Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Huy động vốn của các doanh nghiệp qua thị trường chứng khoán Việt Nam.Thực trạng và giải pháp thúc đẩy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.43 KB, 41 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368

Đề tài: Huy động vốn của các doanh nghiệp qua thị trường chứng khoán Việt
Nam.Thực trạng và giải pháp thúc đẩy.
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
I. Thị trường chứng khoán
1. Khái niệm
Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính, là nơi diễn ra
các giao dịch mua bán trao đổi các chứng khoán – các hàng hóa dịch vụ giữa các chủ thể
tham gia theo những nguyên tắc ấn định .
Thị trường chứng khoán (TTCK) là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán vốn
và các chứng khoán nợ trung, dài hạn (cổ phiếu, trái phiếu, và một số loại giấy tờ có giá
trị khác).
2. Cấu trúc của thị trường chứng khoán
2.1. Dựa trên cơ chế luân chuyển vốn
Thị trường sơ cấp: là nơi giao dịch mua bán các chứng khoán lần đầu tiên phát
hành ra công chúng. Bản chất của huy động vốn trên thị trường chứng khoán chính là
hành vi phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp.
Thị trường thứ cấp: Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch, mua bán chứng khoán,
chuyển nhượng chứng khoán sau phát hành. Các hoạt động này không làm gia tăng vốn
cho chủ thể phát hành.
2.2. Dựa trên phương thức tổ chức giao dịch
Thị trường tập trung: Sở giao dịch chứng khoán,trung tâm giao dịch
chứng khoán
Thị trường phi tập trung - OTC
Thị trường thứ ba
2.3.Dựa trên bản chất các công cụ tài chính
Thị trường cổ phiếu ( thị trường vốn cổ phần )
Thị trường trái phiếu (thị trường công cụ nợ )
Thị trường các công cụ tái sinh
3. Chủ thể tham gia thị trường chứng khoán


3.1. Nhà phát hành
Trang 1
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Nhà phát hành là những tổ chức, doanh nghiệp phát hành chứng khoán để huy
động vốn trên thị trường sơ cấp. Họ là người cung cấp hàng hoá cho thị trường. Doanh
nghiệp khi phát hành chứng khoán là người cung cấp hàng hoá chính cho TTCK.
Nhà phát hành có thể là: Chính phủ, chính quyền địa phương, doanh nghiệp, tổ
chức tài chính.
3.2. Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua bán chứng khoán trên thị trường chứng
khoán. Bao gồm:
Nhà đầu tư cá nhân: là những cá nhân có vốn nhàn rỗi, tham gia mua bán chứng
khoán trên thị trường với mục đích kiếm lời.
Nhà đầu tư có tổ chức: Là các tổ chức chuyên mua bán chứng khoán cho khách
hàng và cho chính mình. Các tổ chức này là các công ty bảo hiểm, các quĩ đầu tư.
3.3. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán là những tổ chức được phép
thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán như: môi giới chứng khoán, bảo lãnh,
phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý quĩ đầu tư chứng khoán và
nghiệp vụ tự doanh bao gồm các loại hình chính sau:
Công ty chứng khoán: Các doanh nghiệp được phép hoạt động kinh doanh chứng
khoán thường phải là các công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Công ty
chứng khoán có thể được cấp phép thực hiện một hoặc một số hoặc toàn bộ các các
nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán như: môi giới, bảo lãnh, tự doanh, tư vấn.
Ngân hàng thương mại: Hoạt động của các ngân hàng thương mại trong lĩnh vực
kinh doanh chứng khoán được qui định khác nhau ở các nước khác nhau.
Công ty quản lý quĩ đầu tư chứng khoán: Ngân hàng thương mại, công ty bảo
hiểm, công ty tài chính là đối tương phù hợp nhất để tổ chức, quản lý các quĩ đầu tư tập
thể.

Công ty tư vấn đầu tư chứng khoán: Là những công ty chỉ chuyên kinh doanh
hoạt động tư vấn cho các nhà đầu tư để hưởng dịch vụ phí.
Công ty môi giới chứng khoán: Với những quốc gia có qui định khác biệt về hoạt
động môi giới và tự doanh chứng khoán thì hoạt động môi giới chứng khoán sẽ do công
ty này đảm nhận.
Trang 2
Website: Email : Tel : 0918.775.368

3.4. Các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán
Cơ quan quản lý nhà nước đối với TTCK: Ở Việt Nam, uỷ ban chứng khoán nhà
nước đảm nhiệm việc tổ chức, xây dựng, quản lý, giám sát TTCK.
Cơ quản tổ chức hoạt động của TTCK: Sở Giao dịch chứng khoán.
Các tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán.
Ngoài các tổ chức kể trên, còn có các tổ chức khác như: tổ chức kiểm toán, hiệp
hội các nhà kinh doanh chứng khoán, công ty dịch vụ máy tính chứng khoán, công ty
đánh giá hệ số tín nhiệm ...
4. Hàng hoá của thị trường chứng khoán.
Hàng hoá của thị trường chứng khoán là các tài sản tài chính, khác với hàng hoá
thông thường qua quá trình sử dụng giá trị của nó sẽ giảm dần hoặc mất đi, với tài sản
tài chính, giá trị của nó được bảo toàn và có xu hướng tăng lên, đây chính là điểm hấp
dẫn các nhà đầu tư.
Chứng khoán là bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu chứng khoán đối với tài
sản hoặc vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, chứng
khoán phái sinh, chứng khoán có thể chuyển đổi, chứng chỉ quĩ đầu tư và các loại chứng
khoán khác.
II. Huy động vốn của các doanh nghiệp qua thị trường chứng khoán
1.Bản chất và vai trò của huy động vốn qua thị trường chứng khoán
1.1.Bản chất của huy động vốn qua thị trường chứng khoán
Bản chất của huy động vốn trên thị trường chứng khoán được thể hiện qua hành
vi phát hành. Đây chính là hoạt động của thị trường chứng khoán sơ cấp.

