Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

bảo hiểm hàng không và triển vọng phát triển tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (835.11 KB, 99 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHUYÊN NGÀNH KINH DOANH QUỐC TẾ
***









KHãa LUËN tèt nghiÖp

§Ò tµi:
BẢO HIỂM HÀNG KHÔNG VÀ TRIỂN VỌNG
PHÁT TRIỂN TẠI VIỆT NAM





Sinh viªn thùc hiÖn : Giang Bích Ngọc
Líp : Anh 4
Kho¸ : 45
Gi¸o viªn híng dÉn : ThS. Nguyễn Lệ Hằng









Hµ Néi, th¸ng 04 n¨m 2010
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM NÓI CHUNG VÀ
BẢO HIỂM HÀNG KHÔNG NÓI RIÊNG 3
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM 3
1. Khái niệm chung về bảo hiểm 3
2. Phân loại bảo hiểm 6
2.1 Căn cứ vào cơ chế hoạt động của bảo hiểm 6
2.2 Dựa vào đối tượng của bảo hiểm 6
2.3 Dựa theo quy định của pháp luật 7
2.4 Căn cứ vào tính chất của bảo hiểm 7
3. Đặc điểm và nguyên tắc của bảo hiểm 8
4. Vai trò của bảo hiểm đối với đời sống xã hội 9
II. BẢO HIỂM HÀNG KHÔNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG 12
1. Khái niệm chung về bảo hiểm hàng không 12
2. Đặc điểm của bảo hiểm hàng không 13
3. Sự cần thiết phải có bảo hiểm hàng không 20
4. Các loại hình bảo hiểm trong lĩnh vực hàng không dân dụng 22
4.1 Bảo hiểm thân máy bay 22
4.2 Bảo hiểm trách nhiệm của hãng hàng không đối với hành khách,
hành lý, hàng hóa và tư trang của hành khách 23
4.3 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của các hãng hàng không đối với
người thứ ba 23

4.4 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ sân bay và người điều hành
sân bay 24
4.5 Bảo hiểm mất khả năng sử dụng 24
4.6 Bảo hiểm tai nạn cá nhân 25
4.7 Bảo hiểm rủi ro chiến tranh 25
4.8 Bảo hiểm rủi ro bắt cóc và chiếm đoạt 25

CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM HÀNG KHÔNG
VIỆT NAM 27
I. HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM HÀNG KHÔNG Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1989
TRỞ VỀ TRƢỚC 27
1. Hàng không Việt Nam từ năm 1989 trở về trƣớc 27
2. Hoạt động bảo hiểm hàng không Việt Nam từ năm 1989 trở về trƣớc 28
2.1 Môi trường pháp lý 29
2.2 Công tác bảo hiểm hàng không 31
2.3 Công tác bồi thường 34
2.4 Việc phòng ngừa và hạn chế tổn thất 37
3. Đánh giá cơ chế hoạt động bảo hiểm hàng không năm 1989 về trƣớc 38
3.1 Ưu điểm 38
3.2 Nhược điểm 39
II. HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM HÀNG KHÔNG Ở VIỆT NAM TỪ
NĂM 1989 CHO ĐẾN NAY 42
1. Hàng không Việt Nam từ năm 1989 cho đến nay 42
2. Hoạt động bảo hiểm hàng không từ năm 1989 cho đến nay 46
2.1 Môi trường pháp lý 46
2.2 Công tác khai thác bảo hiểm hàng không 48
2.2.1 Về phía các nhà kinh doanh bảo hiểm 48
2.2.2 Về quy trình bảo hiểm hàng không 51
2.2.3 Về số tiền bảo hiểm 52
2.2.4 Về mức phí bảo hiểm và tình hình bồi thường 53

2.3 Về công tác bồi thường 55
2.4 Về công tác đề phòng và hạn chế tổn thất 59
3. Đánh giá hoạt động bảo hiểm hàng không từ năm 1989 cho đến nay 61
3.1 Ưu điểm 61
3.2 Nhược điểm 63

CHƢƠNG III. TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM
HÀNG KHÔNG Ở VIỆT NAM 65
I. DỰ BÁO PHÁT TRIỂN NGÀNH HÀNG KHÔNG TRONG GIAI
ĐOẠN TỚI 65
II. KINH NGHIỆM HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN
THẾ GIỚI 69
1. Bảo hiểm Hàng không Thái Lan 69
2. Bảo hiểm Hàng không Pháp 70
III. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM HÀNG KHÔNG Ở
VIỆT NAM 71
1. Những điều kiện khách quan 72
1.1 Những điều kiện về kinh tế 72
1.2 Điều kiện về pháp lý 72
1.3 Điều kiện chính sách tài chính 73
1.3.1 Điều kiện về chính sách thuế 73
1.3.2 Điều kiện về chính sách huy động, quản lý và sử dụng vốn 74
2. Những điều kiện chủ quan 75
2.1 Công tác đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn,
chuyên gia về lĩnh vực bảo hiểm hàng không 75
2.2 Đảm bảo cơ sở vật chất kỹ thuật, đưa nhanh công nghệ tiên tiến vào kinh doanh
bảo hiểm hàng không 76
2.3 Sự phối hợp với các ngành liên quan 76
2.4 Về công tác thông tin, quảng cáo 77
IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM HÀNG KHÔNG

