Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Đường lối của đảng về văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.69 KB, 26 trang )

1
Bài Thảo Luận – Nhóm 4
Đề tài 4 : Phân tích đường lối xây dựng và phát triển văn hóa của Đảng từ 1986
đến nay? Tại sao Đảng ta lại coi xây dựng và phát triển văn hóa là một trong ba trụ
cột của công cuộc đổi mới hiện nay?
Mục lục
I. Sơ lược về văn hóa Việt Nam trước năm 1986
1. Khái niệm văn hóa
2. Vị trí, vai trò của văn hóa trong đời sống
3. Sơ lược về văn hóa Việt Nam trước thời kì đổi mới
II. Quá trình nhận thức và nội dung đường lối xây dựng phát triển nền văn hóa
của Đảng từ năm 1986 đến nay
1. Quá trình đổi mới tư duy về xây dựng và phát triển nên văn hóa
2. Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng, phát triển nền văn hóa
3. Đánh giá việc thực hiện đường lối
III. Xây dựng và phát triển văn hóa là một trong ba trụ cột của công cuộc đổi
mới hiện nay
Nội dung chính
I. Sơ lược về văn hóa Việt Nam trước năm 1986
1. Khái niệm văn hóa
- Theo chủ nghĩa Mác-Lênin: Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong
quá trình lịch sử của mình. Có nghĩa là:
+ Theo nghĩa rộng, văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh
thần.
+ Theo nghĩa hẹp, văn hoá được hiểu chủ yếu là văn hoá tinh thần.
- Hiện tại khái niệm văn hóa được dùng theo 2 nghĩa: nghĩa rộng: “Văn hóa
VN là tổng thể những giá trị vật chất tinh thần do cộng đồng các dân tộc VN
sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước”. Nhưng chủ yếu dùng
theo nghĩa hẹp: “ Văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội”, “ Văn hóa là hệ
các giá trị truyền thống, lối sống” “Văn hóa là năng lực sáng tạo của 1 dân


tộc”, “Văn hóa là bản sắc dân tộc, là cái phân biệt dân tộc này với các dân tộc
khác”
2
- Trong Nghị quyết Trung ương 5 ( Khóa VIII), Đảng ta khẳng định: Văn hóa
Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các
dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước…, là
kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để
không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn,
khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc
2. Vị trí, vai trò của văn hóa trong xã hội
- Văn hóa là sự kết nối giữa các giá trị truyền thống và hiện đại
- Văn hóa thể hiện trình độ văn minh của con người
- Văn hóa là nền tảng tinh thần, là động lực, mục tiêu của sự phát triển kinh tế
xã hội.
3. Sơ lược về văn hóa Việt Nam thời kỳ trước đổi mới
a) Quan điểm và chủ trương xây dựng nền văn hóa mới
- Trong những năm 1943-1954
+ Đầu năm 1943, Ban Thường vụ Trung Ương đã thông qua bản Đề cương
văn hóa Việt Nam, Đảng nhận định: văn hóa là một trong ba mặt trận
(kinh tế, chính trị, văn hóa) của cách mạng Việt Nam ,và đề ra 3 nguyên
tắc của nền văn hóa mới:
• Dân tộc hóa: chống lại mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa
• Đại chúng hóa: chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa
phản lại hoặc xa rời quần chúng
• Khoa học hóa: chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa phản tiến
bộ, trái khoa học
Như vậy, văn hóa Việt Nam có tính chất: hình thức dân tộc, nội dung dân
chủ.
+ 2 nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hóa:
• Cùng với diệt giặc đói phải diệt giặc dốt

• Phải giáo dục lại nhân dân, làm cho dân tộc chúng ta trở nên một
dân tộc dũng cảm yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng
với nước Việt Nam độc lập.
Như vậy nhiệm vụ đầu tiên về xây dựng văn hóa là : chống nạn mù chữ
và giáo dục lại tinh thần nhân dân; bằng cách thực hiện cần kiệm liêm
chính.
3
+ Đầu năm 1946, cuộc vận động thực hiện Đời sống mới. Tháng 3.1947, Hồ
Chí Minh viết tài liệu Đời sống mới gồm 19 câu hỏi và trả lời, giải thích rất
dễ hiểu những vấn đề thiết thực trong chủ trương văn hóa quan trọng
này.
+ Đường lối Văn hóa kháng chiến thể hiện qua 3 tác phẩm:
• Kháng chiến kiến quốc( tháng 11.1945)
• Nhiệm vụ văn hóa Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng
hiện nay (16.11.1946)
• Báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam (tháng 7.1948)
Nội dung đường lối: xác định mối quan hệ giữa văn hóa và cách mạng giải
phóng dân tộc, cổ động văn hóa cứu quốc; xây dựng nền văn hóa dân chủ mới
có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng; tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở
đại học và trung học; bài trừ xấu xa hủ bại…
- Trong những năm 1955-1986:
+ Đại hội III (1960):tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa đồng
thời với cuộc CM về quan hệ sản xuất và CM KHKT
+ Đại hội IV, V: nền văn hóa mới có nội dung XHCN và mang tính chất dân
tộc, có tính đảng và tính nhân dân. Nhiệm vụ tiến hành cải cách giáo dục
trong cả nước, phát triển KH, văn hóa nghệ thuật, giáo dục tinh thần làm
chủ tập thể….
b) Đánh giá sự thực hiện đường lối
- Thành tựu:
+ Xóa bỏ dần những mặt lạc hậu trong di sản văn hóa phong kiến, trong nền

văn hóa nô dịch của thực dân Pháp, xây dựng nền văn hóa mới với tính chất
dân tộc, khoa học, đại chúng.
+ Nhiều triệu đồng bào đã biết đọc, biết viết
+ Văn hóa cứu quốc đã huy động sức mạnh toàn dân vào cuộc kháng chiến
chống Pháp.
+ Sự nghiệp giáo dục, văn háo ở miền Bắc XHCN phát triển tốc độ cao, phát
huy vai trò tích cực trong chiến tranh.
+ Trình độ văn hóa chung của xã hội đã nâng cao lên một cách đáng kể.
4
+ Thắng lợi vĩ đại của dân tộc qua hai cuộc kháng chiến nhờ một phần lớn ở
đường lối văn hóa của Đảng, ở những giá trị tinh thần cao quý của con người
VN.
- Hạn chế:
+ Công tác tư tưởng văn hoá thiếu sắc bén, thiếu tính chiến đấu. Việc xây
dựng thể chế văn hoá còn chậm, sự suy thoái về đạo đức lối sống có chiều
hướng phát triển.
+ Đời sống văn hoá nghệ thuật còn nhiều bất cập. Rất ít tác phẩm đạt đỉnh
cao tương xứng với sự nghiệp cách mạng và kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
Một số công trình văn hoá vật thể và phi vật thể truyền thống có giá trị không
được quan tâm bảo tồn, lưu giữ, thậm chí bị phá huỷ, mai một.
- Nguyên nhân:
+ Đường lối xây dựng, phát triển văn hoá giai đoạn 1955 - 1986 bị chi phối
bởi tư duy chính trị "nắm vững chuyên chính vô sản" mà thực chất là nhấn
mạnh đấu tranh giai cấp, đấu tranh "ai thắng ai" giữa hai con đường, đấu
tranh 2 phe, đấu tranh ý thức hệ.
+ Mục tiêu, nội dung cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá giai đoạn này cũng bị
quy định bởi cuộc cách mạng quan hệ sản xuất mà tư tưởng chỉ đạo là triệt
để xoá bỏ tư hữu, xoá bỏ bóc lột càng nhanh càng tốt, là đưa quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa đi trước một bước, tách rời trình độ phát triển thực tế
của lực lượng sản xuất.

