Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Những khó khăn khi học theo hình thức tín chỉ của sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.76 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Khi xã hội ngày càng phát triển, yêu cầu đối với mỗi cá nhân ngày càng
cao.Vai trò của giáo dục và đào tạo nói chung, đào tạo đại học nói riêng có một ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực có trình độ cao cho
đất nước, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam đã gia nhập WTO và đang
trên đà phát triển, chuyển đổi cơ cấu từ một nước nông nghiệp sang công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Để có thể nắm bắt toàn diện những kiến thức chuyên môn ở
bậc đại học đòi hỏi mỗi sinh viên phải có nhiều nỗ lực trong hoạt động học tập,
đặc biệt phải giành thời gian cho việc tự học, tự nghiên cứu. Hiện nay, các
trường đại học ở nước ngoài cũng như ở Việt Nam đã và đang đào tạo sinh viên
theo hình thức học tín chỉ lấy nhân tố người học làm trung tâm trong việc giáo
dục. Vấn đề tự học đóng vai trò quan trọng trong việc giúp sinh viên lĩnh hội
kiến thức môn học cũng như phát huy năng lực của bản thân trên cơ sở chính là
sự hướng dẫn của giảng viên.
Trong bối cảnh đó, để nâng cao chất lượng của sinh viên của nhà trường, từ
năm học 2013- 2014 Trường Đại học Lao Động – Xã Hội (CSII) đã đưa hình thức
đào tạo theo tín chỉ vào hệ thống đào tạo của trường thay đổi hình thức đào tạo
niên chế trước đây. Sinh viên khóa K13 là thế hệ sinh viên đầu tiên được nhà
trường đào tạo theo hình thức mới này, tuy nhiên vì là lần đầu áp dụng hình thức
mới, sinh viên cũng như Nhà trường đã gặp không ít những khó khăn, bất cập
trong việc áp dụng phương pháp học tập, giảng dạy . Sinh viên vẫn còn rất nhiều
vướng mắc, khó khăn khi học tập, chưa thực sự dành nhiều thời gian cho việc tự
học, chưa xây dựng và rèn luyện được kĩ năng tự học hợp lí. Do vậy, vấn đề nghiên
cứu các biện pháp phát huy tính tích cực của sinh viên khi học theo phương thức
tín chỉ ngay từ những năm đầu là vấn đề cần được quan tâm. Vì tính cấp thiết của
đề tài, chúng em đã thực hiện bài tiểu luận “ Những khó khăn khi học theo hình
thức tín chỉ của sinh viên khóa K13 tại trường Đại học Lao Động – Xã Hội
(CSII)” nhằm tìm ra nguyên nhân cũng như đưa ra một số giải pháp, kiến nghị cho
vấn đề.
2. Lịch sử nghiên cứu


Hình thức học tín chỉ được Bộ Giáo dục và Đào tạo áp dụng thí điểm tại một
số trường Đại học trong năm học 2005 -2006, đến thời điểm hiện tại đã được nhân
rộng trên quy mô cả nước. Hầu hết các trường Đại học tại Việt Nam đều đã áp
dụng hình thức này, tuy nhiên Trường Đại học Lao Động – Xã Hội (CSII) chỉ mới
áp dụng hình thức này trong đầu năm học này (2013 -1014) cho sinh viên khóa
K13 của trường. Chính vì hình thức này chỉ mới được áp dụng tại trường nên đề tài
“ Những khó khăn khi học theo hình thức tín chỉ của sinh viên khóa K13 tại trường
Đại học Lao Động – Xã Hội (CSII)” cũng là một đề tài mới lần đầu tiên được lớp
ĐH12CT tiến hành nghiên cứu.
3. Mục đích, mục tiêu nghiên cứu
Trong quá trình học tập theo tín chỉ của sinh viên ULSA2 khóa 2013, chúng
ta cần hiểu rõ việc học tập theo tín chỉ, qua đó đề ra được mục đích và mục tiêu
nghiên cứu như sau:
Với mục đích nghiên cứu đề tài tập trung cho việc học tập của mỗi cá nhân
cũng như tập thể nhóm. Tuy nhiên, thông qua đề tài này nhóm cũng mong nuốn
đưa đến cho nhà trường cũng như các bạn sinh viên thấy được những tích cực cũng
như tiêu cực đang tồn tại trong nhà trường từ đó đưa ra những giải pháp giải quyết
các vấn đề, nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường.
Mục tiêu của đề tài: tìm hiểu được đâu là những khó khăn mà sinh viên khóa
K13 hiện tại đang gặp phải trong quá trình học tập và rèn luyện tại trường. Đâu là
nguyên nhân chính?
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Hiện nay, sinh viên đang theo học theo các hệ Đại học, Cao đẳng chính quy
của trường như khóa K11, K12 đều đang học theo hình thức đào tạo theo niên chế
và chỉ có khóa K13 là được đào tạo theo hình thức tín chỉ. Vì vậy, đối tượng
nghiên cứu của đề tài này được tập trung vào sinh viên khóa K13 đang theo học hệ
Đại học chính quy của nhà trường
Năm học 2013 -2014, Trường Đại học Lao Động – Xã Hội ( CSII) đã tuyển
sinh hơn 1400 sinh viên cho 05 nghành học: Kế toán, Bảo hiểm, Quản trị nhân lực,
Công tác xã hội và Quản trị kinh doanh được chai làm 15 lớp trong đó hệ Đại học

