Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Phân tích thực trạng và triển vọng của hình thức tài trợ vốn qua thị trường chứng khóan Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.35 KB, 24 trang )

Đề tài:Phân tích thực trạng và triển vọng của hình thức tài trợ vốn qua thị trường chứng khóan
Việt Nam
Lời mở đầu
Hòa mình vào xu thế phát triển chung của quốc tế và thế giới nhất là trong những năm gần
đây như tham gia vào khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA ) , Hiệp định thương mại song
phương Việt –Mỹ , mà đặc biệt là tổ chức thương mai Thế giới (WTO) , Việt Nam đang dần lớn
lên và ngày một trưởng thành hơn trong một hình hài bé nhỏ . Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp
Việt nam phải xây dựng được một tầm vóc phù hợp để có khả năng cạnh tranh , và hợp tác trên
trường quốc tế
Để có những tiến bộ vượt bậc trong phát triển kinh tế , Viêt Nam cũng đã có một số thay
đổi tích cực về các điều luật và các quy định quản lý trong hoạt động huy động vốn , nhất là qua
thị trường chứng khoán . Những thay đổi này đã và sẽ giúp hoạt động huy động vốn có những
bước chuyển mạnh mẽ , góp phần khai thác các nguồn vốn đáng kể nhằm tài trợ cho sự phát triển
thành công của khối doanh nghiệp trong nước
Có thể nói tài trợ vốn qua thị trường chứng khoán có vai trò lớn trong việc tạo một kênh
huy động và phân bổ nguồn vốn dài hạn cho nền kinh tế , đặc biệt cho các doanh nghiệp , các tổ
chức thuận lợi hơn trong việc lập kế hoạch những dự tính lâu dài ,… giúp cho nền kinh tế sử
dụng vốn một cách hiệu quả nhất , đa dạng hóa được các hình thức đầu tư và phân tán rủi ro. Từ
đó mà nền kinh tế có được những dự án đầu tư mới , những năng lực mới ,góp phần thức đẩy sự
tang trưởng ,phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế
Để có thể hiểu được cách thức để một nguồn vốn qua thị trường chứng khoán có thể đến
được tay các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế , cũng như dòng luân chuyển của nó. Qua đó,cho
chúng ta có được cái nhìn toàn diện hơn về triển vọng tài trợ vốn qua thị trường chứng khoán
trong tương lai để có những chiến lược , giải pháp thích hợp để phát triển thị trường này .
Chúng tôi xin đưa ra đề tài : “Thực trạng và triển vọng của hình thức tài trợ vốn qua thị
trường chứng khóan Việt Nam giai đoạn 2008-2013”
Chương I. Lý luận chung về tài trợ vốn qua thị trường chứng khóan
1.1 Khái niệm và bản chất của tài trợ vốn qua thị trường CK
1.1.1 Tài trợ vốn
Tài trợ vốn là quá trình cung vốn và cầu vốn trên thị trường vốn hay là việc vốn chảy từ
nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn. Việc tài trợ vốn chính là việc các nhà đầu tư sử dụng vốn dư


thừa của mình để đầu tư vào nơi cần vốn qua đó thu lại lợi nhuận cho bản thân và cũng đem lại
lợi ích cho bên có nhu cầu về vốn.
1.1.2 Tài trợ vốn qua thị trường chứng khóan
Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của Thị trường vốn, hoạt động của nó
nhằm huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong xã hội tập trung thành nguồn vốn lớn tài
trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và Chính phủ để phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh
tế hay cho các dự án đầu tư.
Về bản chất tài trợ vốn qua TTCK chính là hoạt động của thị trường chứng khóan sơ cấp,
hay nói cách khác tài trợ vốn thể hiện ở cung cầu chứng khóan trên TT sơ cấp: nhà đầu tư mua
CK của đơn vị phát hành trên TT sơ cấp, qua đó trực tiếp làm gia tăng vốn của đơn vị phát hành
chứng khóan.
1.1.3 Đối tượng tham gia của hình thức tài trợ vốn qua thị trường chứng khoán
1.1.3.1 Nhà đầu tư
NĐT bao gồm NĐT có tổ chức như ngân hàng, CTCK, công ty bảo hiểm, DN. Đặc
điểm cơ bản của nhóm NĐT này là quy mô vốn đầu tư lớn, có tính tập trung hoá hoạt động đầu
tư cao, hoạt động chuyên nghiệp với danh mục đầu tư đa dạng và linh hoạt. Đặc biệt, các tổ chức
kinh doanh chứng khoán như ngân hàng, công ty chứng khoán có thể đảm nhận vai trò tạo lập thị
trường.
Các DN cũng là đối tượng đầu tư quan trọng trên thị trường. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư
của đối tượng này thường kém chuyên nghiệp hơn, chủ yếu tập trung ở hoạt động đầu tư ngân
quỹ nhằm đáp ứng khả năng thanh toán chi trả và hoạt động đầu tư nắm quyền kiểm soát.
Bên cạnh NĐT có tổ chức, các NĐT cá nhân có vai trò quan trọng trong việc làm tăng
tính sôi động của thị trường. Nhiều nước trên thế giới cho phép NĐT được ký hợp đồng và mở
tài khoản tại nhiều CTCK. Biện pháp này giúp NĐT có thể thực hiện phân tán đầu tư, tận dụng
lợi thế của từng CTCK trong việc thực hiện giao dịch, đồng thời các CTCK buộc phải cạnh tranh
với nhau, từ đó làm tăng chất lượng dịch vụ cung cấp. Ở Việt Nam, phương thức quản lý chưa
hoàn thiện, chưa thực sự kiểm soát chặt chẽ các giao dịch, đặc biệt là giao dịch nội gián và thao
túng thị trường, do vậy hiện mới chỉ cho phép mỗi NĐT được mở 1 tài khoản tại một CTCK.
Các NĐT cá nhân thường gặp bất lợi về quy mô, do vậy chi phí đầu tư cao, khả năng
phân tán rủi ro và đa dạng hoá đầu tư kém, tính chuyên nghiệp thấp. Danh mục đầu tư của các

NĐT cá nhân ở Việt Nam thường đơn giản, chủ yếu là cổ phiếu. Hơn nữa, việc hoạch định danh
mục đầu tư còn thiếu khoa học và quản lý thụ động. Chứng khoán được lựa chọn còn theo cảm
tính, do vậy chất lượng đầu tư thường không cao.
1.1.3.2 Nhà phát hành
Nhà phát hành lớn nhất trên thị trường là các tổ chức kinh tế, bao gồm Chính phủ và
chính quyền địa phương, DN, ngân hàng thương mại và các trung gian tài chính khác. Hoạt động
phát hành chứng khoán của các trung gian tài chính làm tăng khả năng tích tụ và tập trung vốn
trên thị trường. Chính phủ và chính quyền địa phương phát hành trái phiếu và công cụ nợ ngắn
hạn nhằm huy động vốn để bù đắp thiếu hụt ngân sách và chi đầu tư.
Các DN phát hành cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ nợ ngắn hạn nhằm huy động vốn
đáp ứng nhu cầu hoạt động. Phần lớn lượng vốn này được dùng để đầu tư mua sắm các tài sản
thực, do vậy làm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế.
Các trung gian tài chính như ngân hàng thương mại có thể phát hành chứng khoán để huy
động vốn. Chứng khoán do đối tượng này phát hành có khối lượng lớn và độ an toàn khá cao, do
vậy thường hấp dẫn công chúng đầu tư.
1.1.3.3 Trung gian tài chính
Các tổ chức trung gian đầu tư bao gồm CTCK, công ty quản lý quỹ, tổ chức bảo hiểm,
ngân hàng và trung gian đầu tư khác. Các CTCK thường thực hiện hoạt động môi giới, tư vấn
đầu tư, bảo lãnh phát hành, tự doanh…
Khác với CTCK, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện hoạt động uỷ thác
đầu tư hoặc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán và thực hiện quản lý danh mục đầu tư
chứng khoán cho khách hàng (những người sở hữu chứng chỉ quỹ).
Công ty bảo hiểm là trung gian đầu tư điển hình. Thông qua hoạt động khai thác bảo
hiểm, các công ty này thu hút lượng vốn lớn trong nền kinh tế và thực hiện hoạt động đầu tư vốn
nhàn rỗi, chủ yếu vào các chứng khoán.
1.2 Quy trình thực hiện tài trợ vốn qua TTCK
Như vậy nguồn vốn thông qua TTCK ( ở đây là thị trường sơ cấp) được điều tiết từ nới
thừa vốn nhưng chưa có nhu cầu sử dụng hoặc nơi sử dụng vốn kém hiệu quả sang nơi có nhu
cầu về vốn ( hay thiếu vốn). Người có nhu cầu về vốn có thể trực tiếp phát hành chứng khóan để
huy động vốn. Còn người dư thừa vốn có thể mua các chứng khóan này như 1 khỏan đầu tư.

