Bộ giáo dục và đào tạo bộ t- pháp
Tr-ờng đại học luật hà Nội
TH DUNG
PHáP LUậT Về quyền QUảN Lý LAO ĐộNG
CủA NGƯờI Sử DụNG LAO ĐộNG ở VIệT NAM
Chuyờn ngnh : Lut Kinh t
Mó s : 62 38 01 07
LUN N TIN S LUT HC
Ngi hng dn khoa hc: 1. PGS.TS NGUYN HU CH
2. TS. TRN TH THY LM
H NI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các tài liệu, số liệu tham khảo, trích dẫn trình bày trong luận án
là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận án
Đỗ Thị Dung
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. BLLĐ Bộ luật lao động
2. ILO Tổ chức lao động quốc tế
3. NLĐ người lao động
4. NSDLĐ người sử dụng lao động
5. Nxb Nhà xuất bản
6. QLLĐ quản lý lao động
7. VCCI Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
8. XHCN xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
9
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài
9
1.2. Những vấn đề đã nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và một số
nhận xét, đánh giá
21
1.3. Những vấn đề cơ bản cần giải quyết trong luận án
26
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN QUẢN LÝ LAO
ĐỘNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN QUẢN LÝ LAO ĐỘNG
CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
30
2.1. Quyền quản lý lao động của người sử dụng lao động
30
2.2. Pháp luật về quyền quản lý lao động của người sử dụng lao động
45
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN
QUẢN LÝ LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
Ở VIỆT NAM
73
3.1. Thực trạng pháp luật về quyền thiết lập công cụ quản lý lao động của
người sử dụng lao động
73
3.2. Thực trạng pháp luật về quyền tổ chức, thực hiện quản lý lao động của
người sử dụng lao động
90
Chương 4: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN QUẢN LÝ LAO
ĐỘNG CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
128
4.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quyền quản lý lao động của
người sử dụng lao động
128
4.2. Đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định về quyền quản lý lao động
của người sử dụng lao động
135
KẾT LUẬN
150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
155
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản lý lao động là nhu cầu tất yếu khách quan của bất cứ nền sản xuất nào
trong xã hội có giai cấp. Bởi vì, để đạt được mục đích cuối cùng của quá trình sản
xuất, nhất thiết phải có chủ thể đứng ra chỉ đạo các hoạt động chung của con người
và hướng những hoạt động chung đó theo mục đích nhất định nhằm đạt được mục
tiêu đã đặt ra. Xã hội càng phát triển, trình độ phân công, tổ chức lao động càng cao
thì QLLĐ càng quan trọng.
Đối với quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường, ở tầm vĩ mô, quản lý
lao động là quyền của nhà nước, chủ sở hữu lớn nhất trong xã hội. Nhà nước có
quyền ban hành pháp luật, tổ chức thực hiện và xử lý các hành vi vi phạm của các
đơn vị, tổ chức, cá nhân khi tham gia quan hệ lao động. Ở tầm vi mô, trong các đơn
vị sử dụng lao động, nhà nước "chia sẻ" quyền lực này cho NSDLĐ trong khuôn
khổ quy định của pháp luật. Theo đó, NSDLĐ có quyền thực hiện những hoạt động
trực tiếp trong việc tổ chức, điều khiển NLĐ nhằm tạo ra trật tự, kỷ cương chung
trong đơn vị, từ đó góp phần tăng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động.
Trên thế giới, quyền QLLĐ của NSDLĐ ra đời từ rất sớm và luôn được pháp
luật lao động của hầu hết các quốc gia chú trọng. Bởi đó là cơ sở pháp lý cần thiết được
thiết lập dành cho chủ sử dụng lao động. Với quy định của pháp luật ngày càng hợp lý
cộng với trình độ QLLĐ ngày càng cao của chủ sử dụng lao động, đã tạo điều kiện
quan trọng để thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của nhiều tập đoàn kinh tế lớn cũng như
sự phát triển nhanh chóng, vượt bậc về kinh tế-xã hội của nhiều nước.
Ở Việt Nam, quyền QLLĐ của NSDLĐ được quy định trong pháp luật lao
động từ khi giành được chính quyền Tháng Tám năm 1945 đến nay. Qua nhiều lần
sửa đổi, bổ sung, pháp luật về quyền QLLĐ của NSDLĐ ngày càng hoàn thiện và
thể hiện rõ nét trong BLLĐ được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 3 thông qua ngày
18/6/2012, có hiệu lực từ ngày 1/5/2013.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển BLLĐ năm 1994 (sửa đổi, bổ sung năm
2002, 2006, 2007), BLLĐ năm 2012 tiếp tục thể chế đường lối đổi mới của Đảng và
cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về lao động, sử dụng lao động và QLLĐ
theo hướng ngày càng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường. Quan hệ lao động
đang thay đổi theo cách tiếp cận mới, từ sự hành chính hóa quan hệ lao động được
dần thay bằng dân sự hóa. Theo đó, quyền QLLĐ của NSDLĐ đã được mở rộng,
nhằm bảo đảm hơn quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của NSDLĐ trong hoạt động
2
sản xuất kinh doanh. NSDLĐ không chỉ có toàn quyền trong việc tuyển lao động,
bố trí công việc cho NLĐ, quyền ban hành các văn bản để tổ chức và điều hành lao
động, quyền kiểm tra, giám sát quá trình lao động của NLĐ, quyền khen thưởng, xử lý
kỷ luật lao động đối với NLĐ như trước đây, mà họ còn được quyền QLLĐ khi thuê lại
lao động của đơn vị khác hoặc cho đơn vị khác thuê lại lao động của mình, quyền cho
NLĐ thôi việc vì lý do kinh tế. Các quyền QLLĐ này của NSDLĐ có ý nghĩa rất lớn,
quyết định sự thành công trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị sử dụng
lao động. Thực hiện tốt quyền QLLĐ là điều kiện quan trọng để NSDLĐ duy trì trật tự,
nền nếp trong đơn vị, từ đó nâng cao hiệu quả, năng suất, chất lượng lao động, tăng sức
canh tranh và tạo được vị trí, uy tín vững mạnh trên thị trường.
Tuy nhiên, hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị sử dụng lao động ở
Việt Nam trong những năm gần đây đang phải đối mặt với thực tế rất khắc nghiệt, đó là
năng suất, hiệu quả lao động rất thấp, phát triển không vững mạnh, khả năng cạnh tranh
trên thị trường trong nước và thế giới không cao. Điều đó có thể xuất phát từ nhiều
nguyên nhân. Song phải thừa nhận một cách khách quan rằng, trong mối tương quan
với pháp luật khác, một số quy định của pháp luật về quyền QLLĐ của NSDLĐ chưa
thực sự phù hợp và thiếu tính khả thi. Nhà nước còn can thiệp sâu vào quan hệ lao
động, làm hạn chế phần nào quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của NSDLĐ trong quan
hệ lao động của nền kinh tế thị trường.
Ngoài ra, với tư cách là một bên của quan hệ lao động, có vai trò quan trọng
trong việc tạo ra của cải vật chất cho xã hội cũng như giải quyết việc làm cho NLĐ,
nhưng so với NLĐ, các quyền của NSDLĐ liên quan đến QLLĐ, vẫn chưa được
pháp luật lao động bảo đảm trên cơ sở công bằng, hai bên cùng có lợi.
Trong khi đó, một số quy định về quyền QLLĐ của NSDLĐ được đánh giá là
khá mở rộng và bảo đảm quyền tự quyết của NSDLĐ trong quá trình tuyển chọn, sử
dụng, chấm dứt việc sử dụng lao động thì thực tế NSDLĐ lại có xu hướng lạm
quyền. Tình trạng NSDLĐ phân biệt NLĐ về vùng miền, loại hình đào tạo đã xâm
phạm đến quyền và lợi ích của NLĐ, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Tình trạng
NSDLĐ điều chuyển NLĐ làm công việc khác, chấm dứt hợp đồng lao động, sa
thải NLĐ, trừ lương NLĐ một cách tùy tiện không tuân theo quy định của pháp
luật xảy ra khá phổ biến, làm ảnh hưởng đến thu nhập, việc làm của NLĐ và trật tự
xã hội chung.
Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, để thực hiện phương
châm đặt ra của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI là "mở rộng quan hệ hợp tác
3
với các nước, đẩy mạnh đầu tư nước ngoài", chính sách về lao động nói chung,
chính sách đối với các đơn vị sử dụng lao động nói riêng của nhà nước không
ngừng đổi mới theo xu hướng chung của thế giới. Đối với các đơn vị sử dụng lao
động, nhà nước không chỉ nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của NSDLĐ
mà còn bảo đảm cho NSDLĐ thực hiện quyền "QLLĐ đúng pháp luật, dân chủ,
công bằng, văn minh" (khoản 2 Điều 4 BLLĐ).
Từ những lý do đó, nên mặc dù BLLĐ mới được sửa đổi và có hiệu lực chưa lâu,
song việc nghiên cứu các vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng pháp luật về quyền QLLĐ
của NSDLĐ và đưa ra các đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về quyền
QLLĐ của NSDLĐ không bao giờ là sớm và luôn cần thiết trong khoa học pháp lý. Vì
thế, tôi chọn vấn đề: "Pháp luật về quyền quản lý lao động của người sử dụng lao
động ở Việt Nam" để làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ luật học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận án là nhằm nghiên cứu toàn diện, sâu sắc, có hệ thống một
số vấn đề lý luận về quyền QLLĐ của NSDLĐ. Trên cơ sở quan điểm về lý luận
được nghiên cứu, luận án tập trung phân tích thực trạng pháp luật về quyền QLLĐ
của NSDLĐ theo quy định của BLLĐ năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi
hành. Thông qua việc đánh giá những điểm bất cập của pháp luật hiện hành, luận án
đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định về quyền QLLĐ của NSDLĐ ở Việt Nam
theo hướng phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động trong bối cảnh hội
nhập sâu rộng với quốc tế và khu vực hiện nay.
Từ mục đích đặt ra như trên, luận án tập trung vào các nhiệm vụ chính sau đây:
Thứ nhất, tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Cụ
thể tiến hành hồi cứu, thu thập các tài liệu, công trình khoa học liên quan đến đề tài
luận án. Tìm hiểu và nhận xét, đánh giá, nêu quan điểm về những vấn đề đã được
các công trình nghiên cứu. Từ đó, khái quát các nội dung cơ bản chưa được các
công trình nghiên cứu đề cập tới để định hướng các vấn đề, nội dung sẽ được giải
quyết trong luận án.
Thứ hai, nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quyền QLLĐ của
NSDLĐ và pháp luật về quyền QLLĐ của NSDLĐ. Cụ thể là vấn đề về khái niệm,
bản chất, cơ sở xác định quyền QLLĐ của NSDLĐ; khái niệm, nội dung pháp luật,
vai trò của pháp luật về quyền QLLĐ của NSDLĐ. Những vấn đề lý luận này được
khái quát từ sự nghiên cứu các quy định của pháp luật lao động quốc tế và pháp luật
lao động quốc gia.
4
Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật và thực tiễn
áp dụng các quy định của pháp luật về quyền QLLĐ của NSDLĐ ở Việt Nam, rút ra
các nhận xét về những ưu điểm, những vấn đề còn tồn tại, bất cập trong các quy
định của pháp luật lao động hiện hành trên cơ sở so sánh với các quy định của pháp
luật lao động các giai đoạn trước đây, các quy định hiện hành của pháp luật có liên
quan đến quyền QLLĐ của NSDLĐ ở Việt Nam và pháp luật lao động quốc tế.
Thứ tư, luận giải về sự cần thiết và yêu cầu khách quan của việc hoàn thiện
pháp luật về quyền QLLĐ của NSDLĐ trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế hiện nay.
Thứ năm, đề xuất các ý kiến sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật lao động
hiện hành về quyền QLLĐ của NSDLĐ trên cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật đã
nghiên cứu, nhằm bảo đảm sự hoàn thiện và phù hợp hơn của pháp luật với thực tế
QLLĐ trong các đơn vị sử dụng lao động ở Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Quyền QLLĐ của NSDLĐ là đối tượng nghiên cứu của rất nhiều ngành khoa
học như: quản lý học, quản trị học, điều khiển học, kinh tế học, xã hội học, triết học,
luật học v.v Tuy nhiên, trong chuyên ngành đào tạo Luật kinh tế, luận án chỉ
nghiên cứu dưới góc độ luật học, trong phạm vi pháp luật lao động. Cụ thể, luận án
nghiên cứu quyền QLLĐ của chủ thể NSDLĐ được thực hiện trong đơn vị sử dụng
lao động theo quy định của BLLĐ năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Theo đó, nội dung pháp luật về quyền QLLĐ của NSDLĐ trong các đơn vị sử dụng
lao động bao gồm:
- Quyền thiết lập công cụ QLLĐ;
- Quyền tổ chức, thực hiện QLLĐ.
Để làm sâu sắc vấn đề nghiên cứu, tùy từng nội dung và yêu cầu đặt ra, luận
án tham khảo, so sánh, đối chiếu với các quy định của pháp luật lao động và pháp
luật có liên quan của Việt Nam, quy định của pháp luật quốc tế trong các công ước,
khuyến nghị của ILO và pháp luật lao động một số nước trên thế giới có liên quan
đến các nội dung nêu trên.
Luận án không nghiên cứu các vấn đề sau đây:
- Quyền QLLĐ của các chủ thể khác như quyền QLLĐ của nhà nước, quyền
QLLĐ của các tổ chức, đoàn thể trong đơn vị sử dụng lao động.
- Các biện pháp bảo đảm quyền QLLĐ của NSDLĐ. Bởi mặc dù nghiên cứu
dưới góc độ quyền-quyền chủ thể-NSDLĐ, song do vị thế của NSDLĐ trong quan
5
hệ lao động, nên trong quy định của pháp luật lao động, việc bảo đảm thực hiện
quyền QLLĐ của NSDLĐ được thể hiện bằng trách nhiệm mà chủ thể này phải thực
hiện đối với NLĐ và các thủ tục, giới hạn mà pháp luật quy định. Hơn nữa, nếu
NLĐ không tuân theo sự điều hành, QLLĐ của NSDLĐ thì họ phải chịu các trách
nhiệm do NSDLĐ áp dụng trên cơ sở pháp luật. Do mục đích nghiên cứu nên tùy
từng nội dung mà luận án đề cập đến trách nhiệm của NSDLĐ cũng như thủ tục,
giới hạn pháp lý khi phân tích quyền QLLĐ, không nghiên cứu riêng các biện pháp
bảo đảm quyền QLLĐ của NSDLĐ.
- Các quyền khác không phải quyền QLLĐ của NSDLĐ, như: quyền đối thoại
tại nơi làm việc, quyền thương lượng tập thể, quyền tham gia tổ chức đại diện,
quyền khiếu nại, tố cáo, quyền khởi kiện, quyền tham gia giải quyết tranh chấp lao
động, quyền yêu cầu giải quyết đình công…
- Các vấn đề khác có liên quan như: xử phạt vi phạm, giải quyết tranh chấp
trong lĩnh vực quyền QLLĐ của NSDLĐ.
Trong quá trình tìm hiểu đề tài để giới hạn phạm vi nghiên cứu luận án, chúng
tôi thấy rằng các vấn đề này rất quan trọng và cần thiết được nghiên cứu. Song do
nhiều lý do về dung lượng luận án, mục đích nghiên cứu của luận án nên chúng tôi
dự định sẽ nghiên cứu các vấn đề này trong công trình khoa học khác.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mac-
Lenin, bao gồm phép biện chứng duy vật và phương pháp luận duy vật lịch sử.