gồm 04 lớp quản trị nhân lực, 04 lớp Kế toán, 01 lớp Công tác xã hội, 01 lớp Bao
hiểm và 01 lớp Quản trị kinh doanh. Vì số lượng sinh viên các lớp cao và nhiều lớp
nên nhóm chúng em chỉ thực hiện nghiên cứu trong phạm vi 02 lớp của khoa Quản
lý lao động : Đ13NL2 và Đ13NL4 nhằm thu hẹp phạm vi, dễ dàng trong công tác
điều tra, nghiên cứu cũng như trao đổi giữa các bạn sinh viên.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của một
người học bình thường để học một môn học cụ thể, bao gồm thời gian lên lớp, thời
gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các phần việc khác đã được quy định
ở thời khóa biểu và thời gian dành cho đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề,
viết hoặc chuẩn bị bài. Đào tạo theo tín chỉ không tổ chức theo năm học mà theo
học kỳ. Một năm học có thể tổ chức đào tạo từ 2 đến 3 học kỳ, mỗi chương trình
đào tạo của một ngành học nhất định không tính theo năm mà tính theo sự tích lũy
kiến thức của sinh viên, sinh viên tích lũy đủ số tín chỉ quy định cho một ngành
học thì được cấp bằng tốt nghiệp đại học, được ra trường.
5.2: Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện bài tiểu luận này nhóm chúng em đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu nhằm thu thập thông tin cũng như phân tích vấn đề đặt ra.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Là hệ thống các câu hỏi được xếp đặt
trên cơ sở các nguyên tắc: tâm lý, logic và theo nội dung nhất định; nhằm tạo điều
kiện cho người được hỏi thể hiện được quan điểm của mình với những vấn đề
thuộc về đối tượng nghiên cứu và người nghiên cứu thu nhận được các thông tin cá
biệt đầu tiên đáp ứng các yêu cầu của đề tài và mục tiêu ngiên cứu.
Sưu tầm tài liệu: Trong bài này nhóm em dung phương pháp sưu tầm tài
liệu từ giáo trình, sách tham khảo, tài liệu trên mạng để thu thập các thông tin
liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Sau khi thu thập được những thông
tin cần thiết qua phương pháp điều tra bảng hỏi và phương pháp sưu tầm tài liệu;
thì tiến hành thống kê các thông tin và số liệu có được; xem thông tin và số liệu

nào quan trọng cần đưa vào trong bài để tiến hành phân tích, đánh giá làm rõ
vấn đề.
Ngoài ra nhóm còn sử dụng các phương pháp khác như: tổng hợp, phân
tích, so sánh, phỏng vấn sâu nhằm thực hiện đề tài được tốt hơn
6. Đóng góp mới của đề tài
Việc nghiên cứu những khó khăn của sinh viên khi bước đầu bước vào hình
thức học tín chỉ là một đóng góp mới mẻ cho công trình nghiên cứu, bởi lẽ từ trước
tới nay chưa có một công trình nghiên cứu nào có liên quan đến vấn đề này. Khi
nghiên cứu vấn đề này đã có một số đóng góp nhất định: trước hết là đóng góp cho
nhà trường, đề tài bước đầu tạo cơ sở để nhà trường nắm bắt được thông tin cũng
như các vấn đề cần thiết của sinh viên khi học theo hình thức tín chỉ để nhà trường
có thể điều tiết, xây dựng kế hoạch cho sinh viên trong nhà trường. Bên cạnh
những đóng góp cho nhà trường, đề tài nghiên cứu này cũng mang đến những ý
nghĩa thiết thực cho sinh viên đặc biệt là sinh viên khóa K13: Đa số sinh viên khi
tiếp xúc với hình thức học tín chỉ sẽ gặp rất nhiều khó khăn, bởi hình thức học tín
chỉ có rất nhiều khác biệt so với việc học theo học phần, có nhiều sinh viên vẫn
chưa được tiếp cận hình thức học này. Như vậy khi tiếp cận với đề tài nghiên cứu
này, sinh viên sẽ hiểu được phần nào quy trình học, cách đăng kí môn học và
những hình thức liên quan của việc học theo tín chỉ, tạo tiền đề cho sinh viên tìm ra
những phương pháp thích hợp với hệ thống đào tạo cũng như năng lực bản thân,
bên cạnh đó sinh viên có thể tự điều chỉnh, sắp xếp được thời gian biểu phù hợp,
đầu tư cho việc học tập của mình tốt hơn. Khi nghiên cứu vấn đề này giúp cho
chúng em cũng nhận thấy được hiện nay không chỉ có sinh viên mà nhà trường
cũng đang gặp không ít khó khăn khi chuyển đỏi hình thức đào tạo từ niên chế
sang tín chỉ.Việc chuyển đổi cơ chế vẫn còn nhiều bất cập và chưa thể hoàn thiện
một cách nhanh chóng, qua đây cũng giúp nhà trường đánh giá đúng thực trạng
học học chế tín chỉ của sinh viên, tính phù hợp của chương trình đào tạo với thực
tiễn và nhu cầu giảng dạy, từ đó có những điều chỉnh hợp lý trong nội dung,
chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu của xã hội.
7. Ý nghĩa

