Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Luận văn Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (694.63 KB, 74 trang )


z













LUẬN VĂN:

Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng
đối với khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh




Lời mở đầu
Tín dụng Ngân hàng được coi là “đòn bẩy” quan trọng cho nền kinh tế, là nguồn vốn
quan trọng, chủ động để phát triển kinh tế trong nước. Tuy nhiên, nghiệp vụ tín dụng
không chỉ có ý nghĩa với nền kinh tế mà nó còn là nghiệp vụ hàng đầu, có ý nghĩa
quan trọng, quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của từng Ngân hàng. Cũng như
mọi hoạt động kinh doanh khác, hoạt động tín dụng cũng chứa đựng những rủi ro. Do
đặc thù kinh doanh tín dụng Ngân hàng là kinh doanh chủ yếu dựa trên tiền của người


khác, kinh doanh qua tay người khác nên rủi ro trong hoạt động tín dụng của Ngân
hàng còn cao hơn rủi ro doanh nghiệp vì nó vừa phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của
Ngân hàng và vừa phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, rủi ro
trong kinh doanh dịch vụ Ngân hàng là điều khó tránh khỏi mà chủ yếu là rủi ro tín
dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Thời gian gần đây rủi ro tín dụng đối
với khu vực này đang là vấn đề nổi cộm đang thu hút sự quan tâm của các cấp lãnh
đạo ngành Ngân hàng trong khi tiềm năng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh rất to
lớn nhưng chưa được phát huy. Hơn nữa rủi ro xảy ra trong Ngân hàng nói chung và
rủi ro tín dụng nói riêng còn nguy hiểm hơn rất nhiều lần so với rủi ro trong các ngành
kinh doanh khác. Hậu quả của nó rất dễ lan truyền trong cả hệ thống Ngân hàng, gây
ra những vụ hoảng loạn và sụp đổ hàng loạt Ngân hàng và một loạt hậu quả nghiêm
trọng khác về mọi mặt kinh tế, xã hội đặc biệt là lòng tin của người dân vào sự lãnh
đạo của Chính phủ bị suy giảm. Ta có thể thấy được phần nào hậu quả của rủi ro Ngân
hàng qua vụ đổ vỡ hàng loạt của gần 500 quỹ tín dụng đô thị và hàng nghìn hợp tác xã
tín dụng nông thôn nước ta những năm 1989-1990, hay mới đây nhất là sự sụp đổ của
hệ thống quỹ tín dụng ở Anbani.

Với các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay, rủi ro tín dụng đối với khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh cũng đang là một vấn đề làm đau đầu các nhà quản trị Ngân
hàng. Sự gia tăng của các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi, thất thoát vốn tín dụng do bị
lừa đảo, chiếm dụng….đã làm rung động cả một hệ thống Ngân hàng thương mại cổ
phần và đẩy không ít các Ngân hàng kể cả Ngân hàng quốc doanh vào trạng thái co
cụm không dám cho vay. Nhưng đã cho vay thì phải chấp nhận rủi ro. Trong kinh

doanh Ngân hàng cũng vậy, đến các Ngân hàng hoạt động hiệu quả nhất thì việc tồn
tại các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi … vẫn xảy ra nhưng ở mức độ thấp và rất thấp.
Chính vì vậy, vấn đề đặt ra cho các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay là cần
chấp nhận rủi ro và tìm ra các biện pháp giảm thiểu nó đến mức thấp nhất có thể, để
trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng lợi nhuận và góp phần thúc đẩy kinh
tế phát triển.

Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề, sau một thời gian thực tập tại Ngân hàng thương
mại cổ phần Hàng hải- Chi nhánh Hà nội, dưới sự hướng dẫn của Cô giáo PGS, TS
Nguyễn Thị Bất em đã chọn đề tài nghiên cứu: “Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng
đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh” (Nghiên cứu tại Ngân hàng thương
mại cổ phần Hàng hải – Chi nhánh Hà nội).
Bài luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại đối
với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại
Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng hải- Chi nhánh Hà nội.
Chương 3: Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng đối
với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng thương mại cổ phần
Hàng hải- Hà nội.













Chương 1
Rủi ro tín dụng trong hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng thương mại
đối với khu vực Kinh tế ngoài quốc doanh


1.1. hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị
trường.
1.1.1. Tính tất yếu khách quan của hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một bộ phận không thể tách khỏi đời sống xã hội,
là một sản phẩm đặc biệt của nền kinh tế thị trường. Sự ra đời và phát triển của Ngân
hàng thương mại dựa trên cơ sở lưu thông hàng hóa và phải trải qua một quá trình phát
triển lâu dài của loài người. Quan niệm Ngân hàng thay đổi theo thời gian, theo sự
biến đổi của nền kinh tế. Song khái quát chung được ghi trong pháp lệnh Ngân hàng
ngày 23/05/1990 của Hội đồng Nhà nước (Điều I, khoản 1): “Ngân hàng là một tổ
chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ mà hoạt động chủ yếu là thường xuyên nhận
tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay,
thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Ngân hàng thương mại cũng giống như các tổ chức kinh doanh khác là hoạt động vì
mục đích thu lợi nhuận nhưng là tổ chức kinh doanh đặc biệt vì đối tượng Ngân hàng
là tiền tệ. Trong đó hoạt động tín dụng là đặc trưng chủ yếu. Hơn nữa, tổ chức này lại
có vai trò to lớn trong việc tạo ra vốn và điều hoà vốn trong nền kinh tế. Khoản 8 và
10, điều 20, luật các tổ chức tín dụng, hoạt động tín dụng được định nghĩa như sau:
“Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy
động để thoả thuận cấp tín dụng cho khách hàng với nguyên tắc có hoàn trả bằng các
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu cho thuê tài sản, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ
khác…”.
Hoạt động Ngân hàng cũng như hoạt động tín dụng ngân hàng đều là một công cụ
quan trọng không thể thiếu của nền sản xuất kinh tế thị trường.

1.1.2. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại thể hiện mình thông qua các hoạt
động sau:
1.1.2.1. Huy động tiền gửi của doanh nghiệp và cá nhân.
Đây là một trong những nghiệp vụ cơ bản, đầu tiên chủ yếu của ngân hàng thương mại