Theo đó, vấn đề pháp luật quyền QLLĐ của NSDLĐ được nghiên cứu luôn ở trạng
thái vận động và phát triển trong mối quan hệ không tách rời với các yếu tố chính
trị, kinh tế, xã hội. Trong quá trình nghiên cứu, luận án còn dựa trên cơ sở các quan
điểm, định hướng của Đảng và nhà nước về quan hệ lao động trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng để thực hiện luận án bao
gồm phương pháp hồi cứu các tài liệu, phân tích, chứng minh, so sánh, tổng hợp, dự
báo khoa học. Cụ thể:
- Phương pháp hồi cứu các tài liệu được sử dụng để tập hợp các tài liệu, công
trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài dựa trên các mốc thời gian, lĩnh vực
pháp luật cũng như hệ thống pháp luật nhằm lựa chọn, tập hợp một cách đầy đủ nhất
các tài liệu liên quan đến đề tài luận án ở các nguồn khác nhau. Phương pháp này được
sử dụng ngay sau khi định hướng chọn đề tài và xây dựng kế hoạch nghiên cứu đề tài,
6
đặc biệt được sử dụng để tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài và được kết hợp với các
phương pháp khác trong quá trình tìm hiểu các vấn đề lý luận cũng như thực trạng
pháp luật về quyền QLLĐ của NSDLĐ.
- Phương pháp phân tích được sử dụng ở tất cả các nội dung của luận án nhằm
để phân tách và tìm hiểu các vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật cũng như
thực tiễn thực hiện, các yêu cầu của việc hoàn thiện quy định của pháp luật cũng như
những đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật về quyền QLLĐ của
NSDLĐ theo mục đích và nhiệm vụ mà luận án đã đặt ra.
- Phương pháp so sánh được sử dụng ở hầu hết các nội dung của luận án
nhằm đối chiếu các quan điểm khác nhau giữa các nhà khoa học trong các công
trình nghiên cứu; giữa quy định của pháp luật lao động hiện hành với quy định của
pháp luật lao động các giai đoạn trước đây; giữa quy định của pháp luật lao động
hiện hành với pháp luật khác có liên quan đến quyền QLLĐ của NSDLĐ; giữa quy
định của pháp luật lao động Việt Nam với quy định của ILO và pháp luật lao động
các quốc gia trên thế giới.
- Phương pháp chứng minh được sử dụng ở hầu hết các nội dung luận án,
nhằm đưa ra các dẫn chứng (các quy định, tài liệu, số liệu, vụ việc thực tiễn ) làm
rõ các luận điểm, luận cứ trong các nội dung về lý luận ở chương 1, chương 2, các
nhận định trong các nội dung ở chương 3 và đặc biệt là các ý kiến, quan điểm về
sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật quyền QLLĐ của NSDLĐ trong chương 4
của luận án.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng chủ yếu trong việc rút ra những nhận
định, ý kiến đánh giá sau quá trình phân tích ở từng ý, từng tiểu mục, đặc biệt được
sử dụng để kết luận các chương và kết luận chung của luận án.
- Phương pháp dự báo khoa học được sử dụng nhằm đoán trước về những ý
kiến, nhận định, đề xuất có nhiều khả năng luận án sẽ đặt ra trên cơ sở những số liệu
tổng kết của Bộ Lao động, thương binh và xã hội, ILO hoặc cơ quan, tổ chức khác;
những ý kiến, nhận định, đánh giá của các nhà khoa học trong các công trình nghiên
cứu. Phương pháp này được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài và chủ
yếu được sử dụng trong quá trình phân tích những điểm hợp lý cũng như bất cập
trong các quy định, thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền QLLĐ của NSDLĐ ở
chương 3, trong việc đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền QLLĐ
của NSDLĐ trong chương 4 của luận án.
7
Việc cụ thể các phương pháp nghiên cứu này chỉ mang tính chất tương đối,
bởi trong quá trình triển khai, tùy từng vấn đề, nội dung trình bày, mà luận án luôn
kết hợp đan xen các phương pháp nghiên cứu với nhau nhằm đạt được mục đích,
nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Là công trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về pháp
luật quyền QLLĐ của NSDLĐ ở Việt Nam, luận án có những đóng góp mới chủ
yếu sau đây:
- Luận án đã làm mới hơn các khái niệm QLLĐ, quyền QLLĐ của NSDLĐ,
pháp luật quyền QLLĐ của NSDLĐ, đồng thời đã làm rõ thêm bản chất, cơ sở xác
định quyền QLLĐ của NSDLĐ, góp phần làm phong phú thêm về mặt học thuật
của khoa học luật lao động.
- Luận án đã khái quát các nội dung của pháp luật về quyền QLLĐ của
NSDLĐ và phân tích một cách có hệ thống các nội dung này trên cơ sở quy định
của ILO và pháp luật các nước trên thế giới. Qua đó, luận án đã lý giải vai trò của
pháp luật về quyền QLLĐ của NSDLĐ đối với cơ chế quản lý nhà nước trong lĩnh
vực lao động của nền kinh tế thị trường, đối với quá trình sản xuất kinh doanh của
NSDLĐ và việc làm, thu nhập của NLĐ.
- Luận án đã phân tích, đánh giá một cách tương đối đầy đủ và toàn diện về
thực trạng pháp luật quyền QLLĐ của NSDLĐ ở Việt Nam và việc áp dụng các quy
định này trong thực tiễn thông qua việc phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về
quyền thiết lập công cụ QLLĐ, quyền tổ chức thực hiện QLLĐ của NSDLĐ trong
các đơn vị sử dụng lao động, đặc biệt là quyền QLLĐ trong hoạt động cho thuê lại
lao động lần đầu tiên quy định trong pháp luật Việt Nam. Qua đó, luận án đã chỉ ra
những đòi hỏi từ lý luận và thực tiễn cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số quy định
về quyền QLLĐ của NSDLĐ như quyền ban hành nội quy lao động, ký hợp đồng
lao động, hợp đồng cho thuê lại lao động, quyền tuyển lao động, điều chuyển công
việc người lao động, xử lý kỷ luật lao động, chấm dứt sử dụng lao động, giải quyết
khiếu nại của NLĐ, tập thể lao động.
- Luận án đã luận giải về các yêu cầu hoàn thiện pháp luật quyền QLLĐ của
NSDLĐ ở Việt Nam theo hướng nhà nước cần mở rộng quyền QLLĐ của NSDLĐ,
đồng thời vẫn bảo đảm hài hòa lợi ích các bên (nhà nước, NSDLĐ, NLĐ) và phù
hợp với pháp luật quốc tế cũng như điều kiện nền kinh tế thị trường trong bối cảnh
hội nhập hiện nay ở Việt Nam.
8
- Luận án đã đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLLĐ năm 2012
về quyền QLLĐ của NSDLĐ nhằm hoàn thiện các quy định của BLLĐ để nâng cao
hiệu quả thực hiện quyền QLLĐ của NSDLĐ trong các đơn vị sử dụng lao động ở
Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Những kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm phong phú thêm hệ
thống lý luận cơ bản về quyền QLLĐ của NSDLĐ và pháp luật về quyền QLLĐ của
NSDLĐ trong khoa học luật lao động.
Luận án đặc biệt cần thiết đối với NSDLĐ trong việc nâng cao kiến thức
pháp luật nhằm hiểu đúng, hiểu hết quyền QLLĐ của mình, từ đó thực hiện QLLĐ
trong đơn vị sử dụng lao động đúng, linh hoạt và hiệu quả, tránh trường hợp hiểu
không đúng và/hoặc lạm quyền QLLĐ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của
chính mình, của NLĐ cũng như lợi ích chung của xã hội.
Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan, tổ chức trong quá trình
thực hiện và sửa đổi, bổ sung pháp luật lao động; cho các cơ sở nghiên cứu khoa
học, giảng dạy, học tập về pháp luật lao động; cho NLĐ và đối tượng khác có mong
muốn tìm hiểu về pháp luật lao động nói chung, pháp luật về quyền QLLĐ của
NSDLĐ nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã được công bố có
nội dung liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung luận
án được kết cấu gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài.
Chương 2: Một số vấn đề lý luận về quyền QLLĐ và pháp luật về quyền
QLLĐ của NSDLĐ.
Chương 3: Thực trạng pháp luật hiện hành về quyền QLLĐ của NSDLĐ ở
Việt Nam.
Chương 4: Hoàn thiện pháp luật về quyền QLLĐ của NSDLĐ ở Việt Nam.
9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Vấn đề QLLĐ, quyền QLLĐ của NSDLĐ và pháp luật quyền QLLĐ của
NSDLĐ đã được đề cập đến trong các giáo trình, sách tham khảo, một số đề tài
khoa học cấp cơ sở, luận án, luận văn, bài viết đăng trên các tạp chí và các báo cáo,
hội thảo khoa học Cụ thể:
1.1.1.1. Giáo trình
Có hai nhóm giáo trình đề cập đến vấn đề đề tài luận án. Đó là: Giáo trình quản trị
nhân lực và Giáo trình luật lao động.