* Quy trình huy động vốn qua TTCK
Các quy trình huy động vốn qua thị trường chứng khoán: khi DN muốn huy động vốn qua
thị trường chứng khoán thì phải phát hành các chứng khoán có giá trị thông qua thị trường chứng
khoán. Thông thường việc phát hành chứng khoán ra công chúng được thực hiện theo các bước
sau:
Bước 1: Tổ chức đại hội cổ đông để xin ý kiến chấp thuận của đại hội cổ đông về việc phát
hành chứng khoán ra công chúng, đồng thời thống nhất mục đích huy động vốn; số lượng vốn
cần huy động; chủng loại và số lượng chứng khoán dự định phát hành; cơ cấu vốn phát hành dự
tính phân phối cho các đối tượng: Hội đồng quản trị, cổ động hiện tại, người lao động trong
doanh nghiệp, người bên ngoài doanh nghiệp, người nước ngoài…
Bước 2: Hội đồng quản trị ra quyết định thành lập ban chuẩn bị cho việc xin phép phát hành
chứng khoán ra công chúng. Chức năng chủ yếu của ban chuẩn bị là chuẩn bị các hồ sơ xin phép
phát hành để nộp lên cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán; lựa
chọn tổ chức bảo lãnh phát hành (nếu cần), công ty kiểm toán và tổ chức tư vấn và cùng với các
tổ chức này xây dựng phương án phát hành và dự thảo bản cáo bạch để cung cấp cho các nhà đầu
tư.
Bước 3: Ban chuẩn bị lựa chọn người đứng đầu tổ hợp bảo lãnh phát hành. Trong phần lớn
các trường hợp phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng, để đảm bảo sự thành công của đợt
phát hành thì tổ chức phát hành phải chọn ra được một tổ chức bảo lãnh phát hành.Tổ chức bảo
lãnh phát hành với uy tín và mạng lưới rộng lớn của mình sẽ giúp cho việc phân phối chứng
khoán của tổ chức phát hành diễn ra một cách suôn sẻ.Chính vì vậy, khi tiến hành phát hành
chứng khoán ra công chúng thì việc lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành có ý nghĩa rất quan
trọng, và mang tính quyết định đến sự thành bại của đợt phát hành.
Bước 4: Người đứng đầu tổ hợp bảo lãnh phát hành lựa chọn các thành viên khác của tổ
hợp. Trong trường hợp khối lượng chứng khoán phát hành là quá lớn, vượt quá khả năng của
một tổ chức bảo lãnh phát hành thì tổ chức bảo lãnh phát hành chính (tổ chức bảo lãnh đã được
lựa chọn) sẽ đứng ra lựa chọn các thành viên khác để cùng với mình tiến hành bảo lãnh cho toàn
bộ đợt phát hành.
Bước 5: Ban chuẩn bị cùng với tổ hợp bảo lãnh phát hành, công ty kiểm toán và tổ chức tư
vấn tiến hành định giá chứng khoán phát hành. Định giá chứng khoán là khâu khó khăn nhất và

phức tạp nhất khi tiến hành phát hành chứng khoán ra công chúng.Nếu định giá chứng khoán quá
cao thì sẽ khó khăn trong việc bán chứng khoán, còn nếu định giá chứng khoán quá thấp thì sẽ
làm thiệt hại cho tổ chức phát hành.Vì thế, việc định giá chứng khoán một cách hợp lý sao cho
người mua và người bán đều chấp nhận được là hết sức quan trọng và cần phải được phối hợp
của tổ chức bảo lãnh, công ty kiểm toán và tổ chức tư vấn của công ty.
Bước 6: Chính thức thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành và ký hợp đồng bảo lãnh phát hành
với tổ chức phát hành.
Bước 7: Công ty kiểm toán xác nhận các báo cáo tài chính trong hồ sơ xin phép phát hành.
Bước 8: Tổ chức phát hành nộp hồ sơ lên Uỷ ban chứng khoán. Thông thường tổ chức phát
hành sẽ được trả lời về việc cấp hay từ chối cấp giấy phép trong một thời hạn nhất định kể từ
ngày nộp hồ sơ xin phép phát hành đầy đủ và hợp lệ. Trong thời gian chờ Uỷ ban chứng khoán
Nhà nước xem xét hồ sơ, tổ chức phát hành có thể sử dụng nội dung trong bản cáo bạch sơ bộ để
thăm dò thị trường.
Bước 9: Sau khi được cấp phép phát hành, tổ chức phát hành phải ra thông báo phát hành
trên các phương tiện thông tin đại chúng, đồng thời công bố ra công chúng bản cáo bạch chính
thức và việc thực hiện việc phân phối chứng khoán trong một thời gian nhất định kể từ khi được
cấp giấy phép. Thời hạn phân phối được qui định khác nhau đối với mỗi nước. ở Việt nam, theo
qui định tại Nghị định 48/Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán thì thời hạn này
là 90 ngày, trong trường hợp xét thấy hợp lý và cần thiết, Uỷ ban chứng khoán nhà nước có thể
gia hạn thêm.
Bước 10: Tiến hành đăng ký, lưu giữ, chuyển giao và thanh toán chứng khoán sau khi kết
thúc đợt phân phối chứng khoán.
Bước 11: Sau khi hoàn thành việc phân phối chứng khoán, tổ chức phát hành cùng với tổ
chức bảo lãnh phát hành phải báo cáo kết quả đợt phát hành cho Uỷ ban chứng khoán và tiến
hành đăng ký vốn với cơ quan có thẩm quyền.
Bước 12: Trường hợp tổ chức phát hành có đủ điều kiện niêm yết thì có thể làm đơn xin
niêm yết gửi lên Uỷ ban chứng khoán và Sở giao dịch chứng khoán nơi công ty niêm yết.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến tài trợ vốn qua TTCK
- Ổn định kinh tế vĩ mô
Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô luôn được coi là điều kiện tiên quyết của mọi ý

định và hành vi đầu tư. Để thu hút các nguồn vốn phải đảm bảo được nền kinh tế đó trước hết là
nơi an toàn cho sự vận động của nó và sau nữa là nơi có năng lực sinh lợi cao.
 Ổn định giá trị tiền tệ. Đây là vấn đề quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng
huy động các nguồn vốn cho đầu tư. Ổn định giá trị tiền tệ ở đây bao hàm cả việc
kiềm chế lạm phát và khắc phục hậu quả của tình trạng giảm phát nếu xảy ra đối với
nền kinh tế.Trong cả hai trường hợp, nó đều có tác động tiêu cực đến nhu cầu đầu tư
và đến sự tăng trưởng kinh tế.
 Hoạt động của ngân sách nhà nước cũng có ý nghĩa quan trọng. Ngân sách nhà nước
mà thâm hụt triền miên cũng sẽ đi kèm với tình trạng lạm phát cao và mất ổn định.
Thuế và các công cụ tài chính khác cũng là một trong những chính sách quan trọng
trong việc khuyến khích đầu tư và tái đầu tư từ lợi nhuận
 Lãi suất và tỷ giá hối đoái không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động thu hút các nguồn vốn
đầu tư thông qua việc tạo lập ổn định kinh tế vĩ mô mà còn tác động đến dòng chảy
của các nguồn vốn đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại một thị trường mà cụ thể là
thị trường chứng khoán
- Tăng trưởng kinh tế
Vấn đề tăng trưởng được nhìn nhận như một yếu tố tạo sức hấp dẫn ngày càng lớn đối với
vốn đầu tư nói chung và vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán của các nhà đầu tư nói riêng. Lợi
nhuận tăng sẽ làm cho giá cả chứng khoán tăng lên, do đó làm cho cung lượng của thị trường
chứng khoán tăng theo, ngược lại kinh tế suy thoái sẽ dẫn đến các hoạt động giảm sút của thị
trường.
Căn cứ vào tình hình tài chính, viễn cảnh doanh lợi của doanh nghiệp và những nhân tố
khác, nhà đầu tư sẽ có thể xác định được giá trị nội tại của một cổ phiếu. Thị trường chứng
khoán là nơi đánh giá giá trị của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế một cách tổng hợp và chính
xác (kể cả giá trị hữu hình và giá trị vô hình) thông qua chỉ số giá chứng khoán trên thị
trường.Từ đó tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn,
kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. Thị trường chứng khoán thúc đẩy các công
ty cổ phần làm ăn có hiệu quả, sổ sách, báo cáo tài chính rõ ràng, minh bạch. Từ đó, tạo thói
quen công khai hoá thông tin, đổi mới quản lý để lành mạnh hoá tình hình tài chính, góp phần
trong sạch hoá môi trường kinh doanh trong xã hội.