Thị trường sơ cấp (primary market): là thị trường mua bán các chứng khoán lần
đầu phát hành ra công chúng kéo theo sự gia tăng về vốn cho đơn vị phát hành và nền
kinh tế.
Thị trường chứng khoán sơ cấp còn được gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát
hành. Thị trường sơ cấp chính là tiền đề để phát triển thị trường chứng khoán nói chung.
Hành vi của thị trường sơ cấp có thể phân biệt với hành vi của thị trường thứ cấp đó là
khoản tiền thu được từ việc bán chứng khoán sẽ trực tiếp làm gia tăng vốn cho đơn vị
Trang 3
Website: Email : Tel : 0918.775.368

phát hành, trong khi các hành vi trên thị trường thứ cấp chỉ làm dịch chuyển quyền sở
hữu vốn giữa các chủ thể mà không trực tiếp gia tăng vốn cho đơn vị phát hành.
1.2.Vai trò của thị trường chứng khoán sơ cấp
a. Đối với nền kinh tế
Thị trường sơ cấp thực hiện chức năng quan trọng của thị trường chứng khoán,
đó là huy động vốn cho đầu tư. Thị trường chứng khoán sơ cấp vừa có khả năng thu hút
nguồn vốn tiết kiệm từ dân cư, vừa có khả năng thu hút nguồn vốn to lớn từ nước ngoài,
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, chính phủ tạo thành nguồn vốn to lớn
tài trợ cho nền kinh tế mà các phương thức khác không thể thực hiện được. Thông qua
thị trường chứng khoán sơ cấp các nguồn vốn nhàn rỗi hoặc tạm thời nhàn rỗi trở thành
vốn đầu tư.
b. Đối với doanh nghiệp và các đơn vị phát hành khác
Đối với doanh nghiệp và các đơn vị phát hành, thị trường chứng khoán sơ cấp
tạo môi trường để các doanh nghiệp và đơn vị phát hành gọi vốn để mở rộng sản xuất
kinh doanh, chính phủ giải quyết thâm hụt ngân sách thông qua phát hành trái phiếu, có
thêm vốn để xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng.
Ngoài ra phát hành chứng khoán ra công chúng còn có những vai trò khác đối với
doanh nghiệp như:
Phát hành chứng khoán ra công chúng là điều kiện bắt buộc để được niêm yết
trên sàn chứng khoán

Tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp: Phát hành chứng khoán ra công
chúng giúp công ty có thể thu hút và duy trì đội ngũ nhân viên giỏi bởi khi chào bán
chứng khoán bao giờ công ty cũng dành một tỷ lệ chứng khoán nhất định để bán cho
nhân viên của mình, điều này đã làm cho nhân viên của công ty làm việc có hiệu quả
hơn và coi sự thành bại của công ty thực sự là thành bại của mình. Phát hành chứng
khoán ra công chúng làm tăng chất lượng và độ chính xác của các báo cáo của công ty
do phải tuân theo các tiêu chuẩn chung do cơ quan quản lý quy định. Phát hành chứng
khoán yêu cầu đơn vị phải tuân thủ các yêu cầu về minh bạch, công khai từ đó tạo sức
ép buộc doanh nghiệp phải hoạt động hiệu quả.
Nâng cao uy tín, quảng bá hình ảnh: Yêu cầu công khai minh bạch thông tin
thường gắn với quảng bá thông tin của đơn vị phát hành. Khi công ty niêm yết trên thị
Trang 4
Website: Email : Tel : 0918.775.368

trường chứng khoán thì các thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ
thường xuyên xuất hiện miễn phí trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên
lợi ích này không phải đơn vị nào cũng đạt được vì thông tin ở đây bao gồm cả tốt và
xấu nên nếu công ty làm ăn kém hiệu quả thì những thông tin này cũng được quảng bá
và nó sẽ làm giảm uy tín và vị thế của công ty.
Giảm chi phí tiếp cận vốn: Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ tạo hình ảnh
đẹp và sự nổi tiếng của công ty, nhờ vậy sẽ dễ dàng hơn và tốn ít chi phí hơn trong việc
huy động vốn qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu ở những lần phát hành sau. Thêm vào
đó, khách hàng và nhà cung ứng của công ty thường cũng sẽ thành cổ đông của công ty
và do vậy công ty sẽ rất có lợi trong việc mua nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.
Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ làm tăng giá trị tài sản ròng, giúp công
ty có được nguồn vốn lớn và có thể vay vốn của ngân hàng với lãi suất ưu đãi hơn cũng
như các điều khoản về tài sản cầm cố sẽ ít phiền hà hơn. Ngoài ra, việc phát hành chứng
khoán cũng giúp công ty trở thành một ứng viên hấp dẫn hơn đối với các công ty nước
ngoài với tư cách làm đối tác kinh doanh.
2. Các phương thức phát hành chứng khoán

