Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

thị trường chứng khoán việt nam qua các thời kì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.84 KB, 18 trang )

Trờng Đại học Hải Phòng
Khoa Kế toán Tài chính
Tiểu luận Lý thuyết tài chính tiền tệ
Đề tài Thị trờng chứng khoán Việt Nam qua các thời kì

SVTH : Trần Thị Hải Yến
Lớp : Tài chính - Ngân hàng D K10
Hải Phòng, tháng 11 năm 2011
Lời mở đầu
Thị trờng chứng khoán Việt Nam mới ra đời đầu năm 2000. Thuật ngữ Thị tr-
ờng chứng khoán còn khá mới mẻ đối với công chúng Việt Nam. Trong khi đó
ở nhiều nớc trên thế giới, thị trờng chứng khoán đã phát triển rất sôi động. Đầu t
vào thị trờng chứng khoán đã trở nên quan trọng đối với mọi ngời. Để tham gia
vào thị trờng chứng khoán, mọi ngời đều phải có những kiến thức nhất định về
lĩnh vực này. Thị trờng chứng khoán chỉ có thể phát triển đợc nếu có sự tham gia
ngày càng đông của những ngời có kiến thức đầy đủ về thị trờng chứng khoán.
Chính vì vậy, kiến thức của mọi ngời dân về thị trờng chứng khoán ở Việt Nam
cần phải đợc nâng cao. Do quy mô hạn hẹp nên trong khuôn khổ bài luận này,
em chỉ nêu lên những vấn đề cơ bản về thị trờng chứng khoán và đôi nét về tình
hình thị trờng chứng khoán tại Việt Nam, đủ để mọi ngời có thể hiểu thêm phần
nào khi nhắc đến lĩnh vực này.
Bài luận chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy em rất mong
nhận đợc sự thông cảm và những hớng dẫn, góp ý tận tình của thầy cô, để các bài
luận sau đạt đợc kết quả tốt hơn nữa. Em xin chân thành cảm ơn.
Trần Thị Hải Yến
Chơng 1
Tổng quan về thị trờng chứng khoán
Do sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu về tích vốn trong xã hội tăng lên và trở
nên đa dạng, phong phú. Ngời thì cần vốn cho mục đích tiêu dùng hay đầu t, ng-
ời thì có vốn nhàn rỗi muốn cho vay để sinh lời. Đầu tiên, họ tìm gặp nhau trực
tiếp trên cơ sở quen biết. Tuy nhiên sau đó, khi cung cầu vốn không ngừng tăng


lên thì hình thức cho vay, cho vay trực tiếp dựa trên quan hệ quen biết không đáp
ứng đợc. Vậy cần phải có một thị trờng cho cung và cầu gặp nhau, đáp ứng các
nhu cầu tài chính của nhau - đó là thị trờng tài chính. Thông qua thị trờng tài
chính, nhiều khoản vốn nhàn rỗi đợc huy động vào tiêu dùng, đầu t, tạo đòn bẩy
cho phát triển kinh tế.
Căn cứ vào thời gian luân chuyển vốn, thị trờng tài chính bao gồm :
- Thị trờng tiền tệ : mua bán, trao đổi các công cụ tài chính ngắn hạn dới 1 năm.
- Thị trờng vốn : mua bán, trao đổi các công cụ tài chính trung và dài hạn.
Tóm lại, ban đầu nhu cầu vốn cũng nh tiết kiệm trong dân cha cao và nhu cầu về
vốn chủ yếu là vốn ngắn hạn. Theo thời gian, sự phát triển kinh tế, nhu cầu về
vốn dài hạn cho đầu t phát triển ngày càng cao. Chính vì vậy, thị trờng vốn đã ra
đời để đáp ứng các nhu cầu này. Để huy động đợc vốn dài hạn, bên cạnh việc đi
vay ngân hàng thông qua hình thức tài chính gián tiếp, Chính phủ và doanh
nghiệp còn huy động vốn thông qua hình thức phát hành chứng khoán. Khi một
bộ phận các chứng khoán có giá trị nhất định đợc phát hành thì xuất hiện nhu
cầu mua, bán chứng khoán và đây chính là sự ra đời của thị trờng chứng khoán
với t cách là một bộ phận của thị trờng vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán và
trao đổi chứng khoán các loại.
1.1. Khái niệm và bản chất của thị trờng chứng khoán
Hiện nay tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thị trờng chứng khoán :
Quan điểm thứ nhất cho rằng thị trờng chứng khoán và thị trờng vốn là
một, chỉ là tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm : thị trờng t bản
(Capital Market). Nếu xét về mặt nội dung thì thị trờng vốn biểu hiện các
quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua bán các chứng khoán. Thị
trờng chứng khoán là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ
thể. Do đó, các thị trờng này không thể phân biệt, tách rời nhau mà thống
nhất và cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trờng t
bản.
Quan điểm thứ hai của đa số các nhà kinh tế cho rằng Thị trờng chứng
khoán đợc đặc trng bởi thị trờng vốn chứ không phảI đồng nhất là một.

Nh vậy theo quan điểm này, thị trờng chứng khoán và thị trờng vốn là
khác nhau, trong đó thị trờng chứng khoán chỉ giao dịch, mua bán các
công cụ tài chính trung và dài hạn nh trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và trái
phiếu công ty. Các công cụ tài chính ngắn hạn đợc giao dịch trên thị trờng
tiền tệ, không thuộc phạm vi hoạt động của thị trờng chứng khoán.
Quan điểm thứ ba, dựa trên những gì quan sát đợc tại đa số các Sở giao
dịch chứng khoán lại cho rằng Thị trờng chứng khoán là thị trờng cổ
phiếu hay là nơi mua bán các phiếu cổ phần đợc các công ty phát hành ra
để huy động vốn. Theo quan điểm này, thị trờng chứng khoán đợc đặc trng
bởi thị trờng mua bán các công cụ tài chính mang lại quyền tham gia sở
hữu.
Các quan điểm trên đều đợc khái quát dựa trên những cơ sở thực tiễn và trong
từng điều kiện lịch sử nhất định. Tuy nhiên, quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù
hợp với sự phát triển chung của thị trờng chứng khoán hiện nay là : Thị trờng
chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng
khoán. Chứng khoán đợc hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó
cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát
hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại
chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng.
Thị trờng chứng khoán không giống với các thị trờng hàng hoá thông thờng khác
vì hàng hoá của thị trờng chứng khoán là một loại hàng hoá đặc biệt, là quyền sở
hữu về t bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Nh vậy có thể
nói, bản chất của thị trờng chứng khoán là thị trờng thể hiện mối quan hệ giữa
cung và cầu của vốn đầu t mà ở đó, giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin
về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu t. Thị trờng chứng khoán là hình thức phát
triển bậc cao của nền sản xuất và lu thông hàng hoá.
1.2. Cơ cấu của thị trờng chứng khoán
Căn cứ vào hàng hoá đợc giao dịch trên thị trờng, thị trờng chứng khoán đ-
ợc chia thành thị trờng cổ phiếu (Stock Markets), thị trờng trái phiếu
(Bond Markets) và thị trờng các chứng khoán phái sinh (Derivative