Ở VIỆT NAM 78
1. Về phía Nhà nƣớc 79
1.1 Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật để việc kinh doanh bảo hiểm đi vào nề
nếp, theo đúng pháp luật 79
1.2 Chính phủ và Bộ Tài chính nên có những chính sách thích hợp trong quản lý thị
trường, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh 80
2. Về phía Tổng công ty Hàng không Việt Nam 80
2.1 Lựa chọn công ty bảo hiểm 81
2.2. Hoàn thiện công tác giám định và quy định giải quyết khiếu nại
bồi thường 82
2.3. Lựa chọn thời điểm để tái tục hợp đồng 83
2.4 Chủ động trong khâu quản lý hợp đồng 83
2.5 Thường xuyên chú trọng công tác đề phòng và hạn chế tổn thất 83
2.6 Công tác an ninh và tổn thất 84
2.7 Nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty bảo hiểm hàng không, một trong
những giải pháp quan trọng của hoạt động bảo hiểm hàng không 84
3 Về phía công ty bảo hiểm 85
3.1 Hoàn thiện các quy định hướng dẫn cụ thể về từng nghiệp vụ bồi thường, thống
nhất quy trình phối hợp với các hãng hàng không 86
3.2 Hợp tác chặt chẽ với các công ty thẩm tra, giám định của Việt Nam đồng thời
mở rộng hợp tác với các công ty giám định quốc tế 86
3.3 Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ về lĩnh vực bảo hiểm hàng
không 87
3.4 Quan hệ trực tiếp với thị trường bảo hiểm hàng không quốc tế 88
3.5 Sử dụng môi giới tái bảo hiểm có tiềm năng vốn lớn và uy tín 88
3.6 Thường xuyên nắm bắt thông tin 90
3.7 Tạo điều kiện để các nhà đầu tư hiểu rõ về Việt Nam 91

KẾT LUẬN 92


TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
DANH MỤC BẢNG BIỂU


STT
TÊN BẢNG
TRANG
Biểu đồ 1.1
Tình hình phí bảo hiểm/ tổn thất trên thế giới giai đoạn
năm 1998 – 2009
14
Bảng 1.2
Tình hình tăng/ giảm phí bảo hiểm hàng không trên thế
giới năm 2008 – 2009
15
Biểu đồ 1.3
Biểu đồ tổn thất cộng dồn 2009

16
Biểu đồ 1.4
Tình hình phí bảo hiểm hàng không thế giới trong giai
đoạn 2000 – 2009
18
Biểu đồ 2.1
Nguyên nhân tai nạn máy bay của Hàng không dân
dụng Việt Nam (1980 – 1989)
34
Bảng 2.2
Các loại máy bay và số lượng từng loại mà Vietnam
Airlines sử dụng trong các tuyến đường bay của mình

năm 2009
44
Sơ đồ 2.3
Quy trình bảo hiểm hàng không của Vietnam Airlines

52
Bảng 2.4
Tình hình phí bảo hiềm và bồi thường của Hàng không
Việt Nam trong thời gian qua (từ 2005 – 2009)
54
Bảng 2.5
Tình hình thiệt hại và bồi thường cho hành lý, hàng hóa
Hàng không Việt Nam từ năm 2002 – 2008
59


1
LỜI MỞ ĐẦU

I. Tính cấp thiết của đề tài
Chúng ta đang sống trong thời đại mà khoa học – kỹ thuật và công nghệ phát
triển nhanh như vũ bão, xu thế hội nhập và quốc tế hóa đời sống kinh tế xã hội ngày
càng trở thành một nhu cầu tất yếu nhất là từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam
lần thứ VI năm 1986 với chủ trương chính sách đổi mới và mở cửa nền kinh tế
chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước đã tạo những bước chuyển biến tích cực cả về
mặt kinh tế và xã hội ở nước ta.
Vận tải hàng không có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế thế giới nói
chung và thương mại quốc tế nói riêng. Hơn nữa vận tải hàng không còn là chiếc
cầu nối các nền văn hóa của các dân tộc, là phương tiện chính trong du lịch quốc tế,

là mắt xích quan trọng trong quá trình tổ chức vận tải đa phương thức quốc tế. Để
khôi phục, phát triển và mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các quốc gia trên thế
giới, vận tải hàng không là chiếc cầu nối nhanh nhất, thuận tiện nhất và được xem
như một chất xúc tác cho hoạt động kinh tế diễn ra nhanh hơn. Ở Việt Nam, cùng
với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu giao lưu bằng đường hàng không cũng
không ngừng tăng lên. Trên thực tế ngành Hàng không dân dụng đã tự khẳng định
mình là một ngành kinh tế mũi nhọn đại diện cho phương thức vận tải tiên tiến và
hiện đại nhất, ngày càng đóng vai trò to lớn và có ảnh hưởng quan trọng trong công
cuộc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước.
Hàng không là một ngành có khối lượng vốn đầu tư lớn tới hàng trăm tỷ
USD. Xác suất rủi ro trong hoạt động hàng không là rất nhỏ, tuy nhiên mỗi khi xảy
ra lại mang tính chất nghiêm trọng, thiệt hại lớn ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
kinh doanh của ngành. Vì thế gắn liền với sự ra đời và phát triển của ngành Hàng
không dân dụng là ngành bảo hiểm hàng không, một ngành có sứ mệnh góp phần
tạo ra sự an toàn, duy trì sự hoạt động bình thường và liên tục của vận tải hàng
không, phát triển các mối quan hệ, giao lưu giữa các quốc gia, tăng cường mối quan
hệ hợp tác hữu nghị trong xu hướng toàn cầu hóa

2

II. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của bài luận văn này là trình bày những lý luận cơ bản
về bảo hiểm hàng không, phân tích thực tiễn tại Việt Nam và từ đó đưa ra triển
vọng cũng như đề ra một số giải pháp phát triển loại hình bảo hiểm này tại Việt
Nam.

III. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các yếu tố cấu thành trong hoạt động bảo
hiểm hàng không. Phạm vi nghiên cứu là các công ty bảo hiểm ở Việt Nam và Tổng
công ty hàng không Việt Nam.


IV. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo hiểm và bảo hiểm hàng không
Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo hiểm hàng không ở Việt Nam
Chương 3: Triển vọng và giải pháp phát triển bảo hiểm hàng không tại Việt
Nam.


