TRUNG TÂM HUẤN LUYỆN CHÓ NGHIỆP VỤ
BỘ CÔNG AN
GIÁO TRÌNH HUẤN LUYỆN CHÓ NGHIỆP VỤ
Người dịch: Nguyên Phái
Xuất bản lần thứ hai có hiệu chỉnh và bổ sung
Người biên soạn và hiệu đính: Bác sỹ thú y công huân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Xô Viết liên bang nga: V.N.Dubke
Nhà xuất bản "Doxav" Maxcơva 1972
LỜI GIỚI THIỆU
"Chó nghiệp vụ" là cuốn sách của nhiều tác giả đã tổng kết nhiều kinh nghiệm lâu năm
trong việc chăn nuôi, đào tạo, nuôi dưỡng, cho ăn và quản lý, bảo vệ chó nghiệp vụ, trong
việc dạy và huấn luyện chúng. Cuốn sách cũng đưa ra những lời khuyên và phương pháp
của việc dạy chó nghiệp vụ và phương pháp đào tạo những chuyên gia cho ngành nuôi
chó nghiệp vụ.
Khi biên soạn, các tác giả đã tính đến những yêu cầu của chương trình đào tạo các
chuyên gia lành nghề cho ngành nuôi chó nghiệp vụ. Sách này có thể sử dụng như một
giáo trình. Những người thích nuôi chó cũng sẽ tìm thấy nhiều điều bổ ích trong quyển
sách này.>>
Chương I
NGUỒN GỐC VÀ NGOẠI HÌNH CHÓ NGHIỆP VỤ
1. NGUỒN GÓC CỦA CHÓ
Người ta coi chó là con vật đáng tin cậy nhất, được người thuần dưỡng và nuôi thả ở nhà.
Sự kiện này diễn ra cách đây khoảng 30 - 40 ngàn năm về trước vào giữa thời kỳ đồ đá,
thời kỳ xuất hiện chế độ mẫu hệ.
Chúng ta không biết được chính xác nguồn gốc tổ tiên của chó ngày nay và vì vậy phải
đồng ý với ý kiến phần lớn của các nhà bác học đặt ra giả thiết rằng: chó và sói và chó
rừng trước kia là tổ tiên của các loài chó đang sống ngày nay. Qua các số liệu khảo cổ
học, dân tộc học và qua sự giống nhau về hình thái học, sinh vật học của chó với chó sói
và chó rừng, đã chứng minh giả thiết đó là đúng.
2. NGOẠI HÌNH CHUNG CỦA CHÓ
Thực tế chăn nuôi thú vật hàng nghìn năm đã chứng minh được rằng, giữa hình dáng bề
ngoài, cấu tạo bên trong, những đặc điểm sinh vật học của thú và sức sinh sản của chúng,
có sự phụ thuộc nhất định với nhau sự phân chia của khoa học động vật học, như về
ngoại hình về cấu tạo (thể tạng) của thú sẽ làm sáng tỏ thêm sự phụ thuộc lẫn nhau này.
Ngoại hình, nghiên cứu về hình dáng và cấu tạo bên ngoài của thú, xác định mối quan hệ
với nhau của hình dáng đó đối với các dấu hiệu sinh vật học và khả năng sử dụng được
của thú.
Sự hiểu biết về ngoại hình và cấu tạo, cho phép ta nhận được đặc tính của những con vật
khác nhau bằng cách đánh giá tương đối nhanh qua cách nhìn thông thường bằng mắt,
nghĩa là cho phép ta xác định ngay được giống, giới tính, màu lông, tuổi của con vật, tính
cân đối về hình dáng, dự đoán được loại hoạt động thần kinh cao nhất (tính khí) và đi đến
kết luận có giá trị kinh tế của con vật. Để có sự hiểu biết chính xác hơn nữa về chó, người
ta thường áp dụng cách đo sinh học đơn giản nhất.
Quan sát chó từ nhiều hướng khác nhau: phía trước, phía sau và hai bên sườn ở cự ly 3 -
4 m. Khi đó, chó phải đứng ở tư thế cân đối trên địa thế bằng phẳng và toàn thân dồn đều
lên các đầu chi. Đặt thước đo chiều cao và thước dây chia độ đến cm vào gần chó một
cách rất nhẹ nhàng để chó không có phản ứng tự vệ. Để xác định đặc tính vận động của
chó, người ta thường cho chó đi hoặc chạy vòng quanh. Khái niệm ngoại hình của chó là
toàn bộ cơ thể thống nhất của nó, song để cho tiện người ta thường quan sát ngoại hình
gồm bốn phần: ngoại hình của đầu, cổ, thân và các chi. Trong mỗi phần người ta lại chia
ra thành những mục (các phần của thân thể).
Ngoại hình của đầu: Xương sọ và xương hàm là phần chính của đầu. Đầu được chia
thành những phần sau đây: gáy cùng với bờm gáy, đỉnh đầu, tai, trán; ở phần mõm có:
mắt, sống mũi, đỉnh mũi, má, hàm trên và hàm dưới, môi, mồm và răng.
Về hình dáng: Đầu thường có hình tròn, hình nhọn (chóp), hình vuông và hình chữ nhật.
Mõm có thể là dóng mõm ngắn, mõm bình thường và mõm dài, nó tỷ lệ với chiều dài của
trán. Mõm có hình cắt khác nhau như: thẳng, hóp, hếch và mõm dáng chó giữ nhà.
Tai: hình dáng và chiều dài của tai rất khác nhau và phụ thuộc vào sự phát triển của sụn
vành tai. Phân loại tai ra thành tai đứng (tai chổng), tai chúc, tai cúp và còn có loại tai xẻ
(tai xẻ nhân tạo).
Mắt: biểu thị đặc tính theo màu sắc, hình dáng, khe mắt, chiều sâu và chiều rộng của mắt,
độ mỏng và độ khô của mí mắt.
Mõm và răng: Hình dáng của mồm phụ thuộc vào sự phát triển của hàm và môi. Mõm
của loại chó to có 42 răng ổn định. Trong số đó có 12 răng cửa, 4 răng nanh và 26 răng
hàm. Ở hàm dưới có răng hàm nhiều hơn ở hàm trên là 2 chiếc.
Theo tiêu chuẩn, hàm trên phải lớn hơn hàm dưới một chút, và phải hơi nhô ra phía trước
so với hàm dưới. Mức độ ngậm kín của hàm răng gọi là kiểu cắn khít răng, phụ thuộc vào
chiều dài của hàm.
Độ cắn khít răng có thể đạt đúng tiêu chuẩn hoặc không đúng tiêu chuẩn. Khi đó, cắn khít
răng đúng tiêu chuẩn (hay còn được gọi bằng cách khác là dạng lưỡi kéo), thì toàn bộ bề
mặt môi (ngoài) của các răng của hàm dưới nằm lọt phía trong bề mặt lưỡi (trong) của
răng cửa hàm trên.
Kiểu cắn khít răng không đúng tiêu chuẩn có thể được biểu thị trong cách cắn - khi rút
ngắn xương mặt của hàm trên hoặc trong cách cắn - khi hàm dưới chưa phát triển đầy đủ.
Nếu hàm trên rất ngắn có dạng kìm cắt, khi mà chiều dài của các hàm giống nhau và các
răng cửa gặp nhau trực tiếp bằng các bề mặt cắt, thì có thể là kiểu cắn khít của chó bu-tơ-
đô. Người ta thường xác định tuổi của chó theo số răng cửa. Nguyên tắc xác định được
dựa trên chu kỳ phát triển (mọc), thay và mòn bề mặt cắt của răng, nguyên tắc đó gọi là
tam diệp. Ở phần trước của mỗi hàm trên và hàm dưới có 6 răng cửa; 2 răng cửa ở giữa
gọi là răng móc, các răng cửa giữa nằm ở 2 phía bên phải và bên trái răng móc, và các
răng cửa ngoài cùng gọi là răng khóc.>>
Dựa vào răng, chỉ có thể theo dõi khá chính xác sự thay đổi tuổi của chó đến khi chó 6
tuổi.
Từ 6 tuổi trở lên, xác định tuổi của chó theo độ mòn của răng tương đối khó. Những hiện
tượng sau đây có thể chỉ là những dấu hiệu phụ chỉ tuổi của chó như: răng nanh mòn
nhiều, thân răng mòn hoàn toàn và răng biến thành màu vàng, xuất hiện lông bạc trên
đầu, trễ môi, mắt trũng và mờ đi. Tuổi trung bình của chó từ 12 - 14 tuổi. Giống chó nhỏ
sống lâu hơn giống chó to.
Môi. Môi khô, phác hoạ rõ mồm và môi ướt và xếp, thường có nếp nhăn ở 2 bên mép
(thường gọi là môi dầy).
Ngoại hình của cổ. Người ta coi cơ sở của cổ gồm có 7 đốt sống cổ. Chiều dài của cổ phụ
thuộc vào chiều dài của thân các đốt sống. Để xác định chiều dài của cổ, người ta so sánh
cổ với chiều dài của đầu. Cổ gồm có các phần sau đây: họng cổ, mang cổ và sống cổ. Do
uốn nếp và trề của da ở khu vực phía dưới hom dưới và do ở một phần ba phía dưới của
cổ gọi là "vếm cổ". Chó có cổ ngắn nhưng to, có nhiều nếp nhăn ở bờm, biểu hiện sự
sung sức của nó.
Góc nối cổ với mình gọi là khuỷu cổ. Khuỷu cổ có góc đẹp nhất là 45 độ. Nếu góc lớn
hơn hoặc nhỏ hơn sẽ tạo thành khuỷu cổ cao hơn hoặc thấp hơn.
Ngoại hình của mình: mình chó được chia ra thành những phần sau đây: bướu vai lưng,
cơ lưng, mông, đuôi và lồng ngực, bụng bẹn, ở chó đực là phần thịt thừa, ở chó cái là vú.
Bướu vai là phần mình được giới hạn ở phía trước là cổ, ở phía sau là lưng, ở hai bên là
bả vai. Cơ sở của bướu vai là 4 - 5 mấu có ngang của đốt sống ngực. Khi đánh giá bướu
vai, nên chú ý đến chiều cao, chiều rộng và chiều dài của nó. Bướu vai cao, rộng, tương
đối dài và có cơ bắp là tốt.
Lưng là phần mình giữa bướu vai và thắt lưng, bên phải và bên trái được giới hạn bằng
rẻo sườn của lồng ngực. Nó bao gồm khoảng 8 - 9 đốt sống lưng và những đoạn trên của
xương sườn. Lưng được đánh giá theo chiều rộng, chiều dài và hình dáng. Người ta
thường phân biệt lưng rộng với lưng hẹp, lưng dài với lưng ngắn, lưng võng với lưng gù,
lưng mềm với lưng cứng. Lưng thẳng, rộng, dài đều là lưng đẹp.
Eo lưng là phần mình bị giới hạn bởi lưng ở phía trước, bởi mông ở phía sau và ở hai bên
bởi vùng bẹn. Phần co lưng gồm 7 đốt sống của eo lưng có mấu thẳng đứng và nằm
ngang.
Đánh giá eo lưng cũng giống như đánh giá lưng, eo lưng võng, thường được gọi là "eo
xệ". Chó có eo lưng ngắn, rộng và hơi võng lên là eo lưng đẹp.
Mông là phần mình bị giới hạn ở phía trước bởi eo lưng, ở phía sau bởi đuôi và hai bên
bởi đùi. Xương chậu và xương cùng nằm ở phần mông. Khi đánh giá mông, cần chú ý
đến chiều rộng, chiều dài, độ tròn và đường chóp của nó. Mông thường có các dạng như
sau: rộng, hẹp, dài, ngắn, phẳng, tròn, thẳng, xệ, hếch và "mông treo". Chó có loại mông
tương đối rộng (đặc biệt là chó cái, dài, tròn và hơi xệ là loại chó tốt.
Đuôi gồm 20 - 22 đốt sống đuôi. Xét theo chiều dài thì đuôi có loại dài, loại ngắn và loại
ngắn nhân tạo. Chó có đuôi dài là khi đuôi của nó cụp xuống thì phần tận cùng của đuôi
thấp hơn khớp gối, còn nếu khi cụp xuống mà đuôi không đạt tới khớp gối là loại chó có
đuôi ngắn hoặc đuôi ngắn nhân tạo. Cắt ngắn đuôi và tai chó với chiều dài đã được tiêu
chuẩn công nhận đối với những giống chó quy định nào đó. Xét về mặt hình dáng, người
ta phân loại thành: đuôi thẳng, đuôi hình lưỡi câu, hình vành khuyên, hình thanh kiếm,
hình lưỡi liềm và hình xoắn ốc.
Ngực và lồng ngực: Phần phía trước của lồng ngực gọi là ngực. Lồng ngực bị giới hạn
bởi các bộ phận như sau: ở phía trên là bướu vai và lưng, ở phía dưới là xương ngực, ở
phía trước là khoảng trống giữa vai và chỗ bắt đầu cổ họng nối với mình, ở phía sau là
những xương sườn cụt. Ngực và lồng ngực được đánh giá theo chiều rộng, chiều dài,
chiều sâu, thể tích và hình dáng. Lồng ngực thường có dáng phẳng, ô van cụt, hình thùng
(ống). Đối với tất cả các giống chó cần phải có lồng ngực rộng, tương đối sâu và dài.
Chiều rộng của ngực được đo ở phía trước, giữa các khớp vai, chiều sâu được đo theo
đường thẳng đứng (đường dây dọi) ngay phía sau của hai chân trước, tính từ bướu vai
xuống đến xương ngực, đo vòng ngực bằng thước dây ngay sau chân trước (nách).
Bụng là phần có thành bụng mềm, đoạn từ xương sườn cụt đến xương chậu. Về hình
dáng, bụng thường phải thon đều, béo mỡ và xệ. Đối với tất cả các giống chó cần có dáng
bụng thon đều mới tốt.
Ngoại hình của chi. Chi được đánh giá theo dáng thế, vẻ, nở nang của hình dáng và độ
mở của các góc khớp.
Chi ngực (chi trước) gồm: xương bả vai, vai, khuỷu (cùi chỏ), cẳng chân, cổ chân, khớp
đốt bàn chân và bàn chân.
