các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học
Hà nội 2010
các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học
Hµ néi – 2010
Mục lục
Trang
Mở đầu
Chơng 1:
5
Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình
6
trong luật hình sự Việt Nam
1.1. Khái lợc sự hình thành và phát triển những quy định về các tội
xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong luật hình sự Việt Nam
6
1.2. Những quy định của Bộ luật hình sự 1999 về các tội xâm phạm
chế độ hôn nhân và gia đình
29
1.3. Những quy định về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình
trong pháp luật hình sự một số nớc trên thế giới
42
Chơng 2:
Tình hình, nguyên nhân, điều kiện của các tội
47
xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình
2.1. Tình hình các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình từ năm
1997 đến 2004
47
2.2. Nguyên nhân và điều kiện của tội xâm phạm chế độ hôn nhân và
gia đình
69
2.3. Dự báo tình hình các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình
trong thời gian từ năm 2005 đến 2010
78
Chơng 3:
Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả đấu
82
tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ
hôn nhân và gia đình ở nớc ta
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các
tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình
82
3.2. Những quan điểm chỉ đạo cần nắm vững nhằm nâng cao hiệu
quả đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ hôn nhân
và gia đình ở Việt Nam
85
3.3
87
Các giải pháp nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng,
chống các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình
Kết luận
108
Danh mục tài liêu tham khảo
111
danh mục các chữ viết tắt
BLHS
Bộ luật hình sự
CTTP
Cấu thành tội phạm
HN&GĐ
Hôn nhân và gia đình
TAND
Tòa án nhân dân
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
TNHS
Trách nhiệm hình sự
VKS
Viện kiểm sát
VKSNDTC
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN
XÃ hội chủ nghĩa
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xà hội, là cái nôi nuôi dỡng con ngời, là môi
trờng quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp
xây dựng và b¶o vƯ Tỉ qc x· héi chđ nghÜa (XHCN). Gia ®×nh tèt, th× x·
héi míi tèt, x· héi tèt th× gia đình càng tốt.
Nhận thức đợc tầm quan trọng của gia đình trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xà hội, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nớc ta
đà thiết lập chế độ hôn nhân gia đình mới tiến bộ, thay thế cho chế độ hôn nhân
gia đình phong kiến, lạc hậu. Quyết tâm xây dựng chế độ hôn nhân và gia
đình (HN&GĐ) mới của Đảng và Nhà nớc ta đợc thể hiện rất rõ trong các
Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và Điều 64, Hiến pháp năm 1992 đà ghi
nhận:
Gia đình là tế bào của xà hội. Nhà nớc bảo hộ hôn nhân
và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ một vợ
một chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy
con cái thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính
trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nớc và xà hội không thừa
nhận việc phân biệt đối xử với các con.
Để đảm bảo thực hiện đúng đắn, đầy đủ chế độ HN&GĐ mới tiến bộ
và tuân thủ triệt để Hiến pháp, Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1985, cũng nh
BLHS năm 1999 đều đà quy định cụ thể các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ,
góp phần ngăn chặn, hạn chế và từng bớc xóa bỏ những tàn tích của chế độ
HN&GĐ phong kiến, lạc hậu.
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm có chiều hớng gia
tăng, diễn biến phức tạp; tình trạng suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống,
kể cả trong lĩnh vực HN&GĐ. Đáng chú ý, các tội xâm phạm chế độ
HN&GĐ không có xu hớng gia tăng, nhng tính chất và mức độ ngày càng
nghiêm trọng, gây d luận xấu trong xà hội.
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ và hôn
nhân gia đình cho thấy, mặc dù đây là các tội phạm mà tính chất nguy hiểm
cho xà hội không cao, nhng có ảnh hởng rất lớn đến đời sống gia đình; trên
thực tế, các tội phạm này xảy ra rất nhiều, song việc xử lý bằng các chế tài
hình sự còn rất hạn chế. Thực tiễn áp dụng các tội xâm phạm chế độ
HN&GĐ cũng đà đặt ra nhiều vấn đề vớng mắc, đòi hỏi khoa học luật hình
sự phải nghiên cứu, giải quyết để làm sáng tỏ về mặt lý luận nh: khái niệm
các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, ý nghĩa của việc quy định các tội phạm
này trong pháp luật hình sự... Trong khi đó, xung quanh những vấn đề này,
vẫn còn rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngợc nhau.
Vì vậy, việc nghiên cứu ®Ị tµi, " Các tội xâm phạm chế độ hơn
nhân và gia đình - một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học ",
mang tÝnh cÊp thiÕt, không những về lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực
tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ là nhóm tội phạm có tính nhạy
cảm cao, phức tạp, đà đợc một số nhà luật học trong nớc quan tâm nghiên
cứu. ThS. Bùi Anh Dũng đà có công trình "Tìm hiểu các tội xâm phạm
quyền tự do dân chủ của công dân, các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và
gia đình", Nxb Lao động, Hà Nội, 2003; ThS. Trịnh Tiến Việt đà có các công
trình: "Một số vấn đề cần lu ý khi áp dụng các quy định tại chơng các tội
xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật hình sự 1999", Tạp
chí khoa học Pháp lý, Trờng Đại học LuËt Thµnh phè Hå ChÝ Minh, sè
1/2003, "Téi tõ chèi hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dỡng trong Bộ luật hình
sự 1999", Tạp chí Kiểm sát, số 4/2002, "Về tội ngợc đÃi hoặc hành hạ ông
bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu, ngời có công nuôi dỡng mình trong Bộ luËt
hình sự 1999", Tạp chí Kiểm sát, số 9/2002,); tác giả Nguyễn Quốc Việt
chủ biên cuốn sách: Bộ luật hình sù míi cđa níc Céng hßa x· héi chđ nghÜa
ViƯt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2001, trong đó có đề cập chơng
XV - Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình; tác giả Nguyễn Ngọc
Điệp có công trình: "Tìm hiểu các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia
đình và các tội đối với ngời cha thành niên", Nxb Phụ nữ, Hà Nội; các tác
giả Phan Đăng Thanh và Trơng Thị Hòa có công trình: Pháp luật hôn nhân
và gia đình Việt Nam xa và nay, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2000...