Việc nghiên cứu đề tài “Những khó khăn khi học theo hình thức tín chỉ của
sinh viên khóa K13 tại trường Đại học Lao Động – Xã Hội (CSII)” không chỉ phục
vụ việc học tập cho cá nhân và tập thể lớp ĐH12CT mà nó còn mang những ý
nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Ý nghĩa lý luận: Việc chuyển đổi hệ thống đào tạo theo tín chỉ cho thấy
tầm nhìn mới của Nhà trường trong phương thức đào tạo trong quá trình phát triển
bền vững. Bên cạnh đó cũng cho thấy hình thức dào tạo này phù hợp với sự chuyển
hướng tất yếu trong nền giáo dục Việt Nam hiện nay. Trong khi các trường Đại
học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã bắt đầu đồng bộ chuyển qua hình thức
này trong bảy năm trở lại đây( theo Công văn số 10105/BGDĐT-ĐH&SĐH ngày
21/9/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc Hướng dẫn thực hiện
nhiệm vụ năm học 2007-2008 về giáo dục đại học) thì Trường Đại học Lao Động –
Xã Hội (CSII) chỉ mới áp dụng hình thức đào tạo tín chỉ trong năm học 2013 –
2014, điều đó cũng cho thấy Nhà trường đã bắt đầu có những hoạch định phát triển
theo quy mô rộng lớn hơn, thay đổi cách thức đào tạo nâng cao chất lượng học của
sinh viên. Đây cũng được coi là năm thí điểm hình thức này cho sinh viên theo học
tại trường tạo tiền đề cho các khóa sau khi hình thức này được nhân rộng trên quy
mô toàn trường. Không chỉ vậy việc thay đổi hình thức đào tạo đã tạo nên những
thay đổi tích cực trong ý thức học tập của sinh viên, sinh viên cũng chủ động trong
việc tự tìm hiểu và nghiên cứu các đề tài khoa học phục vụ cho việc tìm hiểu sâu
vào kho tàng kiến thức rộng lớn của nhân loại.
Ý nghĩa thực tiễn: Ngoài những ý nghĩa lý luận vừa nêu việc nghiên cứu
đề tài cũng thấy chuyển đổi hình thức đào tạo đã và đang đem lại những lợi ích
nhất định cho sinh viên học tập rèn luyện tại trường. Sinh viên được chủ động, linh
hoạt trong chính việc học tập của bản thân mình, bên cạnh đó cũng tạo điều kiện
cho nàh trường trong việc sắp xếp quy trình học, rút ngắn quá trình đạo tạo nhưng
không làm giảm chất lượng thực của sinh viên. Ngoài ra, chương trình học của sinh
viên cũng được chia làm những phần cụ thể theo một trật tự logic nhất định, chú
trọng cho sinh viên thực hành nhiêu hơn thay cho hình thức học nặng về lý thuyết
trước đây. Chương trình đào tạo theo hệ tín chỉ cũng bộc lộ những ưu điểm thuyết

phục phù hợp với quá trình phát triển nhanh và mạnh của nước nhà. Việc đào tạo
nguồn nhân lực có trình độ, chuyên môn kỹ thuật cao phù hợp với cơ cấu công
nghiệp hóa hiện đại hóa mà đất nước ta đang hướng tới trong thời gian tới đã mở ra
những hướng đi mới cho nền giáo dục và đào tạo của nước nhà.
Như vậy việc áp dụng hệ thống đào tạo theo tín chỉ là điều kiện thiết yếu
để cho sinh viên có cơ hội phát huy hết năng lực trên mọi mặt và đây cũng là xu
thế chung của nước ta trong thời đại mới.
8. Kết cấu đề tài
Đề tài được kết cầu làm 03 phần lớn, cụ thể như sau:
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN, KHÁT QUÁT CHUNG
2. THỰC TRẠNG HIỆN NAY TẠI TRƯỜNG
3. NGUYÊN NHÂN
4. GIẢI PHÁP
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Tín chỉ (credit)
Tín chỉ là đại lượng đo khối lượng lao động học tập trung bình của người
học, tức là toàn bộ thời gian mà một người học bình thường phải sử dụng để học
một học phần, bao gồm:
- Thời gian học tập trên lớp;
- Thời gian học tập trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc làm các phần việc
khác đã được quy định ở đề cương môn học;
- Thời gian dành cho việc tự học ngoài lớp như đọc sách, nghiên cứu, giải
quyết vấn đề hoặc chuẩn bị bài
Tín chỉ còn được hiểu là khối lượng kiến thức và kỹ năng theo yêu cầu của
môn học mà người học cần phải tích luỹ được trong một khoảng thời gian nhất
định.

1.2 Đơn vị tín chỉ (credit unit)
Một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết; 30 – 45 tiết thực hành,
thí nghiệm hoặc thảo luận; 45 – 90 giờ thực tập tại cơ sở; 45 – 60 giờ làm tiểu luận,
bài tập lớn hoặc đồ án, khóa luận tốt nghiệp.
Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu
được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân.
Một tiết học được tính bằng 45 phút. Số tín chỉ của mỗi học phần phải là một số
nguyên.
1.3 Giờ tín chỉ (credit hour)
Giờ tín chỉ là một trong các giá trị sau đây:
- Một tiết học lý thuyết và hai giờ chuẩn bị cá nhân.
- Hai tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận và hai giờ chuẩn bị cá nhân.
- Ba giờ tự học, tự nghiên cứu.
1.4 Hình thức tổ chức giờ tín chỉ
Hình thức tổ chức giờ tín chỉ là cách thức tổ chức thực hiện các hoạt động
của giảng viên và sinh viên ứng với cách tổ chức chương trình môn học/ bài học,
trong đó coi trọng cả khâu tự học, năng lực nghiên cứu, thực tập, thực hành, thực tế
nhằm tích luỹ đủ khối lượng kiến thức theo yêu cầu của phương thức đào tạo theo
hệ thống tín chỉ.
Có các hình thức tổ chức giờ tín chỉ như sau:
- Dạy, học trong lớp: Thường là dạy, học giờ lý thuyết gồm nghe thuyết
trình, ghi bài giảng, làm và chữa bài tập, thảo luận và các hoạt động khác do giảng
viên yêu cầu;
- Dạy, học trong phòng thí nghiệm, hiện trường : Làm thí nghiệm, thực
hành, thực tập, điền dã (gọi chung là dạy, học thực hành, thực tập);
- Tự học ngoài lớp, ngoài phòng thí nghiệm: Tự học, tự nghiên cứu, các hoạt
động theo nhóm để hỗ trợ thảo luận, thực hành, thực tập
1.5. Các loại học phần
Có 2 loại học phần: học phần bắt buộc và học phần tự chọn.
- Học phần bắt buộc là học phần chứa đựng những nội dung kiến thức chính