2.1.Phát hành chứng khoán riêng lẻ
Phát hành riêng lẻ là việc phát hành trong đó đơn vị phát hành chào bán chứng
khoán của mình trong phạm vi một số nhà đầu tư nhất định với những điều kiện hạn chế
mang tính khép kín.
Phát hành chứng khoán riêng lẻ không chịu sự điều chỉnh của pháp luật chứng
khoán và thị trường chứng khoán ( Luật chứng khoán). Chứng khoán phát hành theo
hình thức này không phải là đối tượng niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán.
Công ty thường lựa chọn phát hành riêng lẻ bởi một số nguyên nhân sau:
+ Công ty không đủ điều kiện để phát hành ra công chúng.
+ Số lượng vốn cần huy động thấp, do đó, nếu phát hành ra công chúng thì chi
phí trên mỗi đơn vị vốn huy động sẽ quá cao. Phát hành riêng lẻ giảm được chi phí huy
động.
Trang 5
Website: Email : Tel : 0918.775.368

+ Công ty phát hành cổ phiếu, trái phiếu nhằm mục đích duy trì và tăng cường
các mối quan hệ trong kinh doanh với nhà cung cấp, tiêu thụ hay các đối tác ...
+ Phát hành riêng lẻ chứng khoán cho cán bộ công nhân viên trong công ty nhằm
mục đích tăng trách nhiệm, tăng hiệu quả trong công việc, gắn kết hơn nữa người làm
thuê với công ty.
Chứng khoán phát hành riêng lẻ khó có thể phản ánh được mối quan hệ cung cầu
trên thị trường do số lượng người mua hạn chế, vì vậy giá chứng khoán phát hành riêng
lẻ thường thấp hơn giá chứng khoán phát hành rộng rãi ra công chúng.
Khi phát hành riêng lẻ cổ phiếu, mỗi nhà đầu tư sẽ mua được một khối lượng lớn
cổ phiếu, do đó rất dễ xuất hiện cổ đông kiểm soát công ty trong số các nhà đầu tư.
Ngược lại, phát hành riêng lẻ trái phiếu thực chất là vay vốn từ các nhà đầu tư, nên
không làm xuất hiện cổ đông kiểm soát.
2. Phát hành chứng khoán rộng rãi ra công chúng
Phát hành chứng khoán ra công chúng là hình thức phát hành trong đó chứng
khoán được bán rộng rãi cho quảng đại quần chúng đầu tư ( trong đó phải dành một tỷ

lệ cho các nhà đầu tư nhỏ) với quy mô lớn cho một số lượng nhà đầu tư đảm bảo yêu
cầu công khai, minh bạch, tuân thủ pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng
khoán.
Phát hành cổ phiếu ra công chúng được thực hiện theo một trong hai cách:
Phát hành lần đầu ra công chúng (IPO) là việc phát hành trong đó cổ phiếu của
công ty lần đầu tiên đựơc bán rộng rãi cho công chúng đầu tư.
Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng có các lợi ích sau:
+ Tạo uy tín trong xã hội, từ đó sẽ dễ dàng hơn và tốn ít chi phí hơn trong việc
huy động vốn ở những lần sau.
+ Tăng thêm vốn để sản xuất kinh doanh.
+ Dễ dàng hơn trong vay vốn từ ngân hàng: về lãi suất ưu đãi hơn, điều kiện thế
chấp tài sản nhẹ hơn.
+ Có điều kiện thu hút và duy trì được đội ngũ nhân viên giỏi thông qua bán cổ
phần cho họ, từ đó tạo sự gắn bó của họ với công ty.
Trang 6
Website: Email : Tel : 0918.775.368

+ Nâng cao chất lượng và độ chính xác của các báo cáo tài chính, cáo bạch của
công ty.
Tuy nhiên, phát hành cổ phiếu lần đầu cũng có những bất lợi sau:
+ Phân tán quyền sở hữu và có thể làm mất quyền kiểm soát công ty của các cổ
đông sáng lập nếu không có kế hoạch phát hành hợp lý.
+ Chi phí phát hành tốn kém (khoảng từ 8-10% vốn huy động).
+ Phải tuân thủ chế độ công bố thông tin rộng rãi, nghiệm ngặt và chịu sự giám
sát chặt chẽ hơn so với các công ty không niêm yết. Điều này có thể gây rò rỉ các thông
tin kinh doanh, gây bất lợi trong cạnh tranh.
+ Đội ngũ quản lý công ty phải chịu trách nhiệm lớn hơn trước công chúng.
Phân phối sơ cấp (PO): Là đợt phát hành cổ phiếu bổ sung của công ty đại chúng
cho rộng rãi công chúng đầu tư và các đợt phát hành trái phiếu ra công chúng
3. Điều kiện phát hành chứng khoán