Markets).
Căn cứ vào sự luân chuyển vốn trên thị trờng, thị trờng chứng khoán đợc
chia thành thị trờng sơ cấp (Primary Market) và thị trờng thứ cấp
(Secondary Market).
Căn cứ vào hình thức tổ chức của thị trờng, thị trờng chứng khoán đợc chia
thành thị trờng tập trung và thị trờng phi tập trung OTC.
1.3. Đặc điểm, chức năng của thị trờng chứng khoán
1.3.1. Đặc điểm
- Thị trờng chứng khoán đợc đặc trng bởi hình thức tài chính trực tiếp (giữa ngời
mua và ngời bán chứng khoán không có trung gian tài chính, dòng vốn luân
chuyển trực tiếp từ ngời bán sang ngời mua, trung gian môi giới không tác động
đến nguồn vốn, chỉ giúp ngời mua và ngời bán dễ gặp nhau).
- Thị trờng chứng khoán gần với thị trờng cạnh tranh hoàn hảo (dễ dàng tham gia
và rút lui khỏi thị trờng, giá cả tuân theo quy luật cung cầu, ngời bán và ngời
mua bình đẳng).
- Thị trờng chứng khoán về cơ bản là một thị trờng liên tục (không giới hạn số
lần đợc mua bán với một loại chứng khoán).
1.3.2. Chức năng
- Huy động vốn đầu t cho nền kinh tế thông qua việc phát hành chứng khoán lên
thị trờng : khi các nhà đầu t mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền
nhàn rỗi của họ đợc đa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần
mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua thị trờng chứng khoán, Chính phủ và chính
quyền ở các địa phơng cũng huy động đợc các nguồn vốn cho mục đích sử dụng
và đầu t phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
- Tạo ra tính thanh khoản cho các chứng khoán ( khả năng quy đổi ra tiền nhanh
chóng) : nhờ có thị trờng chứng khoán, các nhà đầu t có thể chuyển đổi các
chứng khoán họ sở hứu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ
muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng
khoán đối với ngời đầu t. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn
đầu t. Thị trờng chứng khoán hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính

thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trờng càng cao.
- Đánh giá giá trị của doanh nghiệp và tình hình kinh tế dựa vào giá cả và trị số
của các chứng khoán. Doanh nghiệp làm ăn có lợi thì giá chứng khoán tăng.
Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp đợc phản ánh một
cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của
doanh nghiệp đợc nhanh chóng và thuận tiện. Từ đó cũng tạo ra một môi trờng
cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng
công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
- Giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô : Chính phủ thông qua thị trờng
tài chính để điều tiết nền kinh tế. Các chỉ báo của thị trờng chứng khoán phản
ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng
khoán tăng lên cho thấy đầu t đang mở rộng, nền kinh tế tăng trởng. Ngợc lại,
giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế,
thị trờng chứng khoán đợc coi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công
cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua
thị trờng chứng khoán, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo
ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính
phủ cũng có thể sử dụng một số chinh sách, biện pháp tác động vào thị trờng
chứng khoán nhằm định hớng đầu t, đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền
kinh tế.
- Cung cấp môi trờng đầu t cho công chúng : thị trờng chứng khoán cung cấp cho
công chúng một môi trờng đầu t lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú.
Các loại chứng khoán trên thị trờng rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi
ro, cho phép các nhà đầu t có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả năng,
mục tiêu và sở thích của mình.
1.4. Vai trò của thị trờng chứng khoán đối với nền kinh tế
Với t cách là phơng thức khơi thông dòng vốn đầu t vào sản xuất kinh doanh, thị
trờng chứng khoán có vai trò cực kì quan trọng trong nền kinh tế. Khi nền kinh
tế hàng hoá phát triển tới một mức độ nhất định sẽ cần tới thị trờng chứng khoán
để hỗ trợ cho quá trình phát triển.

Trong thập kỉ vừa qua, các thị trờng chứng khoán trên thế giới đã phát triển hết
sức mạnh
mẽ. Tổng giá trị cổ phiếu đợc yết giá trên các thị trờng này tăng từ 4.700 tỷ USD
năm 1985 lên 15200 tỷ USD năm 1995. Trong đó giá trị cổ phiếu giao dịch trên
thị trờng chứng khoán ở các nớc đang phát triển tăng nhanh từ 3% năm 1983 lên
17% tổng lợng giao dịch toàn thế giới năm 1995.
Sự phát triển mạnh mẽ của thị trờng chứng khoán có tác động tích cực tới sự phát
triển của các quốc gia. Thực tế cho thấy thị trờng chứng khoán đã thúc đẩy phát
triển kinh tế ở nhiều nớc một cách có hiệu quả thông qua việc góp phần tạo ra
vốn khả dụng. Thực vậy, đa số các dự án đầu t cần phải sử dụng vốn dài hạn thì
mới đạt hiệu quả cao trong khi các nhà tiết kiệm lại không muốn mất quyền
kiểm soát món tiết kiệm của họ trong thời gian dài. Thị trờng chứng khoán hoạt
động trôi chảy sẽ cho phép khắc phục đợc mâu thuẫn này khiến cho các hoạt
động đầu t trên thị trờng hấp dẫn, thuận tiện và có lãi suất cao hơn so với gửi tiết
kiệm vì ngời tiết kiệm có thể mua một loại chứng khoán nào đó rồi lại đem bán
một cách nhanh chóng ít phí tổn khi cần tiền mặt hoặc để đầu t vào một loại
chứng khoán mà họ thích. Việc trao đổi này diễn ra trên thị trờng thứ cấp trong
khi đó các doanh nghiệp vẫn đợc sử dụng nguồn vốn dài hạn thờng xuyên và ổn
định. Nh vậy, thông qua việc tạo điều kiện thuận lợi cho các khoản đầu t dài hạn
phát triển, làm cho các khoản đầu t sinh lợi nhiều hơn mà thị trờng chứng khoán
khuyến khích đợc nhiều vốn hơn vào nền kinh tế, góp phần đẩy nhanh tốc độ
tăng trởng kinh tế. Thị trờng chứng khoán cũng hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng
trong nhiều lĩnh vực. Về cơ bản, thị trờng chứng khoán bổ sung cho hệ thống
ngân hàng trong việc cung cấp vốn vay trung và dài hạn. Hệ thống ngân hàng với
chức năng chủ yếu là tạm ứng vốn cho nền kinh tế thông qua hoạt động tín
dụng. Tiền đợc cho vay qua các hoạt động tín dụng cần đợc thu về. Tuy vậy, bao
giờ cũng có phần vốn vay kém hiệu quả không thu hồi đợc vẫn nằm trong lu
thông, làm cho mức gia tăng tiền tệ cao hơn tỉ lệ tăng trởng kinh tế. Điều đó có
nghía là một lợng tiền tăng thêm không có lợng hàng hoá dịch vụ tăng theo tơng
ứng ngày càng gây ra lạm phát trong nền kinh tế. Do vậy, hệ thống ngân hàng

chỉ có thể cấp tín dụng trung và dài hạn cho nền kinh tế một cách hạn chế, nếu
không sẽ dẫn đến tình trạng chuyển hoá vốn quá mức, không những đe doạ an
toàn của các ngân hàng mà còn gây nguy cơ lạm phát. Trong bối cảnh đó, thị tr-
ờng chứng khoán là nơi bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn quan trọng cho các
khoản đầu t phát triển. Trên thị trờng sơ cấp, vốn đợc chuyển trực tiếp từ ngời có
vốn sang ngời cần vốn thông qua việc phát hành lần đầu các loại chứng khoán.
Trên thị trờng thứ cấp sau đó, chứng khoán đã phát hành có tác dụng nh gây
tiếp sức để ngời đầu t mới tiếp sức cho ngời đầu t cũng thông qua việc mua bán
lại chứng khoán. Đó là quá trình biến các khoản tiết kiệm ngắn hạn thành nguồn
nuôi dỡng và duy trì các khoản đầu t dài hạn trên cơ sở tham gia tích cực và tự
nguyện của các nhà đầu t.
Nh vậy, thị trờng chứng khoán hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng trong việc cấp các
khoản tín dụng trung và dài hạn, góp phần làm giảm áp lực lạm phát. Sự phân
tích ở trên đã chỉ ra rằng thị trờng chứng khoán có vai trò tích cực và không thể
thiếu trong nền kinh tế.
Chơng 2
Thị trờng chứng khoán Việt Nam qua các thời kì
2.1. Tính tất yếu của việc hình thành thị trờng chứng khoán tại
Việt Nam
2.1.1. Do yêu cầu của nền kinh tế
Thực tế cho thấy ở tất cả các nớc có thị trờng chứng khoán, khi nền kinh tế thị tr-
ờng ra đời thì cha có thị trờng chứng khoán. Thị trờng chứng khoán chỉ ra đời khi
nền kinh tế thị trờng đã phát triển ở mức độ nhất định và đòi hỏi phải hình thành
một tổ chức nào đó có khả năng tiếp thêm sức mạnh cho thị trờng - đó là thị tr-
ờng chứng khoán với việc cung cấp vốn cho nền kinh tế. Có thể nói nền kinh tế
hàng hoá phát triển làm nảy sinh thị trờng chứng khoán và thị trờng chứng khoán
đến lợt nó lại tiếp thêm nguồn lực để thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển.
Trong nền kinh tế nớc ta hiện nay, chủ yếu mới có hình thức giao lu vốn gián
tiếp nên cha huy động và thu hút có hiệu quả tối u nguồn vốn còn khá tiềm tàng
của đất nớc. Do đó, cùng với sự phát triển, hoàn thiện thị trờng liên ngân hàng,