Các công trình nói trên đà đề cập đến các khía cạnh khác nhau của
nhóm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, nhng cha có công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện và có hệ thống về nhóm tội phạm này dới góc độ
pháp lý hình sự và tội phạm học.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tợng và phạm vi nghiên cứu của luận
văn
Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh
phòng, chống các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, đề xuất những giải pháp
mang tính hệ thống nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống nhóm
tội phạm này.
Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt đợc mục đích trên, tác giả luận văn đà đặt ra và giải quyết
các nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trng của
các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ; phân tích các quy định của pháp luật
hình sự một số nớc trên thế giới về loại tội phạm này.
- Phân tích và đánh giá tình hình, nguyên nhân và điều kiện các tội
xâm phạm chế độ HN&GĐ, thực tiễn đấu tranh phòng, chống loại tội phạm
này; dự báo tình tội phạm này trong những năm tíi.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng
chống các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.
Đối tợng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ dới góc độ
pháp lý hình sự và tội phạm học ở Việt Nam, thời gian từ năm 1997 đến
năm 2004.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây
dựng Nhà nớc và pháp luật, những thành tựu của các khoa học: triết học, tội
phạm học, luật hình sự, tâm lý học, xà hội học...
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án
về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, các báo cáo tổng kết, số liệu thống
kê của Tòa ¸n nh©n d©n tèi cao (TANDTC) vỊ c¸c téi x©m phạm chế độ
HN&GĐ.
Phơng pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phơng pháp: hệ
thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, cụ thể, lôgíc, kết hợp với các phơng
pháp khác nh so sánh, điều tra xà hội...
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt
Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có
hệ thống về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ. Có thể xem những nội dung
sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về các tội xâm phạm chế
độ HN&GĐ; những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trng của các tội phạm này
trong pháp luật hình sự hiện hành.
- Phân tích, đánh giá những quy định về các tội xâm phạm chế độ
HN&GĐ trong pháp luật hình sự một số nớc trên thế giới nhằm rút ra
những giá trị hợp lý trong lập pháp hình sự, bổ sung cho những luận cứ và
giải pháp đợc đề xuất trong luận văn.
- Đánh giá đúng thực trạng tình hình các tội xâm phạm chế độ
HN&GĐ ở Việt Nam, phân tích, làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu
quả đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.
6. ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa
quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội
xâm phạm chế độ HN&GĐ ở nớc ta. Thông qua kết quả nghiên cứu và các
kiến nghị, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào kho tàng
lý luận về tội phạm học, luật hình sự, cũng nh vào cuộc đấu tranh phòng,
chống nhóm tội phạm có tính nhạy cảm cao và phức tạp này.
Luận văn có thể đợc sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình
sự, tội phạm học nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại cơ
quan Công an, Viện kiểm sát (VKS), Tòa án.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 110 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục
tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chơng, 9 mục.
Chơng 1
Các tội Xâm Phạm Chế Độ HÔN NHÂN Và GIA Đình
Trong luật hình sự việt nam
1.1. khái lợc sự hình thành và phát triển những quy định
về các tội Xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong luật
hình sự Việt Nam
1.1.1. Giai đoạn từ thời kỳ nhà Lý cho đến trớc Cách mạng
tháng Tám năm 1945
Hôn nhân là một vấn đề hệ trọng đối với con ngời, gia đình là nền
tảng của xà hội. Vì vậy, ngay từ thời phong kiến, HN&GĐ luôn luôn là lĩnh
vực đợc Nhà nớc rất quan tâm điều chỉnh bằng pháp luật.
Trong Bộ luật thành văn đầu tiên của Nhà nớc ta - Bộ Hình th, đợc
ban hành năm 1042 dới thời Lý Thái Tông, vấn đề HN&GĐ chiếm giữ một
vị trí quan trọng và đợc quy định trong nhiều điều luật. Nét đặc trng chủ
yếu của các quy định này là qun uy tËp trung trong tay ngêi chång, mµ
mäi thµnh viên có bổn phận phục tùng; ngời chồng đợc phép bỏ vợ trong trờng hợp ngời vợ phạm một trong các tội "thất xuất", còn ngời vợ sẽ bị trừng
phạt nghiêm khắc nếu ruồng bỏ chồng; con cái không làm tròn đạo hiếu sẽ bị
trừng phạt. Trách nhiệm giáo dục con cái tuân theo đạo lý thuộc về cha mẹ,
nếu lơ là trách nhiệm thì chính cha mẹ cũng bị trừng phạt [28, tr. 59].