mà chính qua nghiệp vụ này, ngân hàng thương mại đã thực hiện chức năng tạo tiền.
Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội bằng cách nhận tiền
gưỉ của các doanh nghiệp và cá nhân thông qua các hình thức: tiền gửi có kỳ hạn, tiền
gửi không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm. Ngoài ra, khi cần thêm vốn, ngân hàng có thể
huy động bằng cách phát hành các chứng chỉ tiền gửi, các trái khoán ngân hàng, hay
vay vốn của ngân hàng trung ương và các tổ chức tín dụng khác. Tuy nhiên, ngân hàng
thương mại phải thu hút vốn trên cơ sở vốn tự có. Vốn tự có được coi là “cái đệm”
chống đỡ các rủi ro gặp phải trong kinh doanh ngân hàng. Tỷ lệ vốn huy động và vốn
tự có được quy định cụ thể trong luật ngân hàng mỗi nước. ở Việt Nam, các ngân hàng
thương mại không được phép huy động vốn quá 20 lần vốn tự có và quỹ dự trữ.
1.1.2.2. Thực hiện nghiệp vụ đầu tư tín dụng.
Đây là nghiệp vụ kinh doanh mang lại phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại dùng chủ yếu vốn huy động để cho vay từ đó thu lợi nhuận trên
cơ sở chênh lệch chi phí đầu vào và đầu ra. Thực hiện nghiệp vụ này, các ngân hàng
thương mại đã thực hiện chức năng xã hội của mình thông qua việc mở rộng vốn đầu
tư, gia tăng sản phẩm xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Tín dụng có ý nghĩa lớn
đối với toàn bộ nền kinh tế thông qua hoạt động tài trợ cho các ngành, các lĩnh vực
trong nền kinh tế như: công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng…Đồng thời
đây cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất, do vậy các ngân hàng thương mại
luôn chú trọng tới việc thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc cho vay để đảm bảo thu
về cả gốc lẫn lãi đúng hạn.
1.1.2.3. Nghiệp vụ thanh toán.
Các ngân hàng thương mại thực hiện nghiệp vụ thanh toán thông qua việc phát hành
các công cụ thanh toán (thẻ thanh toán, thẻ tín dụng, séc) cung cấp các dịch vụ thanh
toán cho công chúng, thực hiện các dịch vụ thu hộ, chi hộ. Để thực hiện các chức năng

trung gian thanh toán của mình, các ngân hàng thương mại đều tham gia vào các hệ
thống thanh toán như: hệ thống thanh toán bù trừ, hệ thống thanh toán liên hàng hay
thông qua các ngân hàng đại lý.
1.1.2.4. Tham gia hoạt động trên thị trường hối đoái.

Các ngân hàng thương mại tham gia mua bán ngoại tệ, kim loại quý… trên thị trường
hối đoái. Trong sự phát triển của mình các ngân hàng thương mại đã hình thành và
phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và kim loại quý. Nó xuất phát từ sự phát triển
sản xuất kinh doanh theo xu hướng hội nhập và phân công lao động quốc tế. Đồng
thời, nó cũng là động lực thúc đẩy trở lại sự phát triển của hoạt động này. Về phía
ngân hàng, việc mua bán ngoại tệ và kim loại quý…đã đem lại lợi nhuận trên cơ sở
mua vào với giá thấp và bán ra với giá cao. Kinh doanh trên cơ sở chênh lệch tỷ giá
thông qua các giao dịch giao ngày, giao dịch kỳ hạn, arbit…cũng đem lại lợi nhuận
cho ngân hàng.
1.1.2.5. Tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán, ngân hàng thương mại tham gia với tư cách là người cung
cấp (phát hành), người mua bán, người bảo lãnh phát hành, người môi giới, người đầu
tư….Trong đó, chức năng môi giới của ngân hàng trên thị trường chứng khoán được
mọi người biết tới thông qua các hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các
công ty, mua bán chứng khoán cho khách hàng…
1.1.2.6. Cung cấp các dịch vụ khác cho khách hàng.
Các ngân hàng thương mại hiện đại nhận thấy lợi nhuận đem lại từ việc cung cấp các
dịch vụ cho khách hàng chiếm tỷ trọng ngày một lớn trong tổng lợi nhuận. Do vậy đa
dạng hóa các dịch vụ, nâng cao hiệu quả chất lượng dịch vụ luôn là mối quan tâm của
ngân hàng. Ngày nay, các dịch vụ của ngân hàng thương mại rất đa dạng, phong phú
từ việc bảo lãnh, đến cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính, quản lý tài sản cho khách
hàng lưu giữ, bảo quản các chứng từ, tài sản có giá, cho thuê két, thực hiện nghiệp vụ
đại lý uỷ thác, quản lý danh mục đầu tư…
1.2.Vài nét về rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Khái niệm rủi ro trong kinh doanh của Ngân hàng thương mại.

Mục đích chung nhất của mọi hoạt động của con người là vươn tới thành công theo
những mục tiêu đã định. Trong quá trình thực hiện hoạt động ấy luôn có những khó
khăn nhiều, dự định ban đầu có thể không đạt được như ý muốn. Tất cả những cái đó
có thể gọi là rủi ro.

Tuỳ theo điều kiện khác nhau mà có cách nhìn về rủi ro không giống nhau:
- Theo Franknight(1921) thì :”Rủi ro là sự bất chắc có thể đo lường được”
- Theo Marilic Mr Carty(1986) cho rằng “Rủi ro là một tình trạng trong đó biến
cố xảy ra trong tương lai có thể xác định được”.
- Theo H.Kinh nhà kinh tế học Mỹ: “Rủi ro là các kết quả bất lợi có thể đo
lường được”. Như vậy theo ông những gì chưa biết thì không phải là rủi ro mà là bất
chắc.
- Còn theo Allan Willet thì “ Rủi ro là bất chắc có liên quan đến việc xuất hiện
một biến cố không mong đợi”.
- Theo lý thuyết chứng khoán: “ Rủi ro là sự chênh lệch giữa lợi nhuận thực tế
và lợi nhuận bất lợi cho nhà đầu tư”.
Nhìn chung mỗi định nghĩa đều khẳng định được rằng Rủi ro là khả năng xuất hiện
những biến cố không mong đợi gây thiệt hại cho một công việc cụ thể.
Trong nền kinh tế thi trường, rủi ro đựơc xem như một yếu tố không thể tách rời với
quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, doanh nhân trên thị trường. Các chuyên gia
về Tài chính- Ngân hàng cho rằng: “ hơn mọi doanh nghiệp khác, Ngân hàng phải đối
phó với các loại rủi ro từ mọi nguồn gốc”.
Rủi ro tín dụng là đặc trưng nhất và dễ xảy ra nhất trong hoạt động kinh doanh tiền tệ
của Ngân hàng. Rủi ro tín dụng là một rủi ro trong kinh doanh của Ngân hàng do một
hoặc một nhóm khách hàng không thực hiện được các nghĩa vụ về tài chính với Ngân
hàng. Rủi ro tín dụng được hiểu là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp tín
dụng cho một khách hàng. Hoặc nói một cách cụ thể hơn, luồng thu nhập dự tính mang
lại từ tài sản có sinh lời của các Ngân hàng có thể không được hoàn trả đầy đủ xét cả
về mặt số lượng và thời hạn.
Điều đó có nghĩa là một khi còn có hoạt động Ngân hàng thì còn có rủi ro trong hoạt
động tín dụng và buộc Ngân hàng phải có những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu mới có
thể hạn chế, ngăn ngừa bớt rủi ro, giảm tới mức thấp nhất thiệt hại do chúng gây ra.