yếu của mỗi chương trình và bắt buộc sinh viên phải tích lũy.
- Học phần tự chọn là học phần chứa đựng những nội dung kiến thức cần
thiết, nhưng sinh viên được tự chọn theo hướng dẫn của trường nhằm đa dạng hóa
hướng chuyên môn hoặc được tự chọn tùy ý để tích lũy đủ số học phần quy định
cho mỗi chương trình.
2. Thực trạng việc áp dụng hệ thống đào tạo tín chỉ tại trường ULSAII
2.1 Thuận lợi
Quá trình đào tạo tín chỉ trong giai đoạn thử nghiệm đã bước vào thời gian
gần kết thúc năm thứ nhất. Sinh viên cũng phần nào thích ứng với những chuyển
biến mới khi thay đổi từ cách học ở phổ thông sang cách học đại học. Kết quả học
tập, rèn luyện, phương pháp đạo tạo theo hình thức học tín chỉ dần bộc lộ được
những thuận lợi mà hình thức học niên chế không có được.
Nhóm đã tiến hành điều tra bằng bảng hỏi cho 146 bạn sinh viên ở 02 lớp
Đ13NL2, Đ13NL4 và phỏng vấn sâu 02 bạn lớp Đ13KD, Đ13NL1. Quá trình điều
tra và phỏng vấn đã thu thập được những thông tin hữu ích, các bạn sinh viên cho
biết vì là chuyển đổi thẳng từ cách học của phổ thông sang cách học tín chỉ nên các
bạn được trực tiếp tìm hiểu những thông tin cần thiết về hệ thống đào tạo tín chỉ,
không phải chuyển từ hệ thống niên chế sang tín chỉ, các thông tin không bị rối
loạn giữa hai hệ thống đào tạo này. Bên cạnh đó thông qua các câu hỏi trong 52
bảng hỏi hợp lệ của nhóm cho thấy hệ thống đào tạo tín chỉ đã tạo nên những thuận
lợi cho sinh viên nổi bật.
Đầu tiên có thể thấy sau một học kỳ áp dụng hệ thống đào tạo tín chỉ đã có
một số sinh viên thích ứng được với hình thức đào tạo này (36,5%). Điều này cho
thấy việc áp dụng học chế tín chỉ tại trường đang có những chuyển biến tích cực
tạo điều kiện cho sinh viên thay đổi ý thức hệ không còn phụ thuộc quá nhiều vào
giáo trình cũng như giảng viên. Học chế tín chỉ áp dụng phương thức sinh viên tự
đăng ký môn học, giáo viên cũng như số tín chỉ trong năm học của mình sao cho
phù hợp với năng lực bản thân và điều kiện kinh tế của gia đình. Mặc dù hiện tại
trường vẫn chưa chính thức đưa hệ thống đăng ký này vào quá trình hoạt động mà
sinh viên vẫn học các chương trình đại cương bắt buộc do lịch học được phòng

Đào tạo sắp xếp. Tuy vậy, nếu đưa hệ thống này đi vào hoạt động sẽ kích thích
được tính tự giác của sinh viên trong việc chủ động quản lý thời gian cá nhân, sắp
xếp thời gian sao cho việc học tập, sinh hoạt, các hoạt động ngoại khóa, vui chơi
giải trí diễn ra phù hợp với mỗi sinh viên. Điều đó được chứng minh qua bảng hỏi
khi 23/52 (chiếm 44,2%) bạn sinh viên cho rằng đây là một trong những thuận lợi
quan trọng trong việc áp dụng hệ thống tín chỉ.
Quan trọng nhất, đào tạo tín chỉ sẽ trực tiếp loại bỏ hình thức học tập truyền
thống trước đây, tức là “cô đọc trò chép” mà thay vào đó là lấy người học làm
trung tâm khi một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết, 30 – 45 tiết
thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận. Phát huy tối đa khả năng tự học, tự tìm hiểu
trên cơ sở hướng dẫn của giảng viên. Sinh viên phải chủ động tìm hiểu kiến thức
qua các nguồn thông tin khác nhau như: giáo trình, tài liệu tham khảo, mạng
internet, sách báo…để mở rộng vốn kiến thức của mình cũng như áp dụng nó vào
cuộc sống thực tiễn.
Chính vì học tín chỉ sinh viên có thể tự đăng ký môn học của mình sao cho
phù hợp với thời gian biểu cá nhân và năng lực tiếp thu, vì vậy nên sinh viên có
điều kiện được đăng kí nhiều tín chỉ một lúc cũng như trực tiếp học 02 văn bằng
trở lên. Quảng thời gian học tập được rút ngắn, không phải thi tốt nghiệp và có thể
học song song 02 văn bằng cùng một thời điểm đã là những ưu thế vượt trội của
việc đào tạo hệ thống tín chỉ tại trường, mở rộng cơ hội việc làm sau đại học cho
sinh viên trong cơ chế thị trường khi lao động hiện nay không chỉ cần kiến thức mà
cần có cả những kĩ năng cần thiết để làm việc.
Bên cạnh đó, việc học tập theo tín chỉ với yêu cầu về dự chuẩn bị kĩ lưỡng ở
nhà, lên lớp tập trung nghe giảng đã rèn luyện cho mỗi cá nhân kỹ năng làm việc
cá nhân, kỹ năng làm việc nhóm qua các bài thảo luận, tiểu luận nhóm, kỹ năng
quản lý thời gian cá nhân điều hào giữa việc học cũng như các sinh hoạt khác. Đây
cũng là những kỹ năng cần thiết trong quá trình làm việc trên thực tế mà người sử
dụng lao động mong muốn người lao động của mình có được.
2.2 Khó khăn
Trong thời gian vừa qua, Phòng Kế toán tài vụ ban hành thông báo về việc