Trong Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) - Bộ luật chính thống
và quan trọng nhất của triều đại nhà Lê, mời tội ác (thập ác) đà đợc quy định
tại Điều 3, trong đó có tới bốn tội liên quan đến HN&GĐ, đó là các tội:
4. ác nghịch, là đánh và mu giết ông bà, cha mẹ, bác chú,
thím, cô, anh, chị em, ông bà ngoại, ông bà cha mẹ chồng...
7. Bất hiếu, là tố cáo, rủa mắng ông bà, cha mẹ, trái lời
cha mẹ dạy bảo, nuôi nấng thiếu thốn, có tang cha mẹ mà lấy vợ,
lấy chồng, vui chơi ăn mặc nh thờng; nghe thấy tang ông bà, cha
mẹ mà không cử ai (tang lễ); nói dối là ông bà, cha mẹ chết.
8. Bất mục, là giết hay đem bán những ngời trong họ phải
để tang 3 tháng trở lên, đánh đập hoặc tố cáo chồng, cùng những
họ hàng từ tiểu công trở lên...
9. Bất nghĩa, là giết quan bản phủ và các quan đơng chức
tại nhiệm, giết thầy học; nghe thấy tin chồng chết mà không cử
ai, lại vui chơi ăn mặc nh thờng, cùng là tái giá [36, tr. 36-37].
Ngoài ra, trong Quốc triều hình luật còn có hẳn một chơng hộ hôn
(hôn nhân gia đình) gồm 58 điều luật, trong đó có một số điều quy định
những trờng hợp bị cấm kết hôn, nếu vi phạm sẽ phải chịu hình phạt, đó là là
các trờng hợp: đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng mà lại lấy chồng hoặc cới vợ, khi ông bà, cha mẹ bị giam cầm tù tội mà lấy vợ, lấy chồng... Ví dụ:
Điều 317 quy định: "Ngời nào đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng mà lại
lấy chồng hoặc cới vợ thì xử tội đồ, ngời khác biết mà vẫn cứ kết hôn thì xử
biếm ba t và đôi vợ chồng mới cới phải chia lìa" [36, tr. 122]. Bộ luật này
còn có một số quy ®Þnh thĨ hiƯn t tëng phong kiÕn coi khinh nghỊ hát xớng
nh quy định tại Điều 323: "Các quan và thuộc lại lấy đàn bà con gái hát xớng làm vợ cả, vợ lẽ, đều xử phạt 70 trợng, biếm ba t; con cháu các quan
viên mà lấy những phụ nữ nói trên, thì xử phạt 60 trợng; về đều phải ly dị"
[36, tr. 123].
Dới thời thực dân Pháp xâm lợc nớc ta, Việt Nam vẫn là một nớc
thuộc địa nửa phong kiến, chính quyền thực dân và giai cấp địa chủ phong
kiến vẫn duy trì chế độ hôn nhân phong kiến đà tồn tại từ nhiều thế kỷ, thừa
nhận sự cỡng ép kết hôn của cha mẹ đối với con cái, bảo vệ chế độ nhiều vợ
(đa thê), duy trì quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ trong gia đình. Điều
thứ 128 Luật hình An Nam thi hành ở Bắc Kỳ quy định: "Ngời vợ hay vợ lẽ
hiện đơng có chồng mà phạm tội thông gian, xét ra quả thực, phải phạt
giam từ ba tháng đến hai năm và phạt bạc từ bốn mơi đồng đến bốn trăm
đồng, ngời gian phu bị phạt cũng thế" [55, tr. 21]. Điều thứ 135 của Bộ luật
còn quy định:
Ngời vợ hay vợ lẽ hiện đơng có chồng, cha tuyên cáo sự
ly hôn, mà đi lấy chồng khác, phải phạt giam từ một năm đến
năm năm và phạt bạc từ năm đồng đến hai trăm đồng.
Ngời có vợ cha tuyên cáo sự tiêu hôn mà đi lấy vợ khác,
phải phạt giam từ ba tháng đến một năm và phạt bạc từ hai đồng
đến một trăm đồng [55, tr. 22].
Bộ luật hình canh cải áp dụng tại Nam Kỳ cũng quy định những tội
phạm và hình phạt thích ứng để bảo vệ chế độ một chồng nhiều vợ. Theo Bộ
luật này, bị coi là phạm tội thông gian khi một ngời đàn bà đà có chồng rồi
mà còn ân tình với một ngời đàn ông khác, còn đối với đàn ông có vợ thì
hành vi ngoại tình không coi là tội phạm [38, tr. 202].