- Nguồn vốn đầu tư
Nguồn vốn đầu tư cũng là một trong nhiều nhân tố tác động đến tài trợ vốn qua thị trường
chứng khóan. Nguồn vốn với lớn, tập trung và mang tính chất dài hạn sẽ giúp cho việc tài trợ
vốn càng phát triển ngược lại những nguồn vốn nhỏ lẻ bấp bênh thường gây nên nhiều hậu quả,
khiến thị trường tài trợ vốn trở nên rối loạn và kém hấp dẫn.
1.4 Các tiêu chí đánh giá
1.4.1Chỉ tiêu chi phí huy động vốn/ quy mô vốn huy động.
Quy mô vốn của 1 doanh nghiệp bao gồm vốn vay và vốn chủ sở hữu. Nguồn vốn chủ sở
hữu thường chiếm tỉ trọng nhỏ hơn vốn vay. Vôn chủ sở hữu hình thành nên trang thiết bị nhà
xưởng văn phòng cho doanh nghiệpvà có thể sử dụng lâu dài ; đặc biệt nó được dùng để đảm bảo
khả năng thanh toán cho công ty. Vốn vay là nguồn vốn linh hoạt hơn, là nguồn vốn hoạt động
chính cho mỗi công ty.
Chi phí huy động vốn của công ty bao gồm chi phí phải trả ãi và chi phí không phả trả lãi.
Trong đó chi phí trả lãi chiếm phần lớn chi phí huy đông vốn. Khi huy động vốn bằng
hình thức trái phiếu, công ty đã làm tăng khoản nợ của mình, đồng thời phải trả lãi cho trái chủ
theo 1 mức quy định trước. Mức lãi suất này phụ thuộc vào kỳ hạn, mục tiêu chiến lược của công
ty, mức lãi suất ngân hàng trong thời kỳ phát hành. Còn phát hành cổ phiếu làm tăng vốn chủ
sở hữu của doanh nghiệp. Mỗi cổ tức mỗi cổ đông nhận được sẽ phụ thuộc vào kết quả kinh
doanh của từng kỳ và được chia trong phần lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, công ty còn phải chịu 1 loại chi phí khác đó là chi phí khác khi huy động
vốn. chi phí phát hành, chi phí quảng cáo, marketing để thu hút đầu tư, chi phí bảo hiểm, chi phí
quản lí dự trữ, và các chi phí khác liên quan đến hoạt động huy động vốn.
Hiệu quả huy động vốn =chi phí huy động vốn/tổng nguồn vốn huy động
Tóm lại chỉ tiêu này được dùng để đánh giá xem 1 đồng vốn huy động được cần mất bao
nhiêu chi phí, như vậy khi huy động vốn cần cân nhắc tới chi phí cho 1 đồng vốn, đảm bảo các
khoản thu nhập có thể bù đắp được chi phí này và mang lại lợi nhuận cho công ty.
Chỉ tiêu này càng thấp thì mức đôh huy đong vốn càng có hiệu quả. Muốn giảm chi phí
sử dụng vốn cần giảm lãi suất trái phiếu và có chiến lược chia cổ tức hợp lí,
1.4.2 Chỉ tiêu sự ổn định của hình thức huy động vốn
Việc huy động vốn bằng hình thức phát hành cổ phiếu trái phiếu rất khó xác định được

mức độ ổn định. Bởi nó phụ thuộc vào lãi suất, lạm phát thị trường, khả năng thanh toán của
công ty, Trong từng giai đoạn các nguồn vốn huy động này có sự chuyển bioến linh hoạt, đòi
hỏi các doanh nghiệp phải đánh giá được mức độ ổn định theo thời gian của nó.
Rủi do lãi suất: Giá của trái phiếu thay đổi khi lãi suất thị trường dao động. Khi lãi suất
thị trường thấp hơn lãi suất trái phiếu thì giá trái phiếu thấp hơn mệnh giá của nó. Khi này doanh
nghiệp có xu hướng mua lại trái phiếu để rồi phát hành ra trái phiếu mới có lãi suất phù hợp hơn.
Rủi ro thanh toán: Công ty phải lường trước và dự phòng được nếu trong tương lai công
ty không có khả năng thanh toán lãi hoặc vốn cho nhà đầu tư. Lúc này công ty sẽ phải cân nhắc
xem trái phiếu thường, trả lãi theo kỳ hạn hay phát hành cổ phiếu chia cổ tức bằng lợi nhuận sau
thuế, Hoặc những điều kiện kèm theo nào có lợi cho công ty khi huy động vốn.
Rủi ro lạm phát: xảy ra khi các khoản thanh toán cố dịnh của trái phiếu bị giảm sức mua,
hoặc khi đấu giá cổ phiếu không đạt được giá trị như ước tính hoặc các nhà đầu tư bỏ thầu do
tình trạng lạm phát của thị trường tác động tới tâm lí và khả năng của nhà đầu tư.
Tất cả các rủi ro này có thể sẽ khiến cho việc huy động vốn không thành công hoặc mang lại
hiệu quả không như mong muốn. Chính vì vậy chúng ta cần xem xét kĩ lưỡng hơn các nhân tố
tác động tới hiệu quả và mức độ ổn định của các hình thức huy động vốn trong những khoảng
thời gian khác nhau của thị trường.
1.4.3 Các chỉ tiêu phản ánh phương thức tạo vốn
Chỉ tiêu này cho biết cơ cấu vốn dài hạn của công ty và ở mức độ nhất định gián tiếp phản ánh
mức độ an tòan về vốn của đơn bị phát hành.
- Hệ số trái phiếu (BR- Bond ratio): Phản ánh tỷ trọng vốn dài hạn của công ty được hình
thành từ việc phát hành trái phiếu
Trong đó: BR là tổng giá trị theo mệnh giá trái phiếu = tổng số trái phiếu đang lưu hành x
mệnh giá trái phiếu
TLC là tổng vốn dài hạn của đơ vị
- Hệ số cổ phiếu ưu đãi (PSR-Prerred stock ratio): phản ánh tỷ trọng vốn dài hạnn của
đơn vị được hình thành từ việc phát hành cổ phiếu ưu đãi
Trong đó: PSF là tổng giá trị theo mệnh giá của cổ phiếu ưu đãi do công ty phát hành.
- Hệ số cổ phiếu phổ thông (CSR – Commond stock ration): là chỉ tiêu phản ánh tỷ trọng
vốn dài hạn được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu.

Trong đó: CSF là tổng giá trị theo mệnh giá của cổ phiếu phổ thông
CS là thặng dư vốn
RE là thu hập giữ lại
Chương II. Thực trạng tài trợ vốn qua thị trường chứng khóan Việt Nam
giai đoạn 2008 – 2013
2.1 Tổng quan thị trường
Nguồn :Tổng cục thống kê
Trong giai đoạn 5 năm 2008 - 2012, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua một giai đoạn vô cùng
khó khăn. Bên cạnh những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu, nền
kinh tế trong nước cũng dần bộc lộ những điểm yếu kém.
Có thể nói, nền kinh tế Việt Nam từ 2008 đến 2012 đã trải qua một giai đoạn vô cùng
khó khăn. Nếu như từ năm 2000 đến 2007, nền kinh tế luôn đạt tốc độ tăng trưởng tốt với mức
tăng bình quân (CAGR) là 6,7%/năm thì trong 5 năm gần đây, mức tăng trưởng này chỉ
đạt 4,5%. GDP năm 2012 chỉ đạt mức tăng trưởng 5,03%, mức thấp nhất kể từ năm 1999.
Nếu như trong giai đoạn trước, nền kinh tế có những bước tiến đột phá với tốc độ tăng
trưởng tốt thì trong 5 năm vừa qua, nó lại cho thấy những hạn chế của việc phát triển theo chiều
rộng, dựa chủ yếu vào tăng nguồn vốn và lao động. Điều này đã dẫn đến một loạt những khó
khăn trong những năm gần đây như diễn biến lạm phát thất thường, thị trường bất động sản vỡ
bong bóng và đóng băng, thanh khoản hệ thống ngân hàng trong nhiều giai đoạn căng thẳng,
thị trường chứng khoán liên tục tạo kỷ lục về các mức đáy.
Trong bối cảnh đó, TTCK cũng bộc lộ nhiều hạn chế cố hữu cần khắc phục. Quy mô
thị trường còn nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Chất lượng hàng hóa
trên thị trường không được cải thiện nhiều. Nhà đầu tư các nhân vẫn chiếm tỷ trọng cao trong
giao dịch trên thị trường dẫn đến các biến động thất thường do ảnh hưởng tâm lý. Những sai
phạm trong hoạt động của các thành viên trên thị trường còn phổ biến, hiện tượng đầu cơ
trục lợi diễn ra tràn lan gây thiệt hại lớn cho cả nhà đầu tư và các CTCK
2.2 Thực trạng tài trợ vốn qua thị trường chứng khóan Việt Nam giai đoạn 2008 – 2013
2.2.1 Nhu cầu vốn thị trường
Tiếp cận vốn đang là rào cản phổ biến, được nhắc đến hàng ngày trong suốt mấy
năm qua.Trên thực tế, hơn 42% số doanh nghiệp không vay vốn trong hoạt động kinh