tăng học phí của mỗi tín lên 173.000 đ/1 tín chỉ đối với hệ Đại học và
150.000đ/1tín chỉ đối với hệ Cao đẳng cho sinh viên khóa K13 đã tạo nên một
luống dư luận trái chiều về vấn đề này. Với đặc thù là trường phía Nam, tuy nhiên
đây lại là nơi hội tụ rất nhiều sinh viên từ các vùng miền trên đất nước về đây học
tập, đặc biệt là sinh viên từ các tỉnh miền trung (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh…)
là vùng có kinh tế khó khăn thì việc tăng học phí tín chỉ sẽ khiến các bạn sinh viên
cũng như gia đình gặp nhiều khó khăn về kinh tế. Qua điều tra thực tế có đến
67,3% sinh viên không đồng ý với mức học phí này, tuy nhiên so với mặt bằng
chung của các trường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay thì mức học
phí tại trường là vừa mức với sinh viên, không quá cao.
Bên cạnh đó việc chuyển đổi hình thức đào tạo đã gây không ít khó khăn
cho đội ngũ giảng viên của nhà trường. Giáo trình thay đổi buộc giáo án của giảng
viên cũng thay đổi. Thời gian đứng lớp được giảm tải thay vào đó lượng kiến thức
phải trao đổi cùng sinh viên tăng lên buộc giáo án của giảng viên phải được đầu tư
kĩ lưỡng hơn, nội dung phải chắt lọc một cách cụ thể hóa, đơn giản nhưng không
cắt bớt lượng kiến thức cần truyền tải. Những yêu cầu trên buộc mỗi giảng viên
phải tìm cho mình những phương pháp giảng dạy mới, không còn đi theo lối mòn
trước đây. Đây cũng là thách thức đặt ra cho giảng viên và nhà trường.
Có thể thấy các lớp khóa K13 là các lớp có lượng sinh viên đầu vào đông,
trung bình mỗi lớp có trên 90 thành viên. Thế nhưng các phòng học ở các dãy nhà
B1, B2 và B3 chưa đáp ứng được nhu cầu trên. Các lớp khóa K13 đa phần được
sắp xếp học ở dãy nhà B4, thực tế cho thấy đây là dãy nhà được xây dựng lâu năm,
qua quá trình sử dụng đã bị hư hạ, cơ sở vật chất ở dãy nhà này cũng không được
đảm bảo. Đặc biệt là những dịp thời tiết nắng nóng, phòng học của dãy nhà B4
được ví như “ lò hấp” của các bạn sinh viên. Hệ thống máy chiếu, âm thanh, máy
quạt ở đây cũng đã cũ không còn đảm bảo cho việc học tập và giảng dạy. Những
bất cập trên đã và đang tác động trực tiếp đến chất lượng dạy và học của sinh viên
cũng như giảng viên trong nhà trường.
Do mới áp dụng hệ thống đào tạo tín chỉ nên việc đăng ký lịch học chưa
được áp dụng đối với sinh viên của trường. Sinh viên vẫn học theo lịch học do

Phòng Đào tạo sắp xếp. Việc vẫn học theo lịch học của nhà trường sắp xếp đã phần
nào khiến sinh viên học tập như với hình thức đào tạo theo niên chế, cũng thu hẹp
kĩ năng chủ động của sinh viên trong học tập cũng như quản lý thời gian. Không
chỉ vậy trong đầu học kì II đã xảy ra sự cố khi trùng lịch học giữa môn Quốc
phòng và môn Tin học đại cương. Những bất cập này đòi hỏi được sửa đổi kịp thời
để sinh viên an tâm học tập. Không chỉ vậy, 17,31% sinh viên cho rằng lịch học
hiện nay quá nặng so với lực học của các bạn, một môn 5 tiêt/1 buổi khiến các bạn
khó khăn trong việc tiếp nhận kiến thức khi bị tác động bởi tâm lý nhàm chán.
Bên cạnh đó, nguyên tắc của đào tạo tín chỉ là không cho sinh viên thi lại mà
trực tiếp học lại vào học kì sau đã tạo áp lực đối với vấn đề điểm số. Nhiều sinh
viên đưa ra ý kiến nên để thi lại lần một nếu sinh viên đó không đủ điểm qua môn
ở lần thi đầu tiên.
Hiện nay, vấn đề khó khăn nhất mà sinh viên đang gặp phải chính là thiếu
phương pháp học (40,38%) hiệu quả. Đó là sự thiếu cân đối giữa lý thuyết, thực
hành và quản lý thời gian. Đa số sinh viên học tập tại trường nhưng vẫn chưa có
cho mình những phương pháp học đại học hiệu quả, các bạn chủ yếu học theo lối
mòn truyển thống, học một cách máy móc nhưng hiệu quả lại không cao tạo nên
tâm lý lười học.
3. Nguyên nhân
Những khó khăn mà đa số sinh viên hiện nay đang gặp phải trong việc học
theo tín chỉ dễ làm cho sinh viên bị rớt môn, kết quả học tập không đạt yêu cầu,
thậm chí là có nguy cơ bị buộc thôi học,…
Những trường hợp này không phải ít mà cũng đã xảy ra khá nhiều ở các
trường Đại học, Cao Đẳng của nước ta khi bước đầu áp dụng thí điểm đào tạo theo
tín chỉ. Số lượng sinh viên bị rớt môn, rơi vào tình trạng phải học lại là rất nhiều,
điển hình như trương Đại học Sư phạm kỹ thuật Tp.HCM, Đại học Bách khoa
Tp.HCM,…
Đối với K13, tuy mới chỉ trải qua một kỳ học theo tín chỉ nhưng nhìn
chung kết quả học tập của sinh viên chưa cao, học lực tập trung ở mức Trung bình
(36,5%), Trung bình – Khá (21%) và cao nhất là Trung bình yếu (20,7%) thậm chí