1.1.2. Giai đoạn từ khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành
công cho đến trớc khi Bộ luật hình sự 1985 ra đời
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân
non trẻ phải đối mặt với những khó khăn chồng chất. Nền kinh tế của đất nớc vốn đà nghèo nàn, lạc hậu, lại bị Pháp, Nhật vơ vét xác xơ, bị chiến tranh
và thiên tai tàn phá. ở miền Bắc, khoảng 200.000 quân Tởng Giới Thạch mợn danh nghĩa Đồng Minh vào tớc vũ khí quân Nhật, nhng dà tâm của
chúng là giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân dân để
lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng. ở miền Nam, quân đội
Pháp đợc quân Anh yểm trợ xâm lợc chiếm Sài Gòn, rồi sau đó đánh rộng
ra các tỉnh ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
Trong tình hình đó, nhân dân ta phải thực hiện ba nhiệm vụ lớn, đó
là diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm và "Đảng ta xác định
giữ vững chính quyền là nhiệm vụ hàng đầu" [18, tr. 468]. V× vËy, tõ khi
Cách mạng tháng Tám thành công cho đến năm 1954 là thời điểm ký Hiệp
định Giơnevơ, Quốc hội ta là Quốc hội kháng chiến, Chính phủ ta là Chính
phủ kháng chiến, pháp luật ta cũng là pháp luật kháng chiến. Trong hoàn
cảnh khó khăn đó, Nhà nớc ta vẫn rất quan tâm xây dựng chế độ HN&GĐ
mới tiến bộ, từng bớc xóa bỏ những quy định khắt khe của chế độ thực dân,
phong kiến đối với phụ nữ (Sắc lệnh số 97/SL ngày 12-05-1950). Tuy nhiên,
do phải tập trung quy định các tội phạm liên quan đến sự an nguy của chính
quyền nhân dân nh các tội phản bội Tổ quốc, tội gián điệp, tội hối lộ, tham
ô..., cho nên, trong giai đoạn này, Nhà nớc ta cha có quy định về các tội xâm
phạm chế độ HN&GĐ.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ đợc ký kết,
miền Bắc hoàn toàn đợc giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và
bọn tay sai thống trị. Từ khi Luật HN&GĐ đợc ban hành năm 1959, đời sống
HN&GĐ đà có những chuyển biến đáng kể. Tuy nhiên, những hành vi vi
phạm pháp luật HN&GĐ vẫn xảy ra phổ biến ở mức độ nghiêm trọng, Trớc
tình hình đó, TANDTC đà có Thông t số 332-NCPL ngày 04-04-1966 hớng
dẫn về xử lý hình sự đối với 8 hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật
HN&GĐ, đó là các hành vi: tảo hôn, cỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự
do và tiến bộ, yêu sách của cải trong việc cới hỏi, lấy nhiều vợ - lấy vợ lẽ,
thông gian, đánh đập hoặc ngợc đÃi vợ, đánh đập hoặc ngợc đÃi con, ngợc
đÃi bố mẹ. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên hớng dẫn xử lý hình sự đối với
các hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật HN&GĐ kể từ khi Cách mạng
tháng Tám thành công. Thông t số 332-NCPL ngày 04-04-1966 đà đề cập
về từng hành vi vi phạm nh sau:
Thứ nhất, đối với hành vi tảo hôn, Thông t nêu rõ:
Đối với nạn tảo hôn chủ yếu là giáo dục; cá biệt, nếu có
tình tiết nghiêm trọng nh: đà đợc chính quyền, đoàn thể giải thích,
thuyết phục, ngăn cản mà vẫn cố ý vi phạm; hoặc đà gây ảnh hởng
chính trị xấu thì có thể phạt cảnh cáo hoặc phạt tù treo hay tù giam.
Đối tợng xử phạt có thể là cha mẹ của đôi trai gái, ngời có trách
nhiệm nuôi dỡng (nếu trai hoặc gái cha đến tuổi chịu trách nhiệm
hình sự), hoặc cả đôi bên trai gái (nếu họ đà đến tuổi chịu TNHS: 15
tuổi [42, tr. 465].
Thứ hai, đối với hành vi cỡng ép kết hôn, Thông t nêu rõ:
Đối với hành động cỡng ép kết hôn, vi phạm quyền tự do
kết hôn, chủ yếu là giáo dục, cá biệt, nếu có tình tiết nghiêm
trọng, có thể phạt cảnh cáo, tù treo hay tù giam.
Tình tiết nghiêm trọng ở đây là: có kèm theo tảo hôn; đÃ
đợc chính quyền, đoàn thể giải thích, thuyết phục, ngăn cản mà
vẫn cố ý vi phạm; có kèm theo đánh đập tàn nhẫn; đà gây ảnh hởng chính trị xấu; rõ ràng là nạn nhân vì bị cỡng ép kết hôn mà sự
sát [42, tr. 467].
Thứ ba, đối với hành vi cản trở hôn nhân tiến bộ, Thông t hớng dẫn:
Đối với hành động cản trở hôn nhân tự do, tiến bộ, chủ
yếu là giáo dục, cá biệt nếu có tình tiết nghiêm trọng có thể phạt
cảnh cáo, tù treo, hay tù giam nếu rõ ràng là nạn nhân vì bị cản
trở hôn nhân tự do và tiến bộ mà tự sát, cần phạt tù giam.
Tình tiết nghiêm trọng ở đây là: có kèm theo cỡng ép kết
hôn; đà đợc chính quyền, đoàn thể giải thích, thuyết phục, ngăn
cản mà vẫn cố ý vi phạm; có kèm theo lăng nhục thậm tệ, nhục
hình tần nhẫn; đà gây ảnh hởng chính trị xấu [42, tr. 468].
Thứ t, đối với hành vi yêu sách của cải trong việc cới hỏi, tức là sự
đòi hỏi về tiền, vàng, quần áo, gạo, thịt, rợu... trong việc cới hỏi của nhà gái
đối với nhà trai với ý nghĩa là điều kiện để đợc kết hôn, Thông t hớng dẫn:
"Về mặt hình sự, nếu việc yêu sách của cải trong việc cới hỏi gắn liền với
tảo hôn, hoặc cỡng ép kết hôn, hoặc cản trở hôn nhân tự do và tiến bộ thì
cần chú ý kết hợp xem xét, đánh giá trong những trờng hợp phải xử lý nạn
tảo hôn, cỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự do và tiến bộ" [42, tr.