doanh.Nói cách khác, số doanh nghiệp này chỉ dựa vào vốn tự có của mình để kinh doanh và
không vay mượn của bất kỳ ai. Trong số 58% số doanh nghiệp có vay vốn từ người khác, thì
hơn 58% trong số họ có vay vốn từ ngân hàng thương mại nhà nước, gần 30% có vay vốn từ
ngân hàng thương mại cổ phần, gần 39% có vay vốn từ bạn bè, người thân và 5,5% có vay
vốn từ các ngân hàng FDI.
Có khá nhiều rào cản đối với doanh nghiệp trong tiếp cận vốn vay ngân hàng.Đầu tiên
và lớn nhất là lãi suất cao; gần 40% số doanh nghiệp gặp phải rào cản này. Tiếp sau là thủ tục
phiền hà (28,5%), không có thế chấp (gần 19%), phải trả thêm phụ phí (gần 10%) và cuối
cùng là không có vốn đối ứng (khoảng 7%).
Trong giai đoạn nền kinh tế khùng hoảng từ 2008 đến này, với laĩ suất cho vay tăng cao
và không ổn định, cùng với việc các ngân hàng siết chặt cho vay vốn thì DN cần tìm kiếm
một nguồn vay vốn khác chi phí rẻ hơn và thuận tiện hơn. Như vậy tài trợ vốn qua TTCK
chính là con đường thuận lợi nhất cho doanh nghiệp trong việc huy động vốn.
2.2.2 Vốn tài trợ qua TTCK
Bảng 2: Tổng số vốn huy động qua TTCK Việt Nam ( Đơn vị tính: tỷ VND)
Năm 2008 2009 2010 2011 2012
Tổng số
vốn
17621 23927 76227 58015 41010
Cổ phiếu 7863 13944 49463 38343 10796
Trái phiếu 1550 9035 21807 16422 29918
Nguồn: Thống kê của StoxPlus
Trong năm 2008, cùng với sự suy thòai của tòan bộ nền kinh tế thì tổng số vốn tài trợ qua thị
trường chứng khoán chỉ đạt 17621 tỷ USD giảm mạnh so với mức 63000 tỷ năm 2007.
Khi thị trường chứng khoán còn nhiều bất ổn, việc các doanh nghiệp đã hoặc sẽ phát hành cổ
phiếu riêng lẻ cho nhà đầu tư chiến lược đang là một xu thế mới. Mục đích của việc phát hành cổ
phiếu riêng lẻ nhằm làm tăng thặng dư vốn cho doanh nghiệp bởi lẽ các tổ chức đầu tư chiến
lược có thể chấp nhận mua giá phát hành riêng lẻ “cao” hơn giá giao dịch giữa các nhà đầu tư
hay giá thị trường. Đồng thời các nhà đầu tư chiến lược cũng là các đối tác quan trọng của doanh
nghiệp, vì vậy các doanh nghiệp có thể giữ được mối quan hệ bền chặt với các đối tác chiến

lược. Điển hình cho xu hướng này là: Techcombank phát hành 20.895.459 cổ phiếu cho Ngân
hàng Hồng Kông Thượng Hải HSBC
Năm 2009, trái ngược với sự sôi động của thị trường chứng khoán, hoạt động chào bán cổ
phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) lại lâm vào cảnh "chợ chiều". Theo Sở Giao dịch chứng
khoán TP HCM (HOSE) và Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX), hai đơn vị này tiến hành
IPO cho 27 doanh nghiệp , song lượng cổ phần bán được cho nhà đầu tư (NĐT) không bao
nhiêu. Điển hình là Công ty cổ phần Bến bãi Sài Gòn chỉ bán được 22.000 Cổ phần trong tổng
số hơn 600.000 Cổ phần chào bán trong phiên đấu giá ngày 16/10, tại HoSE.Các doanh nghiệp
tiến hành IPO với số lượng lớn cũng không khá hơn.
Đối với trái phiếu, do lo ngại rủi ro biến động lãi suất ở mức cao mà cả nhà phát hành lẫn đầu
tư đều tập trung vào loại hình trái phiếu có lãi suất thả nổi. Ước tính đã có khoảng 18.000 tỉ đồng
giá trị trái phiếu có lãi suất thả nổi được bán ra, chiếm 77% trong tổng giá trị trái phiếu huy động
được (hơn 26.000 tỉ đồng). Bên cạnh đó, trái phiếu chuyển đổi cũng là kênh huy động vốn được
nhiều doanh nghiệp sử dụng trong năm 2009, nhất là từ quí 3 trở đi, khi mà thị trường chứng
khoán có sự phục hồi rõ rệt.
Tính đến cuối năm 2009, tổng vốn tài trợ bằng trái phiếu đạt 9035 tỷ đồng, trong khi đó vốn
huy động bằng cổ phiếu đạt 13944, vốn hóa thị trường chứng khóan cũng đạt 38% GDP gấp 3
lần so với năm 2008. Điều này cho thấy sự phục hồi của thị trường chứng khóan năm 2009.
Năm 2010, nhu cầu vốn thông qua TTCK tăng mạnh , đặc biệt trong bối cảnh mặt bằng lãi
suất cao, tổng vốn đầu tư tài trợ qua TTCK là 7600 tỷ. Năm 2010 có 40 doanh nghiệp tham gia
IPO với tổng số lượng cổ phần bán được là 224,2 triệu , chỉ chiếm 53% số cổ phần đem đấu giá ,
tương đương với giá trị huy động được 3976,5 tỷ đồng. Vụ IPO lớn nhất thuộc về PV Gas với
94,75 triệu cổ phần đem đấu giá nhưng chỉ có 64% số cổ phần bán được vơi giá đấu trung bình
bằng giá khởi điểm 31.000 đồng
Kênh phát hành cổ phiêu riêng lẻ bị tắc vào thời điểm đầu năm 2010. Trong khi đó lãi suất thị
trường thời điểm này lại cao (18-19%, thậm chí 20%), chi phí đầu vào nếu chưa hạ nhiệt sẽ ảnh
hưởng đến lợi nhuận biên của doanh nghiệp. Giải pháp các doanh nghiệp lựa chọn là chào bán
riêng lẻ không phải là mức giá cực kỳ ưu đãi hoặc phát hành trái phiếu chuyển đổi.
Khi kinh tế bắt đầu hồi phục, để tài trợ cho các dự án và tăng quy mô vốn hoạt động trong bối
cảnh hệ thống NH không có đủ vốn trung, dài hạn để đáp ứng, nhiều DN có phương án phát hành

trái phiếu và đã thành công. Số vốn tài trợ trên TTCK bằng trái phiếu đạt 21000 tỷ tăng lên hơn 2
lần so với năm 2009.
Trái ngược lại với diễn biến năm 2010, thị trường trái phiếu DN trong năm 2011 lại khá ảm
đạm khi môi trường kinh tế cả trong và ngoài nước bất ổn, khiến việc phát hành trái phiếu DN
hết sức khó khăn. Nhiều DN phải hoãn hoặc hủy kế hoạch phát hành trái phiếu như Tập đoàn
Dầu khí Việt Nam hoãn phát hành 500 triệu USD trái phiếu. Theo thống kê của Hiệp hội Thị
trường Trái phiếu Việt Nam (VBMA), năm 2011 ước tính có khoảng 27 đợt phát hành trái phiếu
với khối lượng giao dịch khoảng 7.000 tỷ đồng, chỉ bằng 12,5% so với năm 2010.
Tổng vốn tài trợ qua TTCK năm 2011 chỉ đạt 58000 tỷ giảm gần 20000 tỷ so với năm 2010.
Đến năm 2012, tổng số vốn tài trợ qua TTCK tiếp tục giảm chỉ còn 41 ngàn tỷ đồng. Trong
đó:
+ Từ phát hành lần đầu ra công chúng đạt 296 tỷ đồng (giảm 91 % so với 3.250 tỷ đồng năm
2011).
+ Từ phát hành cổ phiếu đạt gần 11 ngàn tỷ đồng, chỉ bằng khoảng 1/3 so với năm 2011. Hình
thức phát hành chủ yếu là phát hành cho cổ đông hiện hữu và phát hành riêng lẻ.Năm 2012 cũng
giống như năm 2011, phát hành rộng rãi ra công chúng rất ít thành công và chỉ có 2 đợt phát
hành. Điểm lưu ý là so với kế hoạch phát hành, theo số liệu của StoxPlus, chỉ đạt 53%. Kế hoạch
này được thông qua tại các ĐHCĐ từ đầu năm 2012.Điều này cho thấy áp lực cần vốn của các
doanh nghiệp là quá lớn.
Theo số liệu thống kê của StoxPlus, có 187 đợt phát hành cổ phiếu thành công trong năm
2012. Khoảng 30% đợt phát hành cổ phiếu là phát hành có thu tiền, tổng số tiền thu về của các
doanh nghiệp là hơn 8,3 nghìn tỷ VND
+ Bên cạnh đó năm 2012 do tình hình sản xuất kinh doanh khó khăn, doanh khó vay vốn qua
hệ thống ngân hàng thương mại do lãi suất cao và điều kiện vay chặt chẽ nên có nhiều doanh
nghiệp quan tâm và tiếp cận với việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Thị trường trong nước, tổng khối lượng phát hành đã dự kiến trước đó là 27.133,45 tỷ đồng,
khối lượng phát hành thực tế là 16.144 tỷ đồng.
Thị trường quốc tế, Công ty CP Vincom và Vietinbank đã phát hành thành công 550 triệu
USD trái phiếu ra thị trường quốc tế
2.3 Các kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân

2.3.1 Kết quả
Kể từ khi chính thức ra mắt - ngày 20/7/2000, số doanh nghiệp (DN) niêm yết đã tăng lên
đáng kể, từ con số 41 cuối năm 2005 lên 737 DN vào cuối tháng 6/2013, đó là chưa kể 135 DN
trên thị trường UPCOM. Tuy tăng lên như vậy, nhưng so với tổng số công ty cổ phần của cả
nước thì số DN niêm yết vẫn còn quá ít ỏi, thậm chí gần đây, số DN niêm yết mới còn ít hơn số
hủy niêm yết. Điều đó đông nghĩa với việc còn khá nhiều những DN lớn, DN hoạt động có hiệu
quả vẫn chưa lên sàn, mà nếu khuyến khích được số này tham gia niêm yết trên cơ sở đẩy nhanh
tiến độ cổ phần hóa thì chắc chắn sẽ tạo ra nhiều kỳ vọng mới cho thị trường chứng khoán trong
nước.
Sau 13 năm hoạt động, tổng giá trị vốn hóa thị trường đã tăng nhanh qua các năm, từ trên
dưới 1 nghìn tỷ đồng cuối năm 2005, lên 904 nghìn tỷ đồng cuối tháng 6/2013. Tỷ lệ vốn hóa thị
trường cuối tháng 6/2013 đạt khoảng 27,9% GDP 2012, cao hơn con số tương ứng của năm 2006
(21,8%). Tuy nhiên, đây cũng là tỷ lệ còn thấp so với một số nước trong khu vực và trên thế giới,
vì thế thị trường chứng khoán Việt Nam mới chỉ được đánh giá là thị trường chứng khoán cận
biên, chưa được xếp vào nhóm thị trường mới nổi.
TTCK đã giúp cho TTTC phát triển khá mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu.Phát triển
mạnh từ năm 2006 nhưng 5 năm gần đây chính là giai đoạn phát triển bùng nổ nhất.
Từ chỗ chỉ có 14 công ty chứng khoán hoạt động ở năm 2005 thì sau năm 2009, số lượng
công ty chứng khoán ổn định ở con số 105 công ty. Số lượng tài khoản của nhà đầu tư cũng
tăng vọt sau năm 2009 và tiếp tục tăng trong các năm tiếp theo.
Nếu như năm 2005, mới chỉ có 41 mã cổ phiếu niêm yết trên thị trường thì cuối năm
2012 con số này đã là 705 mã và nhờ đó giá trị vốn hóa thị trường nhìn chung cũng được mở
rộng.Đối với thị trường trái phiếu , phần lớn TPCP được Chính phủ bảo lãnh và được niêm yết
trên thị trường TPCP chuyên biệt tại HNX (502 mã trái phiếu tại thời điểm 31/12/2011) với tổng
giá trị theo mệnh giá là 279.000 tỷ đồng. Điều này đã góp phần tạo thuận lợi cho nhiều định
chế tài chính tham gia vào thị trường trái phiếu như một kênh đầu tư với tính thanh khoản cao
đồng thời cũng là một cung cụ phòng ngừa rủi ro hữu dụng.Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp cũng
đã tận dụng kênh phát hành trái phiếu để huy động vốn, đặc biệt là trong các giai đoạn thanh
khoản trên hệ thống không đảm bảo dẫn đến khó huy động thông qua kênh truyền thống là vay
của các TCTD.

Bảng3. Tỷ lệ vốn tài trợ qua thị trường chứng khóan
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Tống vốn đầu tư
tòan xã hội
Vốn huy động qua
thị trường chứng khóan
Tỷ trọng (%)
2008 616735 17621 2.9
2009 708826 23927
3.4
2010 830300 76227 9.2
2011 878900 58015
6.6
2012 989300 41010
4.1

Mặc dù thị trường chứng khóan đang ngày càng phát triển nhưng vẫn chưa phát huy được
hết vai trò của mình trong vai trò là một kênh huy động vốn dài hạn. Có thể thấy tổng mức vốn
huy động được chỉ chiếm tỷ trọng không lớn (<10%) trong tổng mức vốn đầu tư tòan xã hội.
Chưa kể khả năng đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp qua TTCK còn không lớn.
Tuy phần lớn nhu cầu vốn của nền kinh tế vẫn chủ yếu được đáp ứng thông qua hệ
thống các TCTD nhưng trong 5 năm qua, TTCK cũng đã góp phần giúp nhiều doanh nghiệp giải
quyết bài toàn vốn của mình, thậm chí với chi phí thấp hơn so với việc vay vốn ngân hàng, đặc
biệt là trong năm 2010.
Theo thống kê, toàn thị trường hiện có khoảng 1 triệu tài khoản nhà đầu tư. Con số này
chưa phải là nhiều so với quy mô dân số lao động của Việt Nam song lại chủ yếu là các nhà đầu
tư cá nhân, số nhà đầu tư tổ chức còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ (dưới 10%), ngược với xu thế của
thị trường chứng khoán các nước phát triển. Do các nhà đầu tư cá nhân chiếm tỷ lệ lớn nên trên
thị trường, tính đầu tư phong trào, đầu tư theo đám đông còn khá nặng, dẫn đến sự sụt giảm trong

nhiều trường hợp là thái quá nhất là khi trình độ, tính chuyên nghiệp và sự kiên trì của nhà đầu
tư còn thấp cũng khiến thị trường thiếu sức hút.
2.3.2 Nguyên nhân
- Đầu tư còn mang tính tự phát thiếu sự chuyên nghiệp
Một chân lý hiển nhiên quen thuộc là vào bất kỳ thời điểm nào, các thị trường tài chính
luôn luôn bị chi phối bởi lòng tham và sự sợ hãi. Những thị trường mạnh nhất là những thị
trường nhộn nhịp bởi đồng thời có cả lòng tham lẫn sự sợ hãi. Nói rõ hơn, bất cứ khi nào bạn
bán cổ phiếu thì người mua nó cũng sẽ nghĩ khác về những triển vọng tương lai của cổ phiếu đó.
Bạn nghĩ nó sẽ giảm, người mua nghĩ nó sẽ lên. Hoặc bạn hoặc người mua sẽ đúng nhưng chắc
chắn chỉ thông qua sự tương tác của những thái độ khác nhau như vậy thì thị trường mới nhộn
nhịp đông kẻ mua- nhiều người bán.
- Năng lực về chứng khóan của các DN còn hạn chế
 Thứ nhất là thời điểm phát hành chứng khoán để huy động vốn chưa thích hợp.
Đối với một công ty muốn phát hành chứng khoán ra công chúng thì lựa chọn thời điểm
phát hành là rất quan trọng.Thị trường đang phát triển tốt, sôi động, giá các cổ phiếu đang tăng
trưởng và ở mức độ cao là điều kiện thuận lợi cho đợt phát hành của công ty.Nếu thị trường ảm
đảm, nhà đầu tư đang bi quan vào thị trường và vào các cổ phiếu trên thị trường sẽ là cản trở,
khó khăn cho đợt phát hành này.Nếu lựa chọn sai thời điểm phát hành thì thông tin về đợt phát
hành có thể ảnh hưởng xấu đến thị trường và qua đó làm ảnh hưởng đến cổ phiếu của công ty
đang lưu hành (giá cổ phiếu đang lưu hành giảm) và ảnh hưởng đến số vốn dự kiến huy động.
Cụ thể là trường hợp của công ty cổ phần Kinh Đô đầu tháng 11/2007 là một ví dụ cho
việc công bố thời điểm phát hành chứng khoán bổ sung không đúng thời điểm. Trước thời gian
đó giá cổ phiếu của công ty Kinh Đô giảm mạnh.Sự “quay đầu” đột ngột về giá của cổ phiếu
Công ty cổ phần Kinh Đô (KDC) trong phiên giao dịch ngày 1/11/2007 đã phần nào củng cố
niềm tin cho nhà đầu tư nhỏ đối với doanh nghiệp niêm yết. Đây cũng được xem là “phần
thưởng” dành cho những người đặt “sự chung thủy” vào cổ phiếu KDC.
Tuy nhiên, ngay sau đó, giá cổ phiếu này lại tiếp tục “rơi” và những lời ca thán về quyết
định thiếu công bằng của Công ty cổ phần Kinh Đô một lần nữa lại rộ lên. Ngay sau khi KDC
công bố thông tin sẽ phát hành thêm cổ phiếu, giá cổ phiếu KDC liên tục giảm. Điều này trái
ngược lại với quy luật tăng giá chung của thị trường, nhất là đối với những cổ phiếu blue - chips.