1.2.2. Các loại hình rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương
mại.

1.2.2.1. Rủi ro tín dụng (rủi ro cho vay).
Hoạt động tín dụng là một trong các hoạt động lớn nhất và chủ yếu nhất của Ngân hàng
thương mại vì vậy lợi nhuận của Ngân hàng chủ yếu là thu từ lãi do việc cấp tín dụng.
Đương nhiên ở khâu này chứa đựng nhiều rủi ro nhất, nói cách khác việc cho vay bao
giờ cũng thực hiện các đảm bảo để giảm thiểu các rủi ro có liên quan đến tiền vay như:
Phân tích khách hàng, quy định hạn mức cho vay, yêu cầu thế chấp, thỏa thuận về vay,
trả nợ. Nhưng dẫu sao Ngân hàng cũng không thể đánh gía được hết các bất ngờ hoặc
chính xác được.
Rủi ro cho vay biểu hiện ra bên ngoài là việc không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ, vốn bị
ứ đọng khó có khả năng thu hồi hoặc xảy ra nợ quá hạn ngày càng tăng, các khoản lãi
chưa thu ngày càng lớn dẫn đến Ngân hàng không thu hồi được vốn để hoàn trả vốn
cho người gửi tiền, thậm chí Ngân hàng bị thiếu và không có khả năng thanh toán.
Nói tóm lại, rủi ro trong khâu cho vay liên quan đến ba vấn đề chính: ý thức về nghĩa
vụ trả nợ của khách hàng, khả năng trả nợ hiện tại và tương lai, khả năng chịu nợ theo
thời hạn thoả thuận với mức vay đã thực hiện.
1.2.2.2. Rủi ro mất khả năng thanh toán.
Trường hợp này xảy ra khi ngân hàng không đáp ứng được các nhu cầu thanh toán của
mình và của khách hàng. Có hai nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng này. Thứ nhất,
do ngân hàng huy động vốn ngắn hạn song lại cho vay dài hạn bởi vậy nó không đủ số
vốn cần thiết để đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng. Thứ hai, do khách hàng đột
ngột mất lòng tin ở ngân hàng, cùng lúc ồ ạt đến rút tiền làm cho ngân hàng không có
đủ tiền thanh toán cho khách hàng. Rủi ro này thể hiện ngân hàng đang thiếu vốn hoạt
động. Trong trường hợp này các Ngân hàng bị rủi ro thường bị mất tiền lãi và bỏ ra chi
phí cho các việc nhằm cứu vãn tình hình như:
 Bán chứng khoán.
 Vay tái chiết khấu từ Ngân hàng trung ương.
 Vay các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác.
 Thu hồi hay bán lại các món vay chưa đến hạn.

Do sự cạnh tranh giữa các thể chế tài chính trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ

nếu khả năng thanh toán của ngân hàng kém thì ngân hàng càng khó huy động được
nguồn vốn dồi dào, phạm vi hoạt động ngày càng thu hẹp. Từ đó, Ngân hàng sẽ lâm
vào vòng xoáy đã thiếu vốn lại càng thiếu vốn hơn và sẽ vỡ nợ nếu không được sự trợ
giúp kịp thời của Ngân hàng trung ương.

1.2.2.3. Rủi ro lãi suất.
Rủi ro lãi suất là rủi ro phát sinh khi có biến động chênh lệch lãi suất giữa lãi suất cho
vay của Ngân hàng với lãi suất phải trả cho việc đi vay dẫn đến giảm thu nhập của Ngân
hàng. Rủi ro này là hậu quả của những thay đổi lãi suất. Trong nền kinh tế, lãi suất là
yếu tố rất nhạy cảm đối với những biến động của nền kinh tế, hơn nữa nó là công cụ
trong việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của chính phủ. Vì vậy, rủi ro lãi suất
xuất hiện thường xuyên trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
1.2.2.4. Rủi ro tỷ giá.
Kinh doanh ngoại hối là một trong những hoạt động của Ngân hàng nhằm phục vụ cho
nhu cầu đa dạng của nền kinh tế, tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh hoạt động xuất
nhập khẩu thuật lợi. Rủi ro tỷ giá xuất hiện do sự thay đổi tỷ giá giữa các đồng tiền.
Rủi ro này xuất hiện hầu hết trong các hoạt động kinh doanh Ngân hàng, đặc biệt trong
khâu ”đi vay” và “cho vay”. Khi tỷ giá tăng sẽ tạo ra ”lãi” về hối đoái, tỷ giá giảm sẽ
tạo ra ”lỗ” về hối đoái. Những điều này sẽ tạo ra ảnh hưởng trực tiếp đến Ngân hàng
cũng như đối với khách hàng của Ngân hàng.
1.2.2.5. Rủi ro bị đọng vốn.
Rủi ro này xuất hiện trong trường hợp nguồn vốn của Ngân hàng bị ứ đọng, không cho
vay được hay không thể chuyển sang các tài sản có sinh lời khác. Điều này gây rủi ro
lớn cho Ngân hàng. Bởi vì NHTM là doanh nghiệp kiếm lợi nhuận bằng cách”đi vay
để cho vay” nguồn vốn tự có rất ít ỏi, chỉ là một cái đệm chống đỡ sự sụt giảm của tài
sản có mà thôi. Và nguồn vốn huy động chủ yếu của ngân hàng chính là vốn huy động.
Nếu vì một lý do nào đó, ngân hàng không cho vay được nguồn vốn này hoặc không
sử dụng hết nghĩa là tồn tại tiền dự trữ qúa mức không sinh lãi trong khi đến hạn ngân

hàng vẫn phải trả lãi cho số tiền huy động và các chi phí nghiệp vụ khác có liên quan

sẽ làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng. Tình trạng này kéo dài và đến một
mức độ nào đó sẽ đẩy ngân hàng vào hoàn cảnh khó khăn thua lỗ hoặc thậm chí phá
sản.
1.2.2.6. Các rủi ro thuần tuý.
Đó là những rủi ro của tự nhiên mang lại như thiên tai, hoả hoạn, động đất hoặc các rủi
ro như lừa đảo, trộm cắp…làm thiệt hại hay phá huỷ tài sản của Ngân hàng.
1.3. Rủi ro tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Với khả năng điều hòa vốn trong nền kinh tế, Ngân hàng thương mại từ lâu đã được
xem có vai trò quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế của đất nước nói chung và
sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng. Nhưng trước khi xem
xét rủi ro tín dụng Ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, chúng ta cần
phải biết đặc điểm khu vực kinh tế này trong nền kinh tế thị trường.
1.3.1 Đặc điểm khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Kinh tế ngoài quốc doanh(KT NQD) là một bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân.
Sự tồn tại và sự phát triển khu vực kinh tế này có cơ sở về mặt kinh tế và thể chế chính
trị. Xét về mặt kinh tế xã hội, Marx đã từng khái quát rằng một kết cấu xã hội không bị
loại trừ khi bản thân nó vẫn còn sức sống và một cấu trúc Xã hội mới chưa thể ra đời
khi những điều kiện này nảy sinh nó chưa xuất hiện.
Trên ý nghĩa đó, KT NQD có cơ sở kinh tế xã hội ở nước ta. Về mặt thể chế chính trị
từ Đại hội Đảng lần VI(1986) đến nay, Đảng và nhà nước ta đã kiên trì và nhất quán
thực hiện chiến lược nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo hướng Xã hội chủ nghĩa.
Theo đó, sở hữu tư nhân được chấp nhận, KT NQD được tồn tại và phát triển cùng
kinh tế Nhà nước. KTNQD là khu vực kinh tế được hình thành trong quan hệ sở hữu
tư nhân, không có sự góp vốn của Nhà nước. Xét cụ thể về loại hình doanh nghiệp KT
NQD bao gồm: hợp tác xã, công ty, doanh nghiệp tư nhân, hộ cá thể và cá nhân kinh
doanh.

Nghiên cứu hoạt động của KT NQD trong mối quan hệ với khu vực quốc doanh, ta sẽ
thấy rõ được vai trò tất yếu của KT NQD trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội.