3
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM NÓI CHUNG VÀ
BẢO HIỂM HÀNG KHÔNG NÓI RIÊNG

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM
1. Khái niệm chung về bảo hiểm
Trong mọi thời đại, trong sản xuất và đời sống, con người thường xuyên chịu
ảnh hưởng của thiên nhiên, môi trường và nhân tố tâm lý, xã hội khác nhau. Ngay
cả hiện nay khi lực lượng sản xuất đã phát triển, con người vẫn chưa hiểu biết đầy
đủ những quy luật phát triển của thiên nhiên, chưa hòa đồng được vào thiên nhiên
và chưa đủ khả năng để ngăn ngừa và loại trừ những tác hại do thiên nhiên gây ra
như: bão lụt, động đất, hỏa hoạn, núi lửa, sóng thần, bệnh dịch, sâu bọ… Do vậy, để
đề phòng những tổn thất có thể bất ngờ xảy ra, cần có các quỹ dự trữ tập trung bằng
tiền đóng góp của các doanh nghiệp, của mọi người dân tự lo xa cho mình. Đây là
một biện pháp kinh tế trong đó con người dành một phần sản phẩm trong kết quả
lao động của mình để lập quỹ đủ lớn, quỹ đó được gọi là quỹ dự trữ bảo hiểm.
Tuy bảo hiểm đã ra đời từ lâu, song cho đến nay có rất nhiều khái niệm khác
nhau về bảo hiểm.
Theo Dennis Kessler: Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh
của số ít.
Theo Monique Gaullier: Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là

người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện
mong muốn để cho mình hoặc để cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro
sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người
bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các
thiệt hại theo phương pháp của thống kê.
Theo Tập đoàn bảo hiểm AIG của Mỹ: Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế
này, một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công
ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc
phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo
hiểm.

4
Nói tóm lại, có thể định nghĩa bảo hiểm như sau: bảo hiểm là một sự cam kết
bồi thường của người bảo hiểm đối với người được bảo hiểm về những thiệt hại,
mất mát của đối tượng bảo hiểm do một rủi ro đã thỏa thuận gây ra, với điều kiện
người được bảo hiểm đã thuê bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm đó và nộp một
khoản tiền gọi là phí bảo hiểm
1

Trong định nghĩa trên, cần lưu ý một số khái niệm sau đây:
- Người bảo hiểm: là người nhận trách nhiệm về rủi ro, được hưởng phí bảo
hiểm và phải bồi thường khi có tổn thất xảy ra. Người bảo hiểm có thể là công ty
của nhà nước hay của tư nhân.
- Người được bảo hiểm: là người có lợi ích bảo hiểm, là người bị thiệt hại
khi rủi ro xảy ra và được người bảo hiểm bồi thường. Người được bảo hiểm là
người có tên trong hợp đồng bảo hiểm và là người phải nộp phí bảo hiểm.
- Đối tượng bảo hiểm: là tài sản hoặc lợi ích mang ra bảo hiểm. Đối tượng
bảo hiểm có thể là tài sản, con người hoặc trách nhiệm đối với người thứ ba.
- Rủi ro được bảo hiểm: là rủi ro đã thỏa thuận trong hợp đồng. Người bảo
hiểm chỉ bồi thường những thiệt hại do những rủi ro đã thỏa thuận gây ra mà thôi.

- Phí bảo hiểm: là khoản tiền mà người được bảo hiểm phải nộp cho người
bảo hiểm để được bồi thường. Mức phí bảo hiểm thường do người bảo hiểm định ra
trên cơ sở tính toán xác suất xảy ra rủi ro hoặc trên cơ sở thống kê tổn thất nhằm
đảm bảo số phí thu về đủ để bồi thường và bù đắp các chi phí khác đồng thời có lãi.
Số thu về phí bảo hiểm trong khi chưa bồi thường là một nguồn vốn quan trọng để
công ty bảo hiểm đầu tư sang những lĩnh vực kinh doanh khác.
Tuy có nhiều khái niệm khác nhau, nhưng có thể thấy rằng mục đích chủ yếu
của bảo hiểm là góp phần ổn định kinh tế cho người tham gia từ đó khôi phục và
phát triển sản xuất, đời sống, đồng thời tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế xã hội.
Thực chất của bảo hiểm là việc phân chia tổn thất của một hoặc một số người
ra cho tất cả những người tham gia bảo hiểm. Do đó một nghiệp vụ bảo hiểm nào
đó muốn tiến hành được phải có nhiều người tham gia hay nói cách khác bảo hiểm

1
GS, TS Hoàng Văn Châu, 2006, Giáo trình bảo hiểm trong kinh doanh, NXB Lao động xã hội.

5
chỉ hoạt động dựa trên cơ sở luật số đông. Càng có nhiều người tham gia thì xác
suất xảy ra rủi ro đối với từng người càng nhỏ và bảo hiểm càng có lãi.
Phân phối trong bảo hiểm là phân phối không đồng đều, không bằng nhau,
nghĩa là không phải ai tham gia cũng được phân phối với số tiền như nhau. Phân
phối trong bảo hiểm là phân phối cho số ít người tham gia bảo hiểm không may gặp
rủi ro bất ngờ gây thiệt hại đến sản xuất và đời sống trên cơ sở mức thiệt hại thực tế
và điều kiện bảo hiểm. Điều đó cũng có ý nghĩa phân phối trong bảo hiểm không
mang tính bồi hoàn, tức là dù có tham gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm nhưng tổn
thất thì không được phân phối (trừ bảo hiểm nhân thọ, hưu trí).
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục
đích sinh lời, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo
hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm
trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm

khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Với khái niệm trên, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm được
thực hiện trên cơ sở doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo
hiểm để đổi lại họ được quyền thu những khoản phí nhất định từ người mua bảo
hiểm. Khi doanh nghiệp bảo hiểm thu phí của bên mua bảo hiểm cũng đồng nghĩa
với việc doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải gánh chịu một mức trách nhiệm đối với
người được bảo hiểm tương ứng mức phí bảo hiểm đã thu. Đây là yếu tố để chứng
minh rằng, quan hệ kinh doanh bảo hiểm là quan hệ xã hội mang tính chất song vụ,
quyền lợi bên này cũng chính là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.

