul Frantz, Michael Minor (2007), International
Business: The Challenge of Global Competition, NXB Mc Graw Hill, xuất bản lần thứ 9, tr.313.



9
không thể hiểu được những sắc thái, những nghĩa khác của từ và những từ lóng nếu
họ không am hiểu về thói quen sử dụng ngôn ngữ của đất nước đó. Ngôn ngữ cũng
là công cụ giúp định hình những nét đặc trưng, tạo ra ranh giới phân cách của từng
nền văn hoá giống như một ranh giới vật chất. Thật vậy, không gì có thể phân biệt
một nền văn hoá này với một nền văn hoá khác tốt như ngôn ngữ. Một đất nước có
bao nhiêu ngôn ngữ thì sẽ có bấy nhiêu nền văn hoá tách biệt. Một ví dụ điển hình
là đất nước Thuỵ Sỹ. Tại đây có đến bốn ngôn ngữ chính thức được sử dụng là tiếng
Đức, tiếng Pháp, tiếng Ý và tiếng Rôman - và tương ứng với nó là bốn nền văn hoá
khác nhau.

Trong giao tiếp, các thông điệp không chỉ được truyền tải bằng lời, bằng chữ
viết mà còn bằng cả những cử chỉ, hành động nữa. Thực tế cho thấy ngôn ngữ
không lời giúp cho quá trình giao tiếp của chúng ta trở nên sinh động và hiệu quả
hơn rất nhiều. Những ánh mắt, những nụ cười, những động tác đi kèm với ngôn
ngữ có lời sẽ giúp biểu đạt những cảm xúc, suy nghĩ một cách trực tiếp giúp người
nghe cảm nhận được sâu sắc thông điệp được truyền đi. Loại ngôn ngữ không dùng
lời này cũng là một nét văn hóa đặc sắc và thay đổi từ quốc gia này sang quốc gia
khác. Ví dụ, thông thường gật đầu có nghĩa là đồng ý nhưng ở Bungari và Hy Lạp
dấu hiệu này lại biểu hiện sự phản đối.
11

Một ngôn ngữ đặc biệt nữa cũng được chú ý khá nhiều trong giao tiếp, đặc biệt
là giao tiếp quốc tế, đó là ngôn ngữ của quà tặng. Ở mỗi nền văn hoá khác nhau
phong tục tặng quà cũng như ngôn ngữ của quà tặng cũng khác nhau. Ví dụ, Ở Nhật,
tặng quà là một nghệ thuật, thể hiện tình bạn, sự kính trọng và thái độ ngưỡng mộ.
Nghi thức tặng quà rất quan trọng. Quà luôn được đựng trong một hộp quà nhỏ,
được bọc rất đẹp bằng loại giấy chất lượng, và sau đó món quà được trao cho đối
phương với đầy sự kính trọng. Người ta mong đợi trao quà tặng ngay trong lần đầu
gặp gỡ, và món quà sẽ trở thành một phần trong cuộc làm ăn của bạn. Trong khi đó,
đối với các đối tác tới từ những quốc gia châu Âu, họ không có truyền thống tặng
quà sâu đậm. Thói quen của họ là không tặng quà ngay lần đầu gặp mặt, hoặc tặng

11
Vietnamworks, “Sức mạnh của ngôn ngữ cử chỉ”, />bat/suc-manh-cua-ngon-ngu-cu-chi.html



10
quà như một thói quen, trong tất cả những lần gặp mặt.
12

Phong tục tập quán tặng
quà và ý nghĩa của nó thay đổi theo từng quốc gia, song vẫn có những món quà
được coi là “an toàn” trong hầu hết các trường hợp là sôcôla, hoa hồng và rượu
whiskey E-cốt loại hảo hạng.
 Tôn giáo (Religion)
Tôn giáo có thể được hiểu là một hệ thống các niềm tin vào các lực lượng siêu
nhiên, thiêng liêng hay thần thánh và những nghi lễ liên quan đến niềm tin đó. Hiện
nay trên thế giới có năm tôn giáo chính là:
13

- Đạo Thiên Chúa
- Đạo Hồi
- Đạo Hindu
- Đạo Phật
- Đạo Khổng
Tôn giáo là một thành tố quan trọng của văn hoá, bao gồm rất nhiều những thái
độ và niềm tin chi phối hành vi ứng xử của con người trong tất cả các lĩnh vực. Trong
lĩnh vực kinh doanh, tôn giáo cũng đóng một vai trò quan trọng bởi nó chi phối đến tư
duy, đến giao tiếp, đến hành vi tiêu dùng của mỗi cá nhân và nhiều vấn đề khác. Xét về
ảnh hưởng của tôn giáo đến kinh doanh phải kể đến cả ảnh hưởng tích cực lẫn ảnh
hưởng tiêu cực. Một điển hình cho ảnh hưởng tích cực của tôn giáo là Đạo Tin Lành
(một trong hai nhánh chính của Thiên Chúa Giáo). Đây là đạo giáo đề cao sự cần cù lao
động, tạo ra của cải vật chất và sự tiết kiệm. Sự lao động chăm chỉ kết hợp với sự tích
luỹ để mở rộng sản xuất đã mở đường cho sự ra đời của Chủ nghĩa Tư Bản. Ảnh hưởng
tiêu cực của tôn giáo tới kinh doanh thể hiện rõ nhất qua tác động của Đạo Hồi. Giáo lý
của Đạo Hồi rất khắt khe như cấm tiêu thụ đồ uống có cồn, cấm đánh bạc, cấm cho vay
nặng lãi và phụ nữ phải ăn mặc rất kín đáo. Những điều cấm kỵ này đã gây ảnh hưởng
nhiều đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong các lĩnh vực như đồ uống