Thành phần KT NQD có đặc điểm nổi trội sau:
1.3.1.1 Đa số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều tập trung vào lĩnh vực
thương mại, dịch vụ và tập trung chủ yếu ở các vùng đô thị lớn.
Qua số liệu thống kê cho thấy phạm vi hoạt động của khu vực KT NQD có mặt hầu
hết các ngành Kinh tế quốc dân(26000 doanh nghiệp vừa và nhỏ, tính đến đầu năm
1998), công nghiệp chế biến, nông –lâm nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch vụ.
Tuy nhiên trong vòng 10 năm trở lại đây, mức đầu tư nhiều nhất vẫn là thương mại và
dịch vụ, ngành chiếm tỷ trọng nhiều cả về số lượng lẫn giá trị tổng sản phẩm quốc nội.
Sự phát triển của thương mại –dịch vụ ngoài việc xuất phát từ nhu cầu thực tế của nền
kinh tế còn là tất yếu của thời đại và xu thế hội nhập nên quy mô hoạt động của nó đã
vượt ra ngoài biên giới của một nước. Hơn nữa, đặc điểm của ngành thương mại và
dịch vụ là vốn đầu tư thấp hơn các ngành khác, thời gian thu hồi vẫn nhanh, tỷ suất
doanh lợi hấp dẫn, có thị trường, có kinh nghiệm kinh doanh.
Trong lĩnh vực sản xuất khu vực KT NQD chiếm tỷ trọng thấp năng lực sản xuất nhỏ
nên dễ bị tác động bởi sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường và chủ đầu tư vào các
ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến.


1.3.1.2 Năng động nhạy bén và dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường.
Người quản lý doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường xuyên đồng thời là chủ sở hữu
nên các quyết định trong kinh doanh thường có hiệu lực ngay. Sự gắn bó sát sao giữa
quyền lợi của doanh nghiệp với quyền lợi của người lãnh đạo khiến họ phải tập trung
hết trí lực cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do có khả năng tự quyết, họ
có thể chớp lấy những cơ hội kinh doanh thuận lợi đồng thời họ có thể chuyển hướng
kinh doanh khi có những bất lợi. Vì vậy các DN NQD có khả năng thích ứng nhanh
với sự thay đổi của thị trường và sự tiến bộ không ngừng của Khoa học-Kĩ thuật. Đây
là một lợi thế của các DN NQD so với các doanh nghiệp quốc doanh(DNQD).
1.3.1.3 Có cơ cấu tổ chức gọn nhẹ.

Các DN NQD hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu. Nếu thường thích hợp với

cơ cấu tổ chức đơn giản, số lượng nhân viên ít và các nhân viên thường phải đảm bảo
nhận nhiều công việc theo kiểu đa năng. Phần lớn chủ doanh nghiệp vừa phải đảm
nhiệm vai trò điều hành, chỉ huy nhân viên vừa phải đảm nhiệm vai trò lãnh đạo kinh
doanh.
DN NQD thường sử dụng lực lượng lao động thời vụ, góp phần làm giảm chi phí, tạo
lợi thế cạnh tranh về giá. Cũng vì vậy mà họ đòi hỏi nhân viên của mình làm việc
nghiêm túc với cường độ cao, giảm thiểu lãng phí nguồn nhân lực vẫn thường gặp ở
DNQD. Doanh nghiệp có thể tận dụng lao động thay thế cho vốn từ đó có thể đạt hiệu
quả kinh tế cao hơn.
Rõ ràng là phát triển KT NQD là phù hợp với điều kiện và khả năng về vốn, kỹ thuật
cũng như trình độ quản lý của các nhà đầu tư trong nước. Đồng thời nó có khả năng
linh hoạt và dễ điều chỉnh hơn so với các doanh nghiệp có quy mô lớn trong nền kinh
tế thị trường ở nước ta. Do vậy, khối lượng vốn để hỗ trợ cho từng doanh nghiệp sẽ
không lớn hiệu quả sử dụng vốn cao và thời gian thu hồi vốn nhanh. Tuy nhiên khu
vực KT NQD cũng có không ít đặc điểm mang tính hạn chế, cần phải chú ý tới khi xây
dựng mối quan hệ tín dụng với họ.

1.3.1.4 Dễ dàng tạo lập sự phát triển cân đối giữa các vùng của đất nước.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với sự tạo lập dễ dàng có thể phát triển rộng rãi ở
mọi vùng của đất nước tạo ra các sản phẩm phong phú và đa dạng và phát triển cân đối
giữa các vùng của đất nước. Khối lượng kinh doanh có thể đáp ứng tốt nhu cầu của địa
phương, từng vùng. Bên cạnh đó khu vực KT NQD có xu hướng tập trung phát triển ở
các đô thị lớn như Hà Nội, Hải phòng, Thành phố Hồ Chí Minh…chưa phát triển ở
các tỉnh miền núi, trung du … dù rằng ở những nơi này có nhiều nguồn nguyên liệu để
phát triển.
1.3.1.5 Hạn chế về vốn.
Hiện nay các DN NQD đang gặp phải một cản trở rất lớn đến sự phát triển sản xuất và
mở rộng kinh doanh là tình trạng thiếu vốn. Trong khi đó họ thường chiếm một tỷ
trọng lớn trong số những người xin vay vốn Ngân hàng. Do vậy các Ngân hàng thương
mại phải có sự chú ý đặc biệt tới tình hình tài chính trong cho vay đối với khu vực này.


Mặc dù thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động được hơn 2 năm nhưng chưa thực
sự trở thành thị trường vốn dài hạn và ổn định cho các doanh nghiệp thuộc khu vực.
Đồng thời hạn chế về nguồn vốn là nguyên nhân cơ bản dẫn tới những khó khăn khác
cho các doanh nghiệp như về công nghệ lạc hậu, trình độ công nhân thấp, khả năng
cạnh tranh.
1.3.1.6. Tâm lý đầu tư, ý chí kinh doanh của các chủ doanh nghiệp ngoài quốc
doanh còn thấp.
Đa phần chủ doanh nghiệp trong nước thuộc các thành phần KT NQD chưa được đào
tạo một cách bài bản, trình độ đội ngũ quản lý các kỹ sư bậc cao, trình độ người lao
động thấp, thiếu kinh nghiệm tổ chức quản lý, khả năng thâm nhập thị trường, trình độ
trang bị sản xuất thấp. Hiện nay các nhà đầu tư chưa mạnh dạn đầu tư. Vì vậy họ đang
gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn lực nhằm tổ chức, quản lý, nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh.

1.3.1.7. Một số Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa xác định được rõ hướng sản
xuất kinh doanh.
Không ít doanh nghiệp thụ động do thiếu trình độ mà không xây dựng được kinh
doanh dài hạn, không xác định được rõ hướng sản xuất kinh doanh nên thường đăng
ký kinh doanh nhiều chức năng để dự phòng để thay đổi ngành nghề kinh doanh dễ
dàng. Còn có tình trạng kinh doanh sai chức năng, không có địa chỉ cố định, thay đổi
sáng lập viên, tạm ngừng kinh doanh, giải thể nhưng không báo cáo với cơ quan có
thẩm quyền.
1.3.1.8 Việc thực hiện pháp lệnh về tài chính và thống kê của Nhà nước chưa
nghiêm.
Các DN NQD gặp khó khăn trong việc xây dựng kế hoạch tài chính, phản ánh sản xuất
kinh doanh khả thi trong khi thói quen sử dụng các dịch vụ tư vấn mang tính chuyên
nghiệp chưa thành. Do việc lập kế hoạch tài chính xây dựng phương án sản xuất có
hiệu quả phụ thuộc vào nhiều nhân tố: trình độ khả năng quản lý kinh doanh, khả năng
dự đoán những biến động của thị trường….