+ Chiến tranh cùng với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao
cấp và tâm lý bình quân chủ nghĩa đã làm giảm động lực phát triển văn hoá,
giáo dục; kìm hãm năng lực tự do sáng tạo.
II. Trong thời kỳ đổi mới
1. Quá trình đổi mới tư duy về xây dựng và phát triển nền văn hoá
- Cùng với quá trình đổi mới toàn diện đất nước được khởi xướng tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), Đảng dần đi tới những
nhận thức mới, quan điểm mới về văn hoá. Việc coi trọng các chính sách đối
với văn hoá, đối với con người thực chất là trở về tư tưởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, là cơ sở cho những nhận thức mới, quan điểm mới về văn hoá của
Đảng.
5
+ Về vai trò của văn hoá, Đại hội VI đánh giá "không hình thái tư tưởng nào có
thể thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành
mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người".
• Văn hóa thể hiện ở những sản phẩm vật chất, trí óc con người, thể hiện ở
thành tựu khoa học công nghê
• Khoa học công nghệ tác động vào mọi mặt cuộc sống, thúc đẩy kinh tế
phát triển, mức sống người dân được cải thiện nên đời sống tinh thần của
con người ngày càng được nâng cao.
• Khoa học- kĩ thuật là công cụ để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, đưa mục tiêu xây dựng thành công CNXH ngày
càng tiến gần hơn
+ Để đạt được mục tiêu đó cần có những chính sách đúng đắn:
• phát triển khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ, tập trung nghiên
cứu cơ bản định hướng ứng dụng, đặc biệt các lĩnh vực mà Việt Nam có
lợi thế và nhu cầu cao
• Đẩy mạnh có chọn lọc việc nhập công nghệ, mua sáng chế….
• Đổi mới cơ chế quản lý Kh-Cn.Đấy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực
khoa học công nghệ…

Đại hội VI cũng đề cao vai trò của văn hoá trong đổi mới tư duy, thống nhất về
tư tưởng, dứt bỏ cơ chế cũ đã không còn phù hợp, thiết lập cơ chế mới; khẳng định
đồng thời với xây dựng kinh tế, phải coi trọng các vấn đề văn hoá, tạo ra môi
trường văn hoá thích hợp cho sự phát triển.
- Cương lĩnh năm 1991 (đại hội VII thông qua) lần đầu tiên đưa ra quan niệm
nền văn hoá Việt Nam có đặc trưng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Cương lĩnh chủ trương xây dựng nền văn hoá mới, tạo ra đời sống tinh
thần cao đẹp, phong phú, đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ,
khẳng định và biểu dương những giá trị chân chính, bồi dưỡng cái chân,
cái thiện, cái mỹ theo quan điểm tiến bộ, phê phán những cái lỗi thời thấp
kém.
+ Cương lĩnh khẳng định tiếp tục tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên
lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế
thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả cấc dân
6
tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại. Chống tư
tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trái
với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
+ Cương lĩnh xác định giáo dục và đào toạ, khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu.
 Biện pháp thực hiện:
 Giáo dục, củng cố, xây dựng niềm tin bằng hệ giá trị chân thiện mĩ và
những truyền thống quý báu của dân tộc
 Cần tăng cường công tác lãnh đạo của các cấp Đảng ủy, vai trò quản lý
của chính quyền các cấp và sự tham gia có hiệu quả của các tổ chức
chính trị- xã hội.
 Giữ gìn bản sắc dân tộc phải trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa lý luận
với các tổ chức hành động
 Cần tạo lập môi trường tư tưởng, văn hóa lành mạnh.

+ Đại hội VII đến đại hội X và nhiều Nghị quyết Trung ương tiếp theo đã xác
định văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Trong đó:
- Đại hội VII (6/1991) và Đại hội VIII (6/1996) của Đảng khẳng định: khoa
học và giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát ra
khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Do đó phải
coi sự nghiệp giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự
phát triển xã hội.
NQTƯ 5 khoá VIII (7/1998) nêu ra 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo, 10 nhiệm vụ cụ
thể và 4 giải pháp lớn để xây dựng và phát triển nền văn hoá trong thời kỳ mới.
Năm quan điểm chỉ đạo:
 Văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần lành mạnh và tiến bộ thì
không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Xây dựng và phát triển kinh
tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát
triển toàn diện.
7
 Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
 Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam.
 . Xây dựng và phát triển nền văn hoá là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
 Văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Mười nhiệm vụ cụ thể:
 Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với những đức
tính: tinh thần yêu nước, có ý thức tập thể, có lối sống lành mạnh
 Xây dựng môi trường văn hoá.
 Phát triển sự nghiệp văn học - nghệ thuật.

 Bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá.
 Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ.
 Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng.
 Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số.
 Chính sách văn hoá đối với tôn giáo.
 Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hoá.
 Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hoá.
Bốn giải pháp lớn:
 Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước với thi đua yêu nước và phong
trào: "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá".
 Tăng cường xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách về văn hoá.
 Tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hoá.
8
 Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá.
- Đến HNTƯ 9 khoá IX (1/2004) xác định thêm "phát triển văn hoá đồng bộ
với phát triển kinh tế".
- HNTƯ 10 khoá IX (7/2004) đặt vấn đề đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ
phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với
nhiệm vụ không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng - tinh thần xã hội. Đồng
thời cũng nhận định: cơ chế thị trường đã làm thay đổi mối quan hệ giữa cá
nhân với cộng đồng, thúc đẩy dân chủ đời sống xã hội, đa dạng hoá thị hiếu
và phương thức sinh hoạt văn hoá. Do đó phạm vi, vai trò của dân chủ hoá -
xã hội hoá văn hoá và của cá nhân ngày càng tăng lên và mở rộng là những
thách thức mới đối với sự lãnh đạo và quản lý công tác văn hoá của Đảng và
Nhà nước ta.
Kết luận: các đại hội đã từng bước làm rõ vai trò quan trọng của văn hóa trong
phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, cần được xây dựng, kế thừa
và phát triển một cách tốt nhất.
2. Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng và phát triển nền
văn hóa