nâng cao trình độ giao lu vốn gián tiếp, cần phải thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ
hình thức giao lu vốn trực tiếp.
Giao lu vốn trực tiếp là hình thức giao lu vốn chủ yếu thông qua phơng thức thu
hút vốn bằng phát hành các phơng tiện tín dụng nh trái phiếu, cổ phiếu.
Phơng thức giao lu vốn trực tiếp có nhiều u điểm nổi bật hơn phơng thức giao lu
vốn gián tiếp. Do vậy, trong điều kiện nớc ta hiện nay, cùng với việc hoàn thiện
tổ chức giao lu vốn gián tiếp phải đồng thời phát triển mạnh giao lu vốn trực tiếp
nhắm làm phong phú thị trờng tiền vốn và đổi mới cơ chế giao lu vốn theo hớng
hiện đại. Chỉ khi nào cả hai hình thức cùng tồn tại, phát triển và bổ sung cho
nhau thì thị trờng tiền tệ - tín dụng mới từng bớc đợc cải tiến, thị trờng chứng
khoán mới xuất hiện và hoạt động có hiệu quả trong một thị trờng tiền tệ - tín
dụng hoàn chỉnh, nhờ đó mà thu hút đợc mọi nguồn vốn tiềm tàng trong và ngoài
nớc cho đầu t phát triển giao lu vốn trên.
2.1.2. Do yêu cầu của nhà nớc
Để hoàn thiện nhịêm vụ của mình, nhà nớc luôn phải chi tiêu mà nguồn thu chủ
yếu của nhà nớc từ thuế thờng không trang trải hết các hoạt động của nhà nớc.
Nhà nớc buộc phải vay vốn trong dân c và các tổ chức tín dụng bằng cách phát
hành kỳ phiếu. Thị trờng chứng khoán ra đời sẽ giúp cho quá trình phát hành này
đợc thuận lợi hơn.
Thị trờng chứng khoán cũng có tác động tích cực trong việc giảm áp lực lạm
phát. Đặc biệt từ năm 1993, nhà nớc ta đã có chủ trơng cổ phần hoá các doanh
nghiệp nhà nớc, tức là chuyển các doanh nghiệp quốc doanh sang hình thức cổ
phần. Quá trình này diễn ra còn chậm. Nếu nh thị trờng chứng khoán hình thành
thì sẽ thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nớc diễn ra nhanh
hơn.
Nhu cầu về một thị trờng chứng khoán tại Việt Nam ngày càng trở nên bức thiết
do những lí do nêu trên nên chắc chắn trong tơng lai gần Việt Nam sẽ có một thị
trờng chứng khoán theo đúng nghĩa của nó để đáp ứng các nhu cầu của nền kinh
tế.
2.2. Thực trạng thị trờng chứng khoán Việt Nam hiện nay

Tại TP HCM hiện đã có 80 doanh nghiệp cổ phần trong đó có 24 doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh công thơng nghiệp dịch vụ, 22 ngân hàng thơng mại và 2
công ty tài chính với số vốn cổ phần lên tới 250 tỷ đồng. Các doanh nghiệp này
ngoài việc phát hành cổ phiếu, một số đơn vị (chủ yếu là các ngân hàng và các
công ty tài chính) đã phát hành các loại kì phiếu trung hạn. Ngoài ra các ngân
hàng thơng mại, ngân hàng đầu t phát triển quốc doanh, kho bạc nhà nớc cũng
đã phát hành các loại kì phiếu có mục đích.Tất cả các loại kì phiếu, cổ phiếu nói
trên đều có thể tham gia thị trờng chứng khoán, do vậy có thể nói rằng Việt Nam
hiện nay đã có thị trờng chứng khoán mặc dù vẫn còn non nớt.
Thị trờng chứng khoán Việt Nam đã hình thành và đi vào hoạt động. Đến ngày
31.8.2000 đã có 2 phiên giao dịch. Hiện nay mới chỉ có 2 công ty cổ phần niêm
yết cổ phiếu là công ty điện lậnh (REE) và công ty vật liệu bu chính viễn thông
(SACOM) cho nên hàng hoá cần cho thị trờng rất ít.
Nói chung lại, thị trờng chứng khoán Việt Nam mới tồn tại ở mức độ rất sơ khai,
cha thực sự là thị trờng chứng khoán với đúng ý nghĩa của khái niệm nh mọi ng-
ời nhìn nhận.
2.3. Các giai đoạn phát triển của thị trờng chứng khoán Việt Nam
Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi, ngày 11.7.1998 Chính phủ đã kí Nghị định
số 48/CP ban hành về chứng khoán và thị trờng chứng khoán, chính thức khai
sinh cho thị trờng chứng khoán Việt Nam ra đời.
Cùng ngày, Chính phủ cũng kí quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán đặt tại TP HCM và Hà Nội. Việc chuẩn bị cho thị trờng chứng khoán Việt
Nam thực ra đã do Uỷ ban Chứng khoán Việt Nam ra đời bằng Nghị định số
75/CP ngày 28.11.1996.
Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP HCM đợc thành lập theo Quyết định số
127/1998/QĐ-TTg ngày 11.7.1998 và chính thức đi vào hoạt động, thực hiện
phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28.7.2000.
Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội đã chính thức chào đời vào ngày
8.3.2005. Khác với Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP HCM (vốn là nơi niêm
yết và giao dịch chứng khoán của các công ty lớn), Trung tâm Giao dịch chứng

khoán Hà Nội sẽ là sân chơi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (với vốn điều lệ
từ 5 đến 30 tỷ đồng).
Chỉ số VN - Index : VN - Index là kí hiệu của chỉ số chứng khoán Việt Nam.
VN - Index xây dựng căn cứ vào giá trị thị trờng của tất cả các cổ phiếu đợc
niêm yết. Với hệ thống chỉ số này, nhà đầu t có thể đánh giá và phân tích thị tr-
ờng một cách tổng quát. Chỉ số VN - Index so sánh giá trị thị trờng hiện hành
với giá trị thị trờng cơ sở vào ngày gốc 28.7.2000, khi thị trờng chứng khoán
chính thức đi vào hoạt động. Giá trị thị trờng cơ sở trong công
thức tính chỉ số đợc điều chỉnh trong các trờng hợp nh niêm yết mới, huỷ niêm
yết và các trờng hợp có thay đổi về vốn niêm yết. Công thức tính chỉ số VN -
Index :
Chỉ số VN - Index = (Giá trị thị trờng hiện hành / Giá trị thị trờng cơ sở) x
100
2.3.1. Giai đoạn 2000 - 2005 : Giai đoạn chập chững biết đi của thị trờng
chứng khoán
Sự ra đời của thị trờng chứng khoán Việt Nam đợc đánh dấu bằng việc đa vào
vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP HCM ngày 20.7.2000 và thực
hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28.7.2000. ở thời điểm lúc bấy giờ, chỉ có
2 doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với số vốn 270 tỷ đồng
và một số ít trái phiếu Chính phủ đợc niêm yết giao dịch.
Từ đó cho đến 2005, thị trờng luôn ở trong trạng thái gà gật, loại trừ cơn sốt vào
năm 2001 (chỉ số VN Index cao nhất đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu năm
nhng chỉ trong vòng cha đầy 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10, các cổ phiếu niêm
yết đã mất giá tới 70% giá trị, chỉ số VN Index sụt từ 571.04 điểm vào ngày
25.4.2001 xuống chỉ còn khoảng200 điểm vào tháng 10.2001. Trong 4 tháng
hoảng loạn này, trong khi nhiều nhà đầu t tháo chạy khỏi thị trờng với lời
nguyền không bao giờ quay lại thì một số nhà đầu tr khác vẫn bình tĩnh bám trụ,
âm thầm mua bán và tiếp tục kiếm đợc lợi nhuận. Trong 5 năm, chỉ số VN
Index lúc cao nhất chỉ có 300 điểm, mức thấp nhất xuống đến 130 điểm. Lí do
chính là ít hàng hoá, các doanh nghiệp niêm yết cũng nhỏ, không nổi tiếng,