12

Saga,“Văn hóa tặng quà trong kinh doanh”, (11/12/2007),

13
Charles W.L. Hill (2007), International Business, NXB Mc Graw Hill, xuất bản lần thứ 6, tr.96.



11
có cồn, du lịch nghỉ mát, vui chơi giải trí, thời trang cho nữ giới, quảng cáo, ngân hàng
và các dịch vụ cho vay có lãi suất khác.
14

Như vậy, tôn giáo không chỉ có ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày mà nó còn
có vai trò chi phối rất lớn đến hoạt động kinh doanh. Mỗi quốc gia khác nhau lại có
những tôn giáo khác nhau chi phối.
 Những giá trị và thái độ (Values and Attitudes)
Những giá trị trong một xã hội chính là nhân tố kiến tạo nên nền tảng văn hoá
của xã hội đó. Chúng là những quan niệm căn bản giúp con người phân biệt được
đúng với sai, cái chấp nhận được với cái không chấp nhận được, cái quan trọng với
cái không quan trọng, cái bình thường với cái bất thường.
15
Còn thái độ là sự đánh
giá các giải pháp khác nhau dựa trên các giá trị. Thái độ được hiểu gần giống các
quan điểm trừ một điểm là nó được hình thành một cách tự nhiên, vô thức và không
dựa trên cơ sở lý trí.
16
Những nền văn hoá khác nhau có những giá trị khác nhau và
từ đó hình thành nên những thái độ đánh giá khác nhau với cùng một sự việc. Một
ví dụ điển hình là sự đúng giờ. Đây là một giá trị nền tảng ở Bắc Mỹ, Bắc Âu và
Nhật Bản trong khi đó nó lại không phải là giá trị truyền thống ở những nước Trung

Đông và Châu Phi. Do đó, trong khi những người Bắc Mỹ, Bắc Âu và Nhật Bản coi
thời gian là tiền bạc và đánh giá thấp những người trễ hẹn thì những người Trung
Đông và Châu Phi lại có thể chấp nhận việc trễ hẹn, thậm chí là chậm đến vài tiếng
đồng hồ.
Đối với những người làm kinh doanh thì việc tìm hiểu các giá trị cũng như thái
độ của đối tác trong giao thương quốc tế cũng là một vấn đề hết sức quan trọng, đặc
biệt là trong hoàn cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sôi động như hiện nay vì nó sẽ giúp
họ tránh được những sai lầm đáng tiếc.
 Các phong tục tập quán và chuẩn mực đạo đức (folkways and mores)

14
S. Tamer Cavusgil, Gary Knight, John R. Riesenberger (2007), International Business: Strategy,
Management and The New Reality, NXB Prentice Hall, tr. 141.
15
S. Tamer Cavusgil, Gary Knight, John R. Riesenberger (2007), International Business: Strategy,
Management and The New Reality, NXB Prentice Hall, tr. 139.
16
S. Tamer Cavusgil, Gary Knight, John R. Riesenberger (2007), International Business: Strategy,
Management and The New Reality, NXB Prentice Hall, tr. 139.



12
Phong tục tập quán (folkways) là những thói quen được đưa vào nếp sống
hàng ngày.
17
Nhìn chung phong tục tập quán không liên quan nhiều đến những hành
động mang tính đạo đức mà nó là những quy ước xã hội liên quan đến các vấn đề
như: cách ăn mặc thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh, thế nào là hành vi xã hội
đúng đắn, cách sử dụng các đồ dùng ăn uống ra sao hay cách đối xử tốt với những