Nguyên nhân là do HĐQT Công ty Kinh Đô quyết định giới hạn đối tượng được nhận cổ phiếu
mới.
 Thứ hai là sự yếu kém trong khâu chuẩn bị hồ sơ phát hành chứng khoán.
 Thứ ba là phương pháp phát hành sai do đơn vị tư vấn thiếu kinh nghiệm hoặc không sử
dụng tư vấn.
- Hạn chế trong hệ thông giám sát tài chính
 Hệ thống các công cụ giám sát tài chính đang trong quá trình hoàn thiện, cần phải tiếp
tục có sự điều chỉnh để đáp ứng các yêu cầu phát sinh từ quá trình hội nhập và mở
rộng quan hệ thương mại, đầu tư với bên ngoài. Việc giám sát chủ yếu dừng ở giám
sát tuân thủ, trong khi giám sát hiệu quả và giám sát cảnh báo sớm cần phải tiếp tục
được hoàn thiện.
 Hệ thống các chỉ tiêu giám sát tài chính công vẫn chưa bao quát hết các loại hình rủi
ro liên quan, hệ thống thông tin phục vụ cho công tác giám sát vẫn còn chưa đầy đủ,
phân tán và chưa được cập nhật thường xuyên. Công tác thống kê, hạch toán trong một
số trường hợp chưa theo đúng các chuẩn mực quốc tế nên khó so sánh khi đánh giá
mức độ rủi ro.
 Công tác giám sát tuân thủ pháp luật trên thị trường chứng khoán trong một số nội
dung còn chưa bao quát hết các vấn đề mới phát sinh trên thực tiễn. Hoạt động giám
sát, đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính của các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn
những điểm cần tiếp tục cải thiện.
 Việc chia sẻ thông tin trong nội bộ từng ngành cũng như giữa các cơ quan chức năng
còn có điểm hạn chế. Cơ cấu hệ thống giám sát tương đối hoàn chỉnh nhưng còn thiếu
cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bộ phận, nhất là ở tầm vĩ mô, liên ngành.
-
Chưa có cơ quan đánh giá tín nhiệm tổ chức phát hành chứng khóan
Để phát triển thị trường chứng khóan, các tổ chức đánh giá định mức tín nhiệm là
một loại hình định chế có vai trò rất quan trọng.Đối với các nhà đầu tư, tổ chức định
mức tín nhiệm thực hiện cung cấp thông tin có chất lượng về tình hình tài chính của
các tổ chức phát hành để nhà đầu tư có thể tiếp cận và ra quyết định đầu tư với chi phí
thấp.Đối với cơ quan quản lý, hệ thống xếp hạng tín nhiệm cho phép đánh giá tình hình

rủi ro trong hệ thống tài chính.Tuy nhiên, cho đến nay, trên thị trường vốn Việt Nam vẫn
chưa có tổ chức định mức tín nhiệm nào được cấp phép hoạt động.
Việc chưa có cơ quan đánh giá tín nhiệm tổ chức phát hành trái phiếu cũng
như xếp hạng trái phiếu làm tăng rủi ro cho người mua TPDN trên cả thị trường thứ cấp
cũng như thị trường sơ cấp khi thiếu khả năng đánh giá rủi ro của trái phiếu cũng như tổ
chức phát hành, lệ thuộc vào tổ chức tư vấn phát hành hay tổ chức môi giới giao dịch
trái phiếu.
Chương III. Triển vọng của thị trường chứng khóan việt nam và các giải pháp tăng
cường tài trợ vốn qua TTCK trong thời gian tới
3.1 Đánh giá chung về kinh tế trong thời gian tới
Trong bối cảnh kinh tế thế giới đã có những chuyển biến thuận lợi, các chỉ báo kinh tế
trái chiều cho thấy kinh tế Việt Nam dường như đang có những dấu hiệu hồi phục đầu tiên nhưng
với tốc độ chậm và viễn cảnh còn khá mong manh.
Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm 2013 đã đạt 4,9%, được dẫn dắt bởi sự phục hồi nhẹ
của ngành dịch vụ. Trong khi đó, ngành nông nghiệp và công nghiệp - xây dựng lại có mức tăng
thấp nhất trong 3 năm trở lại đây, báo trước sự suy giảm về năng suất trong tương lai.
Lạm phát tháng 6/2013 tăng nhẹ 0,05% so với mức giảm của tháng 5. Về tổng thể, CPI so
với đầu năm tăng 2,4%, so với cùng kỳ năm 2012 tăng 6,69%.
Về đầu tư, tỷ lệ tổng đầu tư xã hội trên GDP vẫn duy trì dưới 30%. Đầu tư ngoài Nhà
nước tăng mạnh trong khi khu vực Nhà nước và khu vực đầu tư nước ngoài chỉ tăng nhẹ. Đầu tư
tiếp tục giảm ở cấp trung ương nhưng tăng nhẹ ở cấp địa phương.
Thâm hụt ngân sách lớn sẽ vẫn được tài trợ chủ yếu bằng trái phiếu chính phủ trong năm
nay và năm 2014, khi nguồn thu suy giảm trong khi việc thắt chặt chi tiêu chưa có hiệu quả tức
thì. Lượng phát hành trái phiếu lớn hơn năm ngoái và tổng dư nợ tăng mạnh từ năm 2012 cho
thấy áp lực tài trợ bằng nợ cho thâm hụt ngày càng lớn và chưa có triển vọng cải thiện trong vài
năm tới.
Triển vọng kinh tế Việt Nam nhìn từ giữa năm 2013
Tăng trưởng kinh tế năm 2013 được VEPR dự báo đạt mức 5,3% với lạm phát ở mức
6,6% trong trường hợp có sự cải thiện vào cuối năm. Trong kịch bản kém lạc quan hơn, nền kinh
tế tăng trưởng với tốc độ 5,04% và lạm phát gần 5%. Giá lương thực đi xuống là yếu tố kìm hãm

lạm phát chung, song cần lưu ý tới lạm phát lõi nếu các chính sách kích thích kinh tế được triển
khai dồn dập trong nửa sau của năm.
Chính sách tài khóa sẽ tiếp tục mở rộng để kích thích nền kinh tế với nguồn tài trợ từ việc
phát hành trái phiếu chính phủ (kế hoạch 170 nghìn tỷ). Lãi suất trái phiếu chính phủ ở 2 thị
trường sẽ chỉ giảm nhẹ do đã gần chạm tới lạm phát kỳ vọng và lãi suất huy động của các
NHTM, tuy nhiên vẫn còn khá hấp dẫn do mức độ an toàn cao hơn nhiều trái phiếu doanh nghiệp
và nhiều khoản vay trên thị trường.
Cán cân vãng lai năm 2013 tương đối cân bằng, có thể có thặng dư thấp do nhập siêu đã
trở lại đi liền với dòng kiều hối không đột biến. Cán cân tổng thể sẽ thặng dư thấp hơn năm 2012
do chênh lệch lãi suất đã giảm đáng kể. Dự trữ ngoại hối có thể giảm nhẹ do lãi suất VND trong
nước hạ đang xói mòn dòng dịch chuyển tương đối ổn định từ USD sang VND đã được thiết lập
trong năm 2012. Dự kiến trong năm 2013, dòng dịch chuyển này có thể đổi chiều và điều đó tạo
ra những áp lực nhất định lên tỷ giá và khiến mức tăng dự trữ ngoại hối chậm dần và thậm chí có
thể chuyển sang giảm. Tỷ giá danh nghĩa dự báo sẽ tăng 2-3% trong cả năm 2013.
Thị trường chứng khoán năm 2013 được hỗ trợ bởi các thông tin tích cực vẫn tiếp tục
tăng điểm xen kẽ với những phiên chốt lời mạnh. Tình hình kinh tế 6 tháng đầu năm và tốc độ
triển khai các gói kích thích, hoạt động của VAMC sẽ là cơ sở để các nhà đầu tư hình thành kỳ
vọng. Tuy nhiên, ảnh hưởng thực của VAMC lên hệ thống tài chính cũng như nền kinh tế được
đánh giá là sẽ tương đối hạn chế.
3.2 Triển vọng tài trợ vốn qua TTCK
Điểm nhấn
+Thị trường sôi động trong 6 tháng đầu năm. Dòng tiền tìm đến các cổ phiếu có cơ bản
tốt và triển vọng khả quan. Thanh khoản có sự chênh lệch rõ rệt giữa HSX và HNX.
+ Động thái của khối ngoại có nhiều tác động lên thị trường trong nửa đầu năm 2013.
Sau khi mua ròng mạnh khối này co hẹp giao dịch và chuyển sang bán ròng mạnh vào tháng
6 chủ yếu do những diễn biến xấu trên thế giới. Giao dịch xoay quanh nhóm cổ phiếu vốn
hóa lớn. Đặc biệt là các giao dịch từ các quỹ ETFs như Vietnam ETF (VNM) và FTSE
Vietnam ETF (FTSE).
+Các chỉ số ngành, ngoại trừ ngành Khoáng sản, đều tăng điểm nhưng có sự phân hóa
rõ nét. Ngành Thực phẩm hàng tiêu dùng dẫn đầu, với sự nổi trội của trụ cột VNM, tiếp theo

là ngành Bảo hiểm và Dầu khí, các ngành còn lại chỉ ghi nhận mức tăng nhẹ.
+P/E của HSX tăng mạnh từ 11,64 vào cuối năm 2012 lên đến 13,45 vào cuối tháng 6
năm 2013.
+Sau khi bán ròng đáng kể trong Quý 1, khối tự doanh chuyển sang mua ròng trong
Quý 2, xu hướng mua ròng mạnh lên trong tháng 6. Động thái của khối tự doanh đã có phần
bớt trái ngược so với khối ngoại.
Thống kê thị trường chứng khoán nửa đầu năm 2013
Thống kê thị trường HSX HNX
Index 481,13 (+16,29%) 62,76(+9,93%)
KLGDTB (triệu/ngày GD) 65,53 (+60,86%) 54,39(+58,44%)
GTGDTB (tỷ/ngày GD) 1.086,30 (+76,33%) 424,51(+56,72%)