không hấp dẫn nhà đầu t trong nớc, trong khi room cũng hết.
Ngày 8.3.2005, Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội chính thức đi vào hoạt
động. Giai đoạn tỉnh ngủ dần xuất hiện từ năm 2005 khi tỉ lệ nắm giữ của nhà
đầu t nớc ngoài đợc nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực ngân hàng).
Trong 5 năm đầu tiên, dờng nh thị trờng không thực sự thu hút đợc sự quan tâm
của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trờng cha tạo ra tác
động xã hội mở rộng để có thể ảnh hởng tới sự vân hành của nền kinh tế cũng
nh tới cuộc sống của mỗi ngời dân. Ta có thể nhận định rõ đợc điều đó thông qua
bảng số liệu sau :
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Số CT NY/ĐKGD 5 5 20 22 26 32
Mức vốn hoá TTCP
(%GDP)
0.28 0.34 0.48 0.39 0.64 1.21
Số lợng CTCK 3 8 9 11 13 14
Số tài khoản KH 2.908 8.774 13.520 15.735 21.616 31.316
Theo thống kê của Uỷ ban chứng khoán Nhà nớc, tính đến hết năm 2005, tổng
giá trị thị trờng chứng khoán Việt Nam đạt gần 40.000 tỷ đồng, chiếm 0,69%
tổng thu nhập quốc nội GDP. Thị trờng chứng khoán Việt Nam hiện có 4.500 tỷ
đồng cổ phiếu, 300 tỷ đồng chứng chỉ quỹ đầu t và gần 35.000 tỷ đồng trái phiếu
Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phơng, thu hút 28.300 tài khoản giao dịch.
Trong năm 2005, tốc độ tăng trởng của thị trờng chứng khoán gấp đôi so với năm
2004, huy động đợc 44,600 tỷ đồng. Hiện giờ giá trị cổ phiếu so với GDP của cả
nớc đạt gần 1%.
2.3.2. Giai đoạn 2006 : Sự phát triển đột phá của thị trờng chứng khoán
Việt Nam
Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 đợc coi là mang tính chất phát triển đột
phá, tạo cho thị trờng chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với
hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 sàn : Sở Giao dịch TP HCM, Trung tâm
Giao dịch Hà Nội và thị trờng OTC.

Với mức tăng trởng đạt từ 60% từ đầu đến giữa năm 2006, thị trờng chứng khoán
Việt Nam trở thành điểm có tốc độ tăng trởng nhanh thứ 2 thế giới, chỉ sau
Dim - ba - buê. Và sự bùng dậy của thị trờng non trẻ này đang ngày càng hút
hồn các nhà đầu t trong và ngoài nớc.
Không thể phủ nhận năm 2006 vừa qua, thị trờng chứng khoán Việt Nam non trẻ
đã có màn trình diễn tuyệt vời và có thể sẽ không bao giờ có lại đợc với khối l-
ợng vốn hoá tăng gấp 15 lần trong vòng 1 năm.
Năm 2006, thị trờng chứng khoán Việt Nam có sự phát triển vợt bậc, chỉ số VN
Index tại sàn giao dịch TP HCM tăng 144% năm 2006, tại sàn giao dịch Hà
Nội tăng 152,4% , VN Index cuối năm tăng 2,5 lần so với đầu năm.
Tổng giá trị vốn hoá đạt 13,8 tỷ USD cuối năm 2006 (chiếm 22,7% GDP). Giá
trị cổ phiếu do các nhà đầu t nớc ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỷ USD,
chiếm 16,4% mức vốn hoá của toàn thị trờng.
Hàng ngày có khoảng 80 - 100 công ty có cổ phiếu giao dịch, đây là những cổ
phiếu đợc phát hành theo Luật Doanh nghiệp là chính. Trên thị trờng phi tập
trung, tổng khối lợng giao dịch gấp khoảng 6 lần so với khối lợng giao dịch trên
HASTC.
Số công ty niêm yết tăng gần 5 lần, từ 41 công ty năm 2005 đã lên tới 193 công
ty, số tài khoản giao dịch đạt hơn 10 vạn, gấp 3 lần năm 2005 và 30 lần so với 6
năm trớc. Trong vòng 1 năm, chỉ số VN - Index tăng hơn 500 điểm, từ hơn 300
điểm cuối 2005 lên 800 điểm cuối 2006.
Trong khoảng từ giữa đến cuối năm 2006, tình trạng đầu t vào cổ phiếu ở nớc ta
mang tâm lí đám đông, cả ngời có kiến thức và hiểu biết, cả những ngời mua
bán theo phong trào. Qua đó đẩy thị trờng chứng khoán vào tình trạng nóng,
hiện tợng bong bóng là có thật.
Mức vốn hoá của thị trờng chứng khoán Việt Nam đã tăng đột biến. Tháng
12.2006 đạt 13,8 tỷ USD (chiếm 22,7% GDP). Đặc biệt số lợng các nhà đầu t
mới tham gia vào thị trờng ngày càng đông, tính đến cuối tháng 12.2006 có trên
120.000 tài khoản giao dịch chứng khoán đợc mở, trong đó gần 2000 tài khoản
của nhà đầu t nớc ngoài.

Năm 2006, kỉ lục mới của VN - Index đợc xác lập ở mốc 809,86 điểm. Với
HASTC - Index là nỗ lực chạm mốc 260 điểm. Tính chung so với đầu năm, chỉ
số VN - Index đã có mức tăng trởng tới 146% và HASTC - Index tăng tới 170%.
Đây là những mức tăng mà các thị trờng trên thế giới phải thừa nhận là quá ấn t-
ợng. Tính đến phiên 29.12.2006, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP HCM đã
có sự góp mặt của 106 cổ phiếu, 2 chứng chỉ quỹ và 367 trái phiếu với tổng giá
trị niêm yết theo mệnh giá là trên 72 nghin tỷ đồng. Còn tại Trung tâm Giao dịch
Chứng khoán Hà Nội, số lợng chứng khoán tham gia đã lên đến 87 cổ phiếu và
91 trái phiếu với tổng mức đăng kí giao dịch theo mệnh giá đạt 29 nghìn tỷ đồng.
Xét riêng về mức vốn hoá cổ phiếu, toàn bộ thị trờng chứng khoán chính thức
Việt Nam với 193 cổ phiếu vào phiên cuối năm, đã lên tới 220 nghìn tỷ đồng, t-
ơng đơng với 13,8 tỷ USD.
2.3.3. Giai đoạn 2007 : Giai đoạn thị trờng chứng khoán bùng nổ
Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 1.1.2007 đã góp phần thúc đẩy thị trờng
phát triển và tăng cờng khả năng hội nhập vào thị trờng tài chính quốc tế. Tính
công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết đợc tăng cờng.VN - Index đạt
đỉnh 1.170,67 điểm. HASTC - Index chạm mốc 459,36 điểm. Nhìn chung diễn
biến của thị trờng và giá cả chứng khoán trong các phiên giao dịch có nhiều biến
động, Index của cả 2 sàn giao dịch đều có biên độ dao động mạnh. Kết thúc
phiên giao dịch cuôi năm, VN - Index đạt 927,02 điểm ; HASTC - Index dừng ở
mức 323,55 điểm. Nh vậy, sau 1 năm hoạt động, VN - Index đạt đợc mức tăng tr-
ởng là 23,3% ; HASTC - Index tăng 33,2% so với mức điểm thiết lập vào cuối
năm 2006. Tính đến ngày 28.12.2007, Sàn Giao dịch Chứng khoán TP HCM đã
thực hiện đợc 248 phiên giao dịch với tổng khối lợng giao dịch đạt hơn 2,3 tỷ
chứng khoán tơng đơng với tổng giá trị giao dịch toàn thị trờng đạt 224.000 tỷ
đồng, gấp 2 lần khối lợng và 2,8 lần giá trị giao dịch so với năm 2006. Bình quân
mỗi phiên giao dịch có 9,2 triệu chứng khoán đợc chuyển nhợng, tơng đơng với
980 tỷ đồng.
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội thực hiện thành công 248 phiên giao
dịch, với tổng khối lợng giao dịch toàn thị trờng đạt 616,3 triệu chứng khoán, t-