người xung quanh… Ví dụ như Indonesia là một đất nước theo đạo Hồi nên trang
phục của họ phải rất kín đáo. Trang phục của những người nghèo có thể được chấp
nhận thiếu thốn nhưng những du khách ăn mặc “thiếu thốn” với chân đất, quần soọc,
áo dây… sẽ bị coi là bất lịch sự. Họ có thể chấp nhận quần lửng nhưng phải đủ rộng
và ít nhất là dài đến đầu gối.
Chuẩn mực đạo đức (mores) là những cách cư xử được coi là đúng đắn và có
tính chất bắt buộc chung đối với các thành viên trong xã hội.
18
Ví dụ, con cái phải
hiếu thảo và phục dưỡng cha mẹ, vợ chồng phải sống chung thủy với nhau, học trò
phải kính trọng thầy cô… Những chuẩn mực đạo đức mang ý nghĩa lớn hơn nhiều
so với các phong tục tập quán. Nếu có những hành động trái với các chuẩn mực đạo
đức thì sẽ bị xã hội lên án và còn có thể bị trừng phạt thích đáng. Trong nhiều xã
hội, một số chuẩn mực đạo đức còn được chuyển hoá thành các quy định của pháp
luật. Vì vậy mà những xã hội tiến bộ đều có những đạo luật chống lại tội phạm, các
hành vi loạn luân và tục ăn thịt người… Các chuẩn mực đạo đức của những nền văn
hoá khác nhau cũng có nhiều điểm khác nhau. Chẳng hạn, ở Mỹ, việc uống rượu là
hoàn toàn bình thường nhưng ở Arab, hành vi đó là trái với chuẩn mực xã hội và có
thể bị phạt tù.
19

 Văn hoá vật chất (material culture)
Văn hoá vật chất bao gồm những sản phẩm vật chất do con người tạo ra từ
những sản phẩm phục vụ trực tiếp đời sống vật chất của con người như nhà cửa,
trường học, thành phố, nhà máy… đến những sản phẩm phục vụ đời sống tinh thần
như đền chùa, miếu mạo, nhà thờ Nền văn hoá vật chất của một quốc gia được

17
Charles W.L. Hill (2007), International Business, NXB Mc Graw Hill, xuất bản lần thứ 6, tr. 90.
18

Charles W.L. Hill (2007), International Business, NXB Mc Graw Hill, xuất bản lần thứ 6, tr. 90.
19
Charles W.L. Hill (2007), International Business, NXB Mc Graw Hill, xuất bản lần thứ 6, tr. 90.



13
biểu hiện qua đời sống vật chất và là kết quả của sự phát triển công nghệ.
20
Do đó,
nó ảnh hưởng rất lớn đến trình độ nhận thức và lối sống ở quốc gia đó. Ở những
quốc gia có trình độ công nghệ cao, các hệ thống cơ sở hạ tầng như giao thông vận
tải, thông tin liên lạc, hệ thống giáo dục, tài chính… rất phát triển. Đó là động lực
cho sự mở mang giao lưu kinh tế quốc tế. Vì thế, ở những nước này, thương mại
quốc tế đóng vai trò quan trọng. Ngược lại, ở những nước nông nghiệp nghèo, việc
buôn bán với thương nhân nước ngoài hầu như không mấy được quan tâm.
 Mỹ học (Aesthetics)


Mỹ học gắn liền với nhận thức và thưởng thức cái đẹp trong thiên nhiên, trong
nghệ thuật, trong xã hội và thường được biểu hiện trong mỹ thuật, âm nhạc, kịch,
văn hoá dân gian và khiêu vũ.

Mỹ học cũng là một yếu tố văn hoá có ảnh hưởng đến
các hành vi ứng xử và những quan niệm trong đời sống xã hội cũng như trong kinh
doanh. Một biểu hiện cho tác động này là quan niệm khác nhau về ý nghĩa biểu
trưng của màu sắc ở những quốc gia khác nhau. Ví dụ, màu biểu trưng cho sự tang
tóc ở Mỹ và Mêhicô là màu đen, trong khi đó ở Viễn Đông là màu trắng và đen, còn
ở Brazil là màu tía. Hay như ở các nước theo đạo Hồi, màu xanh lá cây được xem là
màu sắc mang lại sự tốt lành nên những quảng cáo có sử dụng màu xanh lá cây hoặc

những kiện hàng được bọc bằng màu này sẽ rất được ưa chuộng. Trong khi đó, ở
Châu Phi người ta thường dùng giấy bọc màu đỏ vì đây mới là màu may mắn của
họ.
21
Đây cũng là điều quan trọng đối với những người làm marketing. Để tránh
những rủi ro về văn hoá khi thâm nhập vào thị trường mới, cần phải nghiên cứu cẩn
thận để xem liệu màu sắc mình đang sử dụng cho những sản phẩm, những kiện
hàng hay những mẫu quảng cáo có bao hàm ý nghĩa đặc biệt nào không.
 Giáo dục (Education)
Giáo dục là một thành tố không thể thiếu của văn hoá. Nó chính là phương
tiện chính thức giúp truyền đạt văn hoá cho các cá nhân trong xã hội. Hệ thống giáo
dục của một xã hội sẽ góp phần duy trì và tạo nên những khác biệt về văn hoá của

20
Nguyễn Hoàng Ánh (2004), Vai trò của văn hoá trong kinh doanh quốc tế và vấn đề xây dựng văn hoá
kinh doanh ở Việt Nam, Luận án TS Kinh tế, tr. 19.
21
Donald Ball, Wendell McCulloch, Michael Geringer, Paul Frantz, Michael Minor (2007), International
Business: The Challenge of Global Competition, NXB Mc Graw Hill, xuất bản lần thứ 9, tr. 296.