còn có cả yếu, kém… Vậy, nguyên nhân của tình trạng trên là do đâu?
3.1 Nguyên nhân khách quan
Phần lớn là do việc nhà trường mới bắt đầu đào tạo theo tín chỉ nên sinh viên
còn chưa bắt kịp với hình thức đào tạo này.
Học tín chỉ với tiêu chí hàng đầu là lấy người học làm trung tâm nhưng
thực tế ở trường ta cho thấy nó còn mang tính hình thức, chính vì vậy, nó làm cho
sinh viên khó có thể thiết kế được lộ trình học tập của riêng mình, phải chạy theo
để hoàn thành những chỉ tiêu môn học do trường quy định sẵn, sinh viên chưa
được phép đăng ký môn học, chưa được chọn giảng viên mình sẽ theo học.
Sinh viên cũng như giáo viên còn đặt nặng vấn đề điểm số nên chỉ xem việc
thảo luận nhóm, học nhóm hay thuyết trình là một phần bắt buộc để có điểm quá
trình môn học chứ chưa thực sự nhìn ra được những khả năng mình có thể học
được từ việc học nhóm hay thuyết trình,…vô tình tạo nên những áp lực khiến sinh
viên cảm thấy khó khăn trong việc lĩnh hội kiến thức và thái độ học tập.
Phương pháp quản lý, giảng dạy theo hệ thống tín chỉ còn nhiều hạn chế.
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy, tự nâng cao bồi dưỡng với phương thức dạy
và học mới, cách định hướng lẫn cách đánh giá đều chưa thành thạo nên cả giảng
viên và sinh viên còn lung túng nhiều.
Việc tổ chức thực hiện chương trình đào tạo chưa chuyên nghiệp hóa. Theo
ý kiến của tuyệt đại đa số sinh viên K2013 thì việc phân công giảng dạy, xây dựng
thời khóa biểu còn phụ thuộc , mất nhiều thời gian và chủ yếu là do nhà trường sắp
xếp, sinh viên chưa thực sự chủ động để xây dựng thời gian biểu cho mình, Đề
cương học tập chưa tốt,…
Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học chưa đáp ứng một cách tốt nhất cho hoạt
động đào tạo. Chưa trang bị được phần mềm quản lý đào tạo, ảnh hưởng đến hiệu
quả của công tác quản lý chương trình đào tạo.
Bên cạnh đó, trong khi giảng dạy thì hiện nay đa số giảng viên sử dụng hình
thức PowerPoint trong bài giảng của mình, phần lớn nội dung bài giảng đã có trong
giáo trình, giáo viên bị lệ thuộc vào giáo trình là nguyên nhân khiến cho bài giảng
có phần nhàm chán, và sinh viên ít có hứng thú với bài học.

3.2 Nguyên nhân chủ quan
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan do các yếu tố bên ngoài tác động
thì những chính bản thân mỗi cá nhân cũng là nguyên nhân khiên cho việc học
trong hình thức đào tạo nới gặp nhiều khó khăn hơn
Hơn nữa, sinh viên còn chưa nhận thức đầy đủ về khái niệm tín chỉ, đa số
sinh viên cho rằng, thời gian của một tín chỉ quy định chỉ bằng thời gian họ có mặt
trên lớp chứ không tính vào việc tự học ở nhà, nên thời gian tự học ở nhà của sinh
viên rất ít, chỉ giao động từ một đến hai giờ đồng hồ mỗi ngày (48, 07%) hoặc có
những sinh viên đến thời điểm hiện tại vẫn chưa biết mình đang học theo hình thức
nào, và dường như khái niệm tín chỉ còn rất mới. Do việc tìm hiểu về học hệ tín chỉ
của sinh iên chưa sâu nên dẫn đến sinh viên chưa kết hợp được với giảng viên
trong công tác dạy và họcdẫn đến tình trạng thụ động rất nhiều trong nhận thức và
hành vi học tập của mình.
Sinh viên không nắm vững chương trình toàn khóa, chương trình học của
từng năm, từng học kỳ được sắp xếp như thế nào, phải làm gì để đạt hiệu quả cao,
… ư?
Sinh viên ít quan tâm đến mục đích của từng môn học mà chỉ quan tâm đến
nội dung trong môn học đó để đối phó với thi cử.
Việc chuẩn bị bài ở nhà chưa tốt.
Thiếu tập trung trong quá trình học tập, dễ bị chi phối và khả năng không
hoàn thành bài tập đúng thời hạn cao. Việc tổ chức kế hoạch học tập thiếu khoa
học nên bị quá tải nếu đăng ký nhiều môn học.
Khi có những thắc mắc hay không hiểu vấn đề gì đó trong bài giảng thì sinh
viên thường nhờ đến sư trợ giúp của bạn bè nhiều hơn là hỏi ý kiến giáo viên.
Ngoài ra, sinh viên còn tồn tại một khuyết điểm lớn là thói quen học từ thời
phổ thông là trông chờ chủ yếu vào thầy cô, nhiều sinh viên còn chưa sử dụng tốt
khoảng thời gian không có giờ lên lớp. Thay vì lên thư viện trường, hay đến các
nhà sách để tìm hiểu và đào sâu những vấn đề được giảng viên hướng dẫn trên lớp
thì nhiều sinh viên lại sử dụng khoảng thời gian này vào các hoạt động vui chơi,
giải trí, nghỉ ngơi thư giãn hoặc đi làm thêm.

4.Giải pháp nhằm giải quyết vấn đề
4.1 Về phương pháp học tập:
Mô hình đào tạo theo học chế tín chỉ vừa giúp SV rèn luyện tính chủ động
trong học tập, lao động nhưng cũng đòi hỏi tinh thần tích cực trong quá trình học
tập của mình. Nhưng qua khảo sát một vấn đề đáng lưu tâm là tính chủ động của
sinh viên rất thấp. Họ không quen làm việc độc lập, vẫn giữ tư duy dựa vào đội
ngũ giáo viên chủ nhiệm, đội ngũ cán bộ lớp để nắm bắt những thông tin của nhà
trường. Nhiều sinh viên phàn nàn là họ không biết trường sẽ tổ chức những môn
học nào, kế hoạch học tập ra sao Vì vậy, mấu chốt để học tốt với chương trình
đào tạo hệ tín chỉ chính là học thực chất chủ động và tích cực đổi mới:
Tước giờ lên lớp mỗi sinh viên phải đọc bài trước ở nhà, chuẩn bị những
phần có liên quan đến bài học. Trong giờ học lý thuyết trên lớp sinh viên không chỉ
ghi chép những lời thầy cô giàng một cách thụ động mà phải nghe, suy ngẫm và
năm được nội dung mang tính “chìa khóa” của những vấn đề thầy cô giảng.
Giờ thảo luận là giờ để làm rõ những vấn đề của giờ lý thuyết áp dụng vào
những bài toán cụ thể. Nếu giờ học lý thuyết chủ yếu là nghe, viết và suy ngẫm thì
giờ thảo luận phải nói nhiều và tranh luận, lập thành một nhóm tích cực thảo luận
nhóm. Tích cực đặt câu hoỉh[n là trả lời, không nên cào những vấn đề quá sau,
phức tạp và mất nhiều thời gian mà hãy danh thời gian ở nàh để giải quyết vấn đề
đó.
Đối với việc học tín chỉ việc học ở nhà là vô cùng quan trọng, mỗi ngày ở
nhà sinh viên có thể dành 1 đến 3 giờ để xem lại bài cũ và chuẩn bị những phần
mới. Đối với sinh viên theo học tín chỉ thì việc học ở nàh được xem là quan trọng
nhất.
` Bên cạnh đó sinh viên cũng phải tăng cường tìm hiểu các thông tin, kiên
thức bên ngoài, học cách tự đọc tài liệu để hiểu sâu nội sung của từng chương và
tiến tới cả học phần. Tự triển khai những vấn đề cụ thể của học phận như đọc lại
bài gaingr của giảng viên, giải bài tập, thiết kế chuẩn bị câu hỏi cho các giờ thảo
luận trên lớp. Hãy đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
Thành lập một nhóm để cùng nhau học tập (nên là các thành viên cùng lớp)