Giáo trình quản trị nhân lực, do thuộc lĩnh vực khoa học về quản lý con
người nên trong nội dung giáo trình môn học quản trị nhân lực có đề cập đến các
quy định của pháp luật lao động, trong đó có pháp luật về quyền QLLĐ của
NSDLĐ. Các giáo trình ở nhóm này bao gồm: Giáo trình Quản trị nhân lực của
Trường Đại học Kinh tế quốc dân năm 2010, Giáo trình Quản trị nhân lực (tập I, II)
của Trường Đại học Lao động-Xã hội năm 2009, Giáo trình Quản trị nhân lực của
Trường Đại học Thương mại năm 2008… Trong các giáo trình này, vấn đề pháp
luật quyền QLLĐ của NSDLĐ được giới thiệu thông qua các nội dung về tuyển lao
động, hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, tiền thưởng, kỷ luật lao động…
Giáo trình luật lao động, các nội dung liên quan đến đề tài luận án được đề
cập khá rõ nét trong các giáo trình Luật lao động dành cho việc giảng dạy các hệ
đào tạo ở bậc đại học của một số cơ sở đào tạo luật. Đó là: Giáo trình Luật lao động
Việt Nam (Tái bản lần thứ 5) của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2012; Giáo
trình Luật lao động của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2011;
Giáo trình Luật lao động của Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội
năm 2011; Giáo trình Luật lao động của Trường Đại học Lao động-Xã hội năm
2009; Giáo trình Luật lao động Việt Nam của Viện Đại học Mở Hà Nội năm 2009;
Giáo trình Luật lao động Việt Nam của Trung tâm đào tạo từ xa, Đại học Huế năm
2006; Giáo trình Luật lao động Việt Nam của Khoa Luật, Trường Đại học Khoa học
xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 1999; Giáo trình Luật lao động
và An ninh xã hội (In lần thứ ba) của tác giả Nguyễn Quang Quýnh năm 1972…
Trong các giáo trình này, vấn đề liên quan đến đề tài luận án được trình bày
trong các chương: Hợp đồng lao động (Khế ước lao động); Thỏa ước lao động tập
10
thể (Cộng đồng hiệp ước); Kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất hoặc Quyền
QLLĐ của NSDLĐ (Xí nghiệp).
Ở chương Hợp đồng lao động, quyền QLLĐ của NSDLĐ được thể hiện trong
quá trình ký kết, thực hiện, thay đổi, tạm hoãn, chấm dứt hợp đồng lao động. Tương
tự, ở chương Thỏa ước lao động tập thể, các giáo trình đề cập đến các vấn đề lý
luận, thương lượng và ký kết thỏa ước, hiệu lực của thỏa ước lao động tập thể.
Thể hiện rõ nhất vấn đề liên quan đến đề tài luận án là chương Quyền QLLĐ
của NSDLĐ/Kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất/Xí nghiệp. Theo đó, ở chương
"Quyền QLLĐ của NSDLĐ" trong Giáo trình Luật lao động Việt Nam của Trường
Đại học Luật Hà Nội, lần đầu tiên các vấn đề lý luận về quyền QLLĐ của NSDLĐ
đã được nghiên cứu. Đó là các vấn đề về khái niệm, bản chất, cở sở quy định và nội
dung quyền QLLĐ của NSDLĐ. Từ vấn đề lý luận này, quyền QLLĐ của NSDLĐ
được phân tích trong ba nhóm quy định: quy định về kỷ luật lao động, quy định về
bồi thường thiệt hại vật chất và quy định về tạm đình chỉ công việc của NLĐ.
Ngoài ra, quyền QLLĐ của NSDLĐ được nêu rõ trong chương Xí nghiệp,
Giáo trình Luật lao động và An ninh xã hội của tác giả Nguyễn Quang Quýnh.
Trong chương này, ngoài nội dung khái quát về xí nghiệp và vấn đề đại diện nhân
viên trong xí nghiệp, thì vấn đề quyền hành của chủ xí nghiệp là nội dung cơ bản.
Theo đó, giáo trình nêu ra và phân tích sơ lược ba loại quyền của chủ xí nghiệp,
gồm: 1) Quyền điều khiển; 2) Quyền soạn thảo nội quy; 3) Quyền kỷ luật của chủ xí
nghiệp. Các nội dung này được phân tích trên cơ sở quy định của BLLĐ năm 1950
của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Còn lại phần lớn các giáo trình khác chủ yếu đề cập đến một trong các nội dung
cơ bản của quyền QLLĐ của NSDLĐ là quyền kỷ luật lao động và quyền được bồi
thường thiệt hại vật chất. Hầu hết các giáo trình không nghiên cứu các vấn đề lý luận
về quyền QLLĐ của NSDLĐ cũng như thể hiện các quan điểm riêng trong quá trình
phân tích quy định của pháp luật.
1.1.1.2. Sách tham khảo
Các vấn đề về quyền QLLĐ của NSDLĐ chưa được nghiên cứu trực tiếp
trong các sách tham khảo mà chỉ mới được đề cập một cách khiêm tốn khi các công
trình này tìm hiểu về quy định của BLLĐ nói chung hoặc nghiên cứu về chế định
hợp đồng lao động, cho thuê lại lao động. Cụ thể:
- "Tìm hiểu các quy định Bộ luật lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam" (1995) của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, Nxb
11
Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung của cuốn sách chủ yếu là giải thích và phân tích
một số chế định của BLLĐ ban hành năm 1994. Theo đó, vấn đề quyền tuyển dụng lao
động, quyền chấm dứt hợp đồng lao động; quyền ký kết và thực hiện thỏa ước lao động
tập thể, quyền khen thưởng của NSDLĐ được giới thiệu thông qua việc phân tích các
chế định việc làm, hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, tiền lương.
- "Tìm hiểu Bộ luật lao động Việt Nam" (2002) của Phạm Công Bảy, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách này phân tích trên cơ sở giới thiệu các nội dung
cơ bản của BLLĐ đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002, nhằm cung cấp những kiến thức
về các quy định của Bộ luật làm cơ sở để vận dụng vào thực tế. Trong cuốn sách, tác
giả đã tìm hiểu tất cả các chế định của BLLĐ. Theo đó, vấn đề liên quan đến các nội
dung luận án được giới thiệu trong quá trình phân tích các chế định hợp đồng lao
động, thỏa ước lao động tập thể và kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất.
- "Pháp luật hợp đồng lao động Việt Nam - Thực trạng và phát triển" (2003),
của TS Nguyễn Hữu Chí, Nxb Lao động-Xã hội. Trong cuốn sách này, tác giả đã đề
cập đến đặc trưng quan trọng của hợp đồng lao động chính là yếu tố QLLĐ của
NSDLĐ đối với NLĐ. Đặc biệt, cuốn sách đã phân tích và đánh giá những bất cập
của một số quy định về quyền điều chuyển công việc đối với NLĐ, quyền thỏa
thuận và đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của NSDLĐ. Ví dụ, việc xác
định quyền QLLĐ trong thời gian tạm hoãn hợp đồng lao động, trách nhiệm bố trí,
sắp xếp công việc cho NLĐ khi doanh nghiệp sáp nhập, chia tách, hợp nhất, chuyển
quyền sở hữu, quyền quản lý tài sản.
- "Tài liệu nghiên cứu cho thuê lại lao động" (2011) của Vụ pháp chế, Bộ Lao
động, thương binh và xã hội, Nxb Lao động-Xã hội. Cuốn sách này tập hợp các tài
liệu nghiên cứu của chuyên gia nước ngoài (Hàn Quốc, Nhật Bản…), các báo cáo
về tình hình cho thuê lại lao động của Bộ Lao động, thương binh và xã hội, các địa
phương (Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ, Đà Nẵng) và
một số tài liệu đã phát hành của ILO trong quá trình soạn thảo BLLĐ (sửa đổi).