14
xã hội đó so với xã hội khác. Những giá trị và chuẩn mực của xã hội là những nội
dung được truyền đạt qua các thế hệ thông qua cả giáo dục chính quy và không
chính quy.
22
Giáo dục chính quy là giáo dục thông qua hệ thống nhà trường và đóng
vai trò chủ chốt trong xã hội. Tại đây, con người được học những kiến thức cơ bản
về tự nhiên, xã hội. Bên cạnh đó, những chuẩn mực đạo đức như sự kính trọng,

vâng lời, tính trung thực, sự ngăn nắp, đúng giờ… cũng dần được hình thành trong
mỗi học sinh một cách gián tiếp qua đời sống học đường. Còn giáo dục không chính
quy chính là sự giáo dục của gia đình và xã hội - đây cũng là môi trường có tác
động không nhỏ đến việc hình thành tư duy và nhận thức cho con người.
Trình độ giáo dục của một quốc gia sẽ quyết định đến trình độ dân trí của quốc
gia đó. Thước đo trình độ giáo dục của một xã hội chủ yếu là tỷ lệ mù chữ, chất
lượng và số lượng trường học, số lượng học sinh và có thể là cả tỷ lệ kinh phí Nhà
nước chi cho giáo dục. Với những người hoạt động trong lĩnh vực marketing, tỷ lệ
người biết chữ là rất được quan tâm bởi nó sẽ ảnh hưởng đến quyết định của họ
trong việc lựa chọn phương tiện, loại hình quảng cáo, địa điểm bán hàng… Ví dụ, ở
Pakistan, tỷ lệ mù chữ lên tới 70% nên đây sẽ không thể là thị trường tốt cho việc
kinh doanh sách báo và những hình thức quảng cáo sử dụng sách báo hay tờ rơi
cũng không thể hữu dụng ở quốc gia này.
23
Trong trường hợp này, tốt nhất các nhà
làm quảng cáo nên sử dụng những hình thức quảng cáo có hình ảnh.
Như vậy, tìm hiểu trình độ giáo dục của một quốc gia sẽ giúp cho việc quyết
định lựa chọn phương thức thâm nhập vào một thị trường mới đạt được hiệu quả.
 Cấu trúc xã hội (social structure)
Cấu trúc xã hội được hiểu là cách thức tổ chức xã hội cơ bản của xã hội đó.
Mọi xã hội đều có cấu trúc riêng của nó và từ đó hình thành nên các mối quan hệ có
ảnh hưởng tới hành vi ứng xử của các thành viên trong xã hội đó. Tuy cấu trúc xã
hội bao gồm nhiều phương diện khác nhau nhưng để thấy sự khác biệt trong văn
hoá giữa các xã hội thì người ta dựa trên hai phương diện chính.
24


22
Charles W.L. Hill (2007), International Business, NXB Mc Graw Hill, xuất bản lần thứ 6, tr. 105.
23

Charles W.L. Hill (2007), International Business, NXB Mc Graw Hill, xuất bản lần thứ 6, tr. 106
24
Charles W.L. Hill (2007), International Business, NXB Mc Graw Hill, xuất bản lần thứ 6, tr. 94.



15
Đầu tiên là mức độ coi trọng tính cá nhân (đối lập với nó là tính tập thể) của
từng xã hội. Những người thuộc những nền văn hoá mang tính cá nhân cao thường
coi mình là một cá thể riêng lẻ khác biệt so với những người khác. Họ rất rõ ràng
trong khi giao tiếp và thường đi thẳng vào vấn đề cần bàn bạc. Mỹ, Phần Lan,
Pháp… là những ví dụ điển hình cho đặc tính cá nhân cao này. Trong khi đó, những
nền văn hoá mang tính tập thể cao như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam… lại đề
cao tập thể và thường nghĩ cho toàn cục. Ở các công ty của Nhật Bản hay Trung
Quốc, tính thân thiện và lòng trung thành là rất quan trọng và thường được duy trì.
Thứ hai là sự phân chia địa vị xã hội. Mọi xã hội đều được phân tầng thành
những giai cấp và sự phân chia này dựa trên cơ sở nền tảng xã hội, nghề nghiệp và
thu nhập. Giai cấp là những tập đoàn người đông đảo, giống nhau về địa vị trong
một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, về quan hệ của họ với tư liệu
sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, do đó có sự khác nhau về
phương thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội mà họ được hưởng. Ấn Độ là
nước điển hình cho xã hội tồn tại chế độ phân biệt sâu sắc giữa các tầng lớp và giai
cấp khác nhau trong xã hội, ở đó, việc chuyển đổi từ giai cấp này sang giai cấp khác
là rất khó. Điều này gây cản không chỉ hạn chế những cơ hội đạt được những vị trí
cao trong xã hội mà còn ảnh hưởng đến cả việc thăng tiến trong công việc. Đó là lý
do mà trong một công ty của Ấn Độ, những người có năng lực chuyên môn tốt
nhưng xuất thân ở một tầng lớp thấp thì chưa chắc đã có thể thăng tiến. Ngược lại,
những người có xuất thân từ những tầng lớp cao hơn trong xã hội sẽ có nhiều cơ hội
đạt được những vị trí quan trọng trong công ty hơn.
25