và tăng cường trao đổi bài theo nhóm. Người biết khi giảng cho người chưa biết sẽ
càng giỏi hơn, người chưa biết hỏi người biết sẽ hiểu được vấn đề.
Ngoài ra sinh viên cũng phải suy nghĩ, hoạch định kế hoạch học tập chung
cho quá trình học. Xác định rõ những kỹ năng, kiến thức cần bổ sung, cần có kỹ
năng mềm, ngoại ngữ, tin học liên quan đến chuyên ngành đang học, từ đó dự tính
sẽ rèn luyện kỹ năng nào trong thời gian nào. Nên tham gia các hoạt động thể thao,
các hoạt động phong trào do Đoàn trường, Hội Sinh viên trường, các Câu lạc bộ,
Đội nhóm tổ chức qua đó sinh viên sẽ rèn luyện cho mình các kĩ năng mềm cần
thiết.
4.2 Về đăng ký môn học
Nhiều sinh viên chỉ biết đăng kí theo bạn bè (52,92%), dẫn đến trường hợp
có học kỳ đăng kí quá nhiều môn lí thuyết, học không nổi và rớt hàng loạt, bù lại,
có những học kỳ lại đăng kí quá nhiều môn thực hành, thực tập, dẫn đến trùng lắp
khó mà học cho tốt.
Ngoài các học phần đăng ký theo thời khóa biểu học kỳ của nhà trường, sinh
viên nên đăng ký học lại hoặc học cải thiện điểm của các học phần học trong các
học kỳ trước (những học phần học lại này nếu đạt điểm học phần cao hơn điểm cũ
sẽ được tính vào điểm trung bình chung của học kỳ, còn nếu thấp hơn điểm cũ thì
SV có thể bảo lưu kết quả).
Sinh viên có quyền được lựa chọn môn học theo khả năng, hoàn cảnh cụ thể
của mình. Thậm chí, nếu ở thời điểm đó sự lựa chọn đó chưa phù hợp thì vẫn còn
sự lựa chọn khác là chưa tham gia, giúp sinh viên không bị mất đi những mảng
kiến thức và kỹ năng đã tích lũy nếu như việc học của họ bị gián đoạn. Như vậy,
sinh viên có thể chuyển đổi từ khoá học này sang khoá học khác trong cùng một hệ
thống hay khác hệ thống.
4.3 Những giải pháp dành cho nhà trường:
Việc học tín chỉ đã tạo nên một mối quan hệ gần gũi hơn giữa sinh viên và
nhà trường, điều đó là vô cùng quan trọng trong việc giúp sinh viên có thể học tốt
chương trình học của mình. Bên cạnh đó nhà trường cần phải có những giải pháp
thiết thực hơn nữa để nâng cao chất lượng đào tạo và chất lượng sinh viên.

4.4 Về phía giảng viên:
Nhà trường phải chọn ra đội ngũ giảng viên tương xứng với trình độ đào tạo
bật đại học, giảng viên cần phải có tâm huyết với nghề, có tâm huyết giúp đỡ sinh
viên trong những lúc sinh viên cần. Bên cạnh đó đội ngũ giảng viên cần phải
thường xuyên đổi mới phương pháp giảng dạy, cung cấp cho sinh viên thêm nhiều
những vấn đề thực tế ngoài đời, tạo cảm hứng, kích thích học tập cho sinh viên.
Việc giáo viên vui vẻ niềm nở với sinh viên cũng giúp cho sinh viên có cảm hứng
cũng như động cơ học tập nhiều hơn.
4.5 Về phía nhà trường:
Nhà trường cần tạo ra môi trường học tập rèn luyện lành mạnh cho sinh
viên, thường xuyên tổ chức các phong trào, các hoạt động ngoại khóa giúp sinh
viên thư giản, nhìu vấn đề bất cập như học phí, lịch học, các chương trình của nhà
trường cần được thông báo rõ ràng và nhanh chóng lên wed trường hoặc thống báo
về các chi đoàn trong thời gian sớm nhất, tránh trường hợp chậm trễ. Bên cạnh đó
nhà trường cần cải thiện cơ sở vật chất cũng như nang cấp mạng thông tin để việc
đăng kí học tín chỉ của sinh viên được thuận lợi.
Có như thế thì sinh viên mới được học tập và rèn luyện trong môi trương tốt
nhất, qua đó chất lượng sinh viên cũng được nâng lên, đi cùng với đó là tên tuổi
cũng như chất lượng đào tạo cũng tăng theo.
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Để phù hợp với xu tế phát triển và hội nhập với thế giới thì chuyển từ việc
học niên chế sang học tín chỉ là một việc vô cùng cần thiết và phù hợp với xu thế
hiện nay của nước ta.Phương thức dào tạo hầu như đã trở thành phương thức phổ
biến cho nhiều nước trên thế giới. Chuyển sang phương thức đào tạo tín chỉ sẽ tạo
cơ sở cho sự liên thông giữa các cơ sở đào tạo đại học trong và ngoài nước ,một
khi sự liên thông được mở rộng nhiều trườn đại học công nhận chất lượng đào tạo
của trường và người học có thể dễ dàng di chuyển từ trường đại học này sang
trường đại hoc kia.
Áp dụng phương thức đào tạo tín chỉ sẽ khuyến khích sự di chuyển của sinh
viên, mở rộng sự lựa chọn học tập của họ, làm tăng độ minh bạch của hệ thống