Tư thế đứng của chó được coi là đúng trong trường hợp nếu các chi được đặt thẳng đứng
lên mặt đất, song song với nhau và mở ra bằng chiều rộng của ngực. Bàn chân có hình
vòm, các ngón kín sát nhau và áp sát mặt đất. Các góc khớp mở như sau: khớp vai 90 -
1000, khớp khuỷu 120 - 1300. Các khớp phải rộng, có hõm lớn và sạch, không bị hỏng
(mất) những đường viền tự nhiên, sờ thấy rõ xương và gân, không bị bệnh.
Những hiện tượng khác thường hay gặp là: cò, khoèo, lệch, thọt chân; thu chân lại dưới
mình hoặc choãi chân ra phía trước, khô khớp, các loại bệnh khác về màng, xương, gân
và các túi chất nhầy.
Chi sau gồm đùi, gối, cẳng chân, khớp gối, xương bàn chân và bàn chân.
Khi nhìn từ phía sau, các chi sau phải song song với nhau, các chi trước khép lại và có
các góc của đốt khớp như sau: góc đùi khoảng 80 - 850, góc gối 125 - 1350, góc mở khớp
gối 125 - 1350.
Những yêu cầu khác cũng giống như đối với chân trước vậy.
Những hiện tượng như co khớp đùi, tư thế đứng rộng và hẹp, hình thùng (ống), hình lưỡi
kiếm, buông thõng và nhẽo chân (mềm chân ra) được coi là những khuyết tật và những
thiếu sót.>>
3. CẤU TẠO CỦA CHÓ
Giáo sư P.N.Cullesov và những người kế tục ông đã soạn thảo được hệ thống các kiểu
cấu tạo của chó và đã được áp dụng ở Liên Xô. Theo hệ thống này, người ta chia tất cả
các giống chó ra thành 5 kiểu cấu tạo chủ yếu:
Cấu tạo thô thiển: Được biểu thị bằng kiểu: đầu hình khối, ngắn, rộng và cổ ít cử động,
bộ xương nổi rõ và nặng, các chi hơi ngắn, hệ cơ nặng nề (ục ịch), da dầy, ít cử động,
lông cứng.
Kiểu cấu tạo thô thiển là bản chất vốn có của chó, giống chó sống lâu, có sức sống và
thích nghi tốt với mọi điều kiện nuôi dưỡng khác nhau, loại hoạt động thần kinh cao nhất
khoẻ, trầm tĩnh nhưng ít linh hoạt (cơ động). Phần lớn chó béc giê cáp-caz và trung Á
thuộc loại cấu tạo này.
Cấu tạo mảnh mai: Được biểu thị bằng những tính chất ngược lại với kiểu cấu tạo thô
thiển. Đầu nhẹ nhõm, duyên dáng, cổ nhỏ và hay cử động luôn. Bộ xương mình và các
chi mảnh mai. Da mỏng, dễ căng và đàn hồi tốt, lông mềm mại, hầu như không có lông
mao dưới. Hệ cơ bắp phát triển kém. Kiểu cấu tạo này phần lớn ở giống chó hay chết non
(ít thọ). Loại hoạt động thần kinh cao nhất yếu, không điềm tĩnh, không linh hoạt. Sức
sống và khả năng thích nghi với điều kiện sống hay thay đổi. Phần lớn giống chó lùn và
chó giữ nhà có kiểu cấu tạo này.
Cấu tạo cường tráng: Được biểu thị bằng xương vững chắc, hệ cơ bắp phát triển tốt và có
đường nét nổi rõ rệt. Da mỏng, đàn hồi tốt. Không nên nhầm lẫn kiểu cấu tạo cường tráng
với kiểu cấu tạo thô thiển, vì con vật có dáng cấu tạo cường tráng thì sẽ không có những
biểu hiện thô thiển, đần độn. Loại hoạt động thần kinh cao nhất thường là khoẻ, điềm tĩnh
và linh hoạt. Phần lớn chó béc giê Đông Âu thuộc loại cấu tạo này.
Cấu tạo gầy còm: Bộ xương phát triển ít nhưng chắc, hệ cơ bắp gầy gò, không có các lớp
mỡ dễ nhận thấy được qua lớp da, gân nổi rõ, đầu tương đối nhỏ, cổ cử động tốt, vận
động nhanh nhẹn. Chó có cấu tạo kiểu này có sức sống tốt, chịu đựng được với những
thay đổi hoàn cảnh một cách dễ dàng. Loại hoạt động thần kinh cao cấp khoẻ, cơ động,
nhưng thường không điềm tĩnh. Phần lớn giống chó berman-pincherov và lai-ca thuộc
kiểu cấu tạo này.
Cấu tạo yếu ớt: Được biểu hiện bằng sự phát triển mạnh hệ tế bào dưới da và mô mỡ có
đọng các lớp mỡ không chỉ ở dưới da mà còn ở giữa những cơ, hệ cơ và gân không nổi.
Da uốn nếp, cổ thường hay chúi xuống và có yếm. Bụng xệ, vận động uể oải. Sức sống
tương đối tốt. Loại hoạt động thần kinh cao cấp khoẻ, điềm tĩnh nhưng ít linh hoạt. Các
giống chó Xen-hernor nhi-u-pha-undlend thuộc loại cấu tạo này.
Các kiểu cấu tạo này, thực tế các yếu tố mảnh mai, gầy còm, thô thiển, cường tráng và
yếu ớt có thể được kết hợp với nhau ở mức độ khác nhau trong giới hạn của giống này và
giống khác.
Cấu tạo và ngoại hình chú ý đặc biệt khi chọn đôi để gây giống, để làm tăng thêm các đặc
điểm mong muốn và giảm bớt những đặc điểm không cần thiết ở các thế hệ sau.
4. ĐO CHÓ BẰNG PHƯƠNG PHÁP SINH HỌC
Như đã nói ở trên, người ta thêm vào phần đánh giá ngoại hình bằng mắt thường, bằng
cách đo sinh học. Khi so sánh các số đo của con vật theo tỷ số đã được xác định và biểu
thị các số đó bằng phần trăm, ta được các chỉ số của thể tạng (dáng, vóc).
Các số đo sau đây thường được áp dụng:
1. Chiều cao ở bướu vai (chiều cao của chó) được đo bằng thước đo chiều cao theo đường
dây dọi từ đất đến điểm cao nhất của bướu vai.
2. Chiều dài xiên của mình chó được đo bằng thước đo từ bờm ngoài của xương vai đến
giữa bờm mông của xương chậu.
3. Vòng rộng đốt khớp bàn chân, dọi bằng thước dây có vạch đến cm, đặt ở đoạn 1/3 phía
trên của khớp xương.
4. Chiều rộng của ngực đo ở phía trước, giữa hai vai.
5. Vòng ngực đo bằng thước dây theo chu vi phía sau của hai chân trước.
6. Chiều sâu của ngực được đo từ phần dưới của ngực đến phần trên của bướu vai; ở phía
sau của hai chân trước (phía sau nách).
7. Chiều dài của chân trước được đo theo phương thẳng đứng tính từ đất đến phần nhô ra
ở phía trên của khuỷu chân.
Sau khi có được kết quả đo, ta xác định các chỉ số.
Chỉ số kích thước hoặc chỉ số của độ dài: Chỉ số này biểu thị tỷ lệ phần trăm chiều dài
xiên của mình chó so với chiều cao tại bướu vai, và chỉ rõ chiều dài của chó lớn hơn hoặc
nhỏ hơn chiều cao là bao nhiêu, nghĩa là tỷ lệ với thân hình.
Chỉ số lượng xương: Tỷ lệ phần trăm của vòng khớp đốt bàn chân với chiều cao tại bướu
vai. Nó biểu thị độ phát triển của khớp đốt bàn chân so với chiều cao của chó, tỷ lệ càng
lớn thì khớp đốt bàn chân càng nhiều, chó có xương to hơn.
Chỉ số độ cao của chân: tỷ lệ phần trăm của chiều dài chân trước với chiều cao tại bướu
vai.
Góc của đốt các khớp được xác định bằng mắt thường hoặc bằng thước đo.
Khi so sánh các chỉ số với tiêu chuẩn ta có thể kết luận được thân hình (thể tạng) của chó
đúng hay không đúng.
5. MÀU LÔNG HOẶC SẮC THÁI CỦA CHÓ
Người ta gọi màu lông phổ biến nhất của chó là mầu lông hoặc sắc thái. Sắc thái có thể
từng đám hoặc liên tục. Trên mình chó có những vết lớn hoặc những đám lông khác màu
gọi là đốm, còn những chỗ cùng màu nhưng có màu sáng hơn gọi là khoang.
Tuỳ theo chiều dài của lông mà chó được chia ra thành giống chó có lông dài và giống
chó có lông ngắn; và theo mật độ của lông thì có giống chó lông dày và giống chó lông
thưa.
Giống, điều kiện khí hậu và điều kiện nuôi dưỡng có ảnh hưởng rất lớn đến độ dài và độ
dày của lông.
Màu lông xám hoặc sắc thái xám từng vùng là biểu hiện đặc tính rõ nhất đối với chó
Đông Âu. Nền xám chung của thân chó được hình thành là do chính màu lông không đều
như: chân lông xám, đoạn giữa lông đen và đầu lông trắng đen. Theo sắc thái, màu này
thường là màu xám đen và xám trắng. Sắc thái xám thường được gọi là lông chó sói.
Sắc thái rùa: gồm hai màu chủ yếu là lưng đen, giống như được phủ lớp lông ngựa và
những phần còn lại có màu sáng hơn. Chó Béc giê Đông Âu thường có màu xám.
Màu hung hung: màu lông hung hung có những sắc thái khác nhau gồm: từ màu hung
vàng, hung đen và hung sáng đến hung đỏ. Màu hung hung thường gặp cùng với các đốm
khoang ở vùng đầu, bẹn và những phần trên của các chi.
Ngoài những màu lông nói trên có những *** khác như: trắng, đen, màu lông hổ, màu
vàng nhạt.
6. GIỐNG CHÓ
Một nhóm lớn con vật có khả năng giữ lại và truyền lại theo di truyền những tính chất và
những đặc điểm đã có ở những thế hệ trước, gọi là giống.
Chó là một trong số những loài vật nuôi ở nhà, rất dễ thích nghi để hình thành và duy trì
những nhóm thuần chủng khác nhau. Điều đó có thể được giải thích bằng khả năng lai
giữa các nhóm giống được dễ dàng, thời gian phát triển trong bụng mẹ tương đối ngắn
(58 - 65 ngày), có khả năng sinh đẻ (có lứa đẻ đến 12 con), nó tỏ ra thuần tính khi được
huấn luyện.
Nếu gây giống đúng hướng thì chỉ trong một thời gian tương đối ngắn từ 15 - 20 năm cho
phép có được giống chó mới.
Tuỳ theo chất lượng công việc gây giống mà đôi khi có thể đánh giá được đúng một số
giống chó được sinh sản nhanh chóng, một số giống khác bị giảm đi và cuối cùng dẫn
đến diệt chủng hoàn toàn.
Ngày nay, người ta đã tính được có hơn 300 giống chó khác nhau.
Nói về giống thì rất phong phú, nhưng dựa theo công dụng của từng mục đích, thì có thể
phân loại chó thành ba nhóm chính là: chó nghiệp vụ, chó săn và chó cảnh. Giống chó lùn
và chó giữ nhà thuộc loại chó cảnh.
Chó phục vụ trong quân đội Xô Viết trong các đơn vị công an biên phòng, công an vũ
trang, trong ngành công an và trong các cơ quan dân sự, chủ yếu là dùng các giống chó
béc giê như: béc giê Đông Âu, béc giê Cáp-car, béc giê Trung Á và béc giê miền Nam
nước Nga. Ở miền bắc Liên Xô, người ta dùng các giống chó Lai-ca để vận chuyển và
cảnh giới. Chó nghiệp vụ giống của nước ngoài như đoóc-berman-Picherow, Prden-terer,
Bôcxêr gooc-ghi và Côli -ít được dùng.
Ở đây, chúng ta sẽ chỉ nêu đặc tính của một giống chó nghiệp vụ chủ yếu đó là chó béc
giê Đông Âu.
CHÓ BÉC GIÊ ĐÔNG ÂU>>
Giống chó này được nhiều người ưa thích nhờ có bản chất tự nhiên của nó và nó được sử
dụng trong tất cả các mục đích của ngành nuôi chó nghiệp vụ.
Xura Elbơ - kiện tướng của triển lãm thành phố Mát-cơ-va năm 1965 là con chó giành
phần thắng tại triển lãm tỉnh Mos-cơ-va năm 1964. Chủ nó là ông Nhe-u-nư-lov K.N.
Chó béc giê Đông Âu thường có dáng to, tai thính và mũi thính, không tin người lạ, phản
ứng tự vệ rất mạnh, dũng cảm khi đánh nhau tay đôi với người, dễ thích nghi với khí hậu,
dai sức khi làm việc, dễ nuôi và dễ chăm sóc, dễ bảo khi huấn luyện, kiềm chế tốt những
phản xạ có điều kiện đã thành thói quen.
Khi chọn chó để làm nghiệp vụ và để gây giống, phải đáp ứng được những yêu cầu của
tiêu chuẩn của toàn liên bang về giống chó này. Những yêu cầu đó gồm:
- Kiểu cấu tạo cơ thể: khoẻ và gầy khoẻ, có bộ xương phát triển tốt và hệ cơ chắc chắn,
da đàn hồi tốt, không có nếp nhăn, không bị chảy
- Chỉ số lượng xương đối với chó đực là 18 - 20, đối với chó cái là 27 - 19
- Chỉ số kích thước 110 - 112
- Chiều cao tại bướu vai đối với chó đực là 66-70cm, đối với chó cái là 62 - 66cm
- Kiểu giới tính: biểu hiện rõ giới tính của giới đó, chó đực to khoẻ, dũng cảm hơn chó
cái, có bướu vai rõ hơn, ngực rộng hơn, đầu lớn hơn theo tỷ lệ so với thân.