Trong khi đó, Mỹ lại là nước
điển hình cho những xã hội có sự phân biệt giai cấp thực sự không rõ nét. Và sự
chuyển đổi giữa các giai cấp là hoàn toàn có thể.
Hai khía cạnh trên có ảnh hưởng rất lớn đến tư duy trong kinh doanh và do đó
sẽ ảnh hưởng đến phong cách làm việc cũng như phương thức hoạt động của các tổ
chức kinh doanh. Trong quan hệ thương mại quốc tế, cấu trúc xã hội là yếu tố quan
tâm hàng đầu của các nhà quản lý bởi họ phải lãnh đạo những người đến từ những
nền văn hoá khác biệt với văn hoá của họ.

25
Charles W.L. Hill (2007), International Business, NXB Mc Graw Hill, xuất bản lần thứ 6, tr. 102.



16
1.1.2. Văn hoá kinh doanh
1.1.2.1 Khái niệm văn hoá kinh doanh
Trong kinh doanh, những sắc thái văn hoá cũng được thể hiện rõ nét qua toàn
bộ quá trình tổ chức và hoạt động của một tổ chức. Cụ thể, nó được biểu hiện từ
cách chọn và bố trí máy móc và dây chuyền công nghệ, từ cách tổ chức bộ máy về
nhân sự và hình thành quan hệ giao tiếp ứng xử giữa các thành viên trong tổ chức
cho đến những phương thức quản lý kinh doanh mà chủ thể kinh doanh áp dụng sao
cho có hiệu quả nhất. Bản thân hoạt động kinh doanh có mục đích là lợi nhuận chứ
không lấy các giá trị văn hoá làm mục tiêu trực tiếp song từ những hoạt động cụ thể
trên đã dần dần hình thành nên các giá trị văn hoá trong kinh doanh. Chính vì vậy
mà đã hình thành nên một khái niệm khá mới mẻ: văn hoá kinh doanh.
Cả văn hoá và kinh doanh đều đã xuất hiện từ rất lâu song mối quan hệ giữa
văn hoá và kinh doanh mới chỉ được đi sâu nghiên cứu sau khi Hofstede cho xuất
bản công trình nghiên cứu mang tên “Văn hoá và tổ chức - phần mềm của ý thức”
(Culture and organisations – The software of the mind) vào thập niên 60 của thế kỷ

trước. Cho đến khoảng thập niên 90 của thế kỷ 20, thuật ngữ văn hoá kinh doanh
(VHKD) mới xuất hiện.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác
nhau về VHKD. Có những quan điểm cho rằng VHKD chính là kinh doanh có văn
hoá. Điều này biểu hiện rõ trong định nghĩa về VHKD của Giáo Sư Hoàng Trinh:
“Văn hoá kinh doanh (hay kinh doanh có văn hoá) có nghĩa là hoạt động kinh tế có
hiệu quả, đạt năng suất, sản lượng, giá trị cao, giá thành thấp, sản phẩm đạt chất
lượng cao, tiêu thụ được sản phẩm trên thị trường trong nước và nước ngoài, làm
đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước”.
26
Định nghĩa trên chưa nêu bật được bản chất
của VHKD, ngược lại đã đánh đồng VHKD với kinh doanh có văn hoá, vì thế đã
gây nhầm lẫn trong việc xác định đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của
VHKD là những vấn đề văn hoá liên quan đến kinh doanh trong khi đó đối tượng
của kinh doanh có văn hoá là việc kinh doanh đảm bảo tính đạo đức. Khác với quan
điểm trên, học giả Đỗ Minh Cương đã đưa ra định nghĩa về VHKD như sau: “Văn

26
Nguyễn Hoàng Ánh (2004), Vai trò của văn hoá trong kinh doanh quốc tế và vấn đề xây dựng văn hoá
kinh doanh ở Việt Nam, Luận án TS Kinh tế, tr. 52.