Một là, văn hóa là nền tảng của tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Quan điểm này chỉ rõ chức năng, vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa,
đối với sự phát triển xã hội.
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.
Theo UNESCO: Văn hóa phản ánh phản ánh và thể hiện một cách tổng quát,
sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) diễn ra trong
quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại; qua hàng baothế kỷ nó đã cấu thành
nên một hệ thống các giá trị, truyền thống và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự
khẳng định bản sắc riêng của mình.
Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội - vì nó được thấm
nhuần trong mỗi con người và trong cả cộng đồng; được truyền lại, tiếp nối và phát
huy qua các thế hệ, được vật chất hóa và khẳng định vững chắc trong cấu trúc xã
hội của từng dân tộc (cấu trúc này ở Việt Nam là cấu trúc Nhà - Làng - Nước) đòng
thời nó tác động hàng ngày đến cuocj sống, tư tưởng tình cảm của mọi thành viên
xã hội bằng môi trường xã hội - văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của
9
dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua
sóng gió và thác ghềnh để tồn tại và không ngừng phát triển.
Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội.
Đó cũng là con đường xây dựng con người mới, xây dựng môi trường văn hóa lành
mạnh đủ sức đề kháng và đẩy lùi các tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm nhập tư tưởng,
văn hóa phản tiến bộ. Biện pháp tích cực là đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia
đình văn hóa, phường xã văn hóa, cơ quan, đơn vị văn hóa, nêu gương người tốt,
việc tốt.
- Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển.
Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hóa.
Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, tiếp nhân cái mới, tạo ra cái
mới, dựa trên cội nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn. Đó chính là văn hóa.

Kinh nghiệm đổi mới ở nước ta chứng tỏ rằng, ngay bản thân sự phát triển
kinh tế cũng không chỉ do các nhân tố thuần túy kinh tế tạo ra. Nền kinh tế Việt
Nam hiến chế độ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Nguyên nhân không phải chỉ ở
sự tiến triển tự nhiên của các nhân tố kinh tế, mà còn do sự đổi mới tư duy, đổi mới
chính sách và chế độ quản lý, còn do sự giải phóng tư tưởng và bước phát triển mới
về trình độ, năng lực của dội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, cán bộ quản lý và
lực lượng lao động. Nghĩa là động lực của sự đổi mới kinh tế một phần quan trọng
nằm trong những giá trị văn hóa đang được phát huy.
Trí tuệ, thông tin, ý tưởng sáng tạo là yếu tố quyết định hàng đầu đến sự phát
triển của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và sự phát triển kinh tế. Một nước
giàu hay nghèo không chỉ phụ thuộc vào nhiều hay ít lao động, tài nguyên thiên
nhiên, mà trước hết là khả năng phát huy đến mức cao nhất tiềm năng sáng tạo của
nguồn lực con người.Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn
hóa, nghĩa là trong tri thức và khả năng sáng tạo, trong bản lĩnh tự đổi mới của mỗi
cá nhân và của cả cộng đồng.
Nói cách khác, hàm lượng văn hóa có mối quan hệ thuận chiều đến sự phát
triển kinh tế - xã hội bền vững.
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hoá dựa vào tiêu chuẩn cái đúng, cái tốt,
cái đẹp, để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy sáng kiến,
cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất ra hàng hoá với số lượng và chất
lượng cao đáp ứng yêu cầu xã hội. Mặt khác, văn hoá sử dụng sức mạnh của các giá
10
trị truyền thống để hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất dẫn tới suy thoái xã
hội.
Trong vấn đề bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững, văn hoá giúp hạn chế lối
sống chạy theo ham muốn quá mức của "xã hội tiêu thụ" dẫn đến chỗ làm cạn kiệt
tài nguyên, ô nhiễm môi trường sinh thái.
Văn hóa nhất là văn hóa phương Đông, cổ vũ và hướng dẫn cho một lối sống có
chừng mực, hài hòa với sức tải của hành tinh chúng ta.nó đưa ra mô hình ứng xử
thân thiện giữa con người với thiên nhiên, vì sự phát triển bền vững cho thế hệ hôm

nay và mai sau.
- Văn hóa là một mục tiêu cảu sự phát triển.
Mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
dân chủ, văn minh chính là mục tiêu của văn hoá.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 2000 xác định: Mục tiêu và động lực
chính của sự phát triển là vì con người, do con người. Đồng thời nêu rõ yêu cầu
"tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn
hoá, bảo vệ môi trường".
Thực tế nhiều nước cho thấy mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển là vấn đề bức
xúc. Sau khi thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, các nước độc lập đang
tìm tới con đường dẫn tới ấm no hạnh phúc, thì việc giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa văn hoá và phát triển kinh tế xã hội càng có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi
quốc gia.
Tuy nhiên, trong nhận thức và hành động, mục tiêu kinh tế vẫn thường lấn át mục
tiêu văn hóa và thường được đặt vào vị trí ưu tiên trong các kế hoạch, chính sách
phát triển của nhiều quốc gia, nhất là các nước nghèo đang phát triển theo con
đường công nghiệp hoá.
Để làm cho văn hoá trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triểiển chúng
ta chủ trương phát triển văn hoá gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển
kinh tế - xã hội. Cụ thể là:
Khi xác định mục tiêu giải pháp phát triển văn hoá phải căn cứ và hướng tới mục
tiêu giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, làm cho phát triển văn hoá trở thành động
lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
Khi xác định mục tiêu phát triển kinh tế xã hội phải đồng thời xác định mục tiêu văn
hóa, hướng tới xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Phải có chính sách kinh tế trong
văn hóa để gắn vă hóa với hoạt động kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn
11
hóa. Xây dựng chính sách văn hóa trong kinh tế để chủ động đưa các yếu tố các yếu
tố văn hóa thâm nhập vào các hoạt động kinh tế - văn hóa, xây dựng văn hóa kinh
doanh, văn minh thương nghiệp; xây dựng đội ngũ doanh nhân thời hội nhập.