469].
Thứ năm, đối với hành vi lấy nhiều vợ - lấy vợ lẽ, Thông t hớng dẫn:
Đối với ngời lấy nhiều vợ, lấy vợ lẽ (từ sau ngày ban hành
Luật HN&GĐ) chủ yếu vẫn là giáo dục, phê bình, để ngăn ngừa
và chấm dứt. Cá biệt, nếu có tình tiết nghiêm trọng thì có thể bị
xử phạt cảnh cáo hoặc tù treo hay tù giam về tội "lấy nhiều vợ"
(hoặc tội lấy vợ lẽ). Nếu bị cáo đà bị xử phạt cảnh cáo hoặc tù
treo mà vẫn không chịu cắt đứt với ngời vợ lẽ thì phải phạt tù
giam.
Tình tiết nghiêm trọng ở đây có thể là: đà đợc giáo dục,
giải thích mà vẫn cố tình vi phạm; đà đợc Tòa án tuyên bố cuộc
kết hôn là bất hợp pháp mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ vợ chồng;
hành vi có tính chất lừa dối cơ quan, đoàn thể, lừa dối vợ trớc
hoặc vợ sau; gây ảnh hởng, tác hại xấu, d luận phản đối [42, tr.
470].
Thứ sáu, đối với hành vi thông gian, tức là hành vi quan hệ tình dục
bất chính giữa một bên đang có vợ hoặc có chồng với ngời khác (dù là ngời
này đà có hoặc cha có vợ, có chồng), Thông t nêu rõ:
Trong tình hình xà hội miền Bắc nớc ta hiện nay, không
thể coi thông gian là một khuyết điểm về sinh hoạt cá nhân, mà
khi có những tình tiết nghiêm trọng nhất định phải coi thông gian
là một tội phạm đà xâm phạm đến quan hệ HN&GĐ đợc pháp
luật bảo vệ, đến thuần phong mỹ tục và đến trật tự xà hội.
Đờng lối xử lý cần thiết hiện nay đối với tội thông gian là:
biện pháp ngăn chặn tệ nạn này chủ yếu vẫn giáo dục. Các cơ
quan, đoàn thể cần tăng cờng công tác giáo dục quần chúng về
đạo đức, xà hội mới, chống những t tởng và nếp sống sa đọa, đồi
bại, trụy lạc do xà hội cũ để lại.
Trong một số ít trờng hợp cần thiết, có thể dùng biện pháp
t pháp để làm chỗ dựa cho công tác giáo dục nói trên. Những trờng hợp cần thiết đó là:
- Thông gian với vợ bộ đội, vợ cán bộ và vợ những ngời vì
nhiệm vụ công tác mà phải thoát ly gia đình, tại những địa phơng
xảy ra nhiều vụ thông gian, làm ảnh hởng đến tinh thần công tác
của ngời chồng.
- Thông gian có tính chất nghiêm trọng nh: thông gian
một cách trắng trợn hoặc kéo dài; do thông gian mà phá hoại
hạnh phúc của nhiều gia đình; bất chấp sự giáo dục của cơ quan,
đoàn thể hoặc sự phản đối của gia đình ngời chồng, của ngời vợ,
của kẻ ngoại tình và bị quần chúng công phẫn đòi hỏi phải trừng
phạt.
- Do thông gian mà dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng
nh gây ra án mạng, tham ô lớn, đào ngũ, đào nhiệm hoặc những
hành động phạm pháp nghiêm trọng khác [42, tr. 471].
Thứ bảy, đối với hành vi đánh đập hoặc ngợc đÃi vợ, tức là những hành
động của ngời chồng không đối xử bình đẳng, dân chủ với ngời vợ, xâm hại
đến sức khỏe, nhân cách, quyền tự do của ngời vợ, Thông t hớng dẫn:
Biện pháp chủ yếu vẫn là giáo dục thờng xuyên quan
điểm bình đẳng và dân chủ trong quan hệ vợ chồng nhng cần xử
lý về hình sự để hỗ trợ cho công tác giáo dục trong một số trờng
hợp cần thiết nh:
- Đối với những hành động đánh đập nghiêm trọng nh làm
chết ngời, gây thơng tích nặng hoặc thơng tật lâu ngày, dẫn đến tự
sát, do bọn can phạm bản chất hung bạo, đánh đập một cách hung
ác hoặc dùng thủ đoạn thâm độc gây ra, cần phải nghiêm trị tùy
tình tiết cụ thể.
- Đối với những hành động ngợc đÃi cha gây tác hại
nghiêm trọng của những ngời chậm tiến thì chủ yếu là giáo dục,
hoặc cảnh cáo. Trờng hợp có tác hại nhất định và có bị quần
chúng căm phẫn, có thể xử phạt cảnh cáo hoặc án treo hay tï
giam khi thÊy thËt cÇn thiÕt [42, tr. 473].