Mục đích của công trình này là cung cấp các tài liệu liên quan đến hoạt động cho
thuê lại lao động nhằm nghiên cứu để hoạch định và thực thi chính sách, pháp luật
về hoạt động cho thuê lại lao động ở Việt Nam. Kết quả thuyết phục của công trình
là BLLĐ năm 2012 đã điều chỉnh hoạt động cho thuê lại lao động. Theo đó,
NSDLĐ có quyền thuê lại lao động của đơn vị khác hoặc cho đơn vị khác thuê lại
lao động khi có đủ điều kiện do pháp luật quy định.
- Bên cạnh đó, còn một số các sách: Hỏi - đáp về BLLĐ, Sổ tay pháp lý, Tìm
hiểu pháp luật, Từ điển thuật ngữ luật học… cũng đã đề cập đến các thuật ngữ hoặc
12
nêu các quy định của pháp luật lao động về tuyển dụng lao động, hợp đồng lao
động, thỏa ước lao động tập thể, nội quy lao động, xử lý kỷ luật lao động, chấm dứt
hợp đồng lao động…
1.1.1.3. Đề tài khoa học
Các đề tài nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài luận án chủ yếu là đề tài
nghiên cứu khoa học cấp cơ sở. Đó là các đề tài:
- "Thực tiễn giải quyết các loại án kiện về đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động, về kỷ luật sa thải trong thời gian qua và những kiến nghị" (2001) của Tòa
án nhân dân tối cao do ThS Nguyễn Việt Cường chủ nhiệm đề tài. Đề tài này nghiên
cứu thực tiễn giải quyết hai loại việc liên quan đến các quyền QLLĐ của NSDLĐ.
Đó là quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và quyền xử lý kỷ luật sa thải
đối với NLĐ.
- "Nghiên cứu nhằm góp phần sửa đổi, bổ sung Bộ luật lao động trong giai
đoạn hiện nay" (2010) của Trường Đại học Luật Hà Nội do TS Trần Thị Thúy Lâm
chủ nhiệm đề tài. Trong nội dung đề tài, có ba chuyên đề: đánh giá các quy định về
hợp đồng lao động, đánh giá các quy định về thỏa ước lao động tập thể và đánh giá
các quy định về kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất liên quan đến quyền QLLĐ
của NSDLĐ.
- "Áp dụng pháp luật lao động trong quản trị nhân sự tại doanh nghiệp"
(2011) của Trường Đại học Luật Hà Nội do TS Đỗ Ngân Bình chủ nhiệm đề tài.
Trong nội dung đề tài, có một số chuyên đề về áp dụng pháp luật lao động khi tuyển
dụng lao động; ký kết và thực hiện hợp đồng lao động và duy trì kỷ luật lao động,
xây dựng nề nếp lao động trong quản trị nhân sự tại doanh nghiệp có liên quan tới
một số nội dung của đề tài luận án.
- "Cho thuê lại lao động - Một hướng điều chỉnh của pháp luật lao động Việt
Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế" (2012) của Trường Đại
học Luật Hà Nội do TS Nguyễn Xuân Thu chủ nhiệm đề tài. Đề tài nghiên cứu các
vấn đề lý luận, quy định của pháp luật quốc tế và thực tiễn cho thuê lại lao động ở
Việt Nam, từ đó kiến nghị hướng điều chỉnh hoạt động cho thuê lại lao động của
pháp luật lao động ở Việt Nam. Một số chuyên đề về lý luận của hoạt động cho thuê
lại lao động và thực trạng điều chỉnh pháp luật về hoạt động cho thuê lại ở Việt
Nam, tuy được nghiên cứu trước khi BLLĐ năm 2012 ra đời, song là những gợi ý
cho việc nghiên cứu quyền QLLĐ của NSDLĐ trong hoạt động cho thuê lại lao
động của luận án.
13
1.1.1.4. Luận án, luận văn
Trong số các luận án, luận văn đã công bố, có các công trình sau đây liên
quan đến đề tài luận án. Đó là:
- Luận án "Hợp đồng lao động trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam"
(2002) của Nguyễn Hữu Chí. Trong luận án này, tác giả đề cập đến các vấn đề lý
luận về hợp đồng lao động, thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng hợp đồng lao
động. Thông qua việc đánh giá những điểm bất cập trong quy định của pháp luật lao
động (theo BLLĐ năm 1994, được sửa đổi, bổ sung năm 2002) và thực tiễn áp
dụng, luận án đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng lao động và
nâng cao hiệu quả thực hiện hợp đồng lao động ở Việt Nam. Trong các nội dung trình
bày của công trình này, có một số vấn đề liên quan đến luận án, đó là quyền ký kết hợp
đồng lao động, quyền điều chuyển NLĐ làm công việc khác, quyền thay đổi, tạm hoãn
và chấm dứt hợp đồng lao động của NSDLĐ.
- Luận án "Pháp luật về kỷ luật lao động ở Việt Nam - thực trạng và phương
hướng hoàn thiện" (2007) của Trần Thị Thúy Lâm. Trong luận án, tác giả nghiên
cứu sâu về một trong các nội dung của quyền QLLĐ của NSDLĐ, đó là vấn đề kỷ
luật lao động. Đây là công trình gần gũi hơn cả với đề tài luận án. Bởi, một trong
những nội dung của quyền QLLĐ của NSDLĐ là quyền ban hành nội quy lao động và
xử lý kỷ luật lao động. Thông qua việc nghiên cứu toàn diện, hệ thống các vấn đề lý
luận về kỷ luật lao động, thực trạng pháp luật về kỷ luật lao động theo quy định của
BLLĐ năm 1994 và được sửa đổi, bổ sung các năm 2002, 2006, 2007, luận án này đã
đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về kỷ luật lao động ở Việt Nam.
- Luận án "Thỏa ước lao động tập thể - Nghiên cứu so sánh giữa pháp luật
lao động Việt Nam và Thụy Điển" (2011) của Hoàng Thị Minh. Đây là công trình
nghiên cứu chuyên sâu về thỏa ước lao động tập thể. Trong các nội dung trình bày,
luận án đã đề cập ở mức độ nhất định về vai trò của thỏa ước lao động tập thể đối
với NSDLĐ khi thực hiện quyền QLLĐ trong đơn vị.
- Luận án "Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động - Những
vấn đề lý luận và thực tiễn" (2013) của Nguyễn Thị Hoa Tâm. Trong công trình
này, vấn đề nghiên cứu có liên quan đến luận án được thể hiện trong nội dung
quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của NSDLĐ. Theo đó, vấn đề đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động của NSDLĐ được trình bày dựa trên cơ sở
tính hợp pháp của việc chấm dứt hợp đồng lao động. Tuy nhiên, do nghiên cứu
chung về vấn đề đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nên luận án không phân
tích rõ khía cạnh quyền QLLĐ của NSDLĐ.