6
2. Phân loại bảo hiểm
2.1 Căn cứ vào cơ chế hoạt động của bảo hiểm, có thể chia ra:
Bảo hiểm xã hội: là chế độ bảo hiểm của Nhà nước, của đoàn thể xã hội hoặc
của các công ty nhằm trợ cấp các viên chức Nhà nước, người làm công… trong
trường hợp ốm đau, bệnh tật hoặc bị tai nạn trong khi làm việc, về hưu.
Bảo hiểm xã hội có tính chất bắt buộc, theo những luật lệ quy định chung,
không tính đến những rủi ro cụ thể, không nhằm mục đích kinh doanh. Gồm những
loại như: chế độ bảo hiểm xã hội đối với cán bộ, viên chức nhà nước; bảo hiểm thất
nghiệp; bảo hiểm y tế…
Bảo hiểm thương mại: là loại hình bảo hiểm mang tính chất kinh doanh,
kiếm lời. Loại bảo hiểm này có đặc điểm: không bắt buộc, có tính đến từng đối
tượng, từng rủi ro cụ thể, nhằm mục đích kinh doanh…
Như vậy nếu so sánh giữa 2 loại hình bảo hiểm thì chúng đều nhằm mục đích
giúp ổn định kinh tế, đảm bảo đời sống, khắc phục khó khăn do hậu quả, rủi ro xảy
ra, người tham gia bảo hiểm đều có trách nhiệm đóng góp phí bảo hiểm. Song
chúng đều có những điểm khác nhau như về phạm vi hoạt động. Phạm vi hoạt động
của bảo hiểm thương mại thường rộng hơn, không chỉ dừng lại ở địa giới một quốc
gia mà nó thường vượt ra ngoài một quốc gia dưới hình thức tái bảo hiểm. Bảo
hiểm thương mại có thể dựa vào nhiều tiêu thức khác nhau.

Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, việc phân loại phổ biến nhất là theo đối
tượng và phương thức hoạt động của bảo hiểm.

2.2 Dựa vào đối tượng của bảo hiểm
Bảo hiểm tài sản: đối tượng bảo hiểm là tài sản, của tập thể hay cá nhân bao
gồm vật có thực, tiền, giấy tờ có giá… Thiệt hại được bồi thường trong loại hình
bảo hiểm này mang tính vật chất.
Bảo hiểm con người: đối tượng bảo hiểm là con người hay các bộ phận của
cơ thể con người hay các vấn đề có liên quan như tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe, tai
nạn…

7
Bảo hiểm trách nhiệm: đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự của người
được bảo hiểm đối với người thứ ba hay đối với sản phẩm.

2.3 Dựa theo quy định của pháp luật
Dựa vào phương thức này thì bảo hiểm được chia thành hai loại: bảo hiểm tự
nguyện và bảo hiểm bắt buộc. Hai hình thức bảo hiểm này áp dụng đối với tất cả
các đối tượng là con người và tài sản.
Bảo hiểm tự nguyện: là hình thức bảo hiểm được tiến hành theo ý nguyện của
người tham gia bảo hiểm được chi phối bởi hợp đồng bảo hiểm trên nguyên tắc thỏa
thuận.
Bảo hiểm bắt buộc: là hình thức bảo hiểm được pháp luật Nhà nước quy định
bắt buộc đối với cá nhân bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Đặc trưng của bảo
hiểm bắt buộc là hoạt động bảo hiểm được thiết lập theo nguyên tắc trách nhiệm tự
động, loại trừ khả năng lựa chọn của người tham gia bảo hiểm. Nó gắn liền với việc
tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với đối tượng bảo hiểm có liên quan
đến lợi ích và an toàn chung của xã hội. Vì rủi ro xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm
bắt buộc không chỉ là thiệt hại của cá nhân người được bảo hiểm mà còn gây thiệt
hại chung cho toàn xã hội. Hình thức bảo hiểm bắt buộc có nhiều thuận lợi cho các

nhà doanh nghiệp bảo hiểm trong công tác triển khai nghiệp vụ.

2.4 Căn cứ vào tính chất của bảo hiểm
Bảo hiểm nhân thọ: là bảo hiểm tính mạng hoặc tuổi thọ của con người nhằm
bù đắp cho người được bảo hiểm một khoản tiền khi hết thời hạn bảo hiểm hoặc khi
người được bảo hiểm bị chết hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn. Bảo hiểm nhân
thọ bao gồm các loại nghiệp vụ: bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm sinh kỳ, bảo hiểm tử
kỳ,…
Bảo hiểm phi nhân thọ: là các loại bảo hiểm khác như: bảo hiểm sức khỏe và
bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt
hại, bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường bộ, đường sắt, đường hàng
không…

8
3. Đặc điểm và nguyên tắc của bảo hiểm
Khi xảy ra sự cố bảo hiểm bất ngờ, đối tượng bảo hiểm bị tổn thất được bảo
hiểm bồi thường. Điều này tạo tiền đề khách quan cho tính thương mại của bảo
hiểm, nghĩa là khi không xảy ra rủi ro bảo hiểm thì không phải bồi thường từ đó tạo
ra thu nhập cho người kinh doanh bảo hiểm.
- Tiêu chuẩn bồi thường của bảo hiểm là không biết trước được về thời gian,
không gian và quy mô. Việc bồi thường chỉ xác định được một cách tương đối
chính xác khi rủi ro thực tế xảy ra. Ở đây hoàn toàn khác với tính bồi thường của tín
dụng ta có thể biết trước được và tính trước được tùy theo hình thức của tín dụng.
Điều này tạo ra lượng vốn nhàn rỗi trong nguồn vốn bảo hiểm tại những thời gian
nhất định cho phép người bảo hiểm có thể sử dụng khoản vốn đó tham gia vào thị
trường tài chính để kiếm lời.
- Việc bồi thường tổn thất thực tế cho người tham gia bảo hiểm thường rất
lớn, lớn hơn rất nhiều so với số tiền phí bảo hiểm đã đóng góp. Đặc điểm này cho
thấy để đảm bảo và ổn định nguồn tài chính cho việc bù đắp tổn thất trong hoạt
động bảo hiểm thường phải áp dụng cơ sở luật số đông. Trong thực tế, đối với