- Đặc điểm tính tình (tính nết): Loại hoạt động thần kinh cao cấp khoẻ, năng động, điềm
tĩnh, có phản ứng tự vệ tích cực.
- Lớp lông: lông dày, hơi cứng có chân lông phát triển tốt. Lông thẳng. Ở đầu tai và các
chi lông ngắn hơn, còn ở các bộ phận khác của cơ thể lông dài hơn.
Sắc thái: xám từng vùng, hung hung từng vùng màu lông ngựa, đen và đen có đám xám.
- Đầu có hình xuôn to và nở đều về phía sọ. Má có nhiều cơ, hơn tròn
- Trán phẳng từ phía bờm gáy xuống và phải có phần trước hơi lồi một chút. Toàn bộ
chiều dài được chia thành hai nửa có rãnh hơi rõ. Phần chuyển tiếp từ trán xuống mõm
thấy rõ nhưng đều dần.
- Mõm: song song với đường nối tiếp của trán, hình dáng nhọn, dưới có môi dính liền. Về
chiều dài thì ngắn hơn nửa chiều dài của đầu một chút. Cánh mũi to và đen.
- Tai: trị số trung bình, dựng đứng, dựng cao, vành tai nhọn, có hình tam giác cân, tai
hướng về phía trước và vểnh lên trên.
- Mắt màu đen, hình ô van, nằm nghiêng, mí mắt khô và dính sát.
- Răng to, trắng, nằm sát nhau. Các răng cửa được xếp thành một hàng, độ cắn khít của
răng giống hình lưỡi kéo
- Cổ cứng khoẻ, có cơ bắp gầy guộc, chiều dài gần bằng chiều dài của đầu. Cổ chúc dưới
một góc 40 - 450 theo tỷ số so với đường lưng.
- Ngực hình ô van, dài, rộng và sâu. Đường dưới của ngực không được cao hơn các
khuỷu
- Bụng thon đều
- Bướu vai phát triển tốt, nhô cao rõ hơn so với đường lưng
- Lưng chắc, thẳng rộng
- Eo lưng ngắn, rộng, vồng lên, chuyển tiếp đều dần sang phần mông
- Mông tròn, dài, rộng, nhiều cơ, thấp dần về phía chân đuôi
- Đuôi hình lưỡi kiếm, về chiều dài thì đốt cuối cùng phải xuống tới khớp gối hoặc quá
khớp gối một chút. Khi đứng yên, chó cúp đuôi xuống, còn khi được kích thích thì một
phần ba chiều dài của đuôi ở phía chân đuôi nằm trên cùng một đường thẳng với đường
lưng, hai phần ba còn lại uốn cong lên phía trên.
- Chi trước: vai có nhiều cơ bắp, các góc nổi rõ ràng. Góc của khớp vai trong giới hạn 90
- 1000. Cẳng chân trước thẳng, đứng thẳng và song song với nhau. Chiều dài của chân
trước tính đến cẳng phải lớn hơn nửa chiều cao của chó một chút. Điểm tính lại bướu vai
chỉ số của xương chân là 50 - 54.
- Khối đốt bàn chân dài, đàn hồi được, nằm hơi nghiêng (góc so với mặt đất khoảng 600).
(Khuyết chương II và chương III)
Chương IV
CHĂN NUÔI CHÓ
1. NHỮNG PHƯƠNG PHÁP CỦA VIỆC CHĂN NUÔI CHÓ
Nhiệm vụ cơ bản của công việc chọn giống trong ngành chăn nuôi chó nghiệp vụ, bao
gồm ở việc tăng số lượng gây giống để sử dụng trong nghiệp vụ, ở việc hoàn thiện hình
dáng bên ngoài của cơ thể và thể trạng, ở việc hoàn thiện sự hoạt động thần kinh cao cấp,
sức chịu đựng về thể lực bền bỉ, sự tinh tế của các cơ quan cảm giác và nhiều phẩm chất
thuộc về nghiệp vụ khác nữa của chó. Trên cơ sở của toàn bộ hệ thống của công việc
chọn giống theo hướng hoàn thiện các phẩm chất thuộc về nghiệp vụ của chó có 3 nhân
tố là: tuyển chọn có căn cứ, lựa chọn có mục đích rõ rệt và phương pháp chăn nuôi chó
đúng đắn. Bên cạnh đó, việc chăm sóc chu đáo những con chó cái đang nuôi con và đàn
chó con, việc nuôi dưỡng phẩm chất sau này và việc giáo dục chó con cũng rất quan
trọng. Chó béc giê Đông Âu là giống chó nghiệp vụ được sử dụng phổ biến hơn cả đối
với các mục đích nghiệp vụ khác nhau. Người ta cũng sử dụng cả các giống chó khác
nữa.
Để phục vụ việc cảnh giới và chăn nuôi, ở nhiều nơi, ngoài giống chó béc giê Đông Âu,
người ta còn sử dụng cả giống chó béc giê Cáp-car, chó béc giê thuộc vùng Trung Á, chó
béc giê thuộc miền lace w:st="on">Namlace> nước Nga… Để phục vụ việc kéo xe
trượt tuyết, người ta sử dụng giống chó Lai-ca vùng Đông Bắc.
Tất cả các giống chó nghiệp vụ khác với chó không thuần chủng (chó không nòi, chó
thường) ở sự biểu hiện một cách rõ ràng các nét đặc điểm về ngoại hình và các phẩm chất
thuộc về nghiệp vụ. Giữa con chó này với con chó khác cũng khác nhau một cách rõ nét
như vậy.
Những đặc điểm tích cực của nòi giống cần được duy trì và hoàn thiện bằng cách tuyển
lựa và chọn lọc nhân tạo một cách có hệ thống. Nếu như công việc đó không được thực
hiện và việc sinh sản của chó không có hệ thống, thì nòi giống sẽ mất đi những phẩm chất
tích cực và dẫn đến quá trình thoái hoá chúng. Do vậy, nhất thiết phải tiến hành công việc
chọn giống đều đặn đối với từng giống chó riêng biệt. Các câu lạc bộ ngành nuôi chó
nghiệp vụ thuộc Doxav và các trang trại chăn nuôi thuộc cơ quan nhà nước phải thực hiện
nhiệm vụ này.
Phương pháp chăn nuôi được hiểu như là một hệ thống có kế hoạch trong việc sinh sản
của chó có tính đến thuộc tính của giống chó này hay giống chó khác (đôi khi phải tính
đến cả hình dáng chó), để nhằm có được những con chó thuộc thế hệ tiếp theo mang
những phẩm chất nghiệp vụ có giá trị nhất.
Cần phân biệt các phương pháp sau đây trong việc chăn nuôi chó: chăn nuôi giống thuần
chủng, chăn nuôi loại phối giống và chăn nuôi loại lai giữa các loại.
Phương pháp cơ bản của việc chăn nuôi trong ngành chăn nuôi chó là chăn nuôi giống
thuần chủng, nghĩa là việc tuyển lựa và cho giao phối chỉ những con chó nào cùng một
giống nhất định. Những con chó sinh ra do sự phối giống như vậy thì gọi là chó thuộc
giống thuần chủng. Việc chăn nuôi giống thuần chủng được áp dụng trong nội địa của các
giống văn minh, hoặc giữa các giống địa phương (giống bản xứ) có các phẩm chất và các
đặc điểm có giá trị.
Việc chăn nuôi giống chó thuần chủng thực hiện nhiệm vụ duy trì và hoàn thiện các phẩm
chất thuộc về công việc và ngoại hình của chó, bằng cách sử dụng sự biến dị của chó
trong phạm vi của mỗi giống. Nếu thực hiện được việc duy trì và hoàn thiện các phẩm
chất tốt của chó, ta sẽ thu được thế hệ con cháu có thể có một dạng ngoại hình và có các
phẩm chất thuộc về công việc giống nhau, đó là những con chó sẽ làm thoả mãn nhất nhu
cầu của con người.
Thực tế cho thấy rằng, những động vật thuộc cùng một giống khác nhau không chỉ về
hình dạng mà còn khác nhau cả về đặc điểm di truyền khác nữa. Do đó, trong việc chăn
nuôi giống thuần chủng, thì việc chọn lọc đúng đắn những con chó để làm giống và lựa
chọn khéo léo các cặp chó sẽ cho giao phối với nhau trong điều kiện cải tiến liên tục về
chăn nuôi, về cách cho ăn, trong việc duy trì hệ thống luyện tập cho cả chó để làm giống
và chó con do chúng sinh ra, đóng vai trong vô cùng quan trọng. Cần phải hiểu một cách
sâu sắc và toàn diện giống pha và phải biết phát hiện những sai lệch tuy nhỏ nhưng rõ nét
vừa mới xuất hiện. Điều này rất có giá trị đối với việc chọn giống. Hơn thế nữa, giống
pha ở dạng thuần chủng càng bền vững thì nó càng ổn định, tính di truyền càng vững
chắc hơn và phẩm chất của giống càng hoàn thiện hơn.
Việc chăn nuôi giống thuần chủng được thực hiện trong thực tế bằng con đường chăn
nuôi không cùng huyết thống, chăn nuôi cùng huyết thống ở các cấp độ họ hàng khác
nhau và chăn nuôi theo dòng họ.
Trong thực tế, việc chăn nuôi không cùng huyết thống được thực hiện rộng rãi hơn cả.
Người ta chọn con chó cái và con chó đực không ở trong cùng một huyết thống và cho
chúng giao phối với nhau. Tính ưu việc của việc chọn lọc như vậy là ở chỗ nó cho ta khả
năng thu được thế hệ con cháu có sức sống mãnh liệt nhất và khoẻ mạnh nhất.
Nếu lựa chọn như vậy, khi thụ tinh, các tế bào mang giới tính đực và giới tính cái rất
khác nhau về đặc tính của nhiễm sắc thể sẽ phối hợp với nhau (đó là các tế bào khác nhau
về chất), do đó tính di truyền sẽ có được ở thế hệ con cháu nhiều nhất. Trong một cơ thể
như thế, các quá trình đồng hoá và dị hoá sẽ được thực hiện một cách tích cực. Sự phát
triển và sự trưởng thành diễn ra với cường độ lớn hơn. Đứng về mặt phẩm chất công việc
của mình, về mặt sức chịu đựng dẻo dai và mức sinh sản, thì một cơ thể như vậy, theo
quy tắc trội sẽ hơn hẳn so với bố mẹ chúng. Đây là những luận điểm sinh vật học có tính
chất cơ sở về mặt lý luận và các chuyên gia thực hành phải căn cứ vào các luận điểm này
mà tiến hành việc chăn nuôi động vật trong thực tiễn.
Chăn nuôi cùng huyết thống được hiểu như là một hệ thống giao phối giữa chó đực và
chó cái cùng trong một cấp độ họ hàng nhất định, để thu được một thế hệ con cháu mới
(ví dụ: chó đực là anh và chó cái là em, có đực là bố và chó cái là con, chó đực là anh họ
3 dời và chó cái là em…). Việc chăn nuôi cùng huyết thống là hình thức cực đoan của
việc lựa chọn trong cùng huyết thống.
Chăn nuôi cùng huyết thống cần áp dụng một cách cẩn thận và chỉ thực hiện để nhằm đạt
được những mục đích xác định hết sức nghiêm khắc. Chăn nuôi cùng huyết thống cho ta
khả năng thu nhận được thế hệ con cháu giống tổ tiên một cách nhanh nhất, và cũng
chính trong việc chăn nuôi cùng huyết thống, tổ tiên có thể truyền cho các thế hệ con
cháu sau nó nhiều đặc tính của mình. Song, việc chăn nuôi cùng huyết thống có những
đặc điểm tiêu cực nghiêm trọng và chính các đặc điểm tiêu cực này đã hạn chế việc ứng
dụng rộng rãi phương pháp chăn nuôi cùng huyết thống trong thực tế của ngành chăn
nuôi chó.
Cùng với việc củng cố nhanh chóng các phẩm chất hữu ích trong khi chăn nuôi cùng
huyết thống, thì các đặc điểm và các bản tính tiêu cực cũng nhanh chóng trở thành bền
vững, do đó nó làm giảm tính thiết thực ở thế hệ con cháu và làm xuất hiện các tính chất
thoái hoá. Ở chó, các đặc điểm tiêu cực như vậy xuất hiện đó là bộ xương yếu, sự lớn và
phát triển kém, thể trạng yếu, hệ thống thần kinh hoạt động kém, răng yếu và hệ thống
cắn khít bị hỏng, khả năng làm việc giảm sút rõ rệt và khả năng phòng bệnh cũng giảm
đi…
Còn có trường hợp do sự giao phối các con chó ở các lứa gần nhau trong cùng một huyết
thống mà sinh ra quái thai. Các con vật càng ở các lứa gần nhau mà cho giao phối với
nhau, mặc dù chúng được chăm sóc trong những điều kiện như nhau thì vẫn để lại những
hậu quả rất tai hại. Để tránh việc chăn nuôi cùng huyết thống không có hệ thống, cần dựa
vào các trại chăn nuôi và các câu lạc bộ của ngành chăn nuôi chó nghiệp vụ thuộc Doxav
bản thống kê chó để làm giống (đó là các phiếu ghi phổ hệ của chó, các phiếu kiểm kê, kế
hoạch giao phối …).
Hình thức chăn nuôi giống thuần chủng phức tạp nhất là hình thức chăn nuôi theo dòng
họ. Chăn nuôi theo dòng họ được hiểu như là một nhóm chó cùng huyết thống của một
loài thuần chủng, có chung một tổ tiên xuất sắc và chủng giống tổ tiên về thể trạng, về
ngoại hình và về các phẩm chất thuộc về công việc. Người ta chia ra thành dòng họ máu
mủ và dòng họ không máu mủ.
Dòng họ máu mủ là dòng họ gồm tất cả các thế hệ cháu sinh ra từ một cặp bố mẹ.
Dòng họ không máu mủ là dòng họ không phải bao gồm tất cả các thế hệ con cháu của
một tổ tiên xuất sắc, mà chỉ bao gồm những con chó giống tổ tiên về ngoại hình, có các
phẩm chất thuộc về nghiệp vụ tốt giống tổ tiên và có những đặc điểm di truyền của tổ tiên
hay trội hơn tổ tiên về mọi đặc tính. Những con chó xuất sắc dùng để làm giống sẽ thực
sự cải tạo được giống. Người ta gọi dòng họ hàng các tên riêng của chúng, những con chó
như vậy cần được sử dụng để cho giao phối.