17
hóa kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hoá vào trong hoạt động kinh
doanh của chủ thể, là cái văn hoá mà các chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình
kinh doanh hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù của họ”.
27

Định nghĩa này đã nêu bật được sự khác biệt giữa VHKD và kinh doanh có văn hoá

song lại mắc phải một nhược điểm là không chỉ rõ chủ thể kinh doanh là một quốc
gia hay một doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, cũng có những quan điểm coi VHKD chính là văn hoá doanh
nghiệp bởi chủ thể của VHKD chính là các doanh nghiệp. Tiêu biểu cho quan điểm
này là định nghĩa về VHKD của Edgar H.Schein, chuyên gia nghiên cứu về các tổ
chức. Theo ông, “Văn hoá doanh nghiệp (hay văn hoá công ty) là tổng hợp những
quan niệm chung mà các thành viên trong công ty học được trong quá trình giải
quyết các vấn đề nội bộ và xử lý các vấn đề với môi trường xung quanh”.
28
Cách
hiểu này được các nhà nghiên cứu về kinh doanh chấp nhận, xuất phát từ quan niệm
coi kinh doanh là hoạt động đặc thù của doanh nghiệp. Tuy nhiên, cách hiểu này có
phần hạn hẹp vì mặc dù doanh nghiệp là chủ thể chính của mọi hoạt động kinh
doanh nhưng kinh doanh cũng là một hoạt động phổ biến liên quan mật thiết đến
mọi thành viên trong xã hội.
Có lẽ nhóm quan điểm tiến bộ và đúng đắn nhất là nhóm coi kinh doanh là
hoạt động có liên quan đến mọi thành viên trong xã hội. Theo các nhà nghiên cứu
trong Viện Kinh doanh Nhật Bản – Hoa Kỳ thì “Văn hóa kinh doanh có thể được
định nghĩa như ảnh hưởng của những mô hình văn hoá của một xã hội đến những
thiết chế và thông lệ kinh doanh của xã hội đó”.
29
Đây là một định nghĩa khá ngắn
gọn và đầy đủ, đã bao trùm lên mọi khía cạnh của đời sống kinh doanh.
Cũng theo quan điểm tiến bộ trên, TS Nguyễn Hoàng Ánh, đã đưa ra một định
nghĩa tương đối cụ thể và bao quát về VHKD. Đó là “Văn hóa kinh doanh là sự thể
hiện phong cách kinh doanh của một dân tộc. Nó bao gồm các nhân tố rút ra từ văn

27
Đỗ Minh Cương (2001), Văn hoá kinh doanh và Triết lý kinh doanh, NXB Chính trị Quốc Gia, tr. 69.
28

Nguyễn Hoàng Ánh (2004), Vai trò của văn hoá trong kinh doanh quốc tế và vấn đề xây dựng văn hoá
kinh doanh ở Việt Nam, Luận án TS Kinh tế, tr. 50.
29
Nguyễn Hoàng Ánh (2004), Vai trò của văn hoá trong kinh doanh quốc tế và vấn đề xây dựng văn hoá
kinh doanh ở Việt Nam, Luận án TS Kinh tế, tr. 51.



18
hoá dân tộc, được các thành viên trong xã hội vận dụng vào hoạt động kinh doanh
của mình và cả những giá trị, triết lý… mà các thành viên này tạo ra trong quá
trình kinh doanh”.
30
Theo đánh giá, đây là định nghĩa rõ ràng, đầy đủ và gần gũi với
những khái niệm của những học giả tiến bộ. Nó vừa bao hàm những giá trị văn hóa
dân tộc được thể hiện trong kinh doanh, vừa có những giá trị mới được tạo ra trong
quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng.
VHKD có ảnh hưởng quyết định đến kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh quốc
tế. Mỗi quốc gia, dân tộc khác nhau lại có những mô hình văn hoá khác nhau, tạo
nên đặc trưng riêng cho VHKD. Mặt khác, những yếu tố ảnh hưởng đến VHKD
luôn vận động, thay đổi làm cho nó cũng biến đổi theo. Vì vậy, việc tìm hiểu sâu
sắc về VHKD của các đối tác chính là chìa khoá thành công cho các doanh nghiệp
muốn vươn ra tầm quốc tế.
1.1.2.2. Các khía cạnh của văn hoá kinh doanh
Căn cứ trên góc độ văn hoá quốc gia, nhà nhân chủng học người Hà Lan,
Geert Hofstede - một chuyên gia trong lĩnh vực giao lưu văn hoá và quản lý đã đưa
ra bốn khía cạnh để xem xét biểu hiện của VHKD, đó là:
31

- Tính cá nhân/ Tính tập thể: Đặc điểm này liên quan đến các mối quan hệ

giữa các cá nhân với những người xung quanh. Theo Hofstede, những thành viên
trong các xã hội mang tính tập thể cao như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,
thường gắn bó với nhau trong một tổ chức. Do đó, những công ty ở những nước này
thường ra quyết định dựa trên ý kiến tập thể. Trong khi đó, ở những xã hội mang
đậm tính cá nhân như Mỹ, Canada, Đan Mạch… thì sự liên kết ràng buộc giữa các
cá nhân là hết sức lỏng lẻo và những quyết định dựa trên ý kiến cá nhân là phổ biến.
- Sự phân cấp quyền lực: Đây là yếu tố phản ánh mức độ chấp nhận sự phân
chia quyền lực bất bình đẳng giữa các cá nhân. Ở những nước có sự phân cấp quyền
lực cao như Malaysia, Goatemala, Philipin… những nhân viên tin rằng những người
lãnh đạo luôn luôn đúng. Do đó, họ không hề chủ động đưa ra những quyết định bất