- Văn hoá có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố
con người và xây dựng xã hội mới.
Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau như tài
nguyên, vốn v v Những nguồn lực này đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt.
Chỉ có tri thức con người mới là nguồn lực vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh
không bao giờ cạn kiệt. Các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng có hiệu quả nếu
không có những con người đủ trí tuệ và năng lực khai thác chúng.
Năm 1990, chương trình phát triển của liên hợp quốc (UNDP) đưa ra những tiêu
chí mới để đánh giá mức độ phát triển của các quốc gia. Đó là chỉ số phát triển con
người, một trong ba chỉ tiêu của cách tính toán mới này là thành tựu giáo dục (hai
chỉ tiêu khác là tuổi thọ bình quân và mức thu nhập). Chỉ tiêu giáo dục lại được tổng
hợp từ hai tiêu chí: Tình trạng học vấn của nhân dân và số năm được giáo dục tính
bình quân cho mỗi người.
Theo đó, quốc gia nào đạt thành tựu giáo dục cao, tức là có vốn trí tuệ toàn dân
nhiều hơn thì chứng tỏ xã hội đó phát triển hơn, có khả năng tăng trưởng dồi dào.
"Tài nguyên" con người, cái vốn con người, nói chung là vốn trí tuệ của dân tộc. Như
vậy văn hoá trực tiếp tạo dựng và nâng cao vốn "tài nguyên người".
Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu, đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
nên chưa có lợi thế về chỉ số phát triển con người như mong muốn. Tỷ lệ người biết
đọc, biết viết được xếp vào thứ hạng cao trong khu vực (88%) nhưng nguy cơ tái
mù chữ lại đang tăng, đặc biệt là mù ngoại ngữ, tin học.
"Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là truyền thống vô cùng quý báu
của ta. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, tinh thần ấy lại kết thành một làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, lướt qua mọi hiểm nguy nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và cướp
nước"
Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
*Tiên Tiến
- Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ với nội dung cốt lõi là lí tưởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

nhằm mục tiêu tất cả vì con người
12
- Tiên tiến không chỉ trong nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện,
trong các phương tiện truyền tải nội dung.
- Thể hiện tinh thần nhân văn, hướng tới con người, giải phóng con người,
phát triển và hoàn thiện con người.
- Mang tinh thần dân chủ, đảm bảo cho mọi sáng tạo và mọi hoạt động VH
- Bao gồm cả tính hiện đại: trình độ GD, KHCN…
*Bản sắc dân tộc
- Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm
đấu tranh dựng nước và giữ nước. Bản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong các
hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo
- Bản sắc của 1 dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách, sức sống bên
trong của dân tộc, giúp dân tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống
nhất, tính nhất quán so với bản thân mình trong quá trình phát triển
- Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội và được
thể hiện sâu sắc nhất là trong hệ giá trị của dân tộc
- Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh tế, thể chế xã
hội và thể chế chính trị của các quốc gia. Nó cũng phát triển theo quá trình
hội nhập kinh tế thế giới, quá trình giao lưu văn hóa với các quốc gia khác
và sự tiếp nhận tích cực văn hóa, văn minh nhân loại
 Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đượm trong
mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học công
nghệ, giáo dục đào tạo…, sao cho trong mọi lĩnh vực hoạt động chúng ta có cách tư
duy độc lập, có cách làm vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam
 Để xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc chúng ta cần phải
làm gì?
*Vừa bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa mở rộng giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại:

+Xây dựng con người VN trong giai đoạn mới
+ Xây dựng môi trường văn hóa
+ Phát triển sự nghiệp văn học và nghệ thuật
+ Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa
+ Phát triển sự nghiệp GD-ĐT và KH-CN
13
+ Phát triển đi đôi với quản lý tốt các phương tiện thông tin đại chúng
+ Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số
+ Chính sách văn hóa với tôn giáo
+ Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa
+ Củng cố, xây dựng và hoàn thiện các thể chế văn hóa
 NQTW 5 khoá VIII: XD con người VN trong giai đoạn CM mới
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dt, phấn đấu vì đldt và cnxh, có ý chí vươn
lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế
giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội
- Đề cao tinh thần tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa,
tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và
cải thiện môi trường sinh thái
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng
suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xh
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, năng lực
thẩm mỹ và thể lực
Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Nét đặc trưng nổi bật của văn hóa Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng, là
sự hòa quyện bình đẳng, và phát triển độc lập của văn hóa các dân tộc cùng sinh
sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Hơn 50 dân tộc trên đất nước ta đều có những giá trị và bản sắc văn hóa
riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt

Nam thống nhất và củng cố sự thống nhất dân tộc.
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của toàn dân do
Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng thì xây dựng văn hoá là công việc do
mọi người cùng thực hiện. Văn hoá thẩm thấu trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội do đó thực hành văn hoá là hoạt động hàng ngày của mỗi người dân. Mọi
người dân Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà
14
Quần chúng là người hưởng thụ, tiêu dùng, phổ biến, sáng tạo và lưu giữ các
tài sản văn hoá. Các thành phần kinh tế cùng tham gia xây dựng, phát triển văn
hoá trong đó các lực lượng văn hoá chuyên nghiệp giữ vai trò nòng cốt. Công nhân,
nông dân tri thức là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đàng, quản lý của
Nhà nước. Đội ngũ trí thức nắm vai trò quan trọng trong sự nghiệp này. Sự nghiệp
xây dựng và phát triển văn hóa do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý.
Năm là, giáo dục đào tạo cùng với khoa học và công nghệ được coi là quốc sách
hàng đầu
Trong văn hóa theo nghĩa rộng thì giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ
là các lĩnh vực có tầm quan trọng đặc biệt trong thời đại kinh tế tri thức.
Ngay từ hội nghị TW2, khoá VIII (tháng 12-1996) Đảng ta đã xác định: cùng
với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực
phát triển kinh tế-xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Khoa học, công nghệ là nội dung then chốt của
hoạt động trong tất cả các ngành, các cấp, là nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và củng cố quốc phòng an ninh.
Thực hiện quốc sách này, chúng ta chủ trương:
- Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản
lí, nội dung, phương pháp dạy và học, thực hiện “ chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã
hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa

trong thanh niên, học sinh, sinh viên về tư tưởng sống, lối sống, trí tuệ, đạo
đức, bản lĩnh sang tạo.
- Chuyển dần sang mô hình giáo dục mở,
- Đổi mới mạnh mẽ giáo dục mầm non và giáo dục phổ thong. Điều chỉnh, khắc
phục tình trạng quá tải.Chuẩn bị tích cực để từ sau năm 2015 thực hiện
chương trình giáo dục phổ thông mới.
- Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô đào tạo
cao đẳng nghề, trung cấp nghề
- Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử dụng .
Chú trọng phát triển bồi dưỡng trọng dụng nhân tài
15
- Đảm bảo số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
- Thực hiện xã hội hóa giáo dục
- Tăng cường hợp tác quốc tế vầ giáo dục và đào tạo
- Phát triển khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ.
Sáu là, văn hoá là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp
cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng
Văn hoá là một mặt trận của cách mạng VN, quan trọng và gian khổ không
kém mặt trận kinh tế, mặt trận chính trị. Hoạt động xây và chống trong văn hoá là
quá trình cách mạng lâu dài khó khăn phức tạp và cần có ý chí cách mạng có tính
chiến đấu tính kiên trì thận trọng, đòi hỏi nhiều thơi gian.
Trong công cuộc bảo tồn và phát huy những văn hóa tốt đẹp của dân tộc,
đồng thời sang tạo ra những văn hóa hay mới cần “ xây” đi đôi với “chống”, lấy “xây”
làm chính, đây là hai quá trình dài và khó khăn, cần có ý chí cách mạng, có tinh thần
chiến đấu kiên trì và thận trọng. Giữ gìn, phát huy tinh hoa văn hóa dân tộc, đồng
thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, các thói hư tật xấu,
nâng cao tính chiến đấu chống mọi âm mưu toan lợi dụng văn hóa xã hội để thực
hiên diễn biến hòa bình.
*Bảng so sánh đường lối xây dựng và phát triển văn hóa của Đảng trước-trong thời