Tổng kết TTCK 6 tháng đầu năm 2013, số liệu của UBCKNN cho thấy tổng mức huy động
trên thị trường chứng khoán thông qua phát hành cổ phiếu, đấu giá cổ phần hóa và đấu thầu trái
phiếu chính phủ đạt 114.840 tỷ đồng (tăng 37% so với cùng kỳ năm 2012). Tuy nhiên, huy động
vốn qua phát hành cổ phiếu giảm mạnh, chỉ đạt 2.344 tỷ đồng (giảm 58% so với cùng kỳ năm
ngoái); đấu giá cổ phần hoá đạt 420 tỷ đồng (tăng 75% so với cùng kỳ); Tổ chức được 110 đợt
đấu thầu TPCP với tổng giá trị trúng thầu đạt trên 112.000 tỷ đồng (chiếm 67% so với tổng khối
lượng trúng thầu cả năm 2012).Trong điều kiện tăng trưởng tín dụng ngân hàng thấp, việc huy
động vốn trên thị trường chứng khoán rất có ý nghĩa. Kỳ vọng khi các loại hình quỹ mới được
thành lập; tỷ lệ tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán được mở
rộng sẽ góp phần tăng lượng vốn huy động trên thị trường chứng khoán, đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế.
Triển vọng thị trường 6 tháng cuối năm 2013
Dù vẫn tiềm ẩn rủi ro nhưng TTCK được giới đầu tư đặt kỳ vọng khá cao trong nửa cuối
năm nay. Những tháng còn lại của năm 2013, TTCK đang có nhiều yếu tố tích cực, cụ thể như
sau:
Thứ nhất, là động thái nới "room" cho khối ngoại tại các công ty đại chúng. Đề xuất này
đã được Bộ Tài chính đưa ra được lấy ý kiến các bộ, ngành trước khi hoàn thiện để trình Chính
phủ. Nếu được thông qua, đây sẽ là yếu tố khá quan trọng để kích thích dòng tiền vào TTCK, có

thể sẽ tiếp tục tạo sự hưng phấn cho các NĐT nước ngoài trên TTCK. Theo hãng Bloomberg, hệ
số P/E bình quân trên TTCK Việt Nam hiện là 11 - thấp nhất Đông Nam Á nên giới phân tích
quốc tế nhận định TTCK Việt Nam sẽ có sức hút đối với NĐT nước ngoài.
Thứ hai, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) và Bộ Tài chính đã không ngừng
đưa ra các giải pháp lành mạnh hóa thị trường như yêu cầu các tổ chức kiểm toán được chấp
thuận nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán, soát xét báo cáo tài chính, chỉ tiêu an toàn vốn
khả dụng của các tổ chức kinh doanh chứng khoán. Với các trường hợp có dấu hiệu nổi cộm về
sức khỏe tài chính, yêu cầu công ty chứng khoán (CTCK), công ty quản lý quỹ, công ty kiểm
toán giải trình cụ thể, để có hướng xử lý chính xác, kịp thời.
Thứ ba, cùng với việc tiếp tục tái cấu trúc TTCK, từ nay đến cuối năm, UBCKNN sẽ cơ
bản hoàn thành hệ thống văn pháp lý đáp ứng nhiệm vụ quản lý thị trường đồng bộ, hiệu quả hơn
theo thông lệ quốc tế. Ngoài việc hoàn thiện đề án sáp nhập hai Sở Giao dịch Chứng khoán,
UBCKNN sẽ tập trung hoàn tất dự thảo nghị định về TTCK phái sinh để trình Bộ Tài chính trình
Chính phủ ban hành. Cơ quan này đồng thời sẽ tập trung thúc đẩy triển khai các sản phẩm mới
như: Quỹ đầu tư bất động sản, quỹ ETF, triển khai gói thầu về công nghệ thông tin, nghiên cứu
để triển khai đối tác thanh toán bù trừ trung tâm…
Tuy nhiên với việc giảm lãi xuất gần đây của các Ngân hàng, thì kênh tài trợ vốn qua
TTCK sẽ gặp phải sự cạnh tranh lớn hơn so với giai đoạn vừa qua. Theo thống kê của NHNN
cho thấy, cùng thời điểm này 2 năm trước, thị trường lãi suất cho vay đã lên tới đỉnh điểm 20-
25%/năm. Nhưng nay, mức lãi suất cho vay trung bình đã về gần mốc 10%/năm. Hiện tỷ trọng
các khoản vay có lãi suất dưới 15%/năm, tính đến 15/9 chiếm gần như chủ yếu, tới 82%. Trong
khi tình hình thị trường chứng khóan chưa mấy khả quan sẽ gây nhiều trở ngại cho tài trợ vốn
qua thị trường nay.
Đối với thị trường TPCP, sự hấp dẫn của TPCP dù ít nhiều giảm sút do lãi suất giảm
mạnh nhưng trong giai đoạn hiện nay, việc tìm một tài sản đầu tư khác thay thế cho TPCP là rất
khó, khi mà ưu tiên của các NHTM vẫn là làm sạch bảng cân đối kế toán và tránh tối đa rủi ro.
So với các kênh đầu tư như góp vốn cổ phần, kinh doanh ngoại hối, cho vay trên thị trường liên
ngân hàng, TPCP vẫn có sức hấp dẫn hơn hẳn. Việc lãi suất ngân hàng cũng như TPCP giảm
mạnh là cơ sở thúc đẩy nhu cầu đầu tư sang trái phiếu DN (TPDN). Lợi suất TPDN hiện vẫn ở
mức tương đối cao, khoảng 12 - 14%/năm, với các đợt phát hành có tài sản đảm bảo. Từ đầu

năm đến nay, các kế hoạch phát hành trái phiếu lớn vẫn được thực hiện liên tục. Báo cáo thị
trường trái phiếu khu vực châu Á tháng 6 của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) cho biết, quy
mô thị trường TPDN Việt Nam hiện đạt 1,1 tỷ USD. Tính đến cuối quý I/2013, dư nợ trái phiếu
tiền đồng của 15 DN phát hành lớn nhất chiếm đến 96% tổng thị trường TPDN tiền đồng và tiềm
năng của thị trường còn rất lớn.
3.3 Các giải pháp tăng cường tài trợ vốn qua TTCK
3.2.1 Về phía Doanh nghiệp
3.2.1.1 Nâng cao năng lực về huy động vốn qua TTCK của DN
- Lựa chọn thời điểm phát hành
Thời điểm phát hành chứng khoán thích hợp là thời điểm mà thị trường đang phát triển tốt,
giá chứng khoán đang tăng trưởng ở mức độ cao , công chúng đầu tư tham gia thị trường nhiều.
Tuy nhiên các doanh nghiệp không nên ồ ạt phát hành chứng khoán cùng một thời điểm ,
như vậy sẽ ảnh hưởng đến giá chứng khoán trên thị trường , làm cho công chúng đầu tư phân
tâm để quyết định nên mua chứng khoán nào. Điều đó làm cho cung- cầu thị trường biến động ,
khó kiểm soát
Vì vậy các cơ quan tổ chức quản lý, giám sát TTCK cần có những chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể
cho các ngân hàng, doanh nghiệp để có chiến lược phát hành nhằm huy động vốn có hiệu quả .
Ngoài ra, bản thân mỗi tổ chức phát hành cũng nên tìm hiểu, phân tích diễn biến giá chứng
khoán trên thị trường ngay trước thời điểm phát hành để ra quyết định phát hành với số lượng
bao nhiêu là thích hợp
- Tăng cường công tác tư vấn chuẩn bị trước khi phát hành
Chuẩn bị hồ sơ phát hành chứng khoán là công việc quan trọng đối với bất kỳ cơ quan, tổ
chức nào nếu muốn phát hành chứng khoán . Nếu hồ sơ phát hành chứng khoán đáp ứng yêu cầu
và đảm bảo tính chính xác thì mới được UBCKNN cấp giấy phép cho phát hành
Các doanh nghiệp lần đầu tiên phát hành chứng khoán cần tăng cường , chú trọng cho công
tác này hơn ,tránh trường hợp hồ sơ phát hành không đáp ứng yêu cầu. Nếu cần nên hỏi tư vấn
để được hướng dẫn cụ thể cho công tác chuẩn bị hồ sơ phát hành
3.2.1.2 Nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh và uy tín của DN trên thị trường
Do trên TTCK thì thông tin về doanh nghiệp, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp hàng năm được công khai. Vì vậy khi muốn tăng tính thanh khỏan cho chứng khóan của