những đối tượng có giá trị lớn, để giảm bớt trách nhiệm tài chính đối với rủi ro bảo
hiểm tổn thất phải thực hiện nghiệp vụ tái bảo hiểm. Mặt khác, để giảm bớt chi bồi
thường phải tăng cường các biện pháp để ngăn ngừa và hạn chế tổn thất bảo hiểm.
Hay khi nguồn vốn bảo hiểm chưa sử dụng đến để bù đắp được sử dụng đầu tư phát
triển kinh tế để sinh lời làm tăng khả năng nguồn tài chính cho việc bồi thường và
tăng lợi nhuận.
- Quá trình phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm gắn bó chặt chẽ với chức
năng quản trị về mặt tài chính đối với mục đích tạo lập quỹ và sử dụng quỹ nhằm
đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm khi gặp rủi ro cũng như quyền lợi
của người kinh doanh bảo hiểm đạt được doanh lợi cao nhất.
Từ sự phân tích đặc điểm của quỹ bảo hiểm có thể rút một số nguyên tắc
hoạt động của bảo hiểm thương mại như sau:
Một là, người tham gia bảo hiểm phải tự giác đóng phí bảo hiểm đầy đủ, kịp
thời. Doanh nghiệp được sử dụng vốn nhàn rỗi để đầu tư phát triển kinh tế theo

9
nguyên tắc bảo toàn vốn, nhằm phát triển khả năng thanh toán bồi thường và có
điều kiện giảm phí bảo hiểm.
Hai là, các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh
doanh, tức là hoạt động kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm phải thu được lợi nhuận,
phải lấy lợi nhuận làm mục tiêu kinh doanh.
Ba là, hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân theo pháp luật của
nhà nước quy định cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp bảo hiểm nói
riêng.
Một khi hoạt động của bảo hiểm tuân thủ nguyên tắc trên thì bảo hiểm sẽ
phát huy tối đa vai trò của nó.

4. Vai trò của bảo hiểm đối với đời sống xã hội
Trên phạm vi toàn cầu, bảo hiểm góp phần liên kết các quốc gia, các châu
lục thành một khối bền vững nhằm phòng chống, ngăn chặn cho nhân loại trước

muôn vàn thảm họa, hiểm nguy. Xã hội càng văn minh hiện đại thì người ta càng
cần một cuộc sống được đảm bảo và an toàn trước những tai nạn, rủi ro luôn rình
rập xung quanh.
Trong nền kinh tế quốc dân của mỗi nước, bảo hiểm giữ một vai trò quan
trọng, các nhà doanh nghiệp thường sử dụng một biện pháp hữu hiệu để đảm bảo sự
ổn định tài chính của mình là chuyển rủi ro cho công ty bảo hiểm, các công ty bảo
hiểm đưa số tiền thu được của những người được bảo hiểm vào đầu tư và nó trở
thành một trong những động lực mạnh nhất của nền kinh tế.
Bảo hiểm là một bộ phận của tài chính quốc gia. Nhiệm vụ là ổn định sản
xuất và đời sống cho các đối tượng tham gia bảo hiểm mỗi khi có tai nạn, đồng thời
nhà bảo hiểm là người trợ cấp dịch vụ có trách nhiệm tổ chức và quản lý hội tương
hỗ của người được bảo hiểm.
Có thể nói không có lĩnh vực nào của đời sống kinh tế lại không có bảo
hiểm. Bảo hiểm đã trở thành tấm lá chắn trong hoạt động kinh tế xã hội, tạo ra môi
trường ổn định cho mọi cá nhân trước những diễn biến bất thường của cuộc sống,
nó được thể hiện ở những vai trò chủ yếu sau:

10
Thứ nhất, bảo hiểm giúp hồi phục sản xuất, kinh doanh; ổn định cuộc sống.
Việc giải quyết bồi thường của công ty bảo hiểm thường là cao hơn so với thiệt hại
thực tế của người tham gia bảo hiểm. Để đạt được yêu cầu đó, các công ty bảo hiểm
phải tiến hành công tác giám định để xác định rõ mức độ thiệt hại, từ đó định ra các
mức bồi thường cho người bị thiệt hại. Đồng thời, khẳng định thiệt hại có xảy ra
hay không, do nguyên nhân nào. Việc bảo hiểm thỏa đáng cho người bị thiệt hại là
yếu tố quan trọng nhất cho họ ổn định cuộc sống phục hồi sản xuất - kinh doanh, tái
hòa nhập với đời sống kinh tế - xã hội.
Bảo hiểm giúp cho việc vô hiệu hóa ảnh hưởng xấu khi xảy ra rủi ro, do đó
phạm vi người được bảo hiểm ngày một mở rộng. Các công ty bảo hiểm (người bảo
hiểm), sử dụng phần lớn số tiền thu được để bồi thường cho người tham gia bảo
hiểm, thường số tiền bồi thường chiếm khoảng 60-80% doanh thu phí bảo hiểm.

Thứ hai, bảo hiểm góp phần tăng tích lũy và tiết kiệm chi cho ngân sách Nhà
nước. Nguồn tăng tích lũy chủ yếu của hoạt động bảo hiểm từ các nguồn: thuế; số
phí bảo hiểm thu được mà công ty bảo hiểm chưa dùng đến có thể được cho vay,
đầu tư mở rộng sản xuất; hoặc bằng nghiệp vụ bảo hiểm có thể giải quyết tình trạng
ứ đọng và lãng phí vốn của người tham gia bảo hiểm, họ không phải dữ trữ vốn để
tự bảo hiểm mà có thể sử dụng vốn này đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Mặt khác,
nhờ có hoạt động bảo hiểm, ngân sách đỡ phải gánh chịu những tổn thất rất lớn
hàng năm do thiên tai, tai nạn gây nên.
Thông qua việc bảo hiểm đối ngoại và nghiệp vụ tái bảo hiểm, các công ty
bảo hiểm có thể thu được số lượng ngoại tệ rất lớn. Kết quả của hoạt động bảo hiểm
một phần được đánh giá dựa vào chênh lệch giữa thu và chi, chỉ số chênh lệch càng
lớn (thu nhiều, chi ít) chứng tỏ công tác bảo hiểm đã làm tốt công tác tuyên truyền.
Cũng như các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp bảo hiểm phải nộp vào ngân sách
Nhà nước một số loại thuế.
Thứ ba, bảo hiểm là nguồn cung cấp vốn. Hoạt động bảo hiểm có vai trò đặc
biệt trong việc cung cấp vốn dài hạn và trung hạn cho thị trường tài chính, thị
trường vốn kinh doanh qua việc vốn tạm thời nhàn rỗi chưa phải thanh toán bồi
thường làm tăng khả năng bảo toàn và phát triển, nới rộng vốn dự trữ, tạo điều kiện