Hiện nay các sổ sách các doanh nghiệp lập ra nhằm để đối phó và đều chưa được kiểm
toán. Do vậy việc đánh giá các chỉ tiêu tài chính từ các báo cáo tài chính của doanh
nghiệp là thiếu chính xác. Ngân hàng thực sự khó khăn trong việc đánh giá năng lực
tài chính của doanh nghiệp để đưa ra quyết định cho vay hay không.
Tính không ổn định của các quy định luôn thay đổi và không được báo trước đã tạo tâm
lý thiếu yên tâm đầu tư, còn nhiều quy định mang tính phân biệt đối xử giữa các doanh
nghiệp nhà nước và DN NQD rõ nhất là lĩnh vực đất đai, tín dụng… Ngoài ra, DN NQD
gặp khó khăn về vấn đề đất đai trong đó có thủ tục xin cấp quyền sử dụng đất như nhau.
Trong trường hợp thuê đất doanh nghiệp phải trả tiền thuê đất cao gấp nhiều lần so với
doanh nghiệp nhà nước. Sự không bình đẳng này dẫn tới những vấn đề cấp đất, cấp
quyền sử dụng đất, gây thất thoát cho ngân sách Nhà nước.
Để khu vực KT NQD phát triển, góp phần phát triển kinh tế đất nước, các vướng mắc
trong cơ chế tín dụng cần được tháo gỡ hơn nữa.
1.3.2. Nguyên nhân phát sinh rủi ro cho vay của Ngân hàng thương mại đối với
khu vực Kinh tế ngoài quốc doanh.
Các nguyên nhân có thể dẫn đến rủi ro cho vay của các NHTM đối với doanh nghiệp
của khu vực Kinh tế ngoài quốc doanh có thể được xem xét trên các khía cạnh sau:
1.3.2.1. Thông tin không cân xứng.
Trong những giao dịch diễn ra trên thị trường tài chính, sự không cân bằng về thông
tin mà mỗi bên có được gọi là thông tin không cân xứng. Ví dụ một người vay một
món tiền thường có thông tin tốt hơn về lợi tức tiềm ẩn và rủi ro kèm theo với dự án
đầu tư mà người này có dự tính tiến hành so với người cho vay. Việc thiếu thông tin
tạo ra những vấn đề trong hệ thống tài chính ở hai mặt: trước khi cuộc giao dịch diễn
ra và sau khi cuộc giao dịch diễn ra.
Chọn lựa đối nghịch là do vấn đề thông tin không cân xứng tạo ra trước khi diễn ra
cuộc giao dịch. Chọn lựa đối nghịch xảy ra trên thị trường tài chính khi những người
đi vay có nhiều khả năng tạo ra một kết cục không mong muốn (đối nghịch) – tức là
những rủi ro không trả được nợ – là những người tích cực tìm vay nhất và do vậy có
nhiều khả năng được lựa chọn nhất. Do việc chọn lựa đối nghịch khiến dễ có thể là các


món cho vay được thực hiện cho những trường hợp rủi ro không trả được nợ, những
người cho vay có thể quyết định không cho vay mặc dù có những trường hợp có thể trả
được nợ.
Rủi ro đạo đức là một vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra sau khi cuộc giao
dịch diễn ra. Rủi ro đạo đức xảy ra khi người cho vay phải chịu một rủi ro là người vay
có ý muốn thực hiện những hoạt động không tốt ( thiếu đạo đức) xét theo quan điểm
người cho vay, bởi vì những hoạt động này khiến ít có khả năng để món vay này sẽ
hoàn trả.
Rủi ro đạo đức nảy sinh trong thị trường vay nợ bởi vì những người vay tiền có ý thức
muốn thực hiện những hoạt động không đáng mong muốn theo quan điểm của người
cho vay. Trong tình trạng như vậy, dễ có thể là người cho vay này sẽ bị đặt vào sự rủi
ro về vỡ nợ. Một khi những người vay đã có món tiền vay, họ dễ có thể đầu tư vào
những dự án có rủi ro cao – những dự án đem lại lợi tức cao cho những người vay tiền
nếu thành công. Tuy nhiên, sự rủi ro cao này khiến họ có khả năng hoàn trả lại món
tiền vay.
Một thực tế đang tồn tại lâu nay là tình trạng các doanh nghiệp vay vốn luôn đối phó
với ngân hàng thông qua việc cung cấp các số liệu không trung thực, mặc dù những số
liệu này đều đã được các cơ quan có chức năng kiểm duyệt. Chế độ kế toán, thống kê
đã được ban hành, nhưng phần lớn các doanh nghiệp đều thực hiện không nghiêm túc.
Điều này gây rất nhiều khó khăn cho ngân hàng trong việc nắm bắt tình hình hoạt
động kinh doanh, cũng như việc quản lý vốn vay của đơn vị, để qua đó có thể đưa ra
được những quyết định đầu tư đúng đắn có tác dụng hỗ trợ cho doanh nghiệp phát
triển sản xuất kinh doanh, nhằm thu hồi vốn cho ngân hàng. Nhiều khi các ngân hàng
thương mại có những quyết định đầu tư không căn cứ vào số liệu báo cáo của đơn vị
mà thường dựa vào những cảm nhận trực quan của mình, điều này nếu kéo dài sẽ rất
nguy hiểm.
1.3.2.2. Môi trường kinh tế.
Hoạt động kinh doanh tiền tệ là một loại hình kinh doanh đặc biệt, rất nhạy cảm, chịu
tác động mạnh mẽ từ các yếu tố của nền kinh tế trong nước và thế giới. Trong thời

gian qua, nền kinh tế nước ta cũng như một số nước trong khu vực có những biến động
gây ảnh hưởng không nhỏ đến ngành ngân hàng. Cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ

khu vực tuy không tác động trực tiếp nhưng ít nhiều cũng gây chao đảo hệ thống ngân
hàng Việt Nam. Những điều chỉnh liên tục về lãi suất nhằm kích cầu trong năm 1999
cũng gây thiệt hại không ít cho các ngân hàng thương mại. Năm 2000 do những biến
động về tỷ giá đã gây nên tình trạng đôla hoá, người ta đua nhau rút tiền gửi tiết kiệm
mua ngoại tệ rồi gửi vào ngân hàng và đặc biệt là việc gửi ngoại tệ ra nước ngoài. Do
nền kinh tế khó khăn và sự sụt giảm nguồn vốn đầu tư, cuối năm 2001 Ngân hàng
Trung ương Mỹ liên tục cắc giảm lãi suất đồng USD cộng với sự sụt giảm lãi suất
đồng VND đã đẫn tới mọi ngươì đổ xô đầu tư vào bất động sản dẫn đến giá bất động
sản tăng một cách chóng mặt, gây khó khăn cho ngân hàng trong việc huy động vốn để
đầu tư vào nền kinh tế.
Bất kỳ một biến động nào của nền kinh tế cũng sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của ngân
hàng. Như một cá thể tự nhiên, ngân hàng “khoẻ mạnh” hay không cũng phụ thuộc rất
nhiều vào môi trường kinh tế ổn định hay nhiều “bão tố”.
1.3.2.3. Môi trường pháp lý.
Hệ thống văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động ngân hàng hiện nay, tuy đã
được cải tiến nhiều nhưng vẫn chưa thực sự khoa học và thiếu đồng bộ, chưa đủ sức
điều chỉnh những diễn biến phức tạp trong thực tế kinh doanh của ngân hàng thương
mại. Một vấn đề quan trọng là người thi hành luật, có nhiều người đã không thi hành
đúng theo luật Nhà nước đã ban hành. Đứng trước vụ lợi họ quyên mất vai trò quan
trọng đó là đem lại lợi ích cho quốc gia và công bằng cho xã hội. Nhà nước cần có
những văn bản hướng dẫn cụ thể cách thi hành luật và có những biện pháp xử lý
nghiêm minh đối với những người không làm trọn trách nhiệm.
Hiện nay, điều kiện vay vốn, đặc biệt đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh gần như
bắt buộc phải có tài sản thế chấp, trong khi đó chúng ta chưa có luật về sở hữu nên
chưa có cơ quan nào có trách nhiệm cấp chứng nhận sở hữu tài sản và việc chuyển
quyền sở hữu. Vì thế mà ngân hàng gặp khó khăn trong việc kiểm tra tính xác thực của
chủ sở hữu tài sản. Tín dụng thương mại đang rất phổ biến trong giao dịch nhưng các

quy định về lưu thông thương phiêú chưa có, dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn dây
dưa, lừa đảo, trốn thuế…gây khó khăn trong việc kiểm soát. Hệ thống các văn bản quy
định về đảm bảo tiền vay còn nhiều bất cập, mang tính áp đặt, chưa nâng cao quyền tự
chủ tự chịu trách nhiệm của ngân hàng và khách hàng vay vốn.

Bên cạnh đó các cơ quan hữu quan chưa có được cái nhìn thấu đáo về ngân hàng và
hoạt động kinh doanh tiền tệ, nên chưa có được sự phối hợp đồng bộ, tích cực với
ngân hàng trong việc giải quyết những vấn đề liên quan. Cho đến nay không ít người
còn cho rằng việc cho vay và thu hồi nợ vay chỉ đơn thuần là việc của ngân hàng,
trong khi trên thực tế có nhiều khoản vay ngân hàng đã thực hiện theo đúng mọi quy
định của nhà nước mà vẫn không thu hồi được nợ. Lúc đó việc thu hồi nợ đã vượt ra
khỏi chức năng và khả năng của ngân hàng. Mặc dầu đã có nhiều thông tư liên tỉnh
giữa ngân hàng nhà nước và các bộ ngành liên quan hướng dẫn thực hiện những vấn
đề có liên quan đến hoạt động của ngân hàng, nhưng thực tế đòi hỏi phải có sự phối
hợp nhiều hơn nữa giữa các cơ quan này với nhau trong thời gian tới.
1.3.2.4. Những nguyên nhân bất khả kháng.
Đó là những nguyên nhân như bão lụt, hạn hán, động đất, hỏa hoạn , các vụ ăn cắp,
lừa đảo gây thiệt hại về tài sản của ngân hàng hoặc của khách hàng khiến người vay
mất khả năng trả nợ vay. Đối với loại rủi ro này, ngân hàng phòng ngừa bằng các biện
pháp như mua bảo hiểm, tăng cường bảo vệ trực tiếp, giáo dục ý thức trách nhiệm cho
nhân viên ngân hàng…
1.3.3. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng (RRTD).
RRTD là vấn đề lớn và gắn liền với mọi hoạt động của cả Ngân hàng. Nhận biết và
đánh giá đầy đủ các rủi ro có thể thực hiện đầy đủ được, bởi các hình thức rủi ro xảy ra
rất đa dạng không thể có mô hình chung về RRTD. Tuy nhiên trong một chừng mực
nào đó chúng ta có thể nhận biết được các rủi ro tuỳ theo từng dấu hiệu cụ thể.
1.3.3.1. Doanh nghiệp vay vốn trì hoãn nộp các báo cáo tài chính.
Báo cáo tài chính là tài liệu quan trọng dùng để thẩm định cho vay và là cơ sở trực tiếp
để đánh giá việc vay vốn, sử dụng vốn vay của Ngân hàng. Vì vậy báo cáo tài chính
(như bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, báo cáo lỗ lãi…) có mối quan

hệ mật thiết với mọi khoản cho vay, và đòi hỏi người vay phải xuất trình kèm theo các
tài liệu vay vốn theo suốt thời gian vay. Việc chậm trễ trong xây dựng hoặc nộp các
báo cáo định kỳ nói lên tình hình tài chính có vẫn đề phải xem xét, hoặc doanh nghiệp

có khó khăn, hoặc có gian lận về tài chính, Ngân hàng cần thiết phải tiến hành kiểm tra
phân tích và kết luận cụ thể.
1.3.3.2. Mối quan hệ giữa Ngân hàng và người vay.
Trong nền kinh tế thị trường quan hệ giữa Ngân hàng và người vay là quan hệ bạn
hàng kinh doanh, bình đẳng trước pháp luật. Song mối quan này chủ yếu thực hiện trên
cơ sở việc sử dụng vốn lẫn nhau và dựa trên sự tín nhiệm. Vì vậy trong quan hệ tín
dụng nhất thiết phải có các quan hệ qua lại lẫn nhau nhằm để cung cấp thông tin hai
chiều, kiểm soát lẫn nhau trong việc thực hiện các cam kết và để khẳng định vị trí và
uy tín của mình. Sự chậm trễ hoặc thất hẹn, hoặc trốn tránh các giao tiếp đó chứng tỏ
mối quan hệ đang diễn ra không bình thường và sự không bình thường đó sẽ trực tiếp
ảnh hưởng đến việc sử dụng vốn, khả năng hoàn trả nợ, tình hình sản xuất kinh doanh
và các quan hệ hợp tác nói chung về kinh tế, xã hội. Tình hình đó có thể làm cho mối
quan hệ xã hội trở nên căng thẳng, không tốt đẹp, làm giảm uy tín và trực tiếp làm ảnh
hưởng tới khả năng huy động vốn, khả năng cho vay, khả năng thanh toán của các bên
– tức là có thể xuất hiện các rủi ro tín dụng.
1.3.3.3. Tình hình dự trữ vật tư hàng hoá.
Vật tư hàng hoá nói chung và vật tư hàng hoá tạo ra từ tiền vay nói riêng đều được coi
như các đảm bảo tiền vay trực tiếp, là cơ sở để vốn vay Ngân hàng phát huy hiệu quả
kinh tế (tạo ra lợi nhuận mới). Do đó dự trữ vật tư hàng hoá là việc làm cần thiết cho
sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên nếu dự trữ vật tư hàng hoá quá lớn (trên mức hợp lý)
thì có thể dẫn đến ứ đọng về vốn, làm giảm khả năng thanh toán và như vậy tình hình
tài chính trở nên khó khăn, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Từ đó
có thể làm nảy sinh nợ nần và gia tăng thêm các khoản nợ, kể cả các khoản nợ quá hạn
và có thể dẫn đến rủi ro tín dụng.
1.3.3.4. Chất lượng hàng hoá, dịch vụ.
Chất lượng hàng hoá, dịch vụ là kết quả của quá trình tổ chức sản xuất, kinh doanh,