Chăn nuôi theo các dòng họ nên áp dụng khi có mặt khá đầy đủ về mặt số lượng những
con chó có chất lượng cao.
Chăn nuôi chó thuần chủng là phương pháp cơ bản của việc chăn nuôi trong ngành chăn
nuôi chó nghiệp vụ, và việc chăn nuôi chó thuần chủng được thực hiện bằng con đường
cho giao phối những con chó không cùng huyết thống với nhau. Đôi khi cho phép sự giao
phối giữa các con chó cùng huyết thống với nhau. Trong việc chăn nuôi theo dòng họ,
cho phép sự giao phối của những con chó không cùng huyết thống với nhau ngay cả
trong những trường hợp riêng biệt, khi con chó giống cùng huyết thống đã bị chết và
người ta phải gây một con chó đầu đàn cùng huyết thống xuất sắc.
Ðề: Giáo trình huấn luyện chó - Bộ Công an
Bằng phương pháp chăn nuôi giống thuần chủng, giống sẽ tăng lên về số lượng và sẽ
được hoàn thiện bằng con đường chọn lọc và lựa chọn đúng đắn những con chó giống và
tạo ra những điều kiện chăn nuôi và tập luyện tốt.
Ngoài phương pháp đã nêu trên đây, trong ngành chăn nuôi chó người ta còn áp dụng
việc giao phối giữa con chó đực và con chó cái thuộc các giống khác nhau. Phương pháp
này được sử dụng hoàn toàn với mục đích tạo giống mới và cải tạo giống này nhờ giống
kia, đồng thời để thu được những con chó chỉ sử dụng trong công việc (những con chó
không phải để làm giống). Những con chó do những con chó đực và chó cái khác giống
giao phối với nhau và sinh ra chúng, được gọi là chó tạp chủng (con lai). Trong các trại
chăn nuôi và các câu lạc bộ của ngành chăn nuôi chó nghiệp vụ thuộc Doxav, việc cho
giao phối hỗn hợp giữa các giống với nhau cần áp dụng chỉ dưới sự kiểm tra của các
chuyên gia.
Việc giao phối giữa các con vật thuộc các giống khác nhau tức là sự lai giống hỗn hợp
giữa các giống cũng là một trong những phương pháp của việc chăn nuôi.
Trong ngành chăn nuôi chó, đối với việc lai giống người ta thường cho giao phối giữa
chó nhà với chó sói và với chó núi. Theo các tài liệu tham khảo, những thí nghiệm đã tiến
hành ở Liên Xô theo khuynh hướng này đã cho thấy rằng: khi tiến hành các thí nghiệm,
người ta đã thu được thế hệ con cháu có tầm vóc nhỏ bé và hèn nhát, không thích hợp để
sử dụng. Do đó việc lai giống trong ngành chăn nuôi chó tạm thời vẫn còn chưa thu được
ứng dụng thực tiễn.>>
2. CHỌN LỌC VÀ TUYỂN LỰA CHÓ CHO VIỆC CHĂN NUÔI
Việc lựa chọn đúng đắn phương pháp chăn nuôi này hay phương pháp chăn nuôi khác,
vẫn chưa thể dẫn đến kết quả mong muốn trong ngành chăn nuôi, bởi vì không phải mọi
con chó đều thích hợp cho mục đích chọn giống. Từ rất nhiều con chó của một giống xác
định, cần phải chọn ra những con chó giống tốt nhất để làm giống, đó là những con chó
đáp ứng được những yêu cầu xác định. Đồng thời, phải loại bỏ những con chó không
thích hợp, sau khi đã loại chúng ra khỏi việc sử dụng để làm giống. Phương sách này
được gọi là chọn lọc nhân tạo. Để chọn được giống chó cần phải đánh giá toàn diện,
nghĩa là đánh giá nó về mặt ngoại hình và thể trạng của chó, đánh giá các phẩm chất
nghiệp vụ của nó, đánh giá nguồn gốc của nó theo phiếu ghi phổ hệ (gia phả) và đánh giá
nó về mặt phẩm chất của thế hệ con cháu. Việc đánh giá toàn diện từng con chó riêng
biệt, chính là đã bắt đầu công việc chọn giống và đặt cơ sở cho việc loại bỏ những con
chó không thích hợp cho việc chăn nuôi. Trong việc này, cần phải tính đến những phẩm
chất cá thể của chó phát triển trên cơ sở di truyền trong những điều kiện cụ thể của môi
trường xung quanh, phụ thuộc vào việc nuôi dưỡng, việc chăm sóc, việc cho ăn và việc
tập luyện.
Khi đánh giá về ngoại hình, cũng như khi đánh giá những phẩm chất nghiệp vụ của chó,
cần phải biết rằng: không phải tất cả mọi đặc điểm của chó đều là di truyền, cần phải biết
phân biệt các phẩm chất di truyền với các phẩm chất không phải di truyền. Ví dụ, tầm
vóc nhỏ bé (kém phát triển) có thể là do di truyền, nhưng cũng có thể là kết quả của
những điều kiện chăn nuôi kém. Chó cũng có thể hèn nhát, đó là do kết quả của môi
trường tiếp xúc xấu đối với chúng (đánh chúng nhiều), cũng như có thể là do đặc điểm
bẩm sinh của hệ thần kinh (dạng yếu của hoạt động thần kinh cao cấp).
Nếu nuôi dưỡng và giáo dục chó đúng đắn, thì tất cả các đặc điểm di truyền của chúng sẽ
được bộc lộ và thể hiện. Do đó, căn cứ vào ngoại hình và những phẩm chất thuộc về
nghiệp vụ, có thể đánh giá được mọi cách khá cơ bản các phẩm chất được di truyền.
Ngược lại, nếu nuôi dưỡng và giáo dục chó trong những điều kiện kém, thì cũng căn cứ
vào ngoại hình và những phẩm chất thuộc về công việc, ta không thể đánh giá được các
phẩm chất được di truyền một cách hoàn hảo, bởi vì những phẩm chất đó không thể hiện
trong những điều kiện xấu.
Về mặt ngoại hình và thể trạng, cần phải chọn những con chó đáp ứng được những yêu
cầu chuẩn mực về giống, những yêu cầu chuẩn mực về sự phân bố cơ thể cân đối, vững
chắc và những yêu cầu chuẩn mực về sức chịu đựng dẻo dai, không có các tật xấu, nhưng
phải có thể trạng khô và rất khô. Đối với những con chó chọn làm giống thì phải đạt điểm
đánh giá như sau: về mặt ngoại hình, con chó đực không được thấp hơn mức "rất tốt",
con chó cái không được thấp hơn mức "tốt"; cùng với điều đó, những con chó được chọn
để chăn nuôi cần phải có những phẩm chất nghiệp vụ xuất sắc như: phải có sức chịu đựng
dẻo dai, có các quá trình thần kinh mạnh mẽ và bình tĩnh, thể hiện phản ứng hành vi
phòng thủ tích cực trội hẳn lên giữa các con chó khác để tranh cướp thức ăn và định
hướng, các cơ quan cảm giác phát triển tốt và rất nhạy cảm.
Việc đánh giá chó về mặt phẩm chất nghiệp vụ được thực hiện bằng con đường tiến hành
các cuộc thi đấu. Cần tiến hành chọn lọc cho việc chăn nuôi một cách hệ thống từ thế hệ
này đến thế hệ khác với sự cân nhắc những đặc tính tích cực xác định của các quá trình
thần kinh cao cáp phẩm chất nghiệp vụ của chó.
Điều chủ yếu trong khi đánh giá chó là sự đánh giá về phổ hệ và về phẩm chất của thế hệ
con cháu. Trên phiếu ghi phổ hệ của chó cần xác định nguồn gốc của chó (dòng dõi),
giống tốt, đặc điểm đầy đủ của các phẩm chất di truyền của chó, đặc biệt là trong phiếu
ghi phổ hệ có ghi tên riêng của những con chó nổi tiếng đã nhận được điểm đánh giá mức
xuất sắc ở trong các triển lãm và trong các cuộc thi đấu, những con chó tỏ ra là những
con giống tốt, có tên trong danh sách các con chó vô địch và các con chó chiến thắng …
thì rất tốt.
Sự có mặt của phổ hệ cho ta khả năng không cho phép các lần giao phối cùng huyết
thống. Ngoài ra, để đánh giá đúng đắn những con chó cái và chó đực đã được chọn lọc,
thì cần phải biết phẩm chất của thế hệ con cháu của chúng. Nhiệm vụ chủ yếu của việc
đánh giá các con chó giống căn cứ vào phẩm chất của thế hệ con cháu thể hiện ở chỗ: để
tìm được sự phối hợp tốt cho một con chó giống là chó đực đã được duyệt, thì cần phải
sắp xếp một tổ hợp các phẩm chất của nó với các phẩm chất của các con chó cái đã định
và rút ra kết luận; con chó đực và con chó cái đã được chọn phải ở chừng mực nào thì sẽ
sinh ra một thế hệ con cháu có những phẩm chất tốt, đồng thời chúng có thể truyền cho
thế hệ con cháu những đặc điểm di truyền của mình. Trong việc tuyển lựa người ta chi ra
thành: tuyển lựa cùng huyết thống, tuyển lựa khác huyết thống và tuyển lựa ngang bằng.
Trong việc tuyển lựa cùng huyết thống, mục đích đặt ra là phải củng cố những đặc điểm
thuộc về bản tính. Để đạt được mục đích này cần chọn những con chó đực và những con
chó cái giống nhau về các đặc điểm điển hình của chúng cho giao phối với nhau. Trong
việc tuyển lựa khác huyết thống, mục đích đặt ra là phải thay đổi đặc điểm này hay đặc
điểm khác của chó. Vì vậy, phải chọn những cặp chó có những đặc điểm khác nhau.
Trong việc tuyển lựa ngang bằng, mục đích đặt ra là phải dựa những đặc điểm chưa
chuẩn mực thành chuẩn mực. Ví dụ, nếu ở con chó cái có tư thế tứ chi bị hẹp thì chọn con
chó đực có tư thế tứ chi chuẩn mực cho giao phối với con chó cái này.
Khi tuyển lựa chó cần căn cứ vào nguyên tắc của kỹ thuật chăn nuôi là "tốt cộng tốt cho
ra tốt".
Từ luận điểm nêu trên cần phải thấy rằng: điều quan trọng không phải chỉ là chọn lọc chó
đực và chó cái có những phẩm chất xuất sắc, mà còn phải tiến hành tuyển lựa, nghĩa là
phải chọn những cặp chó giao phối sao cho đạt được mục đích là phải thu được thế hệ
con cháu có những phẩm chất tốt nhất.
Do vậy, việc tuyển lựa phải hướng đến mục đích và phải được tiến hành trên cơ sở của sự
đánh giá toàn diện về con chó đực và con chó cái về mặt ngoại hình và thể trạng, về
những phẩm chất nghiệp vụ, về nguồn gốc và về các phẩm chất của thế hệ con cháu.
Đối với việc sử dụng để làm giống, chỉ nên chọn những con chó chịu được tập luyện và
có những phẩm chất nghiệp vụ xuất sắc, tổ tiên của chúng ở các thế hệ cũng đã chịu được
sự tập luyện nhất định và cũng có những phẩm chất tốt trong khi sử dụng làm nghiệp vụ.
Cần phải thường xuyên quan sát, so sánh để thấy rằng: về mặt hình dáng bên ngoài và
một vài đặc tính bên trong, con chó con không những thừa hưởng của bố mẹ nó mà còn
thừa hưởng đặc điểm này từ các thế hệ tổ tiên xa xưa của nó. Phẩm chất của những con
chó đực cần được xem xét một cách nghiêm khắc, bởi vì từ chúng có thể sinh ra rất nhiều
thế hệ con cháu trong một thời gian ngắn. Không cho phép những lần giao phối ngẫu
nhiên bởi những lần giao phối ấy sẽ đưa lại hiệt hại lớn cho ngành nuôi chó nghiệp vụ.
Cùng với những phẩm chất này, cần phải xem xét tuổi của chó. Sự giao phối giữa các con
chó giống đã phát triển đầy đủ về mặt thể lực là sự giao phối đạt được mục đích thích hợp
nhất. Sự giao phối xảy ra ở các cặp chó trẻ vừa được chịn để sử dụng làm giống là ít
mong muốn nhất. Không nên để những con chó đã già giao phối với nhau, bởi vì thế hệ
con cháu của chúng sẽ rất yếu. Đúng như quy tắc không nên cho những con vật cùng
huyết thống giao phối với nhau.
Ðề: Giáo trình huấn luyện chó - Bộ Công an
Việc tuyển lựa được kết thúc bằng việc sắp đặt kế hoạch giao phối từng năm. Để công
việc chọn giống có kết quả thì không thể thiếu sự tính toán đặc biệt. Cần đưa ra sự tính
toán chung về chó giống và về việc thu nhận thế hệ đàn con của chúng, cần lập hội đồng
đánh giá toàn diện về chó con và chó đã trưởng thành với những thủ tục hồ sơ cần thiết.
Việc đánh giá chó một cách tổng hợp về ngoại hình, về thể trạng, về các phẩm chất
nghiệp vụ, về nguồn gốc và về phẩm chất của thế hệ con cháu gọi là sự đánh giá tổng
quan. Việc đánh giá này nhằm đạt được mục đích xác định có giá trị về chó đối với việc
nuôi chó. Sự đánh giá tổng quan được đảm bảo qua các thử thách và qua các cuộc thi đấu
đối với chó, được đảm bảo bởi sự đánh giá về ngoại hình và thể trạng (những con chó
nghiệp vụ có thể được đem đi triển lãm), bởi việc nghiên cứu các tài liệu về tác dụng của
việc chọn giống chó, bởi sự đánh giá về phẩm chất của thế hệ con cháu của chúng và bởi
sự đánh giá về nguồn gốc của chó theo các phiếu phổ hệ của chúng.