11
cho các doanh nghiệp bảo hiểm lựa chọn đưa ra các mức phí có sức cạnh tranh và
tăng mức trách nhiệm đối với người tham gia bảo hiểm, chất lượng kinh doanh và
phục vụ được nâng cao, thúc đẩy hoạt động càng phát triển.
Bảo hiểm có khả năng tập trung được nguồn vốn rất lớn thông qua vốn đầu
tư ban đầu của các công ty. Nguồn thu chủ yếu thứ hai của bảo hiểm là thu từ người
tham gia bảo hiểm dưới dạng phí bảo hiểm. Việc bảo hiểm làm chức năng trung
gian tài chính có những cái lợi như: vốn đầu tư được huy động từ trong nước do đó
không làm ảnh hưởng cán cân thanh toán, điều này rất quan trọng đối với các nước
có nhu cầu thu hút được nhiều tiền từ người tiêu dùng với mức lãi suất thấp hay
đang mắc nợ cao và mặt lợi nữa là việc lập vốn của ngành bảo hiểm khác với ngành

ngân hàng không phục vụ vào nhu cầu tiết kiệm cũng như khả năng gặp rủi ro của
từng cá nhân. Tuy nhiên, mức vốn được hình thành qua bảo hiểm vẫn chưa cụ thể vì
chưa biết được mức độ rủi ro cũng như mức thu theo các nhu cầu bảo hiểm.
Thứ tư, bảo hiểm tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất trong
mọi lĩnh vực của con người. Mục đích chính của bảo hiểm không phải là kinh
doanh mà là bồi thường thiệt hại, nhưng bồi thường chưa thể hiện được tính tích
cực của bảo hiểm. Xét trên quy mô toàn xã hội, bồi thường chỉ là biện pháp cuối
cùng. Khi xảy ra tổn thất thì tài sản chung bị thiệt hại gây lãng phí lớn.
Hoạt động bảo hiểm mang tính kinh doanh cho nên muốn có hiệu quả cao,
các công ty bảo hiểm phải theo dõi, thống kê tình hình tai nạn, tổn thất. Trên cơ sở
đó đề ra các biện pháp nhằm đề phòng và hạn chế rủi ro, thông báo cho người được
bảo hiểm về các rủi ro tiềm tàng và xác suất xảy ra rủi ro, bồi thường những chi phí
hợp lý cho người tham gia để họ đề phòng và hạn chế tổn thất, đề ra các quy định
chặt chẽ để tăng cường trách nhiệm của các bên có liên quan đến đối tượng bảo
hiểm. Bằng cách này, bảo hiểm giúp cho công tác phòng ngừa tổn thất, làm tăng
thêm các tiêu chuẩn an toàn và đảm bảo chất lượng bảo hiểm.
Như vậy quyền lợi bảo hiểm đã ràng buộc trách nhiệm của các bên hữu quan
đối với đối tượng bảo hiểm và thông qua đó hoạt động bảo hiểm đã góp phần tích
cực vào việc đề phòng và hạn chế tổn thất. Bảo hiểm làm lành mạnh môi trường tài
chính tín dụng trong nền kinh tế, hạn chế rủi ro vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho

12
các thành phần kinh tế. Ở các nước trên thế giới, hoạt động ngân hàng phát triển
đồng thời với sự phát triển của hoạt động bảo hiểm. Bảo hiểm còn góp phần thực
hiện chính sách giữ vững độc lập tự chủ, nâng cao uy tín của một nước trong các
hoạt động kinh tế, chính trị góp phần nâng cao cuộc sống của người dân.
Vai trò của bảo hiểm là rất lớn đối với mọi hoạt động kinh tế - xã hội và cuộc
sống của mỗi người. Tham gia bảo hiểm là biện pháp tự vệ an toàn cho tổ chức, đơn
vị và cá nhân mình trước những tai họa bất thường của khách quan.


II. BẢO HIỂM HÀNG KHÔNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
1. Khái niệm chung về bảo hiểm hàng không
Bảo hiểm hàng không là bảo hiểm những rủi ro trên không, trên bộ… liên
quan tới một hành trình chuyên chở bằng đường hàng không.
Xét về phương diện hàng không, thì bảo hiểm là những khoản đảm bảo tài
chính lên đến hàng trăm triệu USD. Bảo hiểm là điều kiện tiên quyết trong hoạt
động của bất kỳ hãng hàng không nào mặc dù khoản chi phí tổn thất toàn bộ (nếu có
xảy ra) – thường ở mức trung bình dưới 2% so với tổng ngân sách của các hãng
hàng không – là tương đối nhỏ. Thật sự đây là khoản chi phí phụ thêm mà hầu như
ít được đề cập đến trong các bản báo cáo tài chính chi tiết của các hãng hàng không.
Dĩ nhiên là ngành hàng không – cũng như các ngành khác trong thành phần kinh tế
- cũng luôn chịu áp lực về tài chính. Tuy nhiên khoản chi phí cho bảo hiểm thân
máy bay và trách nhiệm đối với một chiếc máy bay chỉ là một khoản nhỏ so với các
lợi nhuận mà chính khách hàng mang lại cho hãng hàng không.
Các thuật ngữ:
- Máy bay: là thiết bị bay hoạt động cho mục đích dân dụng hoặc quân sự
được nâng giữ trong khí quyển nhờ tác dụng tương hỗ với không khí.
- Hành khách: là người được chuyên chở bằng máy bay do cơ quan vận
chuyển thỏa thuận.
- Hành lý: là đồ vật của hành khách mang theo chuyến bay, hành lý được
chia ra làm 2 loại là hành lý ký gửi và hành lý xách tay.