Các công ty thực hiện việc phát hành chứng khoán ra công chúng đều phải đáp
ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn cao của cơ quan quản lý thị trường chứng khoán và phải
hoàn thành nhiều thủ tục phức tạp trước và sau khi phát hành chứng khoán ra công
chúng. Việc đặt ra các yêu cầu như vậy là bởi các lý do sau:
+ Phát hành chứng khoán ra công chúng là phát hành cho một số lượng lớn các
nhà đầu tư. Một phần trong số các nhà đầu tư không có sự hiểu biết và khả năng phân
tích cao về chứng khoán. Để bảo vệ các nhà đầu tư, chứng khoán phát hành phải có chất
lượng và công ty phát hành phải là công ty có triển vọng phát triển trong tương lai.
+ Do các công ty lần đầu phát hành ra công chúng nên các thông tin liên quan
đến công ty không được nhiều người biết đến. Việc đưa ra các yêu cầu cao chính là sự
bù đắp sự thiếu hụt thông tin đó.
Tiêu chuẩn mà các công ty phải đáp ứng trước khi đựoc phép phát hành chứng
khoán ra công chúng được chia thành 2 nhóm: các tiêu chuẩn định lượng và các tiêu
chuẩn định tính.
3.1. Các tiêu chuẩn định lượng
Công ty phải đạt được quy mô vốn tối thiểu.
Trang 7
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Công ty phải hoạt động có hiệu quả trong một số năm liên tục trước khi xin phép
phát hành chứng khoán ra công chúng.
Tổng giá trị của đợt phát hành phải đạt qui mô nhất định.
Một tỷ lệ nhất định của đợt phát hành phải được bán cho một số lượng qui định
công chúng đầu tư.
Các thành viên sáng lập của công ty phải cam kết nắm giữ một tỷ lệ nhất định
vốn cổ phần của công ty trong một khoản thời gian qui định.
3.2. Các tiêu chuẩn định tính
Các nhà quản lý công ty bao gồm: thành viên ban giám đốc điều hành,
hội đồng quản trị phải có trình độ và kinh nghiệm quản lý công ty.
Cơ cấu tổ chức của công ty phải hợp lý, phải vì lợi ích của nhà đầu tư

Các báo cáo tài chính, bản cáo bạch và các tài liệu cung cấp thông tin của công ty
phải có độ tin cậy cao, phải được kiểm toán bởi các tổ chức kiểm toán có uy tín.
Công ty phải có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được tư đợt phát
hành.
Công ty phải được một hoặc một số tổ chức bảo lãnh phát hành đứng ra cam kết
bảo lãnh cho đợt phát hành.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến huy động vốn của doanh nghiệp qua thị trường
chứng khoán
4.1. Quy mô vốn cần huy động
Mỗi khi đưa ra quyết định tăng cường huy động vốn, doanh nghiệp cần căn cứ
vào quy mô vốn cần huy động để lựa chọn phương thức huy động cho phù hợp. Trong
điều kiện cần huy động số lượng vốn lớn, thời gian sử dụng dài thì huy động vốn trên
thị trường chứng khoán là một phương thức hữu hiệu.
Quy mô vốn phát hành còn ảnh hưởng tới sự thành công hay thất bại của đợt phát
hành . Quy mô phát hành quá lớn trong khi dòng tiền trên thị trường không đáp ứng
được sẽ dẫn tới tình trạng cung vượt cầu, giá chứng khoán bán ra sẽ thấp hơn so với giá
mà doanh nghiệp kỳ vọng hoặc số lượng chứng khoán phát hành ra không bán được hết,
ngược lại nếu quy mô huy động nhỏ thì việc phát hành ra công chúng sẽ là khá đắt so
Trang 8
Website: Email : Tel : 0918.775.368

với các phương thức huy động khác vì chi phi phát hành chứng khoán thường khá lớn,
thông thường chiếm khoảng 10% giá trị đợt phát hành.
4.2. Chi phí phát hành chứng khoán
Chi phí phát hành chứng khoán bao gồm các chi phí bảo lãnh phát hành, tư vấn,
quảng cáo, in ấn, phí kiểm soát, phí niêm yết... Các chi phí này nhiều hay ít tuỳ thuộc
vào nhiều yếu tố và có thể chiếm đến 10% tổng giá trị phát hành.
Chi phí phát hành của phương thức phát hành rộng rãi ra công chúng thường lớn
hơn chi phí phát hành theo phương thức phát hành riêng lẻ. Vì vậy, trong một số trường
hợp Công ty cổ phần chọn phương thức phát hành riêng lẻ. Mục tiêu cuối cùng của cả