30
Nguyễn Hoàng Ánh (2004), Vai trò của văn hoá trong kinh doanh quốc tế và vấn đề xây dựng văn hoá
kinh doanh ở Việt Nam, Luận án TS Kinh tế, tr. 54.
31
S. Tamer Cavusgil, Gary Knight, John R. Riesenberger (2007), International Business: Strategy,
Management and The New Reality, NXB Prentice Hall, tr. 137



19
thường. Trong khi đó, ở những nước có sự phân cấp quyền lực thấp như Đan Mạch,
Thuỵ Điển…những quyết định có sự tham gia của nhân viên là cực kỳ phổ biến và
mang lại hiệu quả cao.
- Tính cẩn trọng: Đặc điểm này phản ánh mức độ dám chấp nhận và đương
đầu với những tình thế không rõ ràng hoặc bất ổn của các thành viên trong xã hội.
Nhân viên ở những nước có tính cẩn trọng cao như Nhật Bản, Hy Lạp và Thổ Nhĩ
Kỳ có xu hướng gắn bó lâu dài với một công ty. Ngược lại, những nhân viên ở
những nước có tính cẩn trọng thấp như Mỹ, Singapore và Đan Mạch lại linh hoạt
hơn rất nhiều trong việc chuyển chỗ làm.

- Nam tính/ Nữ tính: Người ta thường dùng đặc điểm này để xem xét vai trò
của giới tính trong công việc. Trong môi trường nam tính, vai trò của giới tính rất
được coi trọng và các “giá trị nam tính” truyền thống như sự thành đạt, quyền lực…
quyết định các ý tưởng văn hoá. Tiêu biểu cho đặc điểm này là Australia và Nhật
Bản. Trong môi trường nữ tính, vai trò của giới tính ít được coi trọng hơn và ít có sự
phân biệt nam nữ trong công việc. Những nước Bắc Âu là những nước tiêu biểu cho
dạng tính cách này.
Căn cứ vào quá trình kinh doanh, có thể coi VHKD bao gồm:
32

- Văn hoá doanh nghiệp: đây là thành phần đầu tiên của VHKD vì doanh
nghiệp chính là chủ thể của hầu hết các hoạt động kinh doanh.
- VHKD trong Marketing: bao gồm văn hoá trong sản xuất, phân phối và xúc
tiến thương mại.
- Văn hóa đàm phán: tức là VHKD trong quá trình giao tiếp, trao đổi và thuyết
phục giữa các đối tác kinh doanh để đi đến ký kết các hợp đồng thương mại.
- Văn hoá tiêu dùng: tức là những tập quán, thị hiếu, quan điểm của người tiêu
dùng khi lựa chọn, đánh giá để đi quyết định mua hàng.
1.2. Ảnh hƣởng của VHKD đến quan hệ thƣơng mại quốc tế
Ảnh hưởng của văn hoá đến hoạt động kinh doanh đã giúp hình thành nên một
nền tiểu văn hoá mới đó là văn hoá kinh doanh. Và VHKD chính là yếu tố then chốt,

32
Nguyễn Hoàng Ánh (2004), Vai trò của văn hoá trong kinh doanh quốc tế và vấn đề xây dựng văn hoá
kinh doanh ở Việt Nam, Luận án TS Kinh tế, tr. 59.



20
quyết định đến tư duy trong kinh doanh, đến giao tiếp trong kinh doanh và đến tâm

lý tiêu dùng của người dân trong từng nền văn hoá.
1.2.1. Ảnh hƣởng của văn hoá kinh doanh đến tƣ duy trong kinh doanh
Nói đến tư duy trong kinh doanh quốc tế là nói đến lối nhận thức, quan niệm
và thói quen kinh doanh của các thương nhân. Việc nắm bắt được tâm lý, thái độ
của đối tác, đặc biệt là đối tác nước ngoài là cực kỳ quan trọng để có thể đưa ra
những ứng xử và quyết định phù hợp. VHKD của mỗi quốc gia khác nhau sẽ hình
thành nên những cá tính và hành vi khác nhau của các nhà kinh doanh.
Ảnh hưởng đầu tiên cần quan tâm là sự khác nhau trong quan niệm về thời
gian. Trong kinh doanh, có những quốc gia luôn hướng tới những sự phát triển
trong tương lai, có những quốc gia chú trọng tới những thành quả trong quá khứ và
cũng có những quốc gia lại chú trọng tới hiện tại. Chẳng hạn Nhật Bản là nước chú
trọng tới sự phát triển cho tương lai. Cái họ quan tâm không phải là kế hoạch để
phát triển trong quý tới mà là trong 10 năm tới. Còn các nước Châu Âu lại chú trọng
tới quá khứ cho nên họ cho rằng những kế hoạch phải của họ phải phù hợp với các
truyền thống và giá trị nền tảng đã hình thành trước đó. Cho nên, các công ty Nhật
Bản thường có kế hoạch chiến lược cho một giai đoạn khá dài, có khi lên tới hàng
thập kỷ, trong khi đó, ở các công ty Châu Âu thì chỉ là vài năm. Mỹ là nước tiêu
biểu cho việc chú trọng tới hoạt động kinh doanh trong hiện tại. Do đó, họ rất quý
trọng thời gian. Với họ, thời gian là tiền bạc nên họ rất nghiêm ngặt trong việc thực
hiện đúng lịch trình, đúng hẹn, đặc biệt là trong các cuộc gặp gỡ làm ăn. Trong khi
đó, các nước Châu Mỹ La Tinh thì lại khá linh hoạt về mặt thời gian. Họ thường có
xu hướng đến muộn hơn so với đối tác trong các cuộc gặp.
33