kì đổi mới.
Trước thời kỳ đổi mới Trong thời kỳ đổi mới
1943-1954 1955-1968
Hoàn cảnh Cuộc đấu tranh
giành tự do và
kháng chiến chống
Pháp xâm lược
Cuộc đấu tranh giải
phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc,
xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc
và trên phạm vi cả
nước
Thời kỳ đổi mới toàn diên
đất nước
Đặc trưng - Dân tộc hóa-Đại Nền văn hóa mới là Tiên tiến đậm đà bản sắc
16
chúng hóa- Khoa
học hóa
- Có tích chất dân
tộc về hình thức và
dân chủ về nội
dung
nền văn hóa có nội
dung xã hội chủ
nghĩa. Có tính dân
tộc, tính Đảng và
tính nhân dân sâu
sắc

dân tộc
Nhiệm vụ - Chống nạn mù
chữ
-Giáo dục lại tinh
thần nhân dân
- Tiến hành cải
cách giáo dục trên
cả nước, phát
triển mạnh khoa
học, văn hóa nghệ
thuật, giáo dục
tinh thần làm chủ
tập thể.
- Chống tư tưởng
tư sản và tàn dư
tư tưởng phong
kiến, phê phán tư
tưởng tiếu tư sản,
xóa bỏ ảnh hưởng
của tư tưởng, văn
hóa thực dân mới
ở Việt Nam
- Xây dựng con người
Việt Nam trong giai đoạn
cách mạng mới với
những đức tính: tinh
thần yêu nước, có ý thức
tập thể, có lối sống lành
mạnh
- Xây dựng môi trường

văn hoá.
- Phát triển sự nghiệp
văn học - nghệ thuật.
- Bảo tồn và phát huy các
di sản văn hoá.
- Phát triển sự nghiệp
giáo dục - đào tạo và
khoa học công nghệ.
- Phát triển đi đôi với
quản lý tốt hệ thống
thông tin đại chúng.
- Bảo tồn, phát huy và
phát triển văn hoá các
dân tộc thiểu số.
- Chính sách văn hoá đối
với tôn giáo.
- Mở rộng hợp tác quốc
tế về văn hoá.
- Củng cố, xây dựng và
hoàn thiện thể chế văn
hoá.
Quan điểm chỉ
đạo và chủ
- Xác định mối quan
hệ giữa văn hoá và
Chủ trương tiến
hành cuộc cách
- Văn hoá là nền tảng
tinh thần xã hội, vừa là
17

trương xây
dựng phát
triển nền văn
hóa
cách mạng giải
phóng dân tộc, cổ
động văn hoá cứu
quốc.
- Xây dựng nền văn
hoá dân chủ mới
Việt Nam có tính
chất dân tộc, khoa
học, đại chúng mà
khẩu hiệu thiết
thực lúc này là Dân
tộc, Dân chủ.
- Tích cực bài trừ
nạn mù chữ, mở
đại học, trung theo
tinh thần mới, bài
trừ cách dạy học
nhồi sọ.
-Giáo dục lại nhân
dân, cổ động thực
hành đời sống mới.
- Phát triển cái hay
trong văn hoá dân
tộc, đồng thời bài
trừ cái xấu xa hủ
bại, ngăn ngừa sức

thâm nhập của văn
hoá thực dân, phản
động, học cái hay,
cái tốt của văn hoá
thế giới.
- Hình thành đội
ngũ trí thức mới
đóng góp tích cực
cho công cuộc
kháng chiến kiến
quốc và cho cách
mạng tư tưởng và
văn hóa đồng thời
với cuộc cách mạng
về quan hệ sản xuất
và cách mạng về
khoa học, kỹ thuật,
là chủ trương và
xây dựng và triển
nền văn hóa mới,
con người mới.
mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội. Thiếu nền tảng
tinh thần lành mạnh và
tiến bộ thì không có sự
phát triển kinh tế - xã hội
bền vững. Xây dựng và
phát triển kinh tế phải
nhằm mục tiêu văn hoá,

vì xã hội công bằng, văn
minh, con người phát
triển toàn diện.
- Nền văn hoá Việt Nam
là nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
- Nền văn hoá Việt Nam
là nền văn hoá thống
nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc
Việt Nam.
- Xây dựng và phát triển
nền văn hoá là sự nghiệp
của toàn dân, do Đảng
lãnh đạo, trong đó đội
ngũ trí thức giữ vai trò
quan trọng.
- Văn hoá là một mặt
trận, xây dựng và phát
triển văn hoá là sự
nghiệp cách mạng lâu
dài, đòi hỏi phải có ý chí
cách mạng và sự kiên trì,
thận trọng.
18
mạng Việt Nam.
3. Đánh giá việc thực hiện đường lối
a. Thành tựu
- Cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền văn hoá mới đã bước đầu được tạo dựng;
quá trình đổi mới tư duy về văn hoá, về xây dựng con người và nguồn nhân