14
- Một số luận văn liên quan đến đề tài luận án. Đó là các luận văn: "Hợp đồng
lao động với vấn đề đảm bảo quyền và lợi ích của người lao động trong nền kinh tế
thị trường" (1997) của Nguyễn Hữu Chí; "Thỏa ước lao động tập thể trong nền kinh
tế thị trường - Những vấn đề lý luận và thực tế áp dụng" (2001) của Trần Thị Thúy
Lâm; "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng lao động" (2002) của Phạm
Thị Thúy Nga; "Chế độ kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất trong luật lao động
Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn" (2002) của Đỗ Thị Dung; "Pháp luật
về chấm dứt hợp đồng lao động qua thực tiễn ở các doanh nghiệp trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh" (2006) của Trần Thị Lượng; "Chấm dứt hợp đồng lao
động và hậu quả pháp lý" (2007) của Lê Thị Ngọc Nhìn chung các luận văn này
đã đề cập đến một số vấn đề về nội dung các quyền QLLĐ của NSDLĐ như quyền
ký kết hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, nội quy lao động, quyền tổ
chức, thực hiện QLLĐ như quyền chấm dứt hợp đồng lao động, quyền xử lý kỷ luật
lao động, xử lý bồi thường thiệt hại vật chất
1.1.1.5. Bài viết đăng trên tạp chí
Một số bài viết đăng trên các tạp chí chủ yếu mang tính nghiên cứu trao đổi
về các vấn đề kỷ luật lao động, hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể theo
quy định của BLLĐ trước đây. Cụ thể là các bài viết: "Mấy ý kiến về chế định hợp
đồng lao động" của Nguyễn Thị Kim Phụng đăng trên Tạp chí Luật học số 4 năm
1996; "Hợp đồng lao động - Một trong những chế định chủ yếu của Luật lao động
Việt Nam" của TS Phạm Công Trứ đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7
năm 1996; "Giao kết hợp đồng lao động" của Lưu Bình Nhưỡng đăng trên Tạp chí
Luật học số 6 năm 1996; "Quá trình duy trì và chấm dứt hợp đồng lao động" của
ThS Lưu Bình Nhưỡng đăng trên Tạp chí Luật học số 3 năm 1997; "Một số vấn đề
về kỷ luật lao động trong BLLĐ" của ThS Nguyễn Hữu Chí đăng trên Tạp chí Luật
học số 2 năm 1998; "Về phương hướng hoàn thiện chế độ hợp đồng lao động" của
ThS Lê Thị Hoài Thu đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1 năm 1999;
"Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động" của TS Đào Thị Hằng đăng trên
Tạp chí Luật học số 4 năm 2001; "Chấm dứt hợp đồng lao động" của ThS Nguyễn
Hữu Chí đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 9 năm 2002; "Một số vấn đề
về thỏa ước lao động tập thể" của ThS Trần Thị Thúy Lâm đăng trên Tạp chí Luật
học số 2 năm 2002; "Thực trạng pháp luật về kỷ luật sa thải và một số kiến nghị"
của ThS Trần Thị Thúy Lâm đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6 năm 2006;
"Khái niệm và bản chất pháp lý của kỷ luật lao động" của ThS Trần Thị Thúy Lâm
15
đăng trên Tạp chí Luật học số 9 năm 2006; "Sự phụ thuộc pháp lý - dấu hiệu đặc trưng
nhất trong quan hệ hợp đồng lao động" của Phạm Thị Thúy Nga đăng trên Tạp chí Nhà
nước và pháp luật số 8 năm 2008; "Về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động" của Nguyễn Thị Hoa Tâm đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8 năm
2009; "Những vấn đề cần sửa đổi về hợp đồng lao động trong BLLĐ" của TS Trần Thị
Thúy Lâm đăng trên Tạp chí Luật học số 9 năm 2009; "Hoàn thiện pháp luật về thỏa
ước lao động tập thể ở nước ta trong thời gian tới" của ThS Đỗ Thị Dung đăng trên Tạp
chí Luật học số 9 năm 2009; "Pháp luật về chấm dứt hợp đồng lao động" của Nguyễn
Thị Hoa Tâm đăng trên Tạp chí Lao động-Xã hội số 419 năm 2011; "Hoàn thiện quy
định về trách nhiệm của NSDLĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp
luật" của TS Trần Hoàng Hải và ThS Đỗ Hải Hà đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 8 năm 2011; "Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động - Một trong những
quyền tự do kinh doanh của NSDLĐ" của Nguyễn thị Hoa Tâm đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 9 năm 2012
Điểm chung trong các bài viết này là các tác giả đi sâu phân tích, đánh giá các
quy định của BLLĐ năm 1994 (đã được sửa đổi, bổ sung các năm 2002, 2006,
2007) và trên cơ sở những bất cập trong các quy định, các tác giả kiến nghị hoàn
thiện quy định trong các chế định của Bộ luật. Trong đó, có một số công trình
nghiên cứu các quy định của BLLĐ năm 2012. Ở mức độ nhất định, những bài viết
này đã đề cập đến một số khía cạnh liên quan đến nội dung trong quyền QLLĐ của
NSDLĐ như ký kết hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể; quyền điều
chuyển công việc của NLĐ; quyền thay đổi, tạm hoãn, chấm dứt hợp đồng lao
động; quyền xử lý kỷ luật lao động
1.1.1.6. Báo cáo, hội thảo khoa học
Từ khi BLLĐ ban hành năm 1994 đến nay, đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung,
đặc biệt là việc sửa đổi toàn diện của BLLĐ năm 2012. Trải qua thời gian đó, việc
nghiên cứu, đánh giá, đề xuất sửa đổi, bổ sung những quy định của Bộ luật luôn
được các cơ quan, ban, ngành liên quan quan tâm. Vì lẽ này nên có nhiều báo cáo,
hội thảo khoa học có nội dung liên quan đến đề tài luận án.
- Báo cáo, bao gồm: báo cáo kết quả, báo cáo nghiên cứu, báo cáo đánh giá
tác động hoặc báo cáo tổng kết liên quan đến các vấn đề của quan hệ lao động và
pháp luật lao động. Đó là các báo cáo: "Báo cáo sơ kết việc thi hành BLLĐ 1995-
1997" năm 1998 của Bộ Lao động, thương binh và xã hội; "Báo cáo kết quả điều
tra, đánh giá tình hình thực hiện pháp luật lao động ở Việt Nam" năm 2000 của
16
Viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội; Báo cáo kết quả thanh tra việc thực
hiện pháp luật lao động tại một số doanh nghiệp đóng trên địa bàn thành phố Hà
Nội" năm 2004 của Đoàn thanh tra, Bộ Lao động, thương binh và xã hội; "Báo cáo
tổng kết đánh giá 13 năm thi hành BLLĐ" năm 2008 của Bộ Lao động, thương binh
và xã hội; "Báo cáo tổng hợp nghiên cứu về quan hệ lao động tại Việt Nam" năm
2008 của Vụ pháp chế, Bộ Lao động, thương binh và xã hội; Báo cáo "Kết quả
thanh tra việc thực hiện BLLĐ từ năm 1995 đến năm 2008" năm 2009 của Thanh tra
Bộ Lao động, thương binh và xã hội; "Báo cáo kết quả lấy ý kiến của giới chủ doanh
nghiệp về thực tiễn áp dụng BLLĐ tại Khánh Hòa lần 1" năm 2009 của VCCI; "Báo
cáo tổng kết đánh giá tình hình 15 năm thực hiện BLLĐ " năm 2010 của Bộ Lao động,
thương binh và xã hội; "Báo cáo đánh giá tác động Dự thảo BLLĐ (sửa đổi)" năm
2010 của Bộ Lao động, thương binh và xã hội; "Báo cáo nghiên cứu chuyên đề cho
thuê lại lao động với việc sửa đổi BLLĐ ở Việt Nam" năm 2011 của Vụ pháp chế, Bộ
Lao động, thương binh và xã hội; "Báo cáo nghiên cứu của Dự án Quan hệ lao động:
Luật hóa hoạt động cho thuê lao động và các vấn đề trong việc xây dựng một khuôn
khổ pháp lý cho việc thuê lại lao động" năm 2011 của Youngmo Yoon - Cố vấn trưởng
Dự án Quan hệ lao động Việt Nam - ILO; "Báo cáo đánh giá Dự thảo BLLĐ trên cơ
sở ý kiến của NSDLĐ" năm 2011 của VCCI
Trong nội dung các báo cáo này, vấn đề quyền QLLĐ của NSDLĐ được trình
bày rải rác thông qua việc đánh giá các chế định hợp đồng lao động, thỏa ước lao
động tập thể, tuyển dụng lao động, khen thưởng, xử lý kỷ luật lao động và thời gian
gần đây là vấn đề cho thuê lại lao động.
- Hội thảo khoa học, trong phạm vi luật lao động, các hội thảo khoa học được
các cơ quan, ban, ngành, cơ sở đào tạo tổ chức tương đối nhiều. Tuy nhiên, số
lượng cũng như nội dung các hội thảo bàn luận đến vấn đề quyền QLLĐ của
NSDLĐ lại chiếm số lượng khiêm tốn. Cụ thể là: Hội thảo về "Tác động của toàn
cầu hóa tới quan hệ lao động tại nơi làm việc" năm 1998 của Bộ Lao động, thương
binh và xã hội; Hội thảo "Một số định hướng sửa đổi BLLĐ ở Việt Nam" năm 2008
của Bộ Lao động, thương binh và xã hội và Dự án Star Việt Nam; Hội thảo "Đánh
giá 14 năm thực hiện BLLĐ và phương hướng hoàn thiện BLLĐ sửa đổi, bổ sung
vào năm 2011" năm 2010 của Trường Đại học Luật Hà Nội; Hội thảo về "Xây dựng
khung pháp lý về hoạt động cho thuê lại lao động ở Việt Nam" năm 2010 của Bộ
Lao động, thương binh và xã hội; Hội thảo về "Góp ý sửa đổi, bổ sung BLLĐ" năm
2012 của Trường Đại Học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
17
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Quyền QLLĐ của NSDLĐ là một vấn đề được bàn luận đến ở những góc độ
khác nhau trong một số tài liệu về luật lao động nước ngoài. Bao gồm các sách và
các bài viết đăng trên các tạp chí.