Những con chó đem ra để đánh giá tổng quan, toàn diện là những con chó được đánh giá
về mặt ngoại hình như sau: Chó đực không được thấp hơn mức "rất tốt", chó cái không
được thấp hơn mức "tốt".>>
3. SỰ PHÁT DỤC, ĐỘNG ĐỰC VÀ GIAO PHỐI
Khả năng sinh sản của chó xuất hiện ở con chó cái vào lúc nó được 7 đến 10 tháng tuổi, ở
con chó đực vào lúc nó được 12 - 16 tháng tuổi, song đôi khi có sớm hơn. Ở tuổi này,
trong cơ thể của con chó cái, tất cả các tế bào sinh dục đều đã trưởng thành và phát triển,
chúng được gọi là các tế bào trứng. Ở con chó đực, các tế bào mang giới tính đực đã
trưởng thành cũng được hình thành và chúng được gọi là tinh trùng. Thời kỳ này, trong
cuộc đời của động vật được gọi là thời kỳ phát dục. Ở tất cả các động vật trong thời kỳ
xuất hiện sự mong muốn được giao phối, nghĩa là hình thức đặc biệt của quan hệ được
thể hiện ở các phản xạ sinh dục.
Những con chó lớn lên trong những điều kiện kém thì phát triển chậm hơn, sự phát dục
của chúng cũng xuất hiện muộn hơn so với những con chó được nuôi dưỡng trong những
điều kiện tốt. Cũng cần phải xem xét những đặc điểm riêng biệt của cơ thể, xem xét
giống, xem xét điều kiện khí hậu ảnh hưởng đến thời kỳ phát dục.
Mặc dù ở chó đã xuất hiện khả năng sinh sản, song tầm vóc cũng như sự phát triển của cơ
thể về mặt thể lực nói chung là chưa phải đã chấm dứt ở thời kỳ này. Sự giao phối của
chó ở tuổi này chưa cần thiết, vì nếu giao phối ở tuổi này thì sẽ dẫn đến sự kìm hãm về
tầm vóc cũng như về sự phát triển của cơ thể, hơn nữa những con chó con được sinh ra từ
những bố mẹ ở tuổi này sẽ yếu. Sự phát triển đầy đủ nói chung đối với chó là muộn hơn
rất nhiều, tức là khoảng từ 2 năm đến 2 năm rưỡi, điều này phụ thuộc ở giống và điều
kiện sống.
Do vậy, đối với lần giao phối đầu tiên của con chó cái cần phải ở 18 đến 20 tháng tuổi,
của con chó đực không sớm trước 2 năm tuổi. Thực tế ở con chó cái cần phải bỏ qua 2
lần động đực đầu tiên là hợp lý, chỉ nên cho giao phối khi xuất hiện lần động đực thứ ba.
Thời gian này sẽ trùng với thời kỳ bắt đầu sự trưởng thành của cơ thể nói chung của con
chó cái.
Hoạt động lấy giống ở con chó cái trung bình có thể kéo dài đến 8 năm tuổi, còn ở con
chó đực kéo dài đến 9 - 10 năm tuổi. Những con chó đực và chó cái sống thành cặp riêng
biệt còn có khả năng hoạt động sinh dụng ở tuổi già hơn, nhưng phẩm chất của thế hệ con
cháu có giảm sút.
Trong những điều kiện bình thường, chó đực có thể thụ tinh ở bất kỳ mùa nào trong năm,
bởi vì ở chúng các tế bào sinh dục (tinh trùng) thường xuyên được tạo ra. Ở con chó cái
thì trạng thái kích thích sinh dục xuất hiện theo chu kỳ và trùng với sự rụng trứng, tức là
những trứng đã trưởng thành và có khả năng thụ tinh. Thời kỳ này, ở con chó cái được
gọi là thời kỳ động đực. Sự động đực có thể xảy ra hai lần trong một năm, thường là vào
mùa đông - xuân và hè - thu, cứ 6 tháng sự động đực lại xảy ra. Thời gian động đực kéo
dài từ 9 - 14 ngày, đôi khi đến 25 ngày. Trong thời gian động đực, các môi sinh dục (âm
hộ) phồng lên và từ các cơ quan sinh dục của con chó cái máu chảy ra, 7 đến 12 ngày sau
máu thôi không chảy nữa và thay vào đó là một chất nhầy có màu sáng hơn chảy ra, kéo
dài thêm vài ngày nữa. Trong thời kỳ này từ ngày thứ 9 đến ngày thứ 12 có thể cho chó
cái giao phối.
Trong thời gian động đực, sinh hoạt của con chó cái có nhiều thay đổi: chó dễ bị kích
động, ăn kém, đôi khi mất cả sự cảm thụ của khứu giác, các phản xạ có điều kiện đã bền
vững cũng bị rối loạn đáng kể, các hiện tượng ức chế của phản xạ có điều kiện tăng lên.
Do vậy trong thời gian này, cần phải giải phóng con chó cái khỏi công việc và đến khi kết
thúc thời kỳ động đực thì nuôi nó tách ra khỏi những con chó khác.
Sự thải ra khỏi các cơ quan sinh dục máu và chất nhầy ở con chó cái trong thời kỳ động
đực gây ra mùi rất đặc biệt, chính mùi này đã thu hút và tăng thêm sự ham muốn sinh dục
ở con chó đực. Sự kích thích ở con chó đực mạnh đến nỗi nó làm việc tồi hẳn đi và luôn
từ chối không ăn gì cả.
Để thu được thế hệ con cháu có phẩm chất, nhất thiết phải chuẩn bị việc giao phối cho
con chó cái gây giống. Tức là phải cho chúng ăn tốt để chúng có thân hình béo khoẻ. Cần
nhớ rằng: sự gầy mòn, sự béo phì sẽ làm giảm tính tích cực trong quá trình sinh dục,
phẩm chất của lứa con, đúng như quy tắc, sẽ thấp đi và đôi khi còn làm mất đi khả năng
sinh đẻ.
Ngoài việc cho ăn, một điều kiện quan trọng giữ gìn sức khoẻ và kéo dài thời gian sử
dụng để gây giống của động vật là phải nuôi dưỡng tốt, chăm sóc tốt, phải cho chó đi dạo
hàng ngày (nếu không có công việc nặng nhọc). Muốn có được thế hệ con cháu tốt thì
những con chó được làm bố mẹ phải thật khoẻ.
Trong thời kỳ động đực, chó cái cần được giao phối ở nơi yên tĩnh, tốt nhất là vào thời
gian từ sáng đến lúc cho ăn, lúc mà chó hoàn toàn sảng khoái và tích cực. Cần phải xích
chó đực và chó cái lại. Chó cái luôn luôn sẵn sàng cho phép chó đực nhảy và sẵn sàng
tiếp nhận trạng thái tương tự từ chó đực (cho chó đực nhảy). Đôi khi những con chó cái
còn trẻ không giữ nổi bình tĩnh, chúng nhảy ra và nằm dưới con chó đực, cố cắn con chó
đực. Trong những trường hợp như thế, nên đeo cho con chó cái một chiếc rọ mõm và
dùng xích cổ giữ nó.
Bởi vì ở lần giao phối đầu tiên, sự thụ tinh có thể không đạt, phải cho con chó cái giao
phối lại lần thứ hai với chính con chó đực lần đầu nó đã giao phối sau 24 đến 48 tiếng.
Để cơ thể con chó cái không bị hao mòn và chất lượng đàn con của nó được tốt, thì chỉ
nên cho chó cái giao phối một năm một lần vào thời kỳ đông - xuân. Khi giao phối vào
mùa đông và đầu xuân thì đàn con nó sinh ra và sẽ lớn lên và phát triển vào mùa ấp áp,
đến mùa đông cơ thể chó con đã khoẻ mạnh. Không nên hao phí sức lực của con chó đực
bởi rất nhiều lần giao phối. Thích hợp nhất là một năm nên cho chó đực giao phối khoảng
8 đến 10 lần và giữa lần giao phối này với lần giao phối tiếp sau chó đực phải được nghỉ
ít nhất từ 7 đến 10 ngày.>>
Ðề: Giáo trình huấn luyện chó - Bộ Công an
4. NUÔI DƯỠNG VÀ CHO CHÓ CHỬA ĂN, CHĂN NUÔI CHÓ CON
Sau khi giao phối được một tháng, có thể sử dụng con chó cái vào việc tập luyện và các
công việc thuộc về nghiệp vụ giống như thời gian trước khi giao phối. Ở tháng đầu, thai
của con chó cái chưa rõ, chỉ từ tháng thứ hai trở đi thì mới xuất hiện các đặc điểm như:
trước hết là trọng lượng của con chó cái tăng lên rất nhanh, thân hình cũng to ra. Thời
gian mang thai của con chó cái kéo dài trung bình từ 62 - 63 ngày (cũng có thể trơng thời
gian từ 58 - 65 ngày).
Từ tháng thứ hai trở đi, phải thay đổi cách nuôi dưỡng chó cái, cụ thể là phải giải phóng
nó khỏi mọi công việc, nhưng lại phải cho nó đi dạo ít nhất 2 tiếng một ngày và chia làm
2 hoặc 3 lần, phải giữ cho nó tránh mọi sự chuyển động hoặc xoay mình mạnh mẽ.
Việc cho chó cái ăn đúng và đầy đủ có ý nghĩa rất lớn. Ở thời gian đầu mang thai, nên
cho chó cái ăn 3 lần 1 ngày, ở nửa thứ hai của thời kỳ mang thai cho chó ăn 4 lần 1 ngày,
mỗi suất ăn không quá nhiều và khoảng cách giữa các bữa ăn phải đều nhau. Con chó cái
đang có chửa phải thường xuyên được uống nước trong và mát, bởi vì nhu cầu về nước
tăng lên một cách rõ rệt trong mối tương quan với sự tăng cường quá trình trao đổi chất
và sự hình thành thai nhi. Phải nuôi chó cái có chửa trong nhà khô ráo, sạch sẽ và sáng
sủa. Đối với con chó cái đang có thai làm nhiệm vụ chăn gia súc, chẳng hạn chăn cừu, thì
cần phải làm cho nó cái lều hoặc hang để tránh nắng và tránh những lúc thời tiết xuấu.
Tốt nhất là phải làm cái chòi (lều) thật rộng rãi. Không được xích chó.>>
ĐẺ CON>>
Đến cuối tháng thứ hai, chó cái béo lên trong thấy. Sự tăng cân càng thể hiện rõ ở những
ngày cuối cùng trước khi đẻ. Từ nửa tháng thứ hai của thời kỳ mang thai, các tuyến sữa
bắt đầu tăng lên về số lượng một cách rõ rệt. Trước khi đẻ từ 2 - 3 ngày, nếu bóp núm vú
của chó thì đã thấy sữa non chảy ra. Trước khi đẻ một ngày, chó kém ăn hẳn đi, thậm chí
chẳng ăn gì cả, nhiệt độ cơ thể của nó cũng giảm xuống từ 1 độ rưỡi đến 2 độ. Chó chuẩn
bị đẻ có thể nhận biết qua hành động của nó, tức là nó vơ vét rơm lại thành ổ, nằm vào
đó, sau đó nó thường đứng lên rồi nằm xuống, thở nặng nhọc và miệng rên rỉ thì bụng
chuyển dạ. Sau đó, cơn đau chuyển dạ trở nên thường xuyên hơn và chó đau đớn hơn thì
chất nhầy từ cơ quan sinh dục thoát ra rất nhiều. Khi cơn đau đẻ đạt đến mức căng thẳng
nhất thì từ sinh dục con chó cái xuất hiện cái đầu của con chó con, Sau đó là cả cơ thể của
chó con. Con chó nằm trong túi ối, sau đó chó mẹ dùng răng cắn rách túi ra. Đôi khi túi
có thể tự rách khi chó con đi qua các đường sinh sản.
Chó con vừa mới sinh ra vẫn được nối với mẹ bởi cuống nhau. Chó mẹ cắn đứt cuống
nhau này và nuối cùng với túi ối rồi sau đó liếm lông của chó con. Tiếp đó chó mẹ lại bắt
đầu chuyển dạ và đẻ ra con chó tiếp theo. Thông thường khoảng cách giữa các lần chuyển
dạ và đẻ là từ 20 phút đến 1 tiếng rưỡi hoặc 2 tiếng.
Trong lúc chó đẻ, không cần thiết phải vỗ về nó, nhưng lại rất cần phải quan sát, theo dõi
nó xem nó đẻ có đúng không. Thời gian đẻ của chó kéo dài thường là từ 8 đến 10 tiếng.
Điều này còn phụ thuộc vào cơ thể của chó mẹ, vào số lượng chó con và phụ thuộc vào
các lần đẻ diễn ra như thế nào theo tính toán. Thời gian của những lần đẻ đầu tiên thường
rất dài. Thời gian đẻ con bị kéo dài thường lại rơi vào những con chó ít vận động hoặc bị
nuôi dưỡng kém. Trong lúc chó đẻ phải đặt cạnh nó 1 liễn nước sạch (hoặc cái để đựng
nước nói chung). Nếu như trong trường hợp chó mẹ đau bụng chuyển dạ lâu mà vẫn chưa
đẻ được hoặc trong trường hợp sự sinh đẻ của chó diễn ra không đúng, thì cần nhanh
chóng gọi bác sỹ thú y đến để giúp chó đẻ.
Khi chó đẻ xong cần cho nó nghỉ và không được quấy rầy nó trong khoảng 6 đến 8 tiếng,
sau đó cho chó mẹ ăn cháo sữa loãng hoặc cháo lòng hầm nhừ. Chế độ ăn như vậy chỉ
kéo dài trong 1 ngày đêm. Những ngày sau, nếu chó mẹ khoẻ mạnh thì cho chó ăn 3 đến
4 lần một ngày với liều lượng lỏng lớn. Sau lần cho ăn thứ nhất cần thay đệm cho chó.
Trong thời gian từ 12 đến 18 ngày sau khi đẻ, từ các cơ quan sinh dục của chó mẹ thải ra
các chất có lẫn máu, sau đó các chất này trở thành màu sáng, lúc đầu nhiều, sau ít dần đi.
Đệm cho chó mẹ và chó con cần phải sạch sẽ và phải được thay hàng ngày.