13
- Hàng hóa: là vật phẩm được chuyên chở bằng máy bay theo vận đơn hàng
không.
- Người thứ ba: là người đi trên mặt đất bị tai nạn do máy bay gây ra.
- Người chuyên chở: là Công ty Hàng không đứng ra tổ chức vận chuyển
hành khách, hành lý, hàng hóa…

2. Đặc điểm của bảo hiểm hàng không

Trong vận tải hàng không, số vụ tai nạn xảy ra tuy ít hơn so với đường biển,
đường sắt, đường bộ nhưng mức độ thiệt hại lại rất nghiêm trọng, việc bồi thường
tai nạn rất lớn (trong năm 2009, số tiền bồi thường tai nạn tính trên toàn thế giới là
2,2 tỷ USD– đa số các đơn hàng đòi bồi thường đến từ Châu Âu và Bắc Mỹ). Một
nghiên cứu về nguyên nhân của các vụ tai nạn máy bay trong khoảng thời gian 10
năm gần đây cho rằng chính sự tăng trưởng các hãng máy bay nhỏ ở các nước
nghèo là một nguyên nhân quan trọng, đồng thời quy lỗi cho tổ lái thiếu kinh
nghiệm, do lỗi của phi công không được huấn luyện đầy đủ và khâu bảo dưỡng kém
do tiết kiệm. Ngoài ra còn do các nguyên nhân như máy móc, thời tiết, âm mưu
quân sự, khủng bố cướp máy bay, do lỗi của kiểm soát viên không lưu và các
nguyên nhân khác.

14
Biểu đồ 1.1: Tình hình phí bảo hiểm/ tổn thất trên thế giới giai đoạn
năm 1998-2009
2

Đơn vị tính: Tỷ USD


Xu hướng tăng phí trên thị trường bảo hiểm hàng không thế giới vẫn tiếp tục
trong năm 2009. Tổng phí bảo hiểm thân và trách nhiệm năm 2009 ước tính đạt 1,9
tỷ USD, tăng 20% so với con số 1,6 tỷ USD trong năm 2008. Tuy nhiên tổng tổn
thất hàng không trong năm 2009 lên đến 2,3 tỷ USD khiến năm 2009 là năm thứ 3
liên tiếp không thu được lợi nhuận của thị trường hàng không trên thế giới. Ngay cả
mức tăng phí bảo hiểm 20% cũng không làm tăng lợi nhuận cho các công ty kinh
doanh bảo hiểm trong năm 2009. Theo IATA, tổng mức thua lỗ của toàn ngành
hàng không trên toàn thế giới năm 2009 là 11 tỷ USD và dự báo sẽ tiếp tục thua lỗ
5,6 tỷ USD trong năm 2010. Làn sóng suy thoái kinh tế toàn cầu, giá nhiên liệu tăng
vọt và dịch cúm H1N1 đã gây ảnh hưởng nặng nề đến ngành hàng không, nhu cầu

đi lại bằng hàng không sụt giảm, chi phí đầu vào tăng cao…



2
Nguồn: />december-2009.html

15
Bảng 1.2: Tình hình tăng/ giảm phí bảo hiểm hàng không trên thế giới
năm 2008 – 2009
3


Thay đổi giá
trị đội bay
(%)
Thay đổi
lượng hành
khách (%)
Phí bảo hiểm
2008
(triệu USD)
Phí bảo hiểm
2009
(triệu USD)
Tăng/giảm
phí bảo hiểm
(%)
Tháng 1
-21

-37
19,34
17,33
-10
Tháng 2
53
44
2,98
3,57
20
Tháng 3
63
-5
20,31
29,68
46
Tháng 4
-1
-7
93,95
99,33
6
Tháng 5
10
2
63,79
72,05
13
Tháng 6
-5

-15
32,03
40,14
25
Tháng 7
2
-11
215,55
261,59
21
Tháng 8
8
10
14,96
18,19
22
Tháng 9
24
-5
16,83
22,17
32
Tháng 10
25
4
93,03
125,82
31
Tháng 11
4

-1
169,21
201,51
19
Tháng 12
2
0
856,48
1.019,14
19
Tổng
3
-2
1.598,46
1.910,52
20

3
Nguồn: />december-2009.html

16
Biểu đồ 1.3: Biều đồ tổn thất cộng dồn 2009
4

Đơn vị tính: triệu USD

Theo biểu đồ tổn thất cộng dồn ở trên, ta có thể thấy tính đến cuối năm 2009,
tổn thất ước tính lên tới 2.264 triệu USD so với năm 2008 là 1.329 triệu USD. Vụ
tai nạn gần đây nhất trong năm 2009 là vụ rơi máy bay ở Trung Quốc, khi chiếc
máy bay vận tải McDonnell Douglas MD-11, của hãng hàng không Avient Aviation

do Mỹ sản xuất, có trụ sở tại Zimbabwe, đang cất cánh để bay đi Kyrgyzstan vào
sáng 28/11/2009 từ Sân bay Quốc tế Phố Đông ở Thượng Hải. Máy bay đã đi chệch
khỏi đường băng khi cất cánh và bốc cháy. Có 3 trên 7 người bị thiệt mạng. Chiếc
máy bay ước tính trị giá 76 triệu USD.
Như vậy, nếu tính cả các tổn thất nhỏ, năm 2009 là năm có tổng tổn thất lớn
thứ hai trên thị trường bảo hiểm hàng không (năm 2001 là năm có tổng tổn thất lớn
nhất do kết quả của sự kiện ngày 11/9). Tuy nhiên, tổn thất của năm 2009 chủ yếu
bị chi phối bởi hai tổn thất lớn trong năm là tổn thất máy bay Airbus A330-203 của
hãng Air France ngày 01/06 với 228 người chết và tổn thất máy bay Airbus A310-