nên có thể được coi là tiêu thức đánh giá sự thành công hay thất bại của người kinh
doanh. Tuy nhiên phải là các hàng hoá, dịch vụ phù hợp với thị trường, được thị
trường chấp nhận. Khi chất lượng hàng hoá, dịch vụ bị giảm sút, hoặc là không đạt
được các tiêu chuẩn thì đương nhiên khó có khả năng tiêu thụ, dẫn đến không có khả

năng thu hồi vốn đầu tư, không thực hiện được nghĩa vụ tài chính. Các doanh nghiệp
vay vốn Ngân hàng trong các trường hợp đó khó có thể đảm bảo được việc trả nợ đúng
hạn, đầy đủ cho Ngân hàng và đương nhiên có nhiều khả năng làm cho rủi ro tín dụng
xuất hiện.
1.3.3.5. Hoàn trả nợ vay Ngân hàng.
Thực hiện nghĩa vụ nợ vay Ngân hàng (bao gồm cả vốn và lãi) theo thời hạn được coi
như là một tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá chất lượng tín dụng. Các trường hợp trả nợ
vay Ngân hàng chậm hoặc quá thời hạn thoả thuận đều coi như là các dấu hiệu cơ bản
của rủi ro tín dụng. Cho dù rằng nguyên nhân của nó là khách quan hay chủ quan. Bởi
vì suy cho cùng khi cho vay thì điều mong muốn lớn nhất và chủ yếu nhất của Ngân
hàng là phải thu hồi đủ vốn và lãi theo thời hạn.
1.3.3.6. Sự thay đổi tổ chức hoạt động.
Bao gồm thay đổi của các nhà quản lý (cách thức, từ chức, chuyển công tác khác),
hoặc tình trạng ngừơi lao động thiếu việc làm(làm việc cầm chừng,thôi việc, nghỉ
việc), hoặc đơn vị vay phải bán các tài sản để giải quyết cho các nhu cầu tài chính,
cũng đều được coi như các dấu hiệu rõ nét để nhận biết rủi ro tín dụng. Bởi vì trong
đơn vị vay xuất hiện các tình trạng đó chứng tỏ đơn vị đang có các biến động xấu về
tình hình sản xuất, kinh doanh, tình hình tài chính khó khăn thì việc hoàn thành nghĩa
vụ nợ là điều khó thực hiện được.

1.3.3.7. Các thảm họa thiên nhiên, các biến động về chính trị xã hội.
Các thảm họa thiên nhiên như báo lụt, hoả hoạn, thời tiết khắc nghiệp… đều có thể là
các nguyên nhân ảnh hưởng lớn đến các hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhất là đối
với các đơn vị hoạt động phụ thuộc vào tự nhiên. Các biến động chính trị, xã hội sẽ
dẫn đến môi trường xã hội, môi trường kinh tế bất ổn định, đây là các bất lợi cho các

chủ thể trong kinh doanh. Như vậy cũng có nghĩa là tạo “điều kiện” nảy sinh các rủi ro
tín dụng. Điều này có thể nhận biết được từ các thông tin kinh tế, xã hội.
Tóm lại, trong quá trình kinh doanh các Ngân hàng phải thường xuyên quan tâm đến
mọi vấn đề có liên quan đến sự an toàn của các khoản cho vay, đầu tư thông qua các
dấu hiệu có thể nhận biết được. Các dấu hiệu đó có thể nhận biết được thông qua thông

tin từ phía người vay, từ thực tiễn cuộc sống và từ sự hoạt động của chính bản thân
Ngân hàng. Đồng thời căn cứ vào mức độ và biểu hiện của từng trường hợp để đề ra
các biện pháp ứng xử hợp lý nhất.
1.4. Tác hại của rủi ro tín dụng.
1.4.1. Đối với nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ với tư cách là một
trung tâm của đời sống kinh tế. Nên có thể nói hoạt động của Ngân hàng được coi là
một bức tranh thu nhỏ của nền kinh tế, thông qua nó ta có thể biết được tình hình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp và thu nhập của dân cư. Do đó, khi gặp phải những
rủi ro thì tất yếu sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế và đời sống
xã hội. Các Ngân hàng thường có quan hệ chặt chẽ với nhau, khi một Ngân hàng gặp
rủi ro thì có thể kéo theo một hệ thống Ngân hàng thương mại bị khủng hoảng. Điều
này sẽ kéo theo tình trạng mất ổn định trên thị trường tiền tệ. Nó có thể làm giảm giá
trị đồng nội tệ, đẩy tỷ giá hối đoái lên cao, gây khó khăn cho các nhà doanh nghiệp
trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Như vậy nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng trầm trọng,
khi đó những hiện tượng tiêu cực trong xã hội sẽ diễn ra như: Mức sống giảm, thất
nghiệp tăng, các vấn đề xã hội trở nên trầm trọng. Không chỉ như vậy, nó còn tạo ra
tâm lý bất ổn, hoảng loạn trong khu vực dân cư. Điều này được chứng minh rõ ở
nước ta trong đầu thập niên 90 do sự sụp đổ của hệ thống tín dụng; hay ở các nước
Pháp, Đức, Mỹ … hoặc trong thời gian qua hay gần hơn nữa là các nước trong khu
vực Đông Nam á
1.4.2. Đối với bản thân ngân hàng.
Ngân hàng thương mại thực chất cũng là một doanh nghiệp vì vậy cũng coi lợi nhuận
là mục tiêu cuối cùng. Lợi nhuận của Ngân hàng được tạo ra từ nhiều hoạt động, trong

đó nguồn thu từ lãii cho vay trong hoạt động kinh doanh tín dụng là chủ yếu nhất
(khoảng 70-80%). Do đó có thể nói rằng kinh doanh tín dụng là hoạt động quyết định
đến lợi nhuận thu được của cả Ngân hàng. Nhưng hoạt động tín dụng thì lại bao hàm
hầu hết các rủi ro của Ngân hàng. Như vậy có nghĩa là giữa rủi ro tín dụng và lợi
nhuận Ngân hàng luôn có mối liên hệ mật thiết và đối nghịch nhau.
Mối quan hệ đó thể hiện qua đồ thị

Mức đầu tư và cho
vay

L
ợi










Vì vậy, để có thể quyết định cho vay đúng đắn, ít rủi ro và thu được lợi nhuận
hợp lý, Ngân hàng cần phải phân tích cụ thể, kỹ lưỡng các yếu tối hợp thành khoản
cho vay. Trong khi phân tích Ngân hàng cần phải chú ý đến : năng lực vay nợ
(Capacity), uy tín của người vay (Chavacter), vốn (Capital), thế chấp tài sản
(Collateral), các điều kiện (condition) – theo mô hình 5C.
Khi rủi ro xảy ra ở mức độ thấp, Ngân hàng có thể bù đắp bằng thu nhập từ các hoạt
động khác hoặc bằng vốn tự có của mình, ở mức độ này Ngân hàng chỉ bị giảm lợi
nhuận kinh doanh hoặc tạm thời thua lỗ và khả năng khắc phục tình trạng này là hoàn