Sau khi cai sữa cho chó con được 2 đến 3 tuần thì có thể sử dụng chó mẹ vào công việc
nghiệp vụ.>>
NUÔI DƯỠNG CHÓ CON>>
Việc nuôi dưỡng và giáo dục chó con phải được thực hiện theo một hệ thống cơ sở khoa
học nghiêm khắc và phải hướng tới mục đích. Nuôi dưỡng được 1 con chó nghiệp vụ tốt,
tức là ở nó người ta phát triển được các đặc điểm như: sức chịu đựng dẻo dai của cơ thể,
biết cảnh giác với người lạ, khứu giác và thính giác nhậy, hung dữ, theo đuổi đối tượng
đến cùng; người ta rèn luyện cho nó có các kỹ xảo vâng lời nói chung. Tất cả những đặc
điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc tập luyện chó sau này.
Để đảm bảo cho việc nuôi dưỡng chó con có chất lượng tốt, phải tiến hành một loạt các
biện pháp sau: đảm bảo tốt chế độ sinh hoạt (dạo chơi, nghỉ ngơi, vui chơi …), đảm bảo
việc cho ăn đủ chất đủ lượng, bảo đảm việc sử dụng các hiện tượng thiên nhiên sẵn có
một cách thích hợp và có hệ thống như: không khí, nước, ánh sáng, đảm bảo việc tập
luyện có giáo dục đối với chó con.
Tất cả các yếu tố trong việc nuôi dưỡng và giáo dục chó trên đây phải được áp dụng. Tuy
nhiên, điều đó còn phụ thuộc vào tuổi của chó con và những đặc điểm riêng biệt của nó,
trên cơ sở của thời gian biểu ngày đã được vạch ra từ trước và trên cơ sở của một hệ
thống khoa học cơ bản trong việc luyện tập giáo dục hàng ngày.
Cần nhớ rằng, việc nuôi dưỡng chó con được bắt đầu ngay từ khi chó con ra khỏi bụng
mẹ. Sức khoẻ và sự phát triển bình thường trong cơ thể chó con sẽ phụ thuộc vào việc
cho ăn đúng, vào việc chăm sóc và nuôi dưỡng chó mẹ khi đang có chửa.
Chó con ra đời, thân thể toàn vẹ và bị bao phủ bởi lớp lông ngắn, thích nghi rất ít với điều
kiện sống mới. Điều này đòi hỏi các chuyên gia phục vụ chó và những người thích nuôi
chó phải giành sự quan tâm để đảm bảo cuộc sống của chó con. Chó con sinh ra có 2 khe
mắt mở (mí mắt), không có răng, lỗ hở của khe tai đóng lại và chúng chuyển động rất khó
khăn (bò khó khăn). Hoạt động của chó con lúc này chủ yếu chỉ là hoạt động ăn theo bản
năng và nhờ vào sự hoạt động theo bản năng đó mà chó con tìm được vú mẹ và mút sữa.
Trong việc mút sữa của chó con chỉ có chó mẹ giúp đỡ được chúng mà thôi, đó cũng
chính là phản xạ của chó mẹ. Nếu chó mẹ ít phát triển bản năng làm mẹ thì đòi hỏi con
người phải chăm sóc chó con hết sức cẩn thận. Trước tiên, người có nhiệm vụ chăm sóc
chó phải đặt chó con trước núm vú của chó mẹ và theo dõi hành vi ăn của nó.
Sau khi chó con ra đời được 1 ngày, cần xem chúng phát triển có bình thường hay không,
đồng thời phải kiểm tra sự có mặt của các ngón chân bên (thừa). Thường thì đối với 1 con
chó cái chỉ đẻ không quá 4 đến 6 con, có cân nhắc đến khả năng cho sữa và tình trạng sức
khoẻ của chó mẹ.
Ở ngày thứ 3 và thứ 4 sau khi ra đời, đối với những con chó con thuộc giống béc giê ở
Đông Âu, người ta cắt đi những ngón chân bàn ở 2 chân sau. Ở tuổi này việc giải phẫu
như thế diễn ra nhẹ nhàng và vết thương mau lành. Ở ngày thứ 8 và thứ 10 sau khi ra đời,
phải cắt đi phần móng chân nhọn của 2 chân trước để chó con sẽ không làm rách vú và
núm vú của chó mẹ. Đến ngày thứ 20 lại phải cắt móng chân cho chó con lần thứ hai.
Xuất phát từ các yêu cầu về chuẩn mực giống đối với những con chó béc giê con vùng
Trung Á và vùng cápca và những con chó của giống chó nghiệp vụ lấy từ chó săn, người
ta đem cắt đuôi và tai của chúng đi. Việc này thường được tiến hành vào cuối tuần thứ
nhất kể từ khi chó con ra đời, riêng đối với chó nghiệp vụ lấy từ giống chó săn, người ta
cắt tai của chúng vào lúc chúng được 3 - 4 tháng tuổi.
Tạm thời chó con được nuôi bằng sữa mẹ. Chó mẹ rất chăm chỉ săn sóc đến mặt vệ sinh
sạch sẽ cho các con, nó liếm và thu dọn tất cả phân và nước tiểu của chó con.
Chăm sóc chó cái đang nuôi con là phải cho ăn đúng, giữ vệ sinh cho nó và cho nó luôn
được dạo mát. Phải nuôi chó mẹ và đàn chó con ở nơi sạch sẽ, khô ráo và sáng sủa. Phải
thay đệm (ổ) cho chúng hàng ngày. Nhà ở của chúng và các dụng cụ chăm sóc chúng
phải thường xuyên được sát trùng, ít nhất là mỗi tháng 1 lần. Khi chó mẹ đã hồi phục sức
khoẻ sau khi sinh đẻ thì phải tắm cho nó hàng ngày, trong trường hợp đầu vú và vú bị bẩn
thì phải tẩm bằng dung dịch thuốc tím (KMn04) ấm pha loãng hoặc bằng dung dịch a xít
boric, khăn tắm phải được giặt sạch sẽ và phơi khô.
Hàng ngày, cần phải cho chó mẹ đi dạo từ 2 - 3 lần. Ở những ngày đầu chỉ cho chó mẹ đi
dạo mỗi lần độ 5 - 10 phút, bởi vì nó sẽ rất nhớ con (ham con). Ở những lần đi dạo tiếp
theo thì tăng thời gian lên đến 30 - 50 phút. Khi chó con vừa mới bắt đầu đi được thì cho
chúng đi dạo cùng với chó mẹ.
Khi chăn nuôi và chăm sóc chó con, việc cho chúng ăn có một ý nghĩa rất to lớn. Các tiêu
chuẩn và các nguyên tắc cho ăn đối với chó mẹ và chó con đã được trình bày ở chương 3
của cuốn sách này.
Các đặc điểm về sự lớn bình thường và về sự phát triển của chó con được thể hiện như
sau: từ ngày thứ 5 đến ngày thứ 8 ở chó con khe tai mới mở ra, thính giác bắt đầu phát
triển. Từ ngày thứ 14 - 16 sau khi ra đời, thính giác của chó con trở lên bình thường. Từ
10 - 15 ngày sau khi ra đời, các khe mắt bắt đầu mở ra; từ 20 - 25 ngày sau khi đẻ chó
con bắt đầu mọc răng sữa (trong khoảng 8 - 10 ngày) thì mọc xong răng của răng nanh,
khi chó con đã được 2 tháng thì mọc xong răng hàm sữa. Nếu răng mọc chậm thì chứng
tỏ sự lớn và sự phát triển của chó con là kém.
Cùng với bằng chứng khách quan nêu trên, về tình trạng sức khoẻ chung của chó con và
sự lớn của chúng, có thể được đánh giá bằng cân nặng. Trong 10 ngày đầu kể từ khi ra
đời, chó con cần được cân hàng ngày, sau đó khi chó được gần 1 tháng tuổi thì cứ cách 1
ngày cân 1 lần, tiếp theo là cách 5 ngày thì cân 1 lần. Kết quả sau mỗi lần cân phải được
ghi ché p lại. Căn cứ vào bản ghi ché p này, ta có thể đánh giá được sự trưởng thành
của mỗi con chó con. Đúng như quy tắc, sau khi ra đời được 8 ngày (đến ngày thứ 9) thể
trọng của chó con tăng lên gấp đôi là đúng tiêu chuẩn; đến ngày thứ 18 thì thể trọng của
chó con tăng lên gấp 3,5 - 4 lần; đến ngày thứ 25 tăng gấp 5 - 6 lần; đến ngày thứ 30 thì
tăng gấp 6 - 7 lần và đến ngày thứ 45 thì tăng gấp 10 -11 lần. Được 1 tháng tuổi, chó béc
giê vùng Đông Âu cân nặng trung bình là 4kg, nhưng nếu cho ăn đầy đủ hoặc cho ăn sam
sớm thì một số chó con có thể cân nặng 5kg. Những con chó béc giê con cùng cápca đến
ngày thứ 30 sau khi ra đời, số cân trung bình đạt đết 4,5kg; chó con của giống chó Erdẹ-
erera (giống chó săn chuyên sống trong hang) nặng 3kg; chó con của giống chó
Doperman-puntrera (là loại chó nghiệp vụ lấy từ một giống chó săn) nặng 3,2kg; chó con
của giống chó Bu-lơ-đo (chó Đức, một giống chó rất khoẻ, lông ngắn, mõm không nhọn)
nặng 3,5kg.
Ðề: Giáo trình huấn luyện chó - Bộ Công an
Tứ chi của chó con tăng rất nhanh về chiều dài khi chúng được 4 tuần tuổi, còn tai thì bắt
đầu dỏng lên ở tuần tuổi thứ 7 (đối với chó béc giê con vùng Đông Âu).
Sự lớn và sự phát triển của chó có thể chia nhỏ ra làm một vài giai đoạn, ở mỗi giai đoạn
có tốc độ lớn khác nhau và có nhiều đặc điểm khác nhau.
Đối với chó con còn bú mẹ, theo số liệu của nhiều tác giả, thì tốc độ lớn nhanh. Trong
thời gian từ 2 - 6 tháng, độ dài của tứ chi chó con tăng lên từ 2,5 - 3 lần và thực tế cũng
cho thấy ở thời kỳ này sự phát triển của các xương ống ở tứ chi chó con cũng kết thúc,
đồng thời sự phát triển của lồng ngực ở mức độ lớn cũng diễn ra trước khi chó con được
6 tháng tuổi. Độ dày của phần khối đốt ngón chân đến chiều cao vây (bướu vai) thể hiện
độ dày của xương và cũng ổn định trong thời kỳ chó con được từ 4 - 6 tháng tuổi.
Như vậy là sức lớn mãnh liệt nhất của chó con chỉ diễn ra trước khi nó được 6 tháng tuổi.
Chiều cao vây từ khi chó được sinh ra cho đến lúc 4 tháng tăng từ 87,5 đến 108%, từ
tháng thứ 4 đến tháng thứ 6 tăng từ 3,5 - 7%, từ 6 tháng đến 8 tháng tuổi tăng từ 7,1 -
8,3%. Từ 6 tháng đến 10 - 12 tháng, sự lớn của chó - theo chỉ số chính - về cơ bản là
dừng lại, mặc dù quá trình phát triển và trưởng thành về ngoại hình của chó vẫn tiếp tục
kéo dài đến lúc chó được khoảng 2 hoặc 2 năm rưỡi.
Nắm được các quy luật cơ bản về sự lớn của chó, cần thiết phải cho chó ăn đúng, chế độ
nuôi dưỡng chó con trước 6 tháng tuổi là sự quyết định đối với việc chăn nuôi chó, nhằm
thu được đầy đủ các giá trị của chúng. Chó càng non thì tốc độ lớn càng nhanh, do vậy
việc cho chó con ăn đầy đủ về lượng và chất có một ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Nắm được tầm quan trọng của việc cho chó ăn và chế độ ăn đối với chó con, cần phải
luôn luôn theo dõi sự phát triển đúng đắn và sự lớn của chó con, từ đó mà có biện pháp
cải tiến việc cho ăn và chăm sóc chó con.>>
CHO CHÓ CON ĂN VÀ VIỆC CHĂM SÓC CHÚNG SAU KHI CAI SỮA MẸ>>
Việc cai sữa mẹ cho chó con được thực hiện khi chó con được từ 30 - 45 ngày tuổi.
Lượng sữa của chó mẹ ở thời gian này trở lên ít đi. Một số con chó mẹ còn trẻ mà ít sữa
thì phải thôi cho con bú sớm hơn nữa. Việc cai sữa mẹ cho chó con phải được tiến hành
dần dần trong vòng từ 5 - 6 ngày. Hai ngày đầu, ta tách chó mẹ xa đàn con khoảng vài
tiếng, tiếp theo ta tách chó mẹ xa đàn con nửa ngày và cuối cùng là cả ngày, chỉ cho chó
mẹ sống với đàn con vào buổi tối. Cho chó con ăn theo các giờ nhất định và cho chúng ăn
loại thức ăn mà chúng phải làm quen trong thời gian này. Sau khi cai sữa cho chó con thì
nuôi chúng thành các nhóm (theo lứa).
Việc nuôi dưỡng chó con sau khi chúng bị cai sữa là một việc đầy trách nhiệm, đòi hỏi
người chỉ đạo hay những người yêu thích việc nuôi chó phải hết sức quan tâm chăm sóc
và có tình yêu lớn lao đối với chó. Chăm sóc và cho chó con ăn phải được thực hiện một
cách nghiêm ngặt theo thời gian biểu hàng ngày và đã được vạch ra.
Trong mức độ lớn và phát triển của chó con, chế độ nuôi dưỡng chúng cần dần dần phải
gần với chế độ nuôi dưỡng những con hcó đã lớn. Vào những ngày thời tiết u ám, buổi tối
cho chó ngủ trong nhà sạch sẽ và khô ráo, còn cả ngày thì vẫn nuôi chúng trong chuồng
thú. Đặc biệt của việc nuôi dưỡng chó con là phải nhận định và xem xét thật cụ thể các
mùa trong năm và điều kiện khí hậu của địa phương.