ơng đơng với tổng giá trị giao dịch toàn thị trờng đạt 63.859 tỷ đồng, tăng gấp 6
lần về khối lợng và 15,8 lần về giá trị giao dịch so với năm 2006. Quy mô giao
dịch tăng trởng mạnh khi mức giao dịch bình quân năm 2007 đạt 255 tỷ
đồng/phiên trong khi năm 2006 chỉ đạt 19 tỷ đồng/phiên.
Nhìn nhận khách quan từ góc độ thị trờng, bên cạnh những thành công, thị trờng
chứng khoán qua 1 năm hoạt động cũng ghi lại dấu ấn cho những giai đoạn
thăng trầm nhất định khi thị trờng trải qua những biến động trồi sụt thất thờng :
giai đoạn thị trờng bùng nổ trong 3 tháng đầu năm, thị trờng bắt đầu hạ nhiệt và
điều chỉnh mạnh vào 5 tháng giữa năm, tiếp đến là một đợt phục hồi trớc khi đi
vào thoái trào trong 4 tháng cuối năm.
Giai đoạn thị trờng bùng nổ trong 3 tháng đầu năm 2007
Đây là giai đoạn thị trờng có những đợt sóng cao, khiến Index của cả 2 sàn
giao dịch đều lập kỉ lục. Chỉ số VN - Index đã đạt mức đỉnh là 1.170,67 điểm
sau 7 năm hoạt động và HASTC - Index thiết lập mức đỉnh 459,36 điểm sau 2
năm hoạt động. Có thể nói, đây là giai đoạn thị trờng đạt mức tăng trởng với
tốc độ lớn nhất khi đạt mức tăng 126% chỉ trong vòng 3 tháng giao dịch.
Nhờ sự tăng trởng về giá của các cổ phiếu, tổng giá trị vốn hoá của thị trờng
trong giai đoạn này lên đến con số 398.000 tỷ đồng. So với tổng giá trị vốn
hoá 492.900 tỷ đồng của cả năm 2007, con số của 3 tháng đầu năm đã chiếm
tỷ trọng 4/5. Nhng điều quan trọng là đã góp phần gia tăng giá trị vốn hoá của
thị trờng không phải do số lợng chứng khoán niêm yết gia tăng mà do yếu tố
giá cổ phiếu tăng mạnh.
Giai đoạn thị trờng điều chỉnh từ tháng 4.2007 đến đầu tháng 9.2007
Với nỗi lo sợ về một thị trờng bong bóng, các cơ quan quản lý nhà nớc
cũng nh Chính phủ đã vào cuộc để giảm nhiệt thị trờng bằng các biện pháp
kiểm soát thị trờng chặt chẽ, ban hành những thiết chế để kiềm chế sự tăng tr-
ởng quá nóng của thị trờng. Phản ứng trớc điều này, thị trờng chứng khoán đã
có những đợt điều chỉnh rõ rệt. Một đợt điều chỉnh giảm của thị trờng đã diễn
ra trong một khoảng thời gian rất dài (từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 9).
Giai đoạn điều chỉnh này ghi nhận sự trầm lắng của cả 2 sàn HOSE và

HASTC, tất cả các yếu tố của thị trờng đều giảm sút nghiêm trọng. VN -
Index chỉ trong vòng 1 tháng giao dịch đã rơi xuống mức 905,53 điểm
(24.4.2007), giảm tới 22,6% so với mức đỉnh vào tháng 3. HASTC - Index trở
về mốc 321,44 điểm (24.4.2007), giảm 30% so với mức đỉnh. Thị trờng đã
mất điểm quá nhanh trong một thời gian ngắn khiến giá giao dịch của các cổ
phiếu đã trở về gần mức giá thiết lập vào đầu năm. Trong giai đoạn này, thị tr-
ờng cũng có một đợt hồi phục vào giai đoạn cuối tháng 5.2007 khi VN -
Index quay trở về mốc 1.107,52 điểm (23.5.2007). Nhng do tác động tâm lý
quá mạnh của các chính sách thị trờng trớc đó nh Chỉ thị 03, Luật thuế thu
nhập cá nhân, thị trờng nhanh chóng trở lại trạng thái mất cân bằng và liên
tục sụt giảm mạnh khiến giai đoạn đầu tháng 8, thị trờng xác lập mức đáy
883,9 điểm của VN - Index (6.8.2007) và 247,37 điểm của HASTC - Index
(23.8.2007).
Vào giai đoạn thị trờng xuống sâu nhất (khoảng đầu tháng 8), sàn HCM có
những phiên giao dịch chỉ có hơn 3 triệu cổ phiếu đợc khớp lệnh (ngày
30.7.2007 chỉ có 3.296.340 CP đợc giao dịch), sàn Hà Nội cũng chỉ có vẻn
vẹn 600.000 CP đợc chuyển nhợng thành công (ngày 8.8.2007 khớp lệnh
603.100 CP).
Giai đoạn này, các nhà đầu t nớc ngoài cũng tỏ ra khá thờ ơ khi lợng giao
dịch của khối này trên cả 2 sàn giao dịch đều sụt giảm mạnh. Giá trị giao
dịch bình quân của khối NĐTNN trong giai đoạn này đạt khoảng 170 tỷ
đồng/phiên, giảm tới 52% so với giai đoạn đầu năm.
Giai đoạn phục hồi của thị trờng vào những tháng cuối năm
Thị trờng bớc vào giai đoạn phục hồi mạnh mẽ trong khoảng thời gian đầu
tháng 9 đến cuối tháng 10.2007
Giá các cổ phiếu trên sàn có xu hớng phục hồi nhanh chóng, đặc biệt là các
mã cổ phiếu blue-chip trên cả 2 sàn đều lấy lại đợc những gì đã mất trong 6
tháng giữa năm, tuy nhiên, sức bật của các cổ phiếu không đủ mạnh để đa các cổ
phiếu trở về mức giá đỉnh thiết lập vào tháng 3. Trong giai đoạn này, VN - Index
đã có những phiên giao dịch vợt lên trên

ngỡng 1.100 điểm (1.106,6 điểm vào ngày 3.10.2007), HASTC - Index cũng gần
chạm trở lại ngỡng 400 điểm (393,59 điểm ngày 1.10.2007).
Tuy nhiên thị trờng sau một đợt phục hồi đã nhanh chóng điều chỉnh giảm vào 2
tháng cuối năm. Trong giai đoạn này thị trờng thỉnh thoảng cũng có các đợt phục
hồi giả với sự tăng lên mạnh mẽ của tất cả các yếu tố. Tuy nhiên sự phục hồi này
không duy trì đợc lâu, thậm chí đã có dấu hiệu suy giảm chỉ sau một phiên tăng
điểm, Chính điều này đẫ dẫn đến việc các nhà đầu t bị đọng vốn. Trong khi
nguồn cầu có xu hớng cạn kiệt thì nguồn cung vẫn tiếp tục gia tăng. Tơng quan
cung cầu mất cân bằng khiến thị trờng ngày càng tuột dốc cả về giá lẫn khối l-
ợng giao dịch và giá trị giao dịch. VN - Index giảm xuống dới ngỡng điểm 1.000
và chỉ xoay quanh mốc 900 điểm, với lợng chứng khoán chuyển nhợng rất hạn
chế.
2.3.4. Giai đoạn 2008 : Cùng xu thế chung của nền kinh tế, thị trờng chứng
khoán Việt Nam khép lại năm 2008 với sự sụt giảm mạnh
Nhìn lại thị trờng sau 1 năm giao dịch thấy những điểm nổi bật sau : Index giảm
điểm, thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh (nhiều mã cổ phiếu rơi xuống dới
mệnh giá), tính thanh khoản kém, sự thoái vốn của khối ngoại, sự can thiệp của
các cơ quan điều hành và sự ảm đạm trong tâm lý các nhà đầu t. Trong năm
2008, lợng cung tiếp tục đợc bổ sung đáng kể thông qua việc Chính phủ đẩy
mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc, đặc biệt là doanh nghiệp có quy mô
lớn, kinh doanh hiệu quả và việc bán bớt CP nhà nớc trong các doanh nghiệp đã
cổ phần hoá, cha kể hàng loạt ngân hàng, công ty chứng khoán, doanh nghiệp
phát hành trái phiếu, cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, dẫn đến tình trạng thị trờng
chứng khoán có nguy cơ bị thừa hàng. Tính từ đầu năm đến hết ngày
31.12.2008, thị trờng chứng khoán Việt Nam trải qua 3 giai đoạn chính :
Giai đoạn 1 : từ tháng 1 đến tháng 6 - thị trờng giảm mạnh do tác động từ
kinh tế vĩ mô
Khởi đầu năm tại mức điểm 921,07, VN - Index đã mất đi gần 60% giá trị và
trở thành một trong những thị trờng giảm điểm mạnh nhất trên thế giới trong
nửa đầu năm 2008.