hai phương thức phát hành đều là số vốn được huy động.
Chi phí phát hành quá cao sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả của đợt phát hành cũng như
cản trở các doanh nghiệp quyết định thực hiện việc huy động vốn thông qua thị trường
chứng khoán.
4.3. Điều kiện phát hành chứng khoán
Các công ty thực hiện việc phát hành chứng khoán ra công chúng đều phải đáp
ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn cao của cơ quan quản lý thị trường chứng khoán và phải
hoàn thành nhiều thủ tục phức tạp trước và sau khi phát hành chứng khoán ra công
chúng. Với những điều kiện quá cao có thể gây ảnh hướng đến quyết định có huy động
vốn thông qua thị trường chứng khoán hay không của doanh nghiệp. Bên cạnh đó việc
yêu cầu công khai minh bạch thông tin cũng là trở ngại khá lớn đến quyết định của
doanh nghiệp khi quyết định phát hành chứng khoán do lo ngại bị lộ thông tin quan
trọng cho các đối thủ cạnh tranh.
4.4. Thay đổi cơ cấu sở hữu vốn
Việc phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán có thể làm thay đổi cơ cấu
sở hữu vốn doanh nghiệp, ảnh hưởng tới quyền lợi của các cổ đông cũ do sự xuất hiện
của một lượng lớn cổ đông mới làm thay đổi tỷ lệ vốn nắm giữ trong công ty. Đặc biệt
với hình thức phát hành cổ phiếu riêng lẻ doanh nghiệp cần chú ý vì sau đợt phát hành
này có thể sẽ xuất hiện các cổ đông lớn sau phát hành.
Việc phát hành trái phiếu thì không làm thay đổi cơ cấu sở hữu vốn mà nó chỉ
làm gia tăng thêm nợ.
4.5. Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán thứ cấp
Trang 9
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối liên quan mật thiết với nhau và
không thể tách rời. Thị trường sơ cấp là tiền đề cho hoạt động của thị trường thứ cấp,
bởi vì chính nơi đây đã tạo ra hàng hóa cho thị trường giao dịch. Ngược lại, thị trường
thứ cấp tạo động lực cho sự phát triển của thị trường sơ cấp. Chính việc giao dịch mua
đi bán lại trên thị trường thứ cấp đã tạo ra tính thanh khoản cho chứng khoán, tạo thuận

lợi cho việc tiếp tục phát hành chứng khoán đợt mới để huy động thêm vốn cho doanh
nghiệp. Khi thị trường thứ cấp hoạt động sôi nổi, hiệu quả, tính thanh khoản cao, thu hút
mạnh mẽ sự quan tâm của công chúng đầu tư thì việc phát hành chứng khoán sẽ trở nên
rất dễ dàng, ngược lại khi thị trường thứ cấp hoạt động kém hiệu quả, tính thanh khoản
thấp, tâm lý nhà đầu tư bị ảnh hưởng thì chắc chắn việc phát hành chứng khoán sẽ gặp
nhiều khó khăn.
4.6. Rủi ro thông tin
Rủi ro thông tin trên thị trường chứng khoán được thể hiện ở hiện tượng thông
tin không cân xứng. Thông tin không cân xứng xuất hiện khi người mua và người bán
có các thông tin khác nhau.
Thông tin không cân xứng có thể xảy ra trước khi tiến hành ký kết hợp đồng. Các
bên tham gia giao dịch cố tình che đậy thông tin, người mua không có thông tin xác
thực, đầy đủ và kịp thời nên trả giá thấp hơn giá trị đích thực của hàng hóa. Hậu quả là
người bán cũng không còn động lực để sản xuất hàng có giá trị và có xu hướng cung
cấp những sản phẩm có chất lượng thấp hơn chất lượng trung bình trên thị trường. Rốt
cuộc trên thị trường chỉ còn lại những sản phẩm chất lượng xấu, hàng tốt bị loại bỏ, dẫn
đến lựa chọn bất lợi (adverse selection) cho cả hai bên. Như vậy, hiện tượng lựa chọn
bất lợi đã cản trở việc giao dịch trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Thông tin bất cân xứng
cũng có thể xảy ra sau khi hợp đồng được ký kết,sau khi hợp đồng đã được giao kết,
một bên có hành động che đậy thông tin mà bên kia khó lòng kiểm soát, hoặc muốn
kiểm soát thì cũng phải tốn kém chi phí.
Trên thị trường chứng khoán, hiện tượng thông tin không cân xứng xảy ra khi:
doanh nghiệp che giấu các thông tin bất lợi, thổi phồng thông tin có lợi...doanh nghiệp
cung cấp thông tin không công bằng đối với các nhà đầu tư, doanh nghiệp sau khi phát
hành cổ phiếu không chú trọng vào đầu tư sản xuất kinh doanh mà chỉ tập trung vào
việc “làm giá” trên thị trường chứng khoán, có sự rò rỉ thông tin nội gián, một số nhà
Trang 10
Website: Email : Tel : 0918.775.368

đầu tư tạo cung cầu ảo trên thị trường dẫn đến phản ánh sai lệch giá trị của doanh