Ngoài ảnh hưởng tới nhận thức của người kinh doanh về vấn đề thời gian,
VHKD còn ảnh hưởng đến cá tính và thói quen kinh doanh của doanh nhân, từ đó
ảnh hưởng đến các hành vi của thương nhân trong kinh doanh. Thương nhân ở
những nước chịu ảnh hưởng của nền văn hoá La tinh (Châu Âu, Châu Mỹ) - những
nước có tính cẩn trọng thấp - có xu hướng ưa thích sự thay đổi và dám mạo hiểm


33
S. Tamer Cavusgil, Gary Knight, John R. Riesenberger (2007), International Business: Strategy,
Management and The New Reality, NXB Prentice Hall, tr. 140.



21
trong kinh doanh. Trong khi đó, ở hầu hết các nước Châu Á - những nước có tính
cẩn trọng cao - các thương nhân đều thích chọn những lĩnh vực kinh doanh ổn định,
e dè sự thay đổi và ít mạo hiểm hơn thương nhân ở Châu Âu và Châu Mỹ. Các
thương nhân Mỹ nổi tiếng về tốc độ làm việc nhanh và thiếu kiên nhẫn nên họ
thường muốn thu được lợi nhuận nhanh chóng. Họ thường đầu tư vào những dự án
thương vụ ngắn hạn và không hay duy trì các mối quan hệ làm ăn lâu dài.
34
Những
thương nhân Nhật Bản lại khác, họ cẩn trọng, tỉ mỉ và trung thành. Do đó, họ
thường kỹ tính trong lựa chọn đối tác làm ăn và khi đã lựa chọn ai thì họ sẽ có xu
hướng gắn kết lâu dài. Hiểu biết những quan niệm, cá tính và thói quen kinh doanh
của các nước khác nhau sẽ giúp cho người làm kinh doanh đưa ra những quyết định
đúng đắn từ việc lựa chọn đối tác làm ăn đến việc duy trì mối quan hệ thương mại
lâu dài.
1.2.2. Ảnh hƣởng của văn hoá kinh doanh đến giao tiếp trong kinh doanh
Trong kinh doanh, giao tiếp đóng vai trò cực kỳ quan trọng từ khâu tiếp xúc
đối tác, đàm phán ký kết hợp đồng đến việc duy trì mối quan hệ giữa các bên, nhất
là khi các doanh nghiệp tiến hành kinh doanh xuyên văn hoá. Những người mua và
người bán đến từ những quốc gia khác nhau, mang theo những hiểu biết, những kỳ
vọng và phong cách giao tiếp dưới ảnh hưởng của các nền văn hoá khác nhau. Do
đó, những “xung đột văn hóa” rất dễ xảy ra và gây nhiều rắc rối cho các bên.
Yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến giao tiếp trong kinh doanh là ngôn ngữ. Am
hiểu và biết cách sử dụng thành thạo ngoại ngữ là một lợi thế trong giao tiếp với

thương nhân nước ngoài. Ngược lại, nó cũng có thể trở thành rào cản hoặc gây ra
những hiểu lầm đáng tiếc khi đàm phán hoặc trao đổi ý tưởng kinh doanh nếu năng
lực ngoại ngữ của thương nhân hạn chế. Những rào cản này càng lớn khi họ gặp
những biệt ngữ kinh doanh chỉ được sử dụng ở một nền văn hoá nào đó. Ví dụ,
doanh nhân Mỹ thường sử dụng rất nhiều những thành ngữ bắt nguồn từ thể thao
hoặc quân đội như “The bottom line – điểm mấu chốt”, “to beat around the bush –
nói vòng vo”, “get down to brass tacks – đi sâu vào bản chất vấn đề”, hay “feather

34
S. Tamer Cavusgil, Gary Knight, John R. Riesenberger (2007), International Business: Strategy,
Management and The New Reality, NXB Prentice Hall, tr. 140.

×