4
Nguồn: />december-2009.html

17
304 của hãng Yemenia Airways ngày 30/06 với 152 người chết. Nếu không có hai
tai nạn này, tổng tổn thất hàng không trong năm 2009 cũng chỉ tương đương con số
tổn thất trung bình nhiều năm của thị trường bảo hiểm hàng không.
Xu hướng tăng phí trên thị trường bảo hiểm hàng không thế giới vẫn tiếp tục
tăng trong năm 2009. Tổng phí bảo hiểm thân và trách nhiệm năm 2009 ước tính
đạt 1,9 tỷ USD, tăng 20% so với con số 1,6 tỷ USD trong năm 2008. Tổng tổn thất
hàng không trong năm 2009 lên đến gần 2,3 tỷ USD. Với tình hình 3 năm liên tiếp
không thu được lợi nhuận như vậy, có thể năng lực nhận bảo hiểm trên bảo hiểm
hàng không sẽ tiếp tục bị dao động. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng trung bình 20% của phí
bảo hiểm thân và trách nhiệm trong năm qua đã khiến một số nhà bảo hiểm quay trở
lại với thị trường bảo hiểm hàng không. Điều này có nghĩa là phí bảo hiểm sẽ tiếp
tục tăng trong năm 2010, tuy nhiên, phí bảo hiểm tăng tức là các hãng hàng không
trên thế giới đang phải chịu chi phí bảo hiểm cao lên. Vì thế, cho dù tổn thất vẫn
luôn cao hơn phí bảo hiểm, nếu trong năm 2010, không xảy ra một vụ tổn thất lớn,
tốc độ tăng phí có thể sẽ giảm đi đôi chút.


18
Biểu đồ 1.4: Tình hình phí bảo hiểm hàng không thế giới trong
giai đoạn 2000-2009
5

Đơn vị tính: %

Theo biểu đồ trên, ta có thể thấy trong giai đoạn 2000 – 2009, năm 2002 là
năm phí bảo hiểm tăng cao nhất như là hệ quả sau sự kiện 11/9, sau đó phí bảo hiểm
hàng không lại có xu hướng giảm hơn do có sự cạnh tranh trên thị trường của các
nhà bảo hiểm. Đến khoảng từ năm 2008 trở đi, phí bảo hiểm đã bắt đầu tăng dần.
Nếu tính cả giai đoạn 10 năm từ 2000 đến 2009, thì tổng phí bảo hiểm thân và trách
nhiệm đạt khoảng 24 tỷ USD và bồi thường khoảng 19 tỷ USD. Như vậy, tổng phí
bảo hiểm của thập niên vừa qua cao hơn 25% so với bồi thường. Tuy nhiên, nếu
tính thêm 10% chi phí cố định và 15% chi phí tái bảo hiểm thì các nhà bảo hiểm chỉ
đạt được mức hòa vốn trong danh mục bảo hiểm hàng không của mình trong thập
niên vừa qua.
Khi tai nạn xảy ra, có thể phát sinh một số trách nhiệm như sau:
1. Trách nhiệm của hãng chuyên chở đối với khách (thường hành khách có
nhiều quốc tịch khác nhau) và tất nhiên mức trách nhiệm phát sinh đối với từng
hãng hàng không cũng khác nhau. Hiện nay đa số các hãng hàng không áp dụng

5
/>2009.html

19
mức giới hạn trách nhiệm 100.000 SDR/ 1 hành khách và một số nước áp dụng mức
không có giới hạn.
2. Trách nhiệm của nhà vận chuyển đối với hành lý, hàng hóa, bưu kiện và
tư trang cá nhân của hành khách, thường có giới hạn trách nhiệm theo mức là 20

USD/ 01 kg và mức 1.200 USD/ toàn bộ tư trang của một hành khách.
3. Trách nhiệm đối với người thứ ba. Hiện nay trên thế giới, các hãng hàng
không thường áp dụng công ước Rome 1952 quy định giới hạn trách nhiệm của
hãng hàng không đối với người thứ ba theo trọng lượng cất cánh của máy bay, nhất
là máy bay đang hoạt động trên lãnh thổ của nước khác. Mức giới hạn đó là 500.000
Fr vàng/người.
4. Trách nhiệm cung cấp sản phẩm (xăng dầu, thiết bị, phụ tùng, suất ăn…)
5. Trách nhiệm của người điều hành bay (điều hành tại sân bay, điều hành
tiếp cận và điều hành đường dài…). Theo luật pháp và để ổn định kinh doanh, các
hãng hàng không, nhà chức trách hàng không, các cơ quan liên quan đến phục vụ
trực tiếp cho hoạt động hàng không đều phải nghĩ tới việc bảo hiểm trách nhiệm cho
hoạt động của mình.
Các sự cố uy hiếp an toàn hoạt động hàng không có thể xảy ra bất cứ lúc nào
ở giai đoạn: đỗ trên mặt đất, lăn bánh và bay. Trong đó giai đoạn bay là đáng chú ý
nhất, nếu loại trừ các rủi ro về chiến tranh thì hầu hết các tai nạn máy bay đều xảy
ra trong quá trình cất và hạ cánh. Khác với hỏng hóc của phương tiện oto, tàu thủy,
xe lửa… còn có thể dừng lại để sửa chữa hay nhờ các phương tiện khác cứu hộ,
giúp đỡ… còn đối với máy bay là điều khó có thể thực hiện được, thường là các tai
nạn máy bay như nổ lốp khi hạ cánh, gẫy cánh, không thả được càng, hỏng cánh,
động cơ hút phải vật lạ hoặc thời tiết xấu Để cho máy bay hoạt động an toàn, các
bộ phận liên quan đến kỹ thuật máy bay trước khi cất cánh phải theo dõi, hơn thế
nữa các bộ phận phục vụ như sân đường, khí tượng, thông tin liên lạc, điều hành
bay và làm các thủ tục mặt đất được tổ chức đi vào hoạt động một cách hết sức
chính xác.
Đối với bảo hiểm hàng không tại Việt Nam, giá trị bảo hiểm của tài sản
thường rất lớn. Để đảm bảo cho hoạt động bình thường của ngành hàng không,

×