nghiệp, một số kẻ xấu tung tin đồn thất thiệt cho doanh nghiệp, các cơ quan truyền
thông cung cấp thông tin sai lệch, các trung gian tài chính cung cấp, xử lý thông tin
không chính xác...
Tình trạng không cân xứng về thông tin sẽ dẫn đến việc các nhà đầu tư đưa ra các quyết
định đầu tư không chính xác, gây cung cầu ảo, thị trường bong bóng và tiềm ẩn nguy cơ
sụp đổ thị trường.
Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như bất kỳ thị trường mới nổi nào trên thế giới,
hiện tượng thông tin bất cân xứng xảy ra phổ biến trên mọi ngành, lĩnh vực.
Thứ nhất, ngoài các thông tin bắt buộc theo luật định phải công bố thì các doanh nghiệp
không chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời. Đặc biệt đối với các công ty có cổ
phiếu giao dịch trên thị trường phi chính thức (OTC), tình trạng phổ biến là nhà đầu tư
hầu như mù mờ về tình hình làm ăn, tình hình hoạt động kinh doanh của công ty. Các
thông tin tìm được chủ yếu qua nguồn tin riêng, trên các diễn đàn chứng khoán hoặc tin
đồn. Một thực trạng nữa là đối với các công ty chào bán lần đầu ra công chúng thực
hiện đấu giá tại cơ sở, ban giám đốc công ty có xu hướng che giấu các thông tin để “dìm
giá“ sao cho những người nội bộ công ty có thể mua được cổ phiếu với giá thấp.
Thứ hai, có hiện tượng rò rỉ thông tin chưa hoặc không được phép công khai. Sự rò rỉ
thông tin phổ biến trong công tác đấu giá cổ phiếu. những thông tin này không được bảo
mật chặt chẽ mà được cung cấp một cách riêng lẻ cho những đối tượng có nhu cầu.
Những người nắm được cụ thể, chi tiết về tổng cầu cổ phiếu của thị trường, các cá nhân
tổ chức nào tham gia đấu giá sẽ tính toán được hợp lý mức giá mà mình bỏ thầu, qua đó
chiếm lợi thế so với các nhà đầu tư khác không có thông tin
Thứ ba, doanh nghiệp cung cấp thông tin không công bằng đối với các nhà đầu
tư: ưu tiên cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư tổ chức mà
không công bố rộng rãi
Thứ tư là hiện tượng lừa đảo.
Thứ năm là việc tung tin đồn thất thiệt gây tâm lý hoang mang cho nhà đầu tư,
ảnh hưởng đến giá cả cổ phiếu trên thị trường.
Thứ sáu là các cơ quan truyền thông cung cấp thông tin sai lệch, không đầy đủ.
Ngoài ra còn nhiều hiện tượng khác về việc một số nhà đầu tư làm giá, tạo cung cầu ảo

Trang 11
Website: Email : Tel : 0918.775.368

trên thị trường khiến cho giá cả biến động mạnh. Sự thua thiệt thuộc về các nhà đầu tư
cá nhân, không có nguồn tin nội bộ, khi muốn mua thì không thể nào tìm được nguồn
mua do các nhà đầu tư lớn đã thâu tóm toàn bộ, khi muốn bán thì cũng không thể nào
bán được do thị trường bão hòa...
Tóm lại, hiện tượng thông tin không cân xứng làm đánh mất lòng tin của công
chúng đầu tư đối với thị trường chứng khoán, khiến họ coi đầu tư vào chứng khoán như
đánh bạc chứ không phải là một hoạt động đầu tư tài chính chân chính. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp hoạt động chân chính cũng không mặn mà với việc huy động trên thị
trường chứng khoán do giá chứng khoán không phản ánh chân thực tình hình hoạt động
của công ty.Chứng khoán của nhiều công ty làm ăn thua lỗ không hiệu quả, thông tin
không công khai minh bạch lại được định giá cao trong khi đó những công ty làm ăn
hiệu quả,công bố minh bạch thông tin lại được định giá thấp hơn gây bức xúc cho doanh
nghiệp. Ngoài ra thông tin không cân xứng, ví dụ như các tin đồn thất thiệt gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng huy động thêm vốn
của doanh nghiệp. Với các doanh nghiệp chưa niêm yết thông tin không cân xứng có thể
khiến doanh nghiệp không huy động được vốn trên thị trường chứng khoán do thất bại
ngay từ thị trường sơ cấp.

4.7. Chứng khoán của doanh nghiệp xem xét theo lý thuyết lượng cầu tài sản
Theo lý thuyết lượng cầu tài sản, một tài sản là một vật sở hữu có chứa giá trị.
Tiền, chứng khoán, tác phẩm nghệ thuật, đất đai, nhà cửa, máy móc ... đều là tài sản.
Chứng khoán công ty là một tài sản tài chính và là một hàng hoá, nó cũng phải cạnh
tranh với các hàng hoá khác để có thể bán được.
Lý thuyết lượng cầu tài sản cho rằng nếu giữ các nhân tố khác không thay đổi
thì:
+ Lượng cầu tài sản tương quan thuận với của cải
+ Lượng cầu tài sản tương quan thuận với khả năng sinh lời dự tính của nó so

với tài sản thay thế
+ Lượng cầu tài sản tương quan nghịch với rủi ro về khả năng sinh lời của nó so
với tài sản thay thế.
Trang 12
Website: Email : Tel : 0918.775.368