lực có bước phát triển rõ rệt, môi trường văn hoá có những chuyển biến theo
hướng tích cực; hợp tác quốc tế về văn hoá được mở rộng.
Hệ thống nhà văn hóa được xây dựng từ Trung ương đến địa phương. Hệ thống thư
viện được đầu tư nâng cấp và xây dựng mới ở hầu khắp các tỉnh, thành phố. Các
thư viện lớn đều đã áp dụng công nghệ thông tin để phục vụ bạn đọc. Hệ thống bảo
tàng cũng phát triển khá mạnh. Hệ thống công nghiệp điện ảnh được mở rộng với
khoảng trên 30 hãng phim, hàng chục rạp chiếu bóng được đầu tư hiện đại như
Trung tâm chiếu phim quốc gia (Hà Nội)…. Hệ thống nhà hát cũng được mở rộng và
nâng cấp. Hệ thống công viên văn hóa, khu du lịch văn hóa – sinh thái và các điểm
vui chơi giải trí được mở rộng và phát triển. Đặc biệt, có hàng triệu hiện vật, di vật,
cổ vật và bảo vật quốc gia được sưu tầm, trưng bày và bảo quản.
Trước năm 1986, Việt Nam mới chỉ có quan hệ hợp tác, trao đổi văn hóa với khoảng
20 nước trên thế giới (chủ yếu là những nước thuộc hệ thống XHCN như Liên Xô,
Đông Âu, Trung Quốc…). Sau đổi mới, quan hệ quốc tế được mở rộng, với khoảng
50-60 nước ở khắp các châu lục và đã có khoảng 50 hiệp định, chương trình hợp tác
văn hóa với các nước được kí kết. Việt Nam cũng tham gia hầu hết các tổ chức quốc
tế về văn hóa như UNESSCO,…. Việt Nam đã và đang trở thành một địa điểm giao
lưu văn hóa có uy tín trong khu vực và trên toàn thế giới.
Tính đến nay, Việt Nam có đến 18 Di sản được Unesco công nhận là Di sản thế giới:
Di sản thiên nhiên:
+ Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh): 17/12/1994, 02/12/2000
+ Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng (Quảng Bình): 05/07/2003
Di sản văn hóa:
+ Quần thể kiến trúc cố đô Huế (Thừa Thiên Huế): 11/12/1993
19
+ Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam): 01/12/1999
+ Phố cổ Hội An (Quảng Nam): 04/12/1999
+ Hoàng thành Thăng Long: 31/07/2010
+ Thành nhà Hồ: 27/06/2011
Di sản văn hóa phi vật thể

+ Nhã nhạc cung đình Huế (Thừa Thiên Huế): 07/11/2003
+ Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên: 15/11/2005
+ Dân ca quan họ (Bắc Ninh): 30/09/2009
+ Ca trù: 01/10/2009
+ Hội Gióng: 16/11/2010
+ Hát xoan: 24/11/2011
+ Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương: 06/12/2012
+ Đờn ca tài tử: 05/12/2013
Di sản tư liệu thế giới
+ Mộc bản triều Nguyễn: 31/07/2009
+ Bia tiến sĩ Văn Miếu – Quốc Tử Giám: 03/2010
+ Mộc bản Kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm: 16/05/2012
- Giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới. Quy mô giáo dục và đào tạo
tăng ở tất cả các cấp, các bậc học. Chất lượng đội ngũ giáo viên phổ thông có
chuyển biến, cơ sở vật chất kĩ thuật cho trường học trên cả nước được tăng
cường đáng kể. Dân trí tiếp tục được nâng cao.
Số học sinh trung cấp chuyên nghiệp, học nghề dài hạn và sinh viên đại học tăng liên
tục với mức trung bình 10%/năm. Chất lượng dạy nghề có nhiều chuyển biến tích
cực. Đổi mới giáo dục, đào tạo đang được tích cực triển khai ở mọi cấp học, từ giáo
dục mầm non, phổ thông, dạy nghề đến cao đẳng, đại học. Việc xã hội hóa giáo dục
và xây dựng xã hội học tập đã thu được kết quả bước đầu. Nhiều trường dân lập, tư
thục đại học, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề, phổ thông và mầm non đã được
thành lập và hoạt động bước đầu có hiệu quả. Đến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành
20
phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng,
năm 2010 đạt 40% tổng số lao động.
- Khoa học và công nghệ có bước phát triển, phục vụ thiết thực hơn nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội.
Nước ta đã bước đầu tiếp cận được với các thành tựu khoa học và công nghệ trên
thế giới và áp dụng vào đời sống xã hội.

Với các ngành khoa học cơ bản, chúng ta đã tiếp thu được các thành tựu của khoa
học thế giới. Trong những năm gần đây, các đợt thi Olympic quốc tế, đoàn Việt Nam
đã giành được nhiều huy chương. Những học sinh, sinh viên đạt giải quốc tế đều
được mời cộng tác làm việc cho các cơ sở nghiên cứu khoa học ở nước ngoài.
Các cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ của nước ta đã bước đầu được trang
bị hệ thống máy móc hiện đại, các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia được xây
dựng để phục vụ quá trình nghiên cứu. Hầu hết các viện nghiên cứu và cơ sở đào
tạo đại học đều có sự hợp tác nghiên cứu với nước ngoài. Nhiều nhà khoa học nước
ta đã đạt được thành tựu mang tầm quốc tế. Có thể kể tới một số thành tựu nổi bật
như: công nghệ tạo màng bọc thực phẩm cho phép bảo quản rau quả, thức ăn; cần
cẩu siêu trường, siêu trọng….
- Văn hóa phát triển, việc xây dựng đời sống văn hóa và nếp sống văn minh có
tiến bộ ở tất cả các tỉnh thành trong cả nước.
Quá trình xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở đã đạt nhiều thành tựu. Cả nước đã có
hơn 53.000 làng (ấp, bản, khu phố…) văn hóa; hơn 45.000 cơ quan, đơn vị văn hóa;
hơn 13 triệu gia đình văn hóa…. Phong trào làng văn hóa khởi phát từ nông thôn,
đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của nông dân, phục vụ hiệu quả cho nông nghiệp,
từ một nước đói kém nước ta đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu
thế giới. Việc xây dựng làng văn hóa và gia đình văn hóa có tác động tích cực lẫn
nhau, tạo nên một môi trường văn hóa lành mạnh cần thiết ở 2 cơ sỏ được coi là tế
bào của xã hội.
Những thành tựu trong sự nghiệp xây dựng văn hóa chứng tỏ đường lối, chính sách
văn hóa của Đảng và Nhà nước ta đã và đang phát huy tích cực, định hướng đúng
đắn cho sự phát triển đời sống văn hóa. Những thành tựu này cũng là kết quả của
sự tham gia tích cực của nhân dân và những nỗ lực rất lớn của các lực lượng hoạt
động trên lĩnh vực văn hóa.
b. Hạn chế và nguyên nhân
21
 Hạn chế:
- Thứ nhất, so với yêu cầu của thời kì đổi mới, trước sự biến đổi ngày càng