toàn có thể. Nhưng khi rủi ro xảy ra lớn, các phương tiện thông tin đại chúng sẽ nêu
lên và làm cho dân chúng thiếu lòng tin vào Ngân hàng và như vậy Ngân hàng khó có
thể huy động vốn được dồi dào. Các Ngân hàng nước ngoài vì thế mà xa lánh, không
mở đại lý Thậm chí có thể dẫn đến phá sản Ngân hàng khi khách hàng ồ ạt kéo đến
rút tiền khỏi Ngân hàng, vốn tự có không đủ bù đắp, Ngân hàng mất khả năng thanh
toán.
1.4.3. Đối với doanh nghiệp và những người gửi tiền.
Hiện nay các doanh nghiệp hầu hết hoạt động sản xuất kinh doanh không phải dựa
vào vốn tự có của doanh nghiệp mà dựa vào vốn vay của Ngân hàng là chủ yếu. Có
những doanh nghiệp vốn kinh doanh của Ngân hàng chiếm tới 80% đến 90% trong
tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy khi Ngân hàng gặp rủi ro tín dụng
nhiều thì việc cho vay của Ngân hàng cũng “dè dặt” hơn, Ngân hàng sẽ không dám
cho vay nhiều Và điều đó có ảnh hưởng không tốt đến hoạt động của doanh nghiệp,
các nhu cầu về vốn của doanh nghiệp sẽ không được đáp ứng đầy đủ.

Còn đối với những người gửi tiền thì sao? Ta biết rằng, vốn của Ngân hàng chủ yếu
là vốn đi huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế, những người có tiền nhàn rỗi
trong một thời gian nào đó chưa sử dụng. Nguồn vốn huy động này được đem cho
vay ngoài xã hội. Khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ làm cho khả năng thanh toán của Ngân
hàng gặp nhiều khó khăn, thậm chí khi người gửi tiền cần rút tiền, Ngân hàng không
có tiền để trả thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch, đến hoạt động sản xuất của người
gửi tiền bị dở dang
1.5. sự cần thiết của việc nghiên cứu rủi ro tín dụng.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn đứng trước nguy cơ rủi ro rất cao mà nghiệp vụ
tín dụng là một trong những lĩnh vực nhiều rủi ro nhất. Đối với các ngân hàng thương
mại Việt Nam, hoạt động tín dụng đang là lĩnh vực chủ đạo, chiếm tỷ trọng từ 85%-
95% doanh thu, nên việc đảm bảo chất lượng tín dụng đồng nghĩa với việc giảm thiểu
rủi ro tín dụng ở mức có thể sẽ là vấn đề có tính quyết định đến hiệu quả kinh doanh
của ngân hàng. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp hữu hiệu để nâng
cao chất lượng tín dụng luôn là mục tiêu, đồng thời là nhân tố quan trọng nhất để cạnh

tranh và phát triển của ngân hàng thương mại.
Vậy làm sao để nâng cao được chất lượng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh? Chất lượng tín dụng đối với khu vực này có thể hiểu đơn giản là hiệu quả của
việc cho vay (hay đầu tư, bảo lãnh mang lại) là khả năng thu hồi đầy đủ đúng hạn cả
vốn gốc và lãi (hoặc phí) theo dự định. Hiệu quả và khả năng thu hồi vốn càng lớn thì
chất lượng tín dụng càng cao và ngược lại. Hay nói cách khác rủi ro, thất thoát tín
dụng càng thấp thì chất lượng tín dụng càng cao. Điều đó có nghĩa là muốn nâng cao
chất lượng tín dụng phải giảm thiểu được rủi ro tín dụng, các ngân hàng phải thực hiện
được những món cho vay hoàn hảo.
Để có được một khoản cho vay hoàn hảo, các ngân hàng thường sử dụng rất nhiều
biện pháp như thẩm định dự án đầu tư kỹ càng, tìm hiểu về khách hàng, mục đích đầu
tư, uy tín, lịch sử phát triển của khách hàng… Từ đó đánh gía khả năng hoàn trả khoản
vay và ra quyết định có cho vay hay không. Tuy nhiên dù có thận trọng đến đâu chăng
nữa, các ngân hàng vẫn không thể tránh hoàn toàn rủi ro nhất là đối với khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh. Có thể là một chính sách mới của nhà nước khiến cho khách
hàng phải giải thể, hoặc những biến động bất lợi của nền kinh tế (suy thoái, khủng

hoảng…) hoặc thiên tai, hoả hoạn… Mặt khác, nếu ngân hàng quá thận trọng trong
việc ra quyết định cho vay, ngân hàng sẽ bị lỡ những cơ hội thu lợi nhuận và khó mà
mở rộng được quy mô của ngân hàng. Bởi vậy, dù muốn dù không ngay từ đầu ngân
hàng vẫn đòi hỏi khoản cho vay phải có hai phương án trả nợ tách biệt. Hiển nhiên
phương án một là mọi chuyện đều trôi chảy, việc cho vay thành công. Chẳng hạn khi
xuất khẩu, công ty bán được hàng và thu được tiền, có lãi và trả được nợ cho ngân
hàng. Xét trên phương diện cho vay thì đó là giải pháp hoạt động kinh doanh của công
ty sinh lời dù để họ có thể trả nợ cho ngân hàng. Phương án thứ hai là dự phòng trường
hợp nếu dự án không thành công thì doanh nghiệp lấy tài sản của họ để trả nợ hay đi
vay để trả nợ bao gồm cả việc sử dụng công cụ vay nợ trên thị trường. Đó chính là
những hình thức đảm bảo an toàn tín dụng.
Tóm lại, việc đưa ra các giải pháp để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng nói chung
và đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng là việc làm cần thiết ở các Ngân

hàng và đặc biệt là đối với Ngân hàng cổ phần Hàng hải-chi nhánh Hà nội. Ngân hàng
phải linh hoạt dự báo được khả năng xảy ra trong tương lai, nắm bắt được thông tin thị
trường từ đó đưa ra giải pháp kịp thời và phù hợp để Ngân hàng hoạt động ngày càng
hiệu quả, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước.













Chương 2

Thực trạng rủi ro rín dụng đối với
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại
ngân hàng Thương mại cổ phần hàng hải -
chi nhánh Hà nội

2.1. Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng hàng hải - Hà nội:
Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng hải Việt nam(viết tắt là MSB) là Ngân
hàng thương mại cổ phần đầu tiên ở Việt nam được thành lập sau khi pháp lệnh
về Ngân hàng và tổ chức tài chính có hiệu lực. Vốn điều lệ ban đầu là 40 tỷ
VNĐ. Vốn điều lệ thực góp đến nay là 110 tỷ đồng.
MSB là một ngân hàng thương mại cổ phần một mặt các tổ chức tín dụng là

khuôn khổ và căn cứ pháp lệnh cho mọi hoạt động của Ngân hàng, mặt khác
chịu sự chi phối của luật doanh nghiệp.
Đối tượng phục vụ của Ngân hàng là mọi doanh nghiệp thuộc các ngành, các
thành phần kinh tế và dân cư trong toàn quốc. MSB-Hà nội được thành lập theo
giấy phép số 0001/NH-CP ngày 8/6/1991 có trụ sở 44 Nguyễn Du-Hà nội.
MSB-Hà nội là đại diện uỷ quyền của MSB-VN. Phương châm “giúp khách
hàng làm giàu một cách hợp pháp” là mục tiêu phục vụ của MSB.
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, vấn đề tạo vốn và sử dụng vốn nhằm đạt hiệu quả
cao nhất luôn là mục