Những con chó sau này sẽ làm nhiệm vụ chăm sóc gia súc thì người ta thường chăn nuôi
chúng cùng với đàn cừu hoặc cùng với đàn gia súc.
Ở các trại chăn nuôi thuộc cơ quan nhà nước, hoặc đối với những người thích nuôi chó
ở những trường hợp cá thể, nên thực hiện phương pháp chăn nuôi "lạnh" đối với chó non.
Bản chất của phương pháp này được thể hiện ở việc chăn nuôi chó thường xuyên trong
không khí tươi mát (trong chuồng thú). Khi thời tiết xấu (mưa…) phải nuôi chó con trong
nhà ở (buồng nhỏ). Từ tháng tuổi thứ 3, người ta chia chó con ra thành các nhóm nhỏ,
mỗi nhóm có từ 2 đến 3 con và cũng ở mỗi nhóm đó nên chọn những con chó tương
đương nhau về tình trạng thể lực. Các nhóm này được phân vào các chuồng thú đặc biệt,
riêng lẻ và rộng rãi. Từ tháng tuổi thứ 5 đến thứ 6, người ta nuôi chó con riêng ra từng
con một và đối với mỗi con có những dụng cụ chăm sóc và nuôi dưỡng riêng. Mỗi ngày
dọn chuồng sạch sẽ cho chó con hai lần và mỗi tháng tắm cho chúng ít nhất là 2 lần.
Hàng ngày cho chó con đi dạo vòng trong từ 3 đến 4 tiếng theo thời gian biểu của ngày,
đây là điều bắt buộc. Phải chú ý đặc biệt đến việc đảm bảo cho chó con ăn đầy đủ cả về
chất và lượng.
Để phòng ngừa các bệnh thuộc về dạ dày và ruột, đồng thời để cơ thể chó con phát triển
tốt nhất, nên cho chó con uống thuốc kháng sinh có lợi cho sức khỏe của chó con và uống
vào thời gian chó con được từ 2 tuần đến 3 tháng tuổi theo sự chỉ dẫn của bác sĩ thú y.
Cần phải thường xuyên tẩy giun sán cho chó con.
Thức ăn cho chó con phải tươi và phong phú về loại thức ăn. Nước uống dùng cho chó
con phải là nước sạch. Khi chó con được 3 tháng tuổi thì mỗi con chó phải có chậu ăn
riêng khi ăn.
Nếu cho chó con ăn không đủ chất (trong thành phần thức ăn thiếu phốt phát can xi
(CaPO) và vitamin D) thì chó con sẽ bị còi xương. Cần phải kiểm tra sự lớn và sự phát
triển của chó con, tuân thủ đồ thị đo lường (việc cân nặng cho chó cũng vậy): từ tháng
thứ nhất đến trước 2 tháng tuổi, cứ 5 ngày kiểm tra và cân nặng một lần; từ 2 tháng đến 6
tháng - 10 ngày kiểm tra và cân nặng 1 lần; sau đó cứ 1 tháng 1 lần kiểm tra và cân nặng.
Chỉ cần đo lường các phần cơ bản sau: chiều cao, độ dài ché o của thân mình, bề ngang
của lồng ngực và độ dày của khối đốt ngón chân.>>
-
5. VIỆC PHÁT TRIỂN THỂ LỰC VÀ VIỆC GIÁO DỤC CHÓ CON
Để đào tạo được những con chó nghiệp vụ tốt, ngoài việc cho ăn đầy đủ về lượng và chất
thì việc đảm bảo phát triển thể lực cho chó con và việc giáo dục chó con đúng đắn đóng
vai trò quan trọng. Các bài tập rèn luyện thể lực và các trò chơi ở các thời tiết khác nhau
phải phục vụ việc rèn luyện cơ thể của chó con, tạo điều kiện cho việc phát triển bộ
xương và các bắp cơ của chúng, đồng thời góp phần tăng cường hệ thần kinh và toàn bộ
cơ thể, tạo điều kiện cho việc phát triển thể lực và sức chịu đựng dẻo dai của cơ thể. Điều
này sẽ làm tăng thêm khả năng thích nghi với những điều kiện sống khác nhau của chó,
tạo điều kiện tốt trong việc uốn nắn cho chó khi tập luyện. Tất cả các phẩm chất trên rất
cần thiết đối với chó nghiệp vụ.
Trong quá trình nuôi dưỡng và phát triển về thể chất của chó con, cũng rất cần phải tập
luyện có hướng và theo một hệ thống nhất định những phản xạ có điều kiện theo ý muốn
(các thói quen), để trong tương lai các phản xạ đó sẽ làm đơn giản việc tập luyện và việc
ứng dụng trong nghiệp vụ, đồng thời ngăn chặn các phản ứng không mong muốn, ví dụ
như tính hèn nhát, sự sao nhãng đối với các kích thích khác nhau của môi trường xung
quanh ở mức độ cao
Điều này thể hiện ở bản chất giáo dục đối với chó con (bản chất của việc tập luyện cso
gíáo dục), đảm bảo các điều kiện để phát triển những bản năng có lợi, để phát triển một
loạt hành vi nhất định là điều rất quan trọng để đảm bảo khả năng của chó đối với việc
tập luyện và đối với việc sử dụng nghiệp vụ liên tục. Cần loại trừ các điều kiện dẫn tới
việc sinh ra những thói quen không tốt. Cải tạo những con chó đã lớn có các thói quen
xấu và không cần thiết rất khó, đôi khi không thể cải tạo được.
Việc giáo dục, xét về mặt bản chất của công việc, được bắt đầu ngay từ khi chó con mới
bắt đầu tự vận động được. Từ thu nhập được các kích thích về âm thanh và về thị giáo.
Việc giáo dục tiếp tục đến khi chó được 12 đến 18 tháng tuổi, nghĩa là trước khi chó được
đưa vào tập luyện.
Việc tổ chức giáo dục đúng đắn chó con, chỉ có thể được thực hiện dựa trên cơ sở của các
tài liệu khoa học mà các tài liệu khoa học đó đã thể hiện đặc tính của khả năng hoạt động
thần kinh cao cấp về mặt số lượng và chất lượng, những đặc điểm điển hình do mỗi thời
kỳ tuổi của cơ thể chó con.
Trên cơ sở của những công trình nghiên cứu của mình và trên cơ sở của việc đối chiếu
các tài liệu tham khảo, G.A.Abrasova chỉ ra tính liên tục sau đây về việc hình thành sự
phát triển riêng biệt của các quy luật hoạt động thần kinh cao cấp của chó từ khi sinh ra
đến tuổi trưởng thành.
Thời kỳ thứ nhất:: Gồm quãng thời gian từ ngày đầu tiên ra đời đến ngày thứ 18 hoặc
ngày thứ 20. Đặc điểm của thời kỳ này là các hành vi thích nghi của chó con thể hiện
ngày càng tốt nhờ một tổng thể các phản ứng phức tạp đối với các dấu hiệu của thiên
nhiên để tạo ra các phản xạ không điều kiện, đó là các dấu hiệu về xúc giác, các dấu hiệu
về cảm thụ bản thân và các dấu hiệu về nhiệt độ. Ở thời kỳ này cũng thể hiện cả sự phát
triển rất nhanh về khối lượng của não.
Thời gian chuyển tiếp từ thời kỳ thứ nhất sang thời kỳ thứ hai chỉ có 2 tuần. Đặc điểm
của giai đoạn chuyển tiếp là sự xuất hiện và việc củng cố các mối quan hệ giữa các phản
xạ có điều kiện mọi hệ thống phân tích. Các phản ứng có điều kiện đầu tiên đã được
chuyên môn hóa xuất hiện, khối lượng của não bộ tiếp tục tăng lên, quá trình phân biệt
các tế bào thần kinh vỏ não một cách tích cực cũng diễn ra.
Thời kỳ thứ hai: Gồm quãng thời gian từ 5 - 6 tuần tuổi đến 8 - 12 tuần tuổi. Thời kỳ này
có đặc điểm là các phản xạ có điều kiện hình thành với tốc độ nhanh, ở mức độ cao nhất
và cường độ mạnh nhất. Các phản xạ có tính chất vui chơi và liên tiếp xuất hiện với
cường độ lớn. Hệ thần kinh của chó con phản ứng nhạy nhất đối với các tác động (kích
thích) phản xạ có điều kiện tích cực và kích thích các phản xạ có điều kiện không tích
cực. Tính tích cực phát triển trong sự hoạt động của não và chủ yếu là ở vỏ não.
Thời kỳ thứ ba: Gồm quãng thời gian từ 3 - 6 tháng tuổi. Thời kỳ này diễn ra trên cơ sở
của sự giảm dần mức tăng tương đối của não bộ. Từ 6 tháng, sự phát triển của toàn bộ
não chấm dứt. Trong thời gian này, cường độ và mức độ của các phản xạ có điều kiện
giảm đi. Các chỉ số hoạt động của các phản xạ có điều kiện được thay đổi đáng kể. Đến
tháng tuổi thứ 3 diễn ra sự chuyên môn hóa tiếp theo của phản ứng thuộc về vận động có
điều kiện. Ở thời kỳ này hình thành các đặc điểm logic điển hình của hệ thống thần kinh.
Cùng với các động vật mà ở chúng có đặc điểm hoạt động thần kinh cao cấp ở các thời kỳ
sớm hơn, còn xuất hiện các động vật có đặc tính hoàn toàn mới. Ở những con vật này, ví
dụ xuất hiện phản xạ cảnh giới thụ động mà phản xạ này lại ít khi làm thay đổi hành vi
của động vật, đồng thời nó xác định tất cả các đặc tính sau này của hoạt động thần
kinh.>>
TẬP LUYỆN CÓ GIÁO DỤC>>
Khi vạch ra hệ thống các bài tập luyện có giáo dục cho chó con ở các lứa tuổi khác nhau,
cần được các tài liệu khoa học này hướng dẫn. Trong thời kỳ giáo dục chó con thì không
áp dụng các kích thích mạnh, lúc đó giống như khi tập luyện, người ta sử dụng chó con
dưới hình thức cưỡng bách và cấm đoán. Các biện pháp đánh đòn khi trừng phạt hoặc
chửi bới chúng là điều hoàn toàn cấm. Cần đối xử với chúng một cách dịu dàng và thận
trọng.
Điều vừa nói trên đặc biệt quan trọng khi đối xử với chó con khi chúng tỏ ra thụ động và
nhút nhát. Chỉ đối xử thô bạo với chúng để dọa chúng khi thấy việc dạy dỗ chúng sẽ
không có kết quả.
Khi dạy chó con, chỉ nên xem xét các đặc điểm về tuổi đối với những con chó nào mà
trong tương lai ta nhất định sẽ chọn chúng để làm nghiệp vụ. Việc tập luyện đối với chó
con để đạt được các kỹ năng (thói quen) mới không được kéo dài quá lâu trước bữa ăn.
Địa điểm để tập luyện phải quen thuộc đối với chó con và khi luyện tập tại các địa điểm
này không nên dùng các kích thích lạ quá mạnh đối với chúng. Địa điểm tập luyện cần
phải được thay đổi một cách có hệ thống.
Những con chó tích cực, có nghị lực dường như bất trị, lúc đầu rất khó giáo dục. Do vậy,
đòi hỏi người huấn luyện chó phải kiên trì để dẫn dắt chúng vào khuôn khổ của hoạt động
nhất định, nhưng sau này những con chó như vậy thường đạt được kết quả tốt trong công
việc. Huấn luyện viên hoặc những người yêu thích nuôi chó cần nghiên cứu cẩn thận các
đặc tính hành động của chó con mà từ đó lựa chọn các biện pháp và điều kiện để rèn
luyện các kỹ năng (thói quen) cần thiết cho chó. Một số khuyết tật trong hành động của
chó con đã mắc phải khi nuôi dưỡng và giáo dục ở nhà, sẽ ảnh hưởng tiêu cực đối với
hành vi và việc tập luyện nghiệp vụ xác định của chúng sau này.
Cần phải thường xuyên khống chế chặt chẽ, giữ vững chắc những thói quen riêng lẻ của
chó con, bởi chính những thói quen riêng lẻ đó sẽ chi phối hành vi của chúng và sẽ gây
phiền hà trong việc tập luyện chúng. Chẳng hạn, chúng ta gặp phải những con chó đã
quen với trò chơi có hiện vật, trò chơi đó ám ảnh chúng, thế là ở bất kỳ trong hoàn cảnh
nào chúng cũng muốn giữ chặt bất kỳ vật gì mà chúng gặp và giữ vật đó trong mồm.
Điều này ảnh hưởng rất xấu đến việc rèn luyện các thói quen cần thiết đối với chúng về
mặt nghiệp vụ. Kìm hãm những thói quen đã vững chắc mà chúng ta không mong muốn
ở những con chó đã trưởng thành, thì thường là không hoàn toàn đạt được mục đích.
Các bài tập luyện trong quá trình giáo dục cần phải được phân định sao cho không để xảy
ra những hậu quả xấu. Tất cả các bài tập luyện chỉ có thể trở thành tốt khi chúng được đặt
trong kỷ luật.
Một huấn luyện viên thường chỉ nên tập luyện không quá 4 đến 6 con chó. Giáo dục chó
con - đây là giai đoạn chuẩn bị phức tạp cho việc tập luyện cơ bản đối với một nghiệp vụ
xác định. Giai đoạn chuyển tiếp cần phải từ từ. Điều chủ yếu khi luyện tập một hệ thống
phức tạp các phản xạ có điều kiện như I.P.Paplốp đã chỉ ra, đó là sự tiệm tiến và tập dượt.
Trong việc giáo dục chó con, điều này phải được coi là nguyên tắc sinh lý học cơ bản.