phong phú trong đời sống xã hội những năm gần đây, những thành tựu và
tiến bộ đạt được trong lĩnh vực văn hóa còn chưa tương xứng và chưa
vững chắc, chưa đủ để tác động có hiệu quả đối với các lĩnh vực của đời
sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng. Đạo đức lối sống tiếp tục diễn
biến phức tạp, có một số mặt nghiêm trọng hơn, tổn hại không nhỏ đến uy
tín của Đảng và Nhà nước, niềm tin của nhân dân.
Trong lĩnh vực giáo dục: Cơ sở vật chất trong các trường học mặc dù đã được phát
triển và nâng cấp nhưng vẫn còn thấp kém, thiếu thốn và chưa được chú trọng. Giáo
dục vẫn thiên quá nặng về lý thuyết dẫn đến tình trạng sinh viên ra trường với bằng
loại giỏi nhưng muốn làm được việc thì phải qua khóa đào tạo của công ty vì trong
quá trình học không có cơ hội thực hành, tiếp xúc thực tế. Hay như, lịch sử nước nhà
là một phần vô cùng quan trọng của văn hóa dân tộc nhưng việc giáo dục cho học
sinh, sinh viên học lịch sử vẫn chưa thật sự hiệu quả. Mở cửa giao lưu với thế giới để
phát triển đồng thời nước ta cũng không tránh khỏi việc nhiều luồng văn hóa tiêu
cực tràn vào nước ta, có nguy cơ làm phai nhạt hoặc bóp méo những nét đẹp của
nền văn hóa dân tộc.
- Thứ hai, sự phát triển văn hóa chưa đồng bộ và tương xứng với tăng
trưởng kinh tế, thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng là
một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế
và nhiệm vụ xây dựng Đảng. Nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam trong
thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa tạo được chuyển biến rõ rệt. Môi
trường văn hóa còn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, sự lan tràn của các
sản phẩm và dịch vụ văn hóa mê tín, dị đoan, độc hại, thấp kém, lai căng
Sản phẩm văn hóa và các dịch vụ văn hóa ngày càng phong phú nhưng còn
thiếu những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và
nghệ thuật, có những ảnh hưởng tích cực và sâu sắc trong đời sống.
Công nghệ thông tin phát triển với tốc đọ chóng mặt. Bên cạnh những lợi ích mà nó
mang lại cũng xuất hiện nhiều mặt tiêu cực: Xuất hiện nhiều trang web đen, các trò
chơi trực tuyến mang nội dung bạo lực ảnh hưởng nghiêm trọng tới văn hóa và lối
sống của giới trẻ. Cùng với sự phát triển của kinh tế, các sản phẩm và dịch vụ văn

hóa ngày càng phong phú. Nhiều bộ phim, tiểu thuyết, sách, truyện được sản xuất
nhưng các tác phẩm có giá trị lại rất ít. Một số sách báo, truyện tranh dành cho
thiếu nhi nhưng nội dung không phù hợp. Trong lĩnh vực âm nhạc, chủ yếu là cá
22
nhạc thị trường với giai điệu và ca từ yếu kém, các ca sĩ ăn mặc thiếu lịch sự khi
biểu diễn,…
- Thứ ba, việc xây dựng thể chế văn hóa còn chậm, chưa đổi mới, thiếu đồng
bộ, làm hạn chế tác dụng của văn hóa đối với các lĩnh vực quan trọng của
đời sống.
Xây dựng thể chế văn hóa ở các khu công nghiệp không được chú trọng. Công nhân
là việc trong các khu công nghiệp, ngoài giờ làm chỉ gắn bó với nhà trọ. Rất ít doanh
nghiệp quan tâm đến nhu cầu đời sống văn hóa, tinh thần của công nhân. Đa số các
khu công nghiệp hiện nay, các thiết chế văn hóa còn rất nghèo nàn. Ngay cả các nơi
đã xây dựng các mô hình về thiết chế văn hóa thì sự thu hút công nhân cũng còn
nhiều hạn chế. Các hoạt động văn hóa hướng đến công nhân phần lớn mang tính
mùa vụ, công nhân là người hưởng thụ một cách thụ động chứ chưa phát huy được
khả năng sáng tạo văn hóa trong không gian sống của mình.
- Thứ tư, tình trạng nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu về đời sống văn hóa, tinh
thần ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
các dân tộc thiểu số và vùng căn cứ cách mạng trước đây vẫn chưa được
khắc phục có hiệu quả. Khoảng cách chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa
các vùng miền, khu vực, tầng lớp xã hội tiếp tục mở rộng.
Cơ sở vật chất giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số vẫn chưa được
chú trọng. Trường học quá nghèo nàn, không đáp ứng được yêu cầu giữ ấm cho học
sinh trong mùa đông. Học sinh đến trường phải đi qua một quãng đường đồi núi
dài, qua song suối để đến trường nhưng lại không có cầu qua song. Đội ngũ giáo
viên quá ít. Vì vậy, dân trí những vùng này còn thấp, người dân dễ bị các thành
phần phản động lôi kéo, kích động. Nhiều vùng miền đặc biệt là vùng dân tộc thiểu
số còn duy trì nhiều hủ tục lạc hậu. Người dân tin gần như tuyệt đối vào thần linh,
cúng bái gây ảnh hưởng tiêu cực cho đời sống đồng bào.

 Nguyên nhân
- Nguyên nhân khách quan
+ Nguồn lực kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật văn hóa còn yếu.
+ Ý thức của người dân trong việc trong việc thực hiện đường lối của Đảng
và Nhà nước còn thấp.
+ Nước ta đông dân tộc với những phong tục và tập quán khác nhau (54
dân tộc anh em).
23
- Nguyên nhân chủ quan
+ Các quan điểm chỉ đạo về phát triển văn hóa chưa được quán triệt đầy đủ
và cũng chưa được thực hiện nghiêm túc.
+ Bệnh chủ quan, duy ý chí trong việc quản lí kinh tế - xã hội cùng với cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài 20 năm đã tác động tiêu cực đến việc
triển khai đường lối phát triển văn hóa.
+ Chưa xây dựng được cơ chế, chính sách và giải pháp phù hợp để phát
triển văn hóa trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế.
+ Một bộ phận những người hoạt động trên lĩnh vực văn hóa có biểu hiện
xa rời đời sống, chạy theo chủ nghĩa thực dụng, thị hiếu thấp kém.
Trước những hạn chế và nguyên nhân trên, Đảng và Nhà nước ta cần có những biện
pháp cũng như đề ra các chính sách đúng đắn để giúp cho việc thực hiện đường lối
văn hóa đạt hiệu quả cao hơn, góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp, hướng đến
mục tiêu xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa.
III. Xây dựng và phát triển văn hóa là một trong ba trụ cột của công cuộc
đổi mới hiện nay
Đầu năm 1943, Ban thường vụ trung ương Đảng họp và đã thông qua đề
cương văn hóa Việt Nam do đồng chí tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp dự thảo.
Qua đó đề cương đã xác định xây dựng và phát triển văn hóa là một trong ba mặt
trận của công cuộc đổi mới hiện nay (kinh tế- chính trị- văn hóa) mà ở đó người
cộng sản phải hoạt động lãnh đạo cách mạng chính trị và cách mạng văn hóa