Thứ tám, đối với hành vi đánh đập, ngợc đÃi con, ngợc đÃi bố mẹ,
Thông t hớng dẫn:
Tập quán lâu đời của nhân dân ta, luật pháp của Nhà nớc
chúng ta đòi hỏi con cái phải "kính yêu, săn sóc, nuôi dỡng cha
mẹ". Tuy nhiên, thỉnh thoảng còn xảy ra trờng hợp con cái ngợc
đÃi, hắt hủi, không nuôi dỡng bố mẹ già yếu; đôi khi thái độ đối
xử vô đạo đức của con cái đà làm cho bố mẹ tự sát. Trong những
trờng hợp nghiêm trọng trên, cần đa ra xét xử điển hình một vài
vụ để giáo dục chung, đồng thời bắt con cái phải nuôi dỡng bố
mẹ già yếu [42, tr. 474].
Nghiên cứu những quy định trên cho thấy, Thông t số 332-NCPL
ngày 04-04-1966 của TANDTC đà quán triệt tốt phơng châm, đờng lối
chung đối với việc xử lý về hình sự các hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp
luật HN&GĐ là: kiên trì giáo dục, thuyết phục tuân thủ pháp luật là chủ
yếu, kết hợp biện pháp trừng trị đối với những trờng hợp vi phạm nghiêm
trọng pháp luật HN&GĐ.
1.1.3. Giai đoạn từ khi Bộ luật hình sự 1985 ra đời cho đến trớc
khi ban hành Bé luËt h×nh sù 1999
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IV, V của
Đảng, nhân dân ta đà giành đợc những thành tựu quan trọng trên một số
lĩnh vực, cải biến đợc một phần cơ cấu của nền kinh tế - xà hội, tạo ra
những cơ sở đầu tiên cho sự phát triển mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta đà gặp phải nhiều
khó khăn và khuyết điểm nh chủ quan duy ý chí, duy trì quá lâu mô hình
kinh tế quan liêu, bao cấp nên không thực hiện đợc mục tiêu đà đề ra là ổn
định một cách cơ bản tình hình kinh tế - xà hội và đời sống nhân dân. Mặt
khác, các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành không thể hiện đợc
toàn diện, đầy đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nớc ta. Vì vậy, việc ban
hành BLHS là vấn đề có tính tất yếu khách quan và cÊp thiÕt, cã ý nghÜa
gãp phÇn thùc hiƯn hai nhiƯm vụ chiến lợc là xây dựng chủ nghĩa xà hội và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 27-6-1985, tại
kỳ họp thứ 9, Quốc hội nớc Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa VII, đà thông
qua BLHS, cã hiƯu lùc thi hµnh tõ ngµy 1-1-1986 (sau đây gọi tắt là BLHS
1985).
BLHS 1985 đà kế thừa và phát triển những thành tựu của luật hình
sự Việt Nam, nhất là từ Cách mạng tháng Tám, tổng kết kinh nghiệm đấu
tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian trớc năm 1985 và dự báo đợc
tình hình tội phạm trong thời gian tới.
Trong Bộ luật này, đà chính thức ghi nhận về mặt pháp lý các tội
phạm xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình nhằm vào những biểu hiện
nghiêm trọng nhất của các tàn tích của chế độ hôn nhân nhân gia đình
phong kiến, lạc hậu nh: cỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện tiến
bộ, vi phạm chế độ một vợ một chồng, tổ chức tảo hôn, loạn luân, ngợc đÃi
nghiêm trọng hoặc hành hạ cha mẹ, vợ chồng, con cái. Với quan niệm rằng,
gia đình là thiết chế xà hội có trách nhiệm đầu tiên trong việc bảo vệ quyền
lợi của con cái, nhất là con cha thành niên và việc đó quan hệ mật thiÕt víi
việc bảo đảm hạnh phúc gia đình, nhà làm luật đà quy định các tội xâm
phạm chế độ hôn nhân gia đình và các tội phạm đối với ngời cha thành niên
vào Chơng V của BLHS 1985, từ Điều 143 đến Điều 149 và Điều 150 quy
định hình phạt bổ sung.
BLHS 1985 đà quy định tội cỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân
tự nguyện, tiến bộ (Điều 143), tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều
144), tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn (Điều 145), tội loạn luân (Điều 146),
tội ngợc đÃi nghiêm trọng hoặc hành hạ cha mẹ, vợ chồng, con cái (Điều
147). T tởng chỉ đạo trong việc xây dựng các quy định về các tội xâm phạm
chế độ HN&GĐ trong Bộ luật là: kiên trì giáo dục và thuyết phục tuân thủ
pháp luật, kết hợp biện pháp giáo dục với biện pháp trừng trị đối với những
trờng hợp vi phạm nghiêm trọng. Căn cứ vào khách thể bị xâm phạm, có thể
chia các tội phạm này thành hai nhóm trong đó nhóm các tội xâm phạm chế
độ hôn nhân bao gồm: tội cỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ, tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng, tội tổ chức tảo hôn,
tội tảo hôn, tội loạn luân và nhóm các tội xâm phạm chế độ gia đình bao
gồm: tội ngợc đÃi nghiêm trọng hoặc hành hạ cha mẹ, vợ chồng, con cái.
Việc BLHS 1985 quy định các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ đánh
dấu sự trởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nớc ta.
Nghiên cứu những quy định về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ
trong BLHS 1985, cho thấy đặc điểm chung của các tội phạm thuộc nhóm
tội này nh sau:
Thứ nhất, các hành vi khách quan cấu thành các tội xâm phạm chế
độ HN&GĐ thờng phải có các tình tiết nghiêm trọng nh dùng các thủ đoạn thô
bạo, xảo quyệt nh hành hạ, ngợc đÃi, uy hiếp tinh thần, yêu sách b»ng cđa
c¶i.