Câc thông tin xấu tác động tới tâm lí nhà đầu t trong giai đoạn này chủ yếu
xuất phát từ nội tại nền kinh tế. Trong đó nổi bật là sự gia tăng lạm phát,
chính sách thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Nhà nớc, sự leo dốc của giá xăng
đầu và sức ép giải chấp từ phía ngân hàng đối với các khoản đầu t vào thị tr-
ờng chứng khoán.
Nhằm mục đích ngăn chặn đà suy giảm của thị trờng, câc cơ quan điều hành
bắt đầu đa ra những chủ trơng và biện pháp hỗ trợ :
- UBCKNN thu hẹp biên độ giao dịch
- SCIC tham gia mua vào cổ phiếu
- NHTM đợc vận động ngừng giải chấp
- Tổ chức niêm yết đợc khuyến khích mua vào cổ phiếu quỹ.
Tuy nhiên phần lớn các biện pháp này chỉ phát huy hiệu quả trong ngắn hạn,
và thị trờng tiếp tục sụt giảm. Cơn bão giải chấp cổ phiếu không ngừng tác
động tới tâm lý các nhà đầu t. Trong 103 phiên giao dịch của giai đoạn này có
tới 71 phiên VN - Index giảm điểm. Đỉnh điểm là chuỗi 34 phiên VN - Index
giảm điểm liên tiếp từ giữa tháng 4 đến đầu tháng 6.2008. Trong lịch sử hoạt
động của thị trờng chứng khoán, cha có năm nào UBCKNN phải can thiệp
vào thị trờng bằng các biện pháp mạnh tay nhiều nh năm 2008. Tổng cộng
trong năm 2008, UBCKNN đã có 4 lần thay đổi biên độ dao động giá trên cả
2 sàn chứng khoán. Nhằm hỗ trợ thêm cho sức cầu trên thị trờng, ngăn đà suy
giảm mạnh của các chỉ số chứng khoán, ngày 4.3.2008, Chính phủ đã đa ra
nhóm 19 giải pháp ứng cứu thị trờng. Các chính sách chủ yếu đợc thực hiện
thông qua việc sử dụng công cụ điều hành lãi suất cơ bản và thắt chặt đầu t
công đề hạn chế nguồn cung tiền trên thị trờng.
Giai đoạn 2 : tháng 6 tới đầu tháng 9 : phục hồi trong ngắn hạn
Nhờ vai trò dẫn dắt của một số cổ phiếu blue - chip nh STB, FPT, DPM, và
đặc biệt là SSI với sức cầu hỗ trợ từ đối tác nớc ngoài, cả 2 sàn chứng khoán
đã có những phiên tăng điểm mạnh trong giai đoạn này. VN - Index và
HASTC - Index liên tiếp vợt qua các ngỡng cản tâm lý quan trọng và thờng
xuyên có đợc những chuỗi tăng điểm kéo dài. Đây cũng là giai đoạn thị trờng

hoạt động sôi động nhất. Sức cầu mạnh kéo theo khối lợng giao dịch và giá trị
giao dịch thờng xuyên ở mức cao. VN - Index tăng đợc 168,55 điểm, tơng đ-
ơng 45,52%. Khối lợng giao dịch bình quân đạt 16,9 triệu CP & CCQ, tơng đ-
ơng 599,18 tỷ đồng/phiên. Trong giai đoạn này, nhóm cổ phiếu đợc yêu thích
nhất là nhóm cổ phiếu dầu khí (tăng 80,33%), nguyên vật liệu và công nghệ
(tăng 89,78%). Các đại diện tiêu biểu cho nhóm cổ phiếu này bao gồm : PVS,
PVD, PTC, HPG, FPT,
Giai đoạn 3 : từ tháng 9 đến tháng 12 - thị trờng rơi trở lại chu kì giảm do
tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu
Đây là thời kì VN - Index rơi trở lại xu hớng giảm, thậm chí đã phá vỡ đáy
thiết lập đợc trong giai đoạn đầu của năm 2008. Tổng kết cả giai đoạn này,
Vn - Index mất 223,48 điểm, tơng đơng 41,45%. Khối lợng giao dịch trung
bình đạt 15,82 triệu CP & CCQ, tơng đơng 497,58 tỷ đồng/phiên.
Nguyên nhân tác động lớn nhất tới thị trờng chứng khoán trong giai đoạn này
chính là sự lan tỏa mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới.
Hòa cùng xu thế giảm điểm của thị trờng chứng khoán các nớc, 2 chỉ số
chứng khoán tại sàn HOSE và HASTC liên tiếp giảm điểm. Trong 86 phiên
giao dịch tại HOSE, 49 phiên VN - Index mất điểm. Đáy mới thiết lập trong
giai đoạn này là 286,85 điểm vào ngày 10.12.2008.
Cùng với nỗ lực giải cứu nền kinh tế của Chính phủ và động thái từ Ngân hàng
Nhà nớc, xen lẫn giữa những phiên giảm điểm, thị trờng chứng khoán Việt Nam
vẫn có những phiên phục hồi mạnh. Tuy nhiên, các con sóng trên thị trờng th-
ờng rất ngắn và không ổn định. Kết thúc giai đoạn này, Vn - Index giảm mất
239,52 điểm, tơng đơng 43,15%. Tốc độ giảm mạnh nhất trong giai đoạn này
thuộc nhóm cổ phiếu các ngành nguyên vật liệu, công nghiệp, tài chính và công
nghệ. Nguyên nhân của sự suy giảm trong giai đoạn này đợc nhận định một phần
do sự tác động của xu thế chung thị trờng. Ngoài ra cũng là hệ quả của việc tăng
khá chóng mặt của các cổ phiếu này trong giai đoạn trớc đó. Một trong những đề
tài nóng hổi và đợc báo giới chú ý trong những tháng cuối năm là phong trào trả
cổ tức bằng tiền mặt, với tỉ lệ khá cao của các công ty niêm yết.

Giải pháp kịp thời trong những tháng cuối năm 2008 đợc thực hiện thông qua
việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản nhằm kích cầu sản xuất tiêu dùng, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vay vốn một cách dễ dàng hơn, đồng thời
giảm áp lực tín dụng cho các ngân hàng thơng mại.
2.3.5. Quý 1 năm 2009 đến nay
Thị trờng chứng khoán Việt Nam là thị trờng tăng trởng tệ nhất châu á tính từ
đầu năm 2009 đến nay. Lợi nhuận các công ty năm 2008 giảm tới 30%. Tuy
nhiên một số công ty vẫn có kết quả kinh doanh tốt và giá cổ phiếu của những
công ty này hiện vẫn ở trong mức rất hấp dẫn.
Thị trờng chứng khoán Việt Nam vẫn tiếp tục đi xuống trong năm 2009. Chỉ số
VN - Index từ đầu năm đến nay hạ 22%, mức hạ tệ nhất so với các thị trờng châu
á khác. Giá trị giao dịch cổ phiếu trung bình trong ngày tháng 2.2009 tại Sàn
giao dịch chứng khoán TPHCM và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội chỉ là 13
triệu USD. Tổng giá trị vốn hóa thị trờng rơi xuống mức khoảng 10 tỷ USD,
không một cổ phiếu niêm yết nào có giá trị vốn hóa thị trờng lớn hơn 1 tỷ USD
và chỉ có 4 cổ phiếu có giá trị vốn hóa hơn 500 triệu USD.
Nhà đầu t nớc ngoài đã giảm bán, sau khi bán ra số cổ phiếu với tổng giá trị 127
triệu USD trong khoảng thời gian từ tháng 9.2008 đến hết tháng 12.2008, nhà
đầu t nớc ngoài chỉ bán ra lợng cổ phiếu có giá trị khoảng 2 triệu USD từ đầu
năm đến nay. Nguyên nhân chính cho điều này là phần lớn tiền đầu t của nhà đầu
t nớc ngoài, nếu không tính đến những quỹ đóng, đã rút hết khỏi thị trờng Việt
Nam (Quỹ đầu t chứng khoán PXP Vietnam Emerging Equity Fund mới đây cho
phép nhà đầu t rút cổ phiếu ra và sau đó họ có thể bán số cổ phiếu này).
Cha hết, thông tin về lợi nhuận của các công ty không mấy tích cực. Tăng trởng
doanh số khoảng 40% so với cùng kì năm trớc nhng lợi nhuận hoạt động chỉ tăng
8%. Thua lỗ ở các khoản đầu t địa ốc và chứng khoán đẩy lợi nhuận ròng giảm
25%. Trong số 329 công ty niêm yết, 23 công ty thua lỗ, trong đó có cả một số
công ty trớc đây từng đợc nhà đầu t nớc ngoài hết sức a chuộng nh Công ty cổ
phần cơ điện lạnh (REE), Công ty cổ phần Gemadept (GMD) và Công ty cổ
phần cáp và vật liệu viễn thông (SAM).