giáo dục giúp cho việc so sánh hệ thống giáo dục đại học của trường dễ dàng hơn
thuận lợi hơn và khă năng cũng như cơ hội tìm việc làm của sinh viên dễ dàng hơn
khi ra trường.
Việc thay đổi từ niên chế sang học tín chỉ tạo nên những mặt tích cực cho
việc học của sinh viên có nhiều điểm mới trong việc học như: tạo nên tính sáng
tạo, chủ động trong việc học,biết quản lí thời gian, rút ngắn thời gian học tập hay
phân bổ thời gian phù hợp với bản thân cũng như biết khả năng lực học của mình
để có phương pháp phù hợp với mỗi người. Tạo cho sinh viên có thể học văn bằng
hai, chuyển đổi chuyên nghành mình đang học một cách dễ dàng mà không phải
học lại từ đầu khi học nhưng do có lí do hay hoàn cảnh không cho phép thì sinh
viên có thể kéo dài trình học của mình mà không bị ảnh hưởng gì khi sinh viên
muốn quay lại học.
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ cho phép sinh viên có thể chủ động học theo
điều kiện và năng lực của mình. Những sinh viên giỏi có thể học theo đúng hoặc
học vượt kế hoạch học tập toàn khóa, kế hoạch học tập từng học kỳ theo gợi ý của
Nhà trường, để tốt nghiệp theo đúng thời gian chuẩn của chương trình hoặc sớm
hơn. Những sinh viên bình thường và yếu có thể kéo dài thời gian học tập trong
trường và tốt nghiệp muộn hơn. Vì thế, sinh viên phải tự lập kế hoạch học tập toàn
khóa và từng học kỳ cho phù hợp với năng lực và điều kiện cụ thể của bản thân
dưới sự giúp đỡ của giáo viên chủ nhiệm hay cố vấn học tập. Lịch trình giảng dạy
phải thực hiện hết sức chính xác, không được đổi giờ hoặc bỏ giờ, mỗi giảng viên,
mỗi sinh viên đều có thời khóa biểu riêng, tuân theo những nguyên tắc nhất định.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm trên, giáo dục theo học chế tín chỉ cũng
mang những điểm yếu chết người từ chính những ưu điểm của nó. Song song với
việc trao quyền chủ động cho sinh viên, học chế tín chỉ cũng đòi hỏi sinh viên một
sự chủ động và tự trách nhiệm, tự ý thức lấy việc học của bản thân mình. Đây cũng
chính là điểm mà nhiều rất nhiều sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên tại
trường nói riêng. Từ ưu thế chủ động sắp xếp chương trình đào tạo cho chính bản
thân, nhiều sinh viên tỏ ra bị động và không hiểu rõ đường hướng học tập rèn
luyện trong những năm học Đại học. Cứ đến mùa đăng kí môn học, nhiều Sinh

viên chỉ biết đăng kí theo bạn bè, dẫn đến trường hợp có học kỳ đăng kí quá nhiều
môn lí thuyết, học không nổi và rớt hàng loạt, bù lại, có những học kỳ lại đăng kí
quá nhiều môn thực hành, thực tập, dẫn đến thời khóa biểu trùng lắp khó mà học
cho tốt. Hơn nữa, với mô hình tín chỉ, lớp học bị phá vỡ, sinh viên không có sự gắn
bó với nhau trong học tập vì phải theo học quá nhiều lớp học khác nhau. Bạn bè ít
quen biết cũng là một nguyên nhân quan trọng làm nhiều Sinh viên không hứng
thú khi ngồi trong giảng đường. Việc lượng hóa một khối lượng kiến thức khổng lồ
từ chương trình đào tạo niên khóa sang học chế tín chỉ khó tránh khỏi những thiếu
xót, sai lầm cũng góp phần dẫn đến khó khăn cho việc học của Sinh viên và công
tác giảng dạy của thầy cô giáo.
Kiến nghị
* Đổi mới phương pháp giảng dạy:
"Phương pháp dạy học mới phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng năng lực cho người tự học, khả năng
thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên"
Giảng viên cần định hướng thông tin và nguồn tin; hướng dẫn sinh viên
khai thác thông tin phục vụ cho môn học. Vấn đề này phải trở thành tất yếu đối với
người dạy.
Sinh viên: Sinh viên phải tìm kiếm thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để
đáp ứng nhu cầu của giảng viên đặt ra. Các nguồn thông tin được khai thác từ trên
mạng Internet và kho tài liệu phong phú của thư viện.
*Cơ sở vật chất :
Các cơ sở vật chất của nhà trường chưa đáp ứng được nhu cầu cho sinh viên
đặc biệt là về tài liệu nghiên cứu cho sinh viên chưa đầy đủ,chưa phong phú cho
sinh viên trong việc thu thập tài liệu tự học
Các thiết bị về mạng cũng chưa thuận lợi cho việc đăng kí của sinh viên khi
ở trường vì số lượng đăng kí thì đông mà thờ gian đăng kí hạn chế sẽ làm cho sinh
viên gặp nhiều khó khăn trong việc đăng kí lịch học, mạng chưa đủ mạnh cho công
tác đăng kí lịch học
Nhà trường cần có những thông báo rõ ràng về phần học phí cho sinh viên.

×