Thứ hai, đối tợng đợc bảo vệ chủ yếu là ngời cao tuổi, phụ nữ và
con cái mà quyền lợi của họ bị các hành vi ảnh hởng của tàn d t tởng phong
kiến trọng nam, khinh nữ và gia trởng xâm phạm.
Thứ ba, mức hình phạt đợc quy định đối với các tội này không cao:
mức hình phạt tối đa đối với hầu hết các tội phạm này là ba năm tù, duy
nhất tội loạn luân có mức hình phạt cao nhất là năm năm tù. Nh vậy, theo
quy định tại khoản 2 Điều 8 BLHS 1985, nhóm các tội xâm phạm chế độ
HN&GĐ đều đợc coi là những tội phạm ít nghiêm trọng.
1.1.4. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự 1999 cho đến
nay
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp
đổi mới do Đảng ta khởi xớng và lÃnh đạo đà giành đợc những thành tựu
quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xà hội
của đất nớc đà có nhiều khởi sắc, đợc nhân dân ta và bạn bè quốc tế đánh
giá cao.
Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, bên cạnh những mặt
tích cực, mặt trái nền kinh tế thị trờng cũng đà làm nảy sinh nhiều vấn đề
tiêu cực, trong đó tình hình tội phạm diễn biến phức tạp. Trong tình hình đó,
BLHS 1985, dù đà đợc sửa đổi, bổ sung 4 lần, nhng còn nhiều điểm bất cập
cần phải đợc sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện, nhằm đáp ứng yêu cầu
đấu tranh phòng, chống tội phạm trong t×nh h×nh míi.
Trong xu thÕ héi nhËp kinh tÕ qc tế và khu vực, nhất là trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc, việc sửa đổi toàn diện
BLHS 1985 là một đòi hỏi khách quan của hoạt động lập pháp hình sự. Để
phục vụ đợc yêu cầu đề ra, ngày 21-12-1999, Quốc hội nớc Cộng hòa
XHCN Việt Nam khóa X tại kỳ họp thứ 6, đà thông qua BLHS (sau đây gọi tắt
là BLHS 1999), thay thÕ cho BLHS 1985. BLHS 1999 cã hiÖu lùc thi hµnh tõ
ngµy 1-7-2000.
Về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, BLHS 1999 có những điểm
mới cơ bản nh sau:
Thứ nhất, Chơng XV của BLHS 1999 quy định về các tội xâm phạm
chế độ hôn nhân gia đình đợc xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Chơng V
của BLHS 1985 quy định các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và
các tội phạm đối với ngời cha thành niên. Điểm mới đầu tiên dễ nhận thấy
là BLHS 1999, đà có điều chỉnh phạm vi của chơng này theo hớng thu hẹp
lại chỉ còn các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ còn các tội phạm đối với ngời
cha thành niên, đặc biệt là trẻ em đợc điều chuyển sang các chơng thích hợp
khác.
Nh vậy, Chơng XV của BLHS 1999 quy định các tội xâm phạm chế
độ hôn nhân gia đình chỉ còn lại gồm 7 điều (từ Điều 146 đến Điều 152).
Thứ hai, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn đấu tranh phòng và chống
tội phạm, BLHS mới đà bổ sung thêm hai tội danh mới, đó là tội đăng ký
kết hôn trái pháp luật (Điều 149) và tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp
dỡng (Điều 152).
Trong chơng này có một tội duy nhất vẫn đợc giữ nguyên nh quy
định của BLHS 1985. Đó là tội loạn luân (Điều 150).
Thứ ba, BLHS 1999 đà bổ sung, sửa đổi cấu thành tội phạm (CTTP)
của một số tội phạm theo hớng hạn chế bớt khả năng xử lý hình sự đối với
các tội này. Trong lĩnh vực này, chủ yếu là áp dụng các biện pháp giáo dục,
thuyết phục và hành chính để giải quyết. Chỉ xử lý hình sự trong những trờng hợp thật cần thiết khi các biện pháp giáo dục, phòng ngừa, hành chính
tỏ ra không có hiệu quả.
Thứ t, về tội cỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến
bộ đợc quy định tại Điều 146.
Về cơ bản, tội này vẫn đợc giữ nguyên cấu trúc và hình phạt nh quy
định tại Điều 143 BLHS 1985, nhng có hai điểm mới là:
- Đợc bổ sung thêm một dấu hiệu định tội là "đà xử phạt hành chính
về hành vi này mà còn vi phạm" nhằm thu hẹp phạm vi xử lý về hình sự đối
với tội phạm này. Điều đó cũng phù hợp với thực tiễn đấu tranh chống loại
tội phạm này.
- Mức tối đa của hình phạt cải tạo không giam giữ đối với tội này tăng
từ 1 năm theo quy định trớc đây lên 3 năm theo quy định tại Điều 146 BLHS
1999.
Thứ năm, về tội vi phạm chế độ một vợ một chồng đợc quy định tại
Điều 147 BLHS 1999.