1.1.2.1. Sách tham khảo
Có một bộ phận lớn các sách nghiên cứu về luật lao động ở nước ngoài không
trình bày quyền QLLĐ của NSDLĐ thành một nội dung độc lập mà được trình bày
xen kẽ khi nghiên cứu về các nội dung khác của luật lao động như: vấn đề tuyển lao
động, hợp đồng lao động, quyền và nghĩa vụ của NLĐ và NSDLĐ, sa thải NLĐ tố
giác (hoặc tiết lộ về) sai phạm của doanh nghiệp, sa thải không công bằng và bồi
thường thiệt hại. Đó là các sách:
- "Employment law for business" (2005), Dawn D. Bennett-Alexander, Laura
B. Pincus, McGraw-Hill Companies. Cuốn sách này nghiên cứu các nội dung cơ
bản của pháp luật lao động Thụy Điển theo hướng nhằm bảo đảm quyền lợi và
nghĩa vụ cho NLĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh. Theo đó, NLĐ phải chịu sự
QLLĐ của NSDLĐ. Đồng thời tác giả đưa ra một hệ thống các tiêu chí gồm 20 yếu
tố để xác định NLĐ làm công, chịu sự QLLĐ của NSDLĐ nhằm mục đích nâng cao
hiệu quả trong quá trình kinh doanh.
- "Employment law" (2006), Andrew C. Bell, Sweet & Maxwell. Với mục
đích tìm hiểu các quy định của Luật việc làm Thụy Điển, tác giả công trình này đã
đi sâu phân tích các chế định của Luật việc làm. Theo đó, NSDLĐ là chủ thể có
trách nhiệm chính trong giải quyết việc làm cho NLĐ. Trong quá trình lao động,
NLĐ chịu sự QLLĐ của NSDLĐ. Tuy nhiên, quyền QLLĐ của NSDLĐ được thể
hiện như thế nào lại chưa được công trình này đề cập cụ thể.
- "Employment & Labor Law" (2008), Patrick J. Cihon, James Ottavio,
Castagnera, Cengage Learning. Công trình này nghiên cứu các quy định về Luật việc
làm và lao động của Anh, là tài liệu tham khảo cho sinh viên học tập môn học Luật lao
động. Theo đó, tác giả nghiên cứu chung về pháp luật việc làm và lao động, trên cơ sở
phân tích, đánh giá một số chế định cơ bản. Trong đó, quyền QLLĐ của NSDLĐ được
nhắc tới khi nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của NLĐ và NSDLĐ.
- "Q & A Employment Law" (2008), Richard Benny, Malcolm Sargeant &
Michael Jefferson, Oxford University Press. Cuốn sách này tập hợp các câu hỏi và
trả lời về các nội dung của Luật việc làm năm 2008 và được sửa đổi năm 2009 của
Anh. Mục đích nhằm tìm hiểu các quy định của pháp luật trong thực tiễn áp dụng.
18
Theo đó, trong các câu hỏi - đáp về hợp đồng lao động, về quyền lợi và nghĩa vụ
của NLĐ có liên quan đến nội dung về quyền QLLĐ của NSDLĐ. Chẳng hạn,
NSDLĐ được phép điều hành, giám sát NLĐ khi thuê lại lao động của doanh
nghiệp khác.
- "Labor & Employment Law: Text and Cases" (2009), David P. Twomey,
Cengage Learning (USA). Viết về Luật lao động và việc làm của Mỹ, cuốn sách này
nghiên cứu các nội dung cơ bản thể hiện trong các văn bản pháp lý và án lệ. Trong
đó, tác giả chủ yếu nêu và phân tích các nội dung cơ bản, đánh giá các nội dung về
tuyển dụng lao động, hợp đồng lao động. Theo đó, NSDLĐ có quyền tuyển dụng
lao động, quyền quyết định ký hay không ký hợp đồng lao động.
- "Employment Law" (2010), Hugh Collins, Oxford University Press. Đây là
sách tham khảo dành cho sinh viên Trường Đại học Oxford. Cuốn sách này nghiên
cứu các nội dung cơ bản của Luật việc làm. Trong nội dung trình bày, tác giả gián
tiếp nhắc đến quyền QLLĐ của NSDLĐ khi phân tích các quy định về trách nhiệm
của NSDLĐ và quyền lợi của NLĐ trong việc làm. Theo đó, ở một số trường hợp
NSDLĐ có quyền sa thải NLĐ.
Bên cạnh đó, một số cuốn sách có nội dung về quyền QLLĐ của NSDLĐ
được trình bày rõ nét hơn. Đó là:
- "Managerial prerogative and the question of control” (1983), John Storey,
Routledge. Cuốn sách này bàn về quyền QLLĐ và vấn đề điều khiển lao động trong
doanh nghiệp ở Anh. Trong chương 6 của cuốn sách trình bày về quyền QLLĐ của
NSDLĐ và mối quan hệ giữa quyền QLLĐ với quyền điều khiển quá trình lao động
của NSDLĐ.
- "Management Prerogatives and Employee Participation” (2004), Atty. Juris
Bernadette M. Tomboc-Commercial Law, Department of De La Salle University-
Manila, Philippines. Công trình nghiên cứu này trình bày khái niệm, phạm vi và sự
thi hành quyền QLLĐ của NSDLĐ và những việc NLĐ sẽ được tham gia vào quá
trình hình thành quyết định của bên doanh nghiệp có ảnh hưởng đến lợi ích của họ.
Mục tiêu của công trình này nhằm xác định ranh giới quyền QLLĐ của bên sử dụng
lao động và quyền tham gia của bên lao động để hỗ trợ cho quan hệ lao động phát
triển hài hoà, ổn định.
- "Labour Laws of the Philippines” (2006), Joselito Guianan Chan, http://
www.chanrobles.com/PART3.pdf. Công trình này nghiên cứu các nội dung cơ bản
của Luật lao động Philippin, trong đó có đề cập đến quyền QLLĐ của NSDLĐ. Cụ
19
thể về các vấn đề giới hạn quyền QLLĐ của NSDLĐ trong việc điều động công
việc, đề bạt, xử lý kỷ luật lao động… đối với NLĐ.
- "Labour and Employment Law in Sweden” (2009), Reinhold Fahlbeck,
Bernard Johann Mulder, Lund: Juristförl. Trong cuốn sách này, quyền QLLĐ của
NSDLĐ được nêu khá tập trung ở các nội dung "Đặc quyền của NSDLĐ" và phần
"Nghĩa vụ của NLĐ". Theo đó, NSDLĐ có quyền thuê lao động, quyền điều hành
và phân công công việc, quyền sa thải NLĐ. Trong khi đó NLĐ có nghĩa vụ thực
hiện các nhiệm vụ được giao, nghĩa vụ trung thành với NSDLĐ, nghĩa vụ giữ bí
mật của đơn vị.
- "The Employer's Legal Handbook: Manage Your Employees & Workplace
Effectively" (2011), Fred Steingold, Nolo. Đây là cuốn sách dành cho giới sử dụng
lao động, trong đó nêu rõ những giới hạn của luật pháp đối với quyền QLLĐ khi
can thiệp vào những vấn đề có tính chất riêng tư của NLĐ tránh cho họ khỏi vướng
vào những rắc rối pháp lý. Đồng thời cuốn sách nêu ra những quy định của pháp
luật cấm việc NSDLĐ điều tra, can dự vào những hoạt động NLĐ thực hiện ngoài
giờ làm việc, hoạt động công đoàn, xét nghiệm ma tuý, hoạt động chính trị và tín
ngưỡng, làm đêm ngoài doanh nghiệp.