Suốt 2 tháng đầu năm 2009, thị trờng chứng khoán luôn trong tình trạng ảm đạm,
èo uột. Cảnh vắng lặng tại sàn giao dịch cho thấy thị trờng chứng khoán đã
không còn sức hấp dẫn đối với nhà đầu t trong thời điểm này. Bởi trong suốt năm
2008, thị trờng vẫn tiếp tục chuỗi ngày suy giảm với mức độ ngày càng trầm
trọng hơn. Nhà đầu t mất niềm tin vào thị trờng, các ngân hàng bán cổ phiếu giải
chấp Tất cả những yếu tố này đã làm thị trờng giảm sâu. Bất ngờ sáng 11.3 thị
trờng chứng khoán tập trung của Việt Nam trở nên rất sôi động, mở đầu cho một
loạt các phiên tăng điểm của thị trờng chứng khoán. Các nhà đầu t đã chứng kiến
một tháng 3 tăng điểm ấn tợng nhất kể từ tháng 11.2008. VN - Index không chỉ
khởi sắc về điểm số mà khối lợng giao dịch cũng tăng mạnh trong 2 tuần cuối
tháng, mức tăng kỉ lục trong nửa năm qua. Kết thúc tháng 3, VN - Index đã tăng
lên 280,67 điểm, tăng 14%. Chỉ số HASTC tăng 17% lên 98,37.
Hi vọng trong thời gian tới, chứng khoán của nớc ta sẽ ngày càng khởi sắc và
phát triển cùng với nhiều sự thay đổi trong thời gian gần đây.
2.4. Tác động đến nền kinh tế của thị trờng chứng khoán
2.4.1. Những thuận lợi cho sự hình thành một thị trờng chứng khoán thực sự
ở Việt Nam
Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đã có những tiến triển cơ bản tạo điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển và hình thành của thị trờng chứng khoán. Chúng ta đã đạt đ-
ợc những thành tựu đáng khích lệ. Lạm phát đã giảm từ 67% năm 1992 xuống
còn 14,4% năm 1994 và 12,7% năm 1995. Tỉ lệ tăng trởng kinh tế bình quân
trong 5 năm trở lại đây luôn đợc duy trì ở mức 9%, nền kinh tế đã bắt đầu ổn
định. Thu nhập của cả dân c đã tăng và trong nội bộ nền kinh tế đã có tích lũy.
Nền kinh tế thị trờng ngày càng phát triển, chinh sách một giá tạo điều kiện cho
hàng hóa lu thông thuận tiện giữa các khu vực trong nớc. Lãi suất tín dụng và lãi
suất tiết kiệm đã đợc ấn định trên cơ sở tơng quan giữa cung và cầu vốn trên thị
trờng. Quy luật cung cầu và quy luật giá trị đang phát huy những tác động tới
nền kinh tế.
Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển khá nhanh. Số doanh nghiệp
cổ phần và liên doanh thu hút nhiều vốn trong nớc cũng nh vốn đầu t nớc ngoài

cũng tăng nhanh. Sự ra đời của các cổ phiếu, trái phiếu do các công ty cổ phần,
các doanh nghiệp nhà nớc phát hành tạo điều kiện thuận lợi cho thị trờng chứng
khoán ra đời.
Thêm vào đó nền kinh tế thị trờng cũng đang làm tiến tiển dần thói quen và nếp
nghĩ của dân chúng sẽ đợc công nhận vì nó đáp ứng đợc nhu cầu của ngời đầu t
vốn, ngời sử dụng vốn và cả Nhà nớc.
Các yếu tố trên đây tạo thuận lợi cho sự ra đời của thị trờng chứng khoán và
khẳng định là thị trờng chứng khoán sẽ đợc công nhận vì nó đáp ứng nhu cầu của
ngời đầu t vốn, ngời sử dụng vốn và cả Nhà nớc.
2.4.2. Những vấn đề còn tồn tại
Bên cạnh những thuận lợi kể trên, hiện nay vẫn còn tồn tại các khó khăn cản trở
sự hình thành thị trờng chứng khoán tại Việt Nam.
Nhìn toàn cảnh, nền kinh tế vẫn cha thực sự ổn định, nguy cơ lạm phát vẫn còn
làm các nhà quản lý kinh tế đau đầu. Hiệu quả của sản xuất trong nớc còn thấp,
nhất là ở các doanh nghiệp nhà nớc. Các sản phẩm nội địa của ta đang phải cạnh
tranh chật vật với các sản phẩm của nớc ngoài. Sự thua lỗ của nhiều doanh
nghiệp quốc doanh và sự quản lý cồng kềnh của ngành ngân hàng tài chính gây
nên khó khăn và tâm lý lo ngại cho các nhà đầu t.
Xét riêng về các khó khăn đối với sự hình thành thị trờng chứng khoán, ta thấy
vẫn còn những tồn tại lớn tập trung ở các điểm sau :
Thứ nhất, hàng hoá (các loại chứng khoán) để giao dịch trên thị trờng chứng
khoán cha đủ tiêu chuẩn về chất lợng cũng nh cha đủ về khối lợng để giao dịch.
Khi thị trờng chứng khoán chính thức đợc hình thành, số lợng và giá trị cổ phiếu
hiện nay còn quá nhỏ, cha đáp ứng đợc đòi hỏi của thị trờng. Các loại trái phiếu
tuy có đa dạng nhng phần lớn là các loại trái phiếu ngắn hạn, không phải đối t-
ợng chính để mua bán trên thị trờng chứng khoán.
Thứ hai, hệ thống ngân hàng tuy đã đổi mới nhng cha mạnh. Cần tiếp tục phát
triển để đáp ứng các yêu cầu về thanh toán, chuyển giao,lu trữ và thực hiện các
dịch vụ khác.
Thứ ba, cha có khung pháp lý đồng bộ và đầy đủ cho sự hoạt động của thị trờng

chứng khoán. Hiện nay mặc dù đã có Luật công ty, Luật dân sự, chúng ta vẫn
thiếu các văn bản pháp luật về chứng khoán và kinh doanh chứng khoán. Các văn
bản có liêm quan về phát hành chứng khoán, kiểm toán, kế toán tuy đã có nhng
cha đồng bộ để có khả năng bao quát toàn bộ hoạt động của thị trờng. Thêm vào
đó là việc chấp hành không nghiêm chỉnh luật pháp đã kéo theo những hậu quả
tiêu cực làm giảm lòng tin trong dân chúng về hiệu lực của pháp luật.
Thứ t, Việt Nam cha tổ chức đợc một hệ thống định chế tài chính hoạt động kinh
doanh và đầu t chứng khoán. Một khi cha có các tổ chức này thì không thể hình
thành đợc một thị trờng chứng khoán hoạt động theo đúng nguyên tắc của thị tr-
ờng.
Thứ năm, thiếu cán bộ, kể cả cán bộ quản lí giám sát hoạt động của thị trờng
chứng khoán và cán bộ trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán. Lâu nay đã có
tới hàng nghìn cán bộ từ nhiều cơ quan đã đi khảo sát về thị trờng chứng khoán,
nhng cha có đội ngũ đợc đào tạo cơ bản về quản lý và kinh doanh trên thị trờng
chứng khoán.
Nh vậy, để thành lập đợc một thị trờng chứng khoán hoạt động tốt cần phải tiến
hành một khối lợng các công việc chuẩn bị rất lớn, đồng bộ trên nhiều lĩnh vực
khác nhau của nền kinh tế. Chúng ta cũng cần tuyên truyền, giáo dục các kiến
thức cơ sở về thị trờng chứng khoán cho nhân dân, củng cố lòng tin của họ bằng
các luật, quy định chặt chẽ và khẩn trơng đào tạo đội ngũ cán bộ chứng khoán,
thiết lập hệ thống thông tin kinh tế tài chính rộng lớn.
Kết luận : Sự ra đời của thị trờng chứng khoán Việt Nam là một quá trình tất
yếu. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhng sự ra đời và hoạt động của thị trờng chứng
khoán đã tạo tiền đề cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế quốc dân.
Chơng 3
Định hớng và giải pháp để phát triển thị trờng
chứng khoán ở Việt Nam
3.1. Định hớng phát triển thị trờng chứng khoán ở Việt Nam
Thị trờng chứng khoán là một thị trờng cao cấp có tác động rất lớn đến nền kinh
tế của đất nớc. Vì vậy quá trình thành lập thị trờng chứng khoán phải rất thận