Điều luật này đợc bổ sung, sửa đổi theo hớng bổ sung thêm chủ thể
của tội phạm và thêm các dấu hiệu định tội. Cụ thể nh sau:
- Theo quy định của BLHS 1985, thì chỉ ngời nào đang có vợ, có
chồng mà kết hôn hoặc chung sống nh vợ chồng với ngời khác mới phải
chịu TNHS về tội này. Trên thực tế, không ít trờng hợp ngời cha có vợ, cha
có chồng lại kết hôn hoặc chung sống nh vợ chồng với ngời mà mình biết rõ
là đang có vợ, có chồng. Đây cũng là hành vi nguy hiểm xâm phạm chế độ
một vợ, một chồng, phá hoại hạnh phúc gia đình của ngời khác mà cha bị
pháp luật trừng trị.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn nói trên, BLHS 1999 quy định xử lý
về hình sự cả trờng hợp ngời cha có vợ, cha có chồng mà kết hôn hoặc
chung sống nh vợ chồng với ngời mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ.
- Bổ sung thêm hai dấu hiệu định tội mới nhằm hạn chế khả năng xử
lý về hình sự đối với tội này. Đó là:
- Gây hậu quả nghiêm trọng;
- ĐÃ bị xử phạt hình chính về hành vi này mà còn vi phạm.
Thứ sáu, về tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn đợc quy định tại Điều
148 BLHS 1999
Về cơ bản, những quy định về tội phạm này vẫn đợc giữ nguyên nh
trớc đây, nhng có bổ sung thêm một dấu hiệu định tội là: "ĐÃ bị xử phạt
hành chính mà còn vi phạm" nhằm hạn chế phạm vi xử lý về hình sự.
Về hình phạt: mức cải tạo không giam giữ đợc tăng từ 1 năm lên 2 năm.
Thứ bảy, về tội đăng ký kết hôn trái pháp luật đợc quy định tại Điều 149
BLHS 1999
Đây là một tội phạm mới đợc bổ sung vào BLHS 1999 để ngăn ngừa
và trừng trị những hành vi của ngời có trách nhiệm trong việc đăng ký kết
hôn đà biết rõ là ngời xin đăng ký không đủ điều kiện kết hôn mà vẫn đăng
ký cho ngời đó. Tinh thần chung là chỉ xử lý về hình sự khi đà ¸p dơng c¸c
biƯn ph¸p hµnh chÝnh, kû lt mµ ngêi vi phạm vẫn không chịu sửa chữa lỗi
lầm của mình, tiếp tục vi phạm.
Thứ tám, về tội ngợc đÃi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng,
con cháu, ngời có công nuôi dỡng mình đợc quy định tại Điều 151 BLHS
1999
Tội phạm này cơ bản vẫn đợc giữ nh quy định trớc đây, nhng có một
số điểm bổ sung. Qua nghiên cứu tình hình thực tiễn thấy rằng trong xà hội
ta còn xảy ra những trờng hợp hành hạ, ngợc đÃi không chỉ giữa cha mẹ, vợ
chồng, con cái mà cả giữa những ngời thân thích khác trong gia đình nh
giữa cháu với ông bà, giữa cháu với cô, chú, bác, cậu, dì, thậm chí hành hạ,
ngợc đÃi ngay cả với ngời đà từng có công nuôi dỡng mình khôn lớn. Đây
là những hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật, xúc phạm thô bạo đến
đạo đức xà hội, đến thuần phong mỹ tục và truyền thống đạo lý gia đình
Việt Nam. Tuy nhiên, pháp luật hình sự mới chỉ trừng trị hành vi của những
ngời là cha mẹ, vợ chồng, con cái. Còn hành vi của những ngời khác trong
gia đình nh đà nêu trên thì có thể bị xử lý theo quy định tại Điều 111 BLHS
1985 về tội hành hạ ngời khác. Đây là điều không hợp lý, vì cũng là một
loại hành vi phạm tội (hành hạ, ngợc đÃi) do cùng một loại chủ thể thực
hiện (những ngời thân thích trong gia đình) xâm phạm cùng một loại đối t-
ợng (những ngời thân thích khác trong gia đình) nhng lại bị xử lý ở các điều
luật khác nhau. Vì thế, BLHS 1999 đà có những sửa đổi, bổ sung phù hợp
nh sau:
- Bổ sung thêm đối tợng bị ngợc đÃi, hành hạ là: ông bà, cháu và ngời có công nuôi dỡng ngời phạm tội nhằm mở rộng phạm vi đối tợng phải
áp dụng theo quy định của điều luật này.
- Bổ sung thêm dấu hiệu định tội là: gây hậu quả nghiêm trọng hoặc
đà bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm nhằm thu hẹp việc
xử lý về hình sự đối với hành vi này.
- Về hình phạt: mức cải tạo không giam giữ đợc tăng từ 1 năm lên 3
năm.
Thứ chín, về tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dỡng đợc quy
định tại Điều 152 BLHS 1999
Đây là một tội phạm mới đợc bổ sung vào BLHS 1999 nhằm trừng
trị những ngời có nghĩa vụ cấp dỡng theo pháp luật mà cố tình không thực
hiện nghĩa vụ đó mặc dù mình có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ đó,
đà bị xử lý hành chính hoặc gây hậu quả làm cho ngời đợc cấp dỡng lâm vào
tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc những hậu quả nghiêm
trọng khác.
1.2. Những quy định của bộ luật hình sự 1999 về các tội
Xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình
1.2.1. Khái niệm các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình
Để có thể làm sáng tỏ khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ
trớc hết cần làm sáng tỏ khái niệm HN&GĐ.
Hôn nhân và gia đình - đó là những hiện tợng xà hội luôn đợc các
nhà triết học, đạo đức học, xà hội học, luật học, sử học quan tâm nghiên