mình thì tình trạng hoạt động của doanh nghiệp cần phải được chú trọng.
- Nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh
+ Đầu tư phát triển công nghệ
+ Đầu tư cho con người
- Nâng cao tính công khai minh bạch của DN
Tính minh bạch công khai sẽ mang lại tâm lý an tòan cho nhà đầu tư. Nếu DN hoạt động tốt
và các thông tin minh bạch thì sẽ tạo nên mong muốn đầu tư cho nhiều nhà đầu tư. Như vậy, với
danh tiếng tốt thì DN có thể huy động vốn dễ dàng hơn trên thị trường. Tuy nhiên đi cùng với nó
cũng là những áp lực đối với doanh nghiệp, do đó doanh nghiệp cần phải thận trọng hơn trong
việc đầu tư và kinh doanh để đạt được kết quả tốt, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị
trường.
3.2.2 Về phía nhà đầu tư
3.2.2.1 Đào tạo các nhà đầu tư có chuyên môn sâu về đầu tư chứng khóan
Đa số các nhà đầu tư cá nhân khi bắt đầu tham gia vào thị trường cổ phiếu đã chưa có sự
chuẩn bị mang tính thiết yếu nhất vì nhiều lí do khác nhau. Thông thường, các nhà đầu tư vội vã
tham gia vào thị trường tại những thời điểm thị trường bùng nổ vì thế chưa có đủ thời gian để
quan sát và tìm hiểu xem những rủi ro và cơ hội trên thị trường cổ phiếu. Trong quá trình đầu tư
trên thị trường, các nhà đầu tư thường lạc lối và bội thực trước một biển thông tin từ các nguồn
khác nhau, các nhà đầu tư phải tự dò dẫm, trải nghiệm và rút ra những bài học kinh nghiệm vui
buồn trong quá trình đầu tư, nhưng kèm theo đó là những bài học với học phí hết sức cao.
Do vậy cần phải có các nhà đầu tư chuyên nghiệp tham gia vào thị trường. Khi đó các nhà
đầu tư cần phải được đào tạo một cách đầy đủ cả về tâm lý quản trị, kỹ năng phân tích tài
chính…
3.2.2.2 Các nhà đầu tư cần có kỳ vọng đầu tư riêng
Đa số nhà đầu tư Việt Nam khi tham gia đầu tư CK thì thường không có kỳ vọng đầu tư
riêng, nói giản dị là không biết mình muốn gì, ngoài một nguyện vọng ngất trời cao là Lợi
Nhuận.
Các nhà đầu tư nước ngoài chẳng hạn, họ biết rất chính xác điều họ muốn, và vì phần lớn
là các quỹ dạng Qũy tương hỗ (Mutual Fund), nên các chính sách của họ tương đối nhất quán, ổn
định. Họ không nhảy ra nhảy vào thị trường liên hồi, gây ra các chi phí giao dịch lớn trong khi

hiệu quả chưa đo đếm được.
Việc không đặt kỳ vọng đầu tư cho mình cũng có nghĩa là để ước muốn trôi theo diễn
biến thị trường. Ví dụ, lãi 20% trong vòng 3 tháng đã là tốt, nhưng vì ước muốn 40% trong vòng
4 tháng nên kết cục có khi chỉ là không bán được cả "hàng" và chết tắc với số tiền đầu tư.
3.2.2.3 Các nhà đầu tư cần quan tâm hơn đến việc tiếp cận thông tin một cách nhanh và
chính xác
Thông tin rất quan trọng trên thị trường, nhưng vì thiếu hiểu biết, nhiều nhà đầu tư có xu
hướng nghe ngóng. Tin thì đủ loại, trên trời, dưới biển, vận hành, tài chính, tổ chức Có điều
chẳng mấy ai có khả năng kiểm định. Vì vậy, cái sự nghe trở nên láng máng, truyền tai nhau hết
sức nguy hiểm.
Thông thường, các nhà đầu tư đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân thường tìm người thân hoặc
tìm một vài cán bộ môi giới-tư vấn của chính các công ty chứng khoán. Điều này này có mấy
điểm hại sau:
 Không khách quan
 Không đảm bảo chính xác vì có khi người nói cũng không biết mình đang nói gì.
 Không có bộ lọc vì thế không thể biết cái vừa nhận được là vàng hay thực tế là rác.
 Luôn luôn muộn, vì khi nghe được thì cũng rất nhiều người khác đã nghe được.
3.2.3 Kiến nghị
- Cần tăng cường cơ chế quản lý, giám sát công bố thông tin trên thị trường, tạo ra một thị
trường minh bạch giúp các nhà dầu tư có thể ra quyết định dựa trên thông tin đầy đủ, hệ
thống và chính xác.
- Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho thị trường, thiết lập một môi trường pháp lý ổn
định, đồng bộ cho hoạt động kinh doanh chứng khoán. Cụ thể là, từ nay cho đến năm
2006, khẩn tương triển khai nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật chứng khoán. Đồng
thời tăng cường tính hiệu lực của các văn bản pháp luật trong lĩnh vực hoạt động và kinh
doanh chứng khoán. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và xử phạt thích đáng đối với
các hành vi vi phạm.
- Thực hiện các giải pháp “tăng cung - kích cầu”. Trước hết cần nhanh chóng đưa Trung
tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội vào hoạt động, dành cho các cổ phiếu doanh nghiệp
vừa và nhỏ để tạo ra hàng hoá đa dạng cho thị trường. Tăng số lượng Công ty niêm yết,

da dạng hoá và nâng cao tỷ trọng các Công ty lớn niêm yết, gắn việc cổ phần hoá với việc
niêm yết trên thị trường chứng khoán. Ngoài ra, cần xây dựng và mỏ rộng hoạt động cua
các trung gian tài chính, các tổ chức hỗ trợt triển thị trường. Bên cạnh đó, đẩy mạnh phát
hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Công ty, trái phiếu của Quỹ hỗ trợ đầu tư. Phấn đấu
đưa tổng giá trị thị trường trường chiếm khoảng 10 – 15% vào năm 2010.
- Thiết lập một môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư, các Công ty niêm yết Công ty quản lý
quỹ, Công ty chứng khoán như miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 5 năm đầu
hoạt động, không đánh thuế chênh lệch mua bán giá chứng khoán (capital gain). Ngoài
ra, UBCKNN không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động của các thành viên trên thị
trường, nên thực hiện phương châm “các thành viên của thị trường được thực hiện tất cả
các hoạt động mà pháp luật không cấm".
Kết luận
Có thể nói việc tài trợ vốn qua thị trường chứng khoán theo đúng nghĩa của nó là xu hướng
phổ biến , là tất yếu , hệ quả của thị trường chứng khoán vì ưu thế của hình thức này là sự phát
triển của xã hội nói chung . Thông qua hình thức này hệ thống thị trương chứng khoán thống
nhất hoàn thiện trong việc thể hiện dòng luân chuyển của dòng vốn từ nơi thừa vốn sang nơi
thiếu vốn một cách chuyên nghiệp . Từ đó tạo điều kiện để đa dạng hóa thị trường , đáp ứng nhu
cầu đa dạng của nhà đâu tư . Tạo thành một thể thống nhất trong việc huy động vốn qua thị
trường chứng khoán , tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi trong quần chúng , góp phần thúc đẩy
nhanh tiến trình cổ phần hóa ở Việt Nam
Thị trường chứng khoán ra đời như một tất yếu khách quan của nền kinh tế hàng hóa và
tài trợ vốn cũng không nằm ngoài luồng quay đó .Thực tế cho ta thấy , tài trợ vốn thông qua thị
trường không ảm đạm như những diễn biến trước đó thể hiện mà đã có những chuyển biến tích
cực. Và chúng ta có quyền hy vọng vào thời gian tới thị trường sẽ có những khởi sắc .
Nhận rõ được điều này giúp bản thân mỗi doanh nghiệp đưa ra những quyết sách hợp lý
nhằm tiếp cận được nguồn vốn hấp dẫn này. Về phía Chính phủ , những chính sách xây dựng và
phát triển thị trường chứng khoán đúng đắn sẽ nâng vị thế của các doanh nghiệp cũng như tầm
vóc của Việt Nam lên một tầm cao mới , bắt kịp chung của thế giới
GTGD 2 sàn VN-Index HNX-Index
24

×