trọng. Bên cạnh việc nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của nớc ngoài, chúng ta
phải tiến hành phân tích đánh giá các điều kiện trong nớc để xây dựng thành
công thị trờng chứng khoán. Vì vậy, mục tiêu của thị trờng chng khoám Việt
Nam đợc đặt ra nh sau :
Một là, phát triển thị trờng chứng khoán phải dựa trên chuẩn mực chung của thị
trờng và các thông lệ quốc tế tốt nhất, phù hợp với điều kiện thực tế và định hớng
phát triển kinh tế xã hội của đất nớc, tích cực hội nhập với thị trờng tài chính khu
vực và quốc tế.
Hai là, phát triển thị trờng chứng khoán đồng bộ, toàn diện, hoạt động hiệu quả,
vận hành an toàn, lành mạnh, vừa góp phần huy động vốn cho đầu t phát triển
của xã hội, vừa tạo ra những cơ hội đầu t sinh lợi, góp phần nâng cao mức sống
và an sinh xã hội.
Ba là, phát triển thị trờng chứng khoán nhiều cấp độ, bảo đảm chứng khoán đợc
giao dịch theo nguyên tắc thị trờng, có sự quản lý, giám sát của Nhà nớc; bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp và có chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia
thị trờng chứng khoán.
Bốn là, đa dạng hoá các sản phẩm, nghiệp vụ của thị trờng, đảm bảo cho các tổ
chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán hoạt động an toàn, hiệu quả dựa trên nền
tảng quản trị rủi ro, phù hợp với các chuẩn mực chung và thông lệ quốc tế.
Năm là, phát triển thị trờng chứng khoán trong mối tơng quan với việc phát triển
thị trờng tiền tệ, thị trờng bảo hiểm, nhằm tạo ra một hệ thống thị trờng tài chính
thống nhất, đồng bộ, có sự quản lí, giám sát của Nhà nớc. Hoạt động quản lí,
điều hành, giám sát phải thống nhất về mục tiêu, mục đích, định hớng và giải
pháp thực hiện.
Sáu là, chủ động hội nhập thị trờng tài chính quốc tế, nâng cao khả năng cạnh
tranh, từng bớc thu hẹp về khoảng cách phát triển giữa thị trờng chứng khoán
Việt Nam so với các thị trờng khác trong khu vực và thế giới.
3.2. Giải pháp phát triển thị trờng chứng khoán ở Việt Nam
Trên cơ sở những mục tiêu nêu trên, giải pháp cụ thể sẽ tập trung vào các vấn đề
sau :

Thứ nhất, tăng quy mô, củng cố tính thanh khoản cho thị trờng chứng khoán,
phấn đấu đa tổng giá trị vốn hoá thị trờng cổ phiếu đạt từ 80% đến 110% GDP
vào năm 2020. Phát triển
thị trờng trái phiếu trở thành một kênh huy động vốn và phân bổ vốn quan trọng
cho phát triển kinh tế. Chú trọng đặc biệt phát triển thị trờng trái phiếu Chính
phủ để huy động vốn cho ngân sách nhà nớc và đầu t xây dựng cơ bản. Củng cố
một cách căn bản đầu t chứng khoán,, phát triển và đa dạng hoá cơ sở nhà đầu t,
phát triển hệ thống nhà đầu t tổ chức, khuyến khích nhà đầu t nớc ngoài đầu t dài
hạn, tiếp tục phát triển hệ thống nhà đầu t cá nhân.
Thứ hai, tăng tính hiệu quả của thị trờng trên cơ sở tái cấu trúc thị trờng chứng
khoán, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, chuyên nghiệp hoá việc tổ chức và vận hành
hạ tầng công nghệ thông tin. Từng bớc hiện đại hoá các SGDCK với các hệ
thống giao dịch, giám sát và công bố thông tin hiện đại và có khả năng kết nối
với các SGDCK quốc tế, đa dạng hóa phơng thức giao dịch và sản phẩm thị tr-
ờng, đáp ứng nhu cầu của thị trờng. Hiện đại hoá hạ tầng công nghệ thông tin tại
các SGDCK, TTLKCK cũng nh các công ty chứng khoán và các tổ chức khác có
liên quan, nhằm bảo đảm hạ tầng công nghệ thông tin đồng bộ, thống nhất, tơng
thích và an toàn.
Thứ ba, nâng cao sức cạnh tranh của các định chế trung gian thị trờng và các tổ
chức phụ trợ. Hệ thống các tổ chức trung gian chứng khoán phải đợc củng cố
chuyên nghiệp hơn, có đủ năng lực tài chính, công nghệ và nguồn nhân lực để
cạnh tranh với các tổ chức kinh doanh chứng khoán trong khu vực và phù hợp
với xu hớng chung trên thế giới là mô hình tổ chức các công ty chứng khoán theo
mô hình đa năng và củng cố hệ thống quản trị rủi ro các định chế.
Thứ t, tăng cờng năng lực quản lí, giám sát, thanh tra và cỡng chế thực thi của cơ
quan quản lí nhà nớc trong lĩnh vực chứng khoán trên cơ sỏ phân định rõ chức
năng giám sát giữa Bộ Tài chính/UBCKNN với các bộ ngành, giữa các cấp giám
sát khác nhau theo hớng chuyên biệt hoá; tăng cờng vai trò giám sát của các tổ
chức tự quản và tổ chức hiệp hội, thiết lập cơ chế chính thức phối kết hợp giữa
các cơ quan quản lí nhà nớc trong và ngoài nớc trong lĩnh vực chứng khoán,

ngân hàng, bảo hiểm, nhằm bảo đảm hiệu quả hoạt động giám sát, cớng chế thực
thi, bảo đảm an toàn cho hoạt động chứng khoán trên thị trờng chứng khoán Việt
Nam.
Thứ năm, chủ động hội nhập quốc tế, có lộ trình phù hợp với trình độ phát triển
của thị trờng. Hội nhập quốc tế là xu hớng tất yếu hiện nay nhằm nâng cao vai
trò, vị thế, tăng khả năng cạnh tranh của thị trờng chứng khoán Việt Nam trong
khu vực và trên thế giới. Để có đợc những lợi ích lớn nhất từ hội nhập quốc tế và
giảm thiểu đợc những rủi ro khi tham gia vào quá trình này, cơ quan quản lí cần
chủ động xây dựng một chính sách hội nhập, lộ trình hội nhập có tính đến yếu tố
trình độ phát triển của thị trờng chứng khoán và nền kinh tế Việt Nam trong từng
giai đoạn.
Tổng kết
Nh vậy, trải qua hơn 10 năm phát triển, thị trờng chứng khoán Việt Nam bớc đầu
đã có những thành công đáng ghi nhận. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế
đất nớc đang trong quá trình hội nhập và phát triển mạnh mẽ thì thị trờng chứng
khoán Việt Nam cần phải phát huy hơn nữa vai trò của mình, nh là một kênh huy
động vốn chủ yếu của nền kinh tế. Chính vì vậy, nghiên cứu thực trạng của thị tr-
ờng chứng khoán Việt Nam hiện nay là một vấn đề hết sức cần thiết. Phát triển
thị trờng chứng khoán ở Việt Nam với các giải pháp phát triển đồng bộ sẽ tác
động tích cực tới sự phát triẻn của nền kinh tế quốc dân. Do đó, phát triển
nhanh thị trờng vốn, nhất là thị trờng vốn dài hạn và trung hạn, tổ chức và vận
hành thị trờng chứng khoán an toàn hiệu quả, hình thành đồng bộ thị trờng tiền
tệ, tăng khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm
trong chiến lợc phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nớc ta hiện nay (trích báo cáo
chính trị của Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII).

×