+ Lượng cầu của một tài sản tương quan thuận với khả năng thanh khoản của
nó so với tài sản thay thế
Các nhà đầu tư sẽ quyết định mua chứng khoán của doanh nghiệp hay các tài
sản khác dựa trên sự xem xét các yếu tố sau:
a. Tiềm lực kinh tế của nhà đầu tư
Khi người đầu tư thấy của cải của anh ta tăng lên, anh ta có thêm tiềm lực kinh tế
để sẵn sàng mua sắm tài sản, trong trường hợp này là tài sản tài chính. Chính vì vậy, nhu
cầu của anh ta với tài sản tài chính cũng tăng lên. Lượng cầu về các tài sản tài chính
(tiền gửi ngân hàng và chứng khoán của doanh nghiệp) sẽ thay đổi khác nhau khi có
những thay đổi về tiềm lực kinh tế.
Độ co dãn của lượng cầu theo của cải biểu hiện sự thay đổi lượng cầu đó, nó
phản ánh khi mọi yếu tố khác không thay đổi, lượng cầu về tài sản thay đổi bao nhiêu
phần trăm khi của cải thay đổi 1%.
E = %Q
D
/ %Q
K`
( Q
D
là phần trăm thay đổi lượng cầu tài sản, %Q
K
là phần trăm thay đổi về
của cải)
Một tài sản là cần thiết thì độ co dãn của cầu theo của cải sẽ nhỏ hơn 1, tức là khi

của cải tăng, mức tăng lượng cầu của tài sản đó tính theo phần trăm sẽ ít hơn mức tăng
của cải tính theo phần trăm.
Còn một tài sản là cao cấp thì độ co dãn của cầu theo của cải sẽ lớn hơn 1, tức là
khi của cải tăng, lượng cầu tài sản này tăng nhiều hơn theo tỷ lệ phần trăm so với mức
tăng của cải.
Cổ phiếu và trái phiếu là những ví dụ về tài sản cao cấp, tiền mặt, tiền gửi tiết
kiệm là những tài sản cần thiết. ( F.MISHKIN-NXB KHKT trang 137)
Như vậy, khi của cải của dân chúng, nhà đầu tư tăng lên, đầu tư vào chứng khoán
sẽ có nhiều cơ hội được lựa chọn.
b. Lợi tức dự tính
Lợi tức dự tính của một tài sản cho ta biết có thể được lợi bao nhiêu khi nắm giữ
tài sản đó. Lợi tức dự tính của tiền gửi ngân hàng chính là lãi suất tiền gửi, lợi tức dự
tính của trái phiếu chính là lãi suất của trái phiếu, lợi tức dự tính của cổ phiếu chính là
cổ tức dự tính cộng với phần trăm thay đổi do sự chênh lệnh giữa thị giá và mệnh giá.
Trang 13
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Khi thị trường chứng khoán phát triển ổn định, doanh nghiệp kinh doanh đạt
hiệu quả, thị giá cổ phiếu sẽ cao hơn mệnh giá cổ phiếu, mức cổ tức thực hiện cũng cao,
do đó lợi tức của cổ phiếu tăng cao hơn rất nhiều so với lãi suất tiền gửi ngân hàng.
Với mọi điều kiện, trái phiếu của doanh nghiệp luôn có lãi suất cao hơn lãi suất
tiền gửi để bù đắp rủi ro.
Như vậy, lợi tức dự tính của chứng khoán tăng cao hơn so với lợi tức dự tính của
tiền gửi ngân hàng, lượng cầu tài sản là chứng khoán sẽ tăng.
c. Rủi ro
Mức độ rủi ro, không chắc chắn về lợi tức dự tính của một tài sản tác động rất
mạnh đến lượng cầu về tài sản đó, công chúng đầu tư thường ưu tiên nắm giữ các tài sản
ít rủi ro.
Hai tài sản tài chính ta đang so sánh: tiền gửi ngân hàng và chứng khoán của
doanh nghiệp, có mức độ rủi ro khác nhau. Mức độ rủi ro của tiền gửi ngân hàng là rất

nhỏ, bởi vì rất khó để một ngân hàng phá sản với chính sách bảo vệ hệ thống tài chính
của Chính phủ, hơn nữa, nếu ngân hàng có phá sản thì còn có các khoản bảo hiểm tiền
gửi trang trải cho nợ của ngân hàng.
Ngược lại với tiền gửi ngân hàng, chứng khoán của doanh nghiệp có mức độ rủi
ro cao hơn. Rủi ro của doanh nghiệp xuất phát chính từ hoạt động sản xuất kinh doanh
và không được sự bảo vệ của chính phủ như sự bảo vệ hệ thống tài chính. Doanh nghiệp
có qui mô càng lớn, lĩnh vực hoạt động rộng, truyền thống hoạt động lâu năm thì mức
độ rủi ro càng nhỏ.
Nhưng nhìn chung, mức độ rủi ro của chúng khoán của doanh nghiệp thường cao
hơn mức độ rủi ro của tiền gửi ngân hàng. Dựa vào riêng yếu tố này, công chúng đầu tư
thường ưa thích nắm giữ tiền gửi ngân hàng hơn là chứng khoán của doanh nghiệp.
d. Tính lỏng của tài sản
Tính lỏng của tài sản là khả năng chuyển đổi sang tiền mặt của tài sản nhanh đến
mức nào, chi phí chuyển đổi nhỏ đến bao nhiêu. Tài sản có tính lỏng càng cao thì càng
được ưa chuộng. Tính lỏng của tiền gửi ngân hàng là rất cao vì tiền gửi ngân hàng hoàn
toàn có thể chuyển sang tiền mặt khi đáo hạn theo yêu cầu của nhà đầu tư, khi chưa đáo
hạn, tiền gửi ngân hàng vẫn có thể chuyển sang tiền mặt với chi phí thấp.
Trang 14
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Trong một thị trường chứng khoán phát triển và được tổ chức tốt, việc bán chứng
khoán được thực hiện nhanh chóng và chi phí thấp. Tuy nhiên với các thị trường chứng
khoán mới ra đời, kinh nghiệm tổ chức, quản lý còn yếu thì việc bán chứng khoán
thường mất nhiều thời gian và chi phí hơn so với việc rút tiền gửi ngân hàng.
4.8. Các yếu tố khác
Ngoài các yếu tố cơ bản kể trên còn các yếu tố cũng ảnh hưởng đến quyết định
huy động vốn của doanh nghiệp như lạm phát, chính sách tín dụng ưu đãi của chính
phủ, thói quen tiêu dùng và đầu tư của dân chúng, tình hình kinh tế, chính trị xã hội ...
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM

I. Thị trường chứng khoán Việt Nam
1. Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam
Khai trương hoạt động trung tâm chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh vào ngày
20/7/2000 và bắt đầu phiên giao dịch đầu tiên 8 ngày sau đó, tính đến nay thị trường
chứng khoán Việt Nam đã trải qua hơn 10 năm hoạt động với nhiều cam go nhưng đã
vươn lên mạnh mẽ.
Hiện tại thị trường chứng khoán Việt Nam có 2 sở giao dịch: sở giao dịch Hà Nội và sở
giao dịch thành phố Hồ Chí Minh, 1 thị trường Upcom, gần 600 loại cổ phiếu, 105 công
ty chứng khoán, trên 50 quỹ đầu tư của 46 công ty quản lý quỹ, gần 1 triệu tài khoản
trên cả 3 thị trường, trong đó 25% là của nhà đầu tư nước ngoài, gần 4000 phiên giao
dịch đã diễn ra an toàn.
Trong 5 năm đầu giá trị giao dịch mỗi phiên chỉ đạt 55 tỷ đồng/phiên, 5 năm tiếp theo
đạt 1300 tỷ đồng/phiên tăng gấp 25 lần. Số lượng công ty niêm yết tăng từ 2 lên hơn
500 công ty với giá trị vốn hóa 700.000 tỷ đồng tương đương 40% GDP. Tổng giá trị
vốn huy động 5 năm gần đây đạt 300.000 tỷ đồng tương đương 20% GDP.
Trong đó riêng năm 2007 tổng giá trị vốn huy động được đạt 127.000 tỷ đồng. Thị
trường chứng khoán trở thành kênh huy động 42% trái phiếu chính phủ, góp phần thúc
đẩy cải cách các doanh nghiệp nhà nước.
Số lượng tổ chức trung gian trên thị trường chứng khoán ban đầu chỉ có 7 công ty chứng
khoán và 1 công ty quản lý quỹ nay đã tăng lên 105 công ty chứng khoán và 46 công ty
Trang 15
Website: Email : Tel : 0918.775.368

quản lý quỹ. Cùng với việc triển khai giao dịch giao dịch trực tuyến, các loại hình dịch
vụ ngày càng đa dạng, chất lượng ngày càng cao. Số lượng nhà đầu tư tăng mạnh từ
3000 tài khoản lên gần 950.000 tài khoản.
Một số mốc phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam:
28/11/1996: Thủ tướng chính phủ ký quyết định thành lập ủy ban chứng khoán nhà
nước.
20/7/2000: Khai trương trung tâm giao dịch chứng khoán TPHCM.

28/7/2000: Bắt đầu phiên giao dịch đầu tiên
8/3/2005: Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đi vào hoạt động
27/7/2005: Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động
8/2007: Chuyển đổi từ trung tâm giao dịch chứng khoán lên Sở giao dịch chứng khoán.
24/6/2009: Thị trường Upcom chính thức đi vào hoạt động
2. Điều kiện phát hành chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam:
2.1. Điều kiện phát hành cổ phiếu.
Là công ty cổ phần, doanh nghiệp cổ phần hoá.
Mức vốn điều lệ tối thiểu thực có tính đến ngày xin phép phát hành là 10 tỷ
đồng.
Hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi trong 2 năm liên tục gần nhất tính đến ngày
nộp hồ sơ xin phép phát hành, tình hình tài chính lành mạnh, có triển vọng phát triển.
Đối với doanh nghiệp cổ phần hoá, thời hạn 2 năm trên bao gồm cả thời gian trước khi
thực hiện cổ phần hoá.
Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành được đại
hội cổ đông thông qua.
Thành viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc, giám đốc có kinh nghiệm quản lý
kinh doanh.
Tối thiểu 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành phải được bán cho trên 100
người đầu tư ngoài tổ chức phát hành, trường hợp vốn cổ phần của tổ chức phát hành từ
100 tỷ đồng trở lên thì tỷ lệ tối thiểu này là 15%.
Cổ đông sáng lập phải nắm giữ ít nhất 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành
vào thời điểm kết thúc đợt phát hành và phải nắm giữ mức này tối thiểu 3 năm, kể từ
ngày kết thúc đợt phát hành.
Trang 16

×