Điều kiện bắt buộc để việc giáo dục chó con có kết quả là việc sử dụng ham muốn tự
nhiên của chúng để bắt chước những hành động của chó lớn, để thực hiện hành động này
hay hành động khác như: giữ đồ vật và trò chơi, tìm thức ăn "người nội trợ" Cần phải
ủng hộ tính tích cực tự nhiên của chó con. Cách tốt nhất để tỏ ra quan tâm và ủng hộ
chúng là cho chúng kẹo và cho vui chơi, bởi vì cơ thể đang phát triển của chó con đòi hỏi
những sự vận động rất đa dạng. Không nên bắt chó con tập luyện giống như đối với chó
đã lớn, bởi vì chó con không thể chịu đựng được lâu sự hoạt động căng thẳng và tập
trung, chúng rất chóng mệt và sẽ trở nên uể oải. Khi thôi nhận lệnh của huấn luyện viên
mà chó con bị rơi vào tình trạng mệt mỏi và uể oải thì vô hình chung, ta đã đưa lại điều
tai hại đối với việc giáo dục chúng.
Bài tập luyện đối với một thói quen này hay một thói quen khác cần phải được nhắc đi
nhắc lại khoảng 5 đến 8 lần 1 ngày (mỗi lần từ 5 - 7 phút), tùy thuộc vào các đặc tính
riêng của từng con chó và tùy thuộc vào đặc điểm của từng kỹ năng (thói quen) mà chó
phải tập luyện. Nếu chó con tập luyện ngày càng tồi đi do bị mệt mỏi, thì phải cho chúng
nghỉ ngơi trong thời gian khoảng từ 5 - 10 ngày. Sau khi nghỉ ngơi chó con sẽ nắm được
các thói quen mà ta đã tập cho chúng tốt hơn.
Trong thời gian tập luyện các thói quen, không được nhắc lại nhiều lần mệnh lệnh và lời
nói suông đối với chó con, bởi vì điều đó sẽ tập cho chó con thói quen phân biệt những
âm thanh do huấn luyện viên phát ra và điều này sẽ gây ra nhiều phiền hà trong việc tập
luyện các thói quen. Việc huấn luyện khắc nghiệt quá mức cũng sẽ không nâng cao chất
lượng công việc đối với chó con, mà ngược lại, chính điều đó lại làm giảm đi tính tích
cực và hạn chế những đặc tính bẩm sinh về hành vi của chúng.
Hành vi của chó con, đúng về mặt mức độ lớn và sự phát triển của chúng, thay đổi rất
nhanh. Giáo dục chó con - điều này có nghĩa là tạo điều kiện cho sự hình thành hàng loạt
các phản xạ và thói quen có điều kiện vững chắc đối với chúng. Đó là những phản xạ -
thói quen rất cần thiết trong nghiệp vụ bảo vệ biên giới, bảo vệ nhà ở, bảo vệ những mục
tiêu quan trọng và trong việc chăm sóc gia súc
Một con chó con còn nhỏ sau khi rơi vào hoàn cảnh mới, nó sẽ quen với các đồ vật, các
âm thanh từ tất cả môi trường xung quanh nó. Ví dụ, trong khi đang đi nó gặp phải nhiều
vật khác nhau và ở nó bắt đầu hình thành các phản xạ có điều kiện: làm thế nào phải vượt
qua các chướng ngại vật, nó sẽ đi vòng quanh các chướng vật và bò qua Sau đó nó
mạnh dạn di chuyển giữa các vật quen thuộc đối với nó. Đồng thời số lượng các phản xạ
có điều kiện tăng lên, nghĩa là kinh nghiệm về cuộc sống ngày càng nhiều hơn lên trong
nó.
Tuy nhiên, hoạt động thần kinh của chó con chưa thể nói là đã bền vững, tức là hoạt động
thần kinh của chúng vẫn có thể bị thay đổi dưới sự ảnh hưởng cùa các kích thích từ môi
trường bên ngoài. Tùy thuộc vào đặc điểm của các kích thước này mà những đặc tính
bẩm sinh của chó con cũng thay đổi về mặt này hay mặt khác, do vậy chó con có thể có
được những kỹ xảo - những thói quen (những phản xạ có điều kiện) tốt hay xấu.
Chỉ có khi nào biết được các đặc điểm của chó con và hàng ngày quan sát các hành vi của
chúng mới có thể tạo ra được hoàn cảnh thích hợp cho việc hình thành các phản xạ có
điều kiện cần thiết và ngăn chặn được các phản xạ không mong muốn. Nếu xem xét các
đặc điểm hành vi của từng con chó con ta có thể chọn lọc được các kích thích này hay các
kích thích khác nhằm kích thích chó con trả lời các kích thích đó theo ý muốn (phản xạ)
và ngăn chặn các phản xạ không theo ý muốn.Con người cần phải chiếm được sự tin cậy
và lòng trung thành của chó đối với mình. Nếu ta càng nhiều thời gian tiếp xúc với chó
con, đi dạo chơi, đùa vui với chúng, cho chúng ăn và tắm rửa cho chúng thì chúng càng
thân thiết, quyến luyến với ta và mối quan hệ giữa người và chó càng được tăng thêm.
Khi đối xử với chó con, cần phải điềm đạm, âu yếm và kiên nhẫn. Khi gặp điều không
may khiến tinh thần không sảng khoái thì không được tiếp xúc với chó con. Trong khi
giáo dục chó con, cần phải chấp hành trình tự sau: đầu tiên phải cho chúng làm quen với
những cái đơn giản, sau đó mới cho chúng làm quen với những điều kiện phức tạp hơn
của môi trường xung quanh và tận tình đến độ tuổi và những đặc điểm phản ứng lại của
chúng đối với tất cả những kích thích mà chúng gặp.>>
Quá trình giáo dục chó con và chó trẻ có tính đến các đặc điểm về độ tuổi, có thể chia ra
làm 3 thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất: Thời kỳ bú mẹ, trước khi cai sữa
Thời kỳ thứ hai: từ 1 đến 5 tháng tuổi cho đến 5 hoặc 6 tháng tuổi
Thời kỳ thứ ba: từ 5 đến 6 tháng tuổi cho đến 12 hoặc 18 tháng tuổi. Đây là thời kỳ giáo
dục cá thể đối với chó con và chó trẻ.
Ðề: Giáo trình huấn luyện chó - Bộ Công an
Thời kỳ thứ nhất: Theo số liệu của rất nhiều nhà nghiên cứu, thì qua nhiều lần phân tích,
họ đều kết luận rằng: các phản xạ và điều kiện của chó con bắt đầu được thể hiện từ ngày
thứ 20 đến 25 sau khi chúng ra đời.
Các phản xạ nguyên thủy về khứu giác, về thức ăn đã xuất hiện ngay từ những ngày đầu
tiên của cuộc đời chó con và các phản xạ này có bản chất điều kiện - không điều kiện.
Khi hình thành các phản xạ này có mặt tất cả các cơ quan phân tích như vị giác, vận
động, xúc giác, nhiệt độ và khứu giác. Nếu loại trừ khỏi tổ hợp này, chẳng hạn như kích
thích về vị giác thì các phản xạ thuộc về khứu giác sẽ được tạo thành chỉ ở ngày thứ 20
hoặc 22 sau khi chó con ra đời.
Nhiệm vụ chính của việc giáo dục chó con ở thời kỳ còn bú mẹ là cho chúng làm quen
với các kích thích khác nhau của môi trường xung quanh. Điều này được giảm nhẹ đi
bằng việc nuôi dưỡng chó con cùng với chó mẹ, bởi vì chó con sẽ bắt chước chó mẹ phản
ứng lại kích thích này hay kích thích khác. Cần tính đến một điều là các phản xạ bắt
chước ở chó con lại được thể hiện ở dạng tích cực nhất.
Dạo chơi - đây là một hình thức chủ yếu mà thông qua nó có thể làm cho chó con quen
với môi trường xung quanh và tập cho chúng quen phản ứng lại một cách bình tĩnh đối
với các kích thích khác nhau mà chúng gặp. Có thể tác động vào chó con rất nhiều loại
kích thích khác nhau như: kích thích thuộc về động vật, kích thích những mùi khác
nhau, các âm thanh khác nhau (ví dụ âm thanh do các phương tiện vận chuyển, âm thanh
do tiếng súng đưa lại ) hoặc là người lạ, rừng, gió, mưa, sấm, các chướng ngại vật
phải cho chó con làm quen với tất cả các kích thích và phải dạy cho chúng không sợ bất
kỳ kích thích nào nhưng lại thận trọng đối với các kích thích. Đối với điều này cần phải
chấp hành một trình tự xác định.
Khi cho chó bắt đầu làm quen với các kích thích, thì nên đặt chúng ở hoàn cảnh bình
thường rồi dần dần mới đặt chúng ở hoàn cảnh phức tạp hơn. Không nên dẫn chó từ trại
chăn nuôi đến ngay những nơi náo nhiệt, nơi đông người, ồn ào, còi inh ỏi, đầy các âm
thanh, các tiếng ầm ầm do xe cộ đi lại, sẽ làm cho chó con hoảng sợ. Nỗi sợ hãi đó sẽ còn
đọng lại ở chó con rất lâu và do vậy lần dạo chơi tiếp theo giống như thế sẽ làm cho chó
con trở lên hèn nhát. Làm cho chó con sợ thì dễ, nhưng làm tiêu tan đi những nỗi sợ ở
chúng thì rất khó.
Các cuộc dạo chơi có thể bắt đầu ngay từ khi chó con vừa mới biết tự mình chuyển động.
Lần đầu dẫn chó con đi dạo từ 2 - 3 lần 1 ngày, mỗi lần 15 phút (đi cả đàn) và để cho
chúng đi dạo cùng với chó mẹ ở nơi yên tĩnh trong trại chăn nuôi hoặc một địa điểm nào
đó gần trại. Khi đó cần phải tập cho chó con quen với các khẩu lệnh như "lại đây", "đi
dạo chơi". Thói quen chạy lại huấn luyện viên theo khẩu lệnh "lại đây" cần được rèn
luyện, ngay cả khi cho ăn. Trước khi giao cho chúng thức ăn cần vẫy gọi chó mẹ, và dĩ
nhiên cùng đi với chó mẹ là đàn chó con, lúc đầu ở khoảng cách gần (5-7m), sau đó tăng
độ xa của khoảng cách lên.
Trong thời gian đi dạo chơi, khi chó con và chó mẹ chạy ra xa, ở khoảng cách không lớn
lắm (5-7m), huấn luyện viên lại phát lệnh "lại đây" để vẫy gọi chó mẹ và cùng với chó
mẹ là cả đàn con sẽ chạy lại. Huấn luyện viên lúc đó âu yếm chúng và đồng thời phát
lệnh "tốt" và cho chúng một mẩu bánh, sau đó cùng chơi đùa với chúng. Ở mỗi lần dạo
chơi phát lệnh "đi dạo đi" từ 3 -5 lần, các lần cách nhau từ 5-10 phút, sau đó phát lệnh
"lại đây". Nếu cho chó con chạy lại không được tích cực thì ta cần chạy xa chúng ra hơn
nữa khi chúng vừa mới chạy gần đến ta, bởi vì để chạy được đến chủ sớm hơn thì chó
con sẽ cùng với chó mẹ chạy nhanh hơn và sôi nổi hơn. Nếu hàng ngày ôn lại các bài
luyện tập phản xạ như vậy đối với khẩu lệnh "lại đây' thì phản xạ này sẽ được tự động
hóa và trở thành phản xạ liên tục ở chó con.
Thời kỳ thứ hai của việc giáo dục chó con được bắt đầu ngay sau khi cai sữa cho chúng.
Từng lứa chó con sẽ được nuôi dưỡng trong các chuồng thú đặc biệt có kích thước 6 x
6m. Chuồng thú được làm bằng lưới kim loại có độ cao từ 1,5 - 2m. Trong các chuồng
thú cần xây các chướng ngại vật không lớn lắm dưới dạng mương rãnh và hàng rào với
độ cao từ 10 - 15m, treo các miếng giẻ mềm để luyện khả năng nắm bắt. Dưới dạng đồ
chơi, trong chuồng thú phải có những chiếc xương to, các mẫu dày và hàng cao su
Cần xem xét các đặc điểm hành vi về độ tuổi của chó con. Theo các số liệu nghiên cứu
của L.N.Kaxlova, đối với chó con từ 2 - 3 tháng tuổi hầu như vắng mặt sự ức chế bên
ngoài, các phản xạ có điều kiện được hình thành cực nhanh, có thể nói là nhanh hơn so
với các thời kỳ khác. Khi chó con được 25 - 40 ngày, 42 - 50 ngày kể từ khi ra đời, cũng
như vậy khi chúng được 4 -5 tháng và 6-7 tháng thì sự ức chế bên ngoài tăng lên rất
nhiều và điều này có liên quan đến sự hình thành lâu dài, nhất là các phản xạ mới có điều
kiện. Các giao động cá thể phát triển cùng với sự hình thành các mối quan hệ có điều
kiện và sự ức chế bên ngoài ở các con chó khác nhau.
Công việc về chăn nuôi, giáo dục, tập luyện chó ngày càng phức tạp hơn. Nếu như cùng
với chó cái - mẹ chó con tỏ ra dũng cảm giữa các kích thích khác nhau, thì khi vắng mẹ
chúng trở lên thận trọng hơn. Do đó, trong 2 - 3 ngày đầu sống vắng mẹ, chỉ nên tác động
lên chó con các kích thích ít sức mạnh nhất. Ví dụ cho chó con đi dạo chơi gần trang trại
chăn nuôi thì cho chúng dạo ở những nơi có số lượng các kích thích quen thuộc với
chúng ít nhất.
Ở thời kỳ này, việc giáo dục vẫn tiếp tục diễn ra đồng thời phải làm tăng cường sự quyến
luyến của chó con đối với chủ và ý thức cảnh giác của chúng đối với người lạ mặt. Ở thời
kỳ này còn rèn luyện cho chó các thói quen như dũng cảm vận động tích cực, hung dữ có
chừng mực (có tính chất tấn công và giữ chặt giẻ và áo mềm ở phía trên của người lạ -
người phụ việc cho huấn luyện viên). Hơn nữa phải dạy cho chó quen với tên riêng, với
vòng cổ, với dây cương, với việc truy lùng và khay dụng cụ, rèn luyện cả thói quen khi
nhận lệnh "'về chỗ". Cần dạy cho chó quen với nước, với việc hơi lội và thận trọng rèn
luyện cho chúng thói quen kết thúc hành động khi có lệnh (thôi). Nên tập dượt cơ quan
phân tích khứu giác càng nhiều càng tốt.