1.1.2.2. Bài viết đăng trên tạp chí
- "Work Control and Managerial Prerogatives in Industrial Relations" (1979),
Robin Smith, Management Research News Journal, Vol. 2, No. 2. Bài viết này đã nêu rõ
những thách thức đối với quan niệm truyền thống về đặc quyền QLLĐ của bên sử dụng
lao động sau khi có sự xuất hiện và phát triển của tổ chức công đoàn. Từ đó, bài viết cũng
bình luận về mục tiêu trung tâm của các bên trong quan hệ lao động, đó là: tăng cường
QLLĐ của NSDLĐ đối với công việc do NLĐ thực hiện, sự ảnh hưởng và chia sẻ quyền
lực với công đoàn trong quá trình NSDLĐ thiết lập quyền QLLĐ.
- "Discipline at the workplace: A comparative study of Law and Practice"
(1986), M.E.Banderet, International Labour Review, Vol. 125, No.3. Bài viết phân
tích những giới hạn pháp lý đối với quyền kỷ luật lao động của NSDLĐ. Dựa vào
quy định pháp luật lao động của 13 quốc gia trên thế giới (Áo, Bỉ, Đức, Thụy Sĩ,
Anh, Canađa, Pháp, Ấn Độ, Nhật Bản, Srilanka, Hoa kỳ, Úc, Niuzilân), tác giả khái
quát các học thuyết về quyền kỷ luật lao động và nêu 5 loại nguồn cơ bản của kỷ
luật lao động. Đó là: luật pháp, thỏa ước lao động tập thể, nội quy lao động, hợp
đồng lao động và án lệ. Tùy theo pháp luật của mỗi quốc gia mà thứ tự quan trọng
của các nguồn nêu trên thể hiện khác nhau.
20
- "The Managerial Prerogative and the Employee’s Obligation to Work:
Comparative Perspectives on Functional Flexibility" (2006), Mia Rönnmar,
Industrial Law Journal, Vol.35, No.1. Bài viết phân tích các quy định pháp lý về
quyền QLLĐ của NSDLĐ trong việc sắp xếp và bố trí công việc cho NLĐ và liên hệ
với nghĩa vụ tương ứng, những biến đổi trong nghĩa vụ của bên lao động theo pháp luật
Thụy Điển, Anh và Đức. Bởi trong bối cảnh hiện nay đòi hỏi sự linh hoạt trong vận
hành doanh nghiệp đang ngày một tăng trên thị trường lao động. Từ đó, bài viết này
đưa ra bình luận chung về sự biến đổi của các quyền QLLĐ trong tương lai.
- "Workplace collective bargaining and managerial prerogatives" (2007),
John Storey, Industrial Relations Journal, 4-7. Bài viết đánh giá mức độ ảnh hưởng
của thương lượng tập thể tại doanh nghiệp đối với quyền QLLĐ của bên sử dụng
lao động và khám phá những điều kiện hoàn cảnh mà quyền QLLĐ của NSDLĐ bị
hạn chế nhiều nhất.
- "The managerial prerogative and the right and duty to collective bargaining
in Greece" (2009), Kostas D. Papadimitriou (Associate Professor in University of
Athens, Greece), Comp. Labor Law & Pol’y Journal, Vol 30:273. Bài viết nêu khái
niệm quyền QLLĐ, đó là việc NSDLĐ có quyền chi phối tổ chức và sự vận hành của
doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu sản xuất kinh doanh, cụ thể là việc quyết định
loại lao động, nơi chốn, cách thức, thời gian công việc được thực hiện. Bài viết nêu rõ
quyền QLLĐ không được nhắc đến trong luật pháp, bởi nó là hệ quả đương nhiên của
quyền sở hữu các tư liệu sản xuất, nhưng sự cụ thể hoá nó sẽ phải được thực hiện bởi
những văn bản có giá trị thấp hơn được xác lập trong doanh nghiệp, đó có thể là thỏa
ước lao động tập thể và hợp đồng lao động.
- "The Concept of Mangerial prerogative in South African Labour Law" (2009),
John Kinamugire. Bài viết phân tích quyền QLLĐ của nhà nước và NSDLĐ. Đối với
NSDLĐ, quyền QLLĐ được thể hiện ở các khía cạnh như quyền chi phối, điều hành
hoạt động của NLĐ tại nơi làm việc, quyền quyết định quy mô lao động, thời gian, địa
điểm và cách thức thực hiện công việc, chất lượng sản phẩm…
- Employer’s managerial prerogative:
emire/ FINLAND/ANCHOR-DIREKTIO-OIKEUSDIREKTIONSR-Auml-TT-FI.htm.
Bài viết phân tích sơ lược quyền của NSDLĐ được ra lệnh, hướng dẫn NLĐ thực
hiện công việc, cũng như quyền thuê lao động và chấm dứt hợp đồng lao động…
được quy định trong các thỏa ước lao động tập thể ở Phần Lan. Từ đó, bài viết
khẳng định NSDLĐ có quyền chỉ đạo và giám sát quá trình lao động của NLĐ, có
21
quyền xác định nội dung của quan hệ việc làm và đưa ra các mệnh lệnh thực hiện
công việc đối với NLĐ.
1.2. Những vấn đề đã nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và một số
nhận xét, đánh giá
Mặc dù các công trình khoa học đã nêu không trùng với đề tài luận án, nhưng ở
các mức độ khác nhau, có chứa đựng những vấn đề liên quan đến nội dung của đề tài
luận án. Cụ thể gồm các vấn đề như sau:
Vấn đề thứ nhất, khái niệm quyền quản lý lao động của người sử dụng lao động
Có một số công trình đã đưa ra cách hiểu chung về quyền QLLĐ của NSDLĐ
[90, tr.279-284]; [122, tr.273]… Quan điểm chung trong các công trình này đều cho
rằng, quyền QLLĐ trong đơn vị sử dụng lao động là quyền của NSDLĐ. Đây được
coi là "đặc quyền" [112], "vật sở hữu" [90, tr.280] của NSDLĐ. Quyền QLLĐ
"được thiết lập dành cho các ông chủ trong đơn vị sử dụng lao động" [124, tr.262].
Theo đó, NSDLĐ có quyền chi phối tổ chức và sự vận hành của doanh nghiệp nhằm
đạt được mục tiêu sản xuất kinh doanh, cụ thể là việc quyết định loại lao động, nơi
chốn, cách thức, thời gian công việc được thực hiện.
Tuy nhiên, các công trình này lại có quan điểm khác nhau do xuất phát từ
pháp luật của các quốc gia quy định khác nhau. Quan điểm của "Giáo trình Luật lao
động Việt Nam", Trường Đại học Luật Hà Nội cho rằng: Trong pháp luật lao động,
quyền QLLĐ của NSDLĐ được xem xét dưới những khía cạnh: i) Quyền QLLĐ là
dạng quyền năng được sử dụng trong quá trình lao động; ii) Quyền QLLĐ của
NSDLĐ được thể hiện trong hệ thống các quy định của pháp luật lao động [90,
tr.280-281]. Quan điểm trong bài viết "The managerial prerogative and the right and
duty to collective bargaining in Greece" (Quyền quản lý và quyền, nghĩa vụ thương
lượng tập thể ở Hy Lạp) của Kostas D. Papadimitriou cho rằng: Quyền QLLĐ của
NSDLĐ không được nhắc đến trong luật pháp, bởi nó là hệ quả đương nhiên của quyền
sở hữu các tư liệu sản xuất. Quyền QLLĐ của NSDLĐ được cụ thể hóa trong những
văn bản có giá trị pháp lý thấp hơn được xác lập trong doanh nghiệp, đó có thể là nội
quy lao động, thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao động [122, tr.273].
Đồng thời với việc nêu khái niệm quyền QLLĐ của NSDLĐ, các công trình
đều đề cập đến giới hạn pháp luật/phạm vi thực thi quyền QLLĐ của NSDLĐ.
Chúng tôi đồng ý với quan điểm của các công trình này. Rằng, quyền QLLĐ
của NSDLĐ là một đặc quyền. Tùy vào quy định của pháp luật lao động các nước
mà đặc quyền này được giới hạn trong phạm vi khác nhau. Tuy nhiên, các tài liệu