Vì sao xây dựng và phát triển văn hóa là một trong ba mặt trận của công
cuộc đổi mới hiện nay ???
Văn hóa là một mặt trận của cách mạng Việt Nam, quan trọng và gian khổ
không kém mặt trận kinh tế, mặt trận chính trị. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai
trò ,động lực của văn hóa. Theo Người: tiến lên CNXH phải có cả vật chất lẫn tinh
thần, song con người là quyết định; để đưa đất nước đi lên, không thể không đặt
trọng tâm vào kinh tế, nhưng chủ thể của hoạt động kinh tế lại chính là con người
và thước đo trình độ con người lại chính là văn hóa.
- Văn hóa biểu hiện sức sống, sức sáng tạo, sức mạnh tiềm tàng và vị
thế, tầm vóc dân tộc.
24
Thực tế đã chứng minh, một quốc gia muốn phát triển bền vững, ngoài dựa
vào các “yếu tố cứng” như tài nguyên thiên nhiên, tiền vốn, cơ sở vật chất,…thì cần
phải biết tận dụng, khai thác “yếu tố mềm”, đó chính là nguồn nhân lực con người
với vai trò là nhân cách văn hóa năng động, sáng tạo nhất, đóng góp quyết định
nhất đến sự hùng mạnh, phồn vinh của xã hội. Hay nói cách khác, văn hóa là một
“nguồn lực mềm” làm động lực và đòn bẩy thúc đẩy kinh tế phát triển và làm “hài
hòa hóa” các mối quan hệ xã hội và “lành mạnh hóa” môi trường xã hội.
Không phải ngẫu nhiên mà Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên
Hợp Quốc (UNESCO) từng khuyến cáo các nước trên thế giới: “Tiếp thêm sức mạnh
của nền văn hóa đương thời và nâng nó lên ngang tầm với sự phát triển kinh tế và
sự phồn vinh của xã hội.”Và: “Từ nay trở đi văn hóa cần coi mình là một nguồn bổ
sung trực tiếp cho phát triển và ngược lại phát triển cần thừa nhận văn hóa giữ
một vị trí trung tâm, một vai trò điều tiết xã hội”
Sinh thời, Thủ tướng Phạm Văn Đồng là người rất quan tâm đến vai trò của văn
hóa. Ông khẳng định: “Cách mạng là đổi mới, một quá trình đổi mới cho đến đích
cuối cùng cho nên cách mạng càng cần văn hóa…Văn hóa là cội nguồn sức mạnh và
tài năng làm nên chiến thắng”
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng nhấn mạnh: Văn hoá không chỉ là kết quả
của phát triển nhanh, bền vững mà còn là yếu tố tạo nên sự phát triển nhanh, bền

vững. Phải đặt yêu cầu phát triển văn hóa ngang tầm và hài hòa với phát triển kinh
tế.
Việc Đảng ta luôn quan tâm xây dựng văn hóa thực chất là coi trọng và đề
cao “sức mạnh mềm” của đất nước. “Sức mạnh mềm” là sức mạnh bắt nguồn, xuất
phát điểm từ bên trong được kết tinh từ trí tuệ, ý chí, tâm hồn, cốt cách, truyền
thống lịch sử vẻ vang, tinh thần anh dũng, quật cường, mưu trí, sáng tạo của dân
tộc Việt Nam từ hàng ngàn đời nay.
Đánh thức những “tiềm năng” còn tiềm ẩn trong mỗi con người và kết nối
những tiềm năng ấy thành sức mạnh vật chất trong cuộc chiến chống đói nghèo, lạc
hậu; trong xây dựng xã hội văn minh; trong tôi luyện thành những con người mới
XHCN chính là nhiệm vụ của văn hóa; đồng thời thể hiện sức mạnh nội sinh của văn
hóa thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội.
- Văn hóa được thấm nhuần trong mỗi con người và trong cả cộng đồng
dân tộc.
25
Nó được truyền lại, tiếp nối,và phát huy qua các thế hệ người Việt Nam.Trong
công cuộc đổi mới, gắn liền với sự phát triển về kinh tế là sự xâm nhập của mọi nền
văn hóa trên thế giới.Nếu như công cuộc xây dựng văn hóa không được xem trọng ,
sức mạnh đề kháng của văn hóa bị yếu kém sẽ dẫn đến nền văn hóa bị mai một , tư
tưởng và phẩm chất của từng người dân sẽ bị biến đổi vì những tư tưởng không
lành .
- Văn hóa là một mặt hợp thành toàn bộ đời sống xã hội.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: “trong công cuộc kiến thiết nước
nhà có bốn vấn đề chú ý đến; cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội”. Vì thế, văn hóa không thể đứng ngoài “mà phải ở trong kinh tế và chính
trị” và ngược lại kinh tế, chính trị cũng nằm “trong văn hóa”. Tăng trưởng kinh tế
phải đi đôi với phát triển văn hóa và giải quyết những vấn đề xã hội; nếu chỉ coi
tăng trưởng kinh tế là mục tiêu duy nhất thì chẳng những môi trường văn hóa – xã
hội bị hủy hoại mà mục tiêu kinh tế cũng không đạt được.
- Văn hóa không thể tách rời với quốc gia dân tộc, văn hóa trước hết là

văn hóa của một dân tộc, nó mang tâm hồn, diện mạo dân tộc, đó
chính là bản sắc dân tộc của văn hóa.
Học tập văn hóa hiện đại của các nước phải phù hợp với điều kiện Việt Nam,
kết hợp với văn hóa Việt Nam tạo ra những giá trị mới đóng góp vào việc phát
triển văn hóa nhân loại. Ngày nay, toàn cầu hóa là một xu thế khách quan mà mọi
dân tộc, dù muốn hay không cũng đều chịu sự tác động của nó. Toàn cầu hóa đang
đưa lối sống của nhiều nước trên thế giới mà điên hình nhất là lối sống của các
nước Phương Tây vào nước ta. Lối sống ấy, tác động tích cực đến việc làm thay đổi
lối sống khép kín, cam chịu, phụ thuộc, ỷ lại vốn có của người Việt Nam sang một
lối sống cởi mở, năng động, tự lập, dám chịu trách nhiệm, phù hợp với xu thế thời
đại. Nhưng bên cạnh đó, trong lúc chúng ta miệt mài tiếp thu lối sống đó một cách
thiếu định hướng mà dẫn đến việc xa rời lối sống theo chuẩn mực đạo đức dân tộc.
Các công nghệ thông tin hiện đại đang truyền bá những lối sống sùng bái vật chất,
cá nhân, vị kỷ, thực dụng, đua đòi, ăn chơi xa hoa, lãng phí, sống trụy lạc, ưa dùng
bạo lực… Lối sống đó đang tác động mạnh mẽ đến một bộ phận nhân dân, trong đó
có cả tầng lớp cán bộ, đảng viên và nhất là lớp trẻ - những người đang xây và
những người sẽ xây dựng đất nước. Nhiều cán bộ đảng viên nịnh trên, mắng dưới,
đánh trống bỏ dùi, chỉ biết bo bo giữ lấy những lợi ích của mình, vơ vét cho đầy túi,
thỏa mãn cuộc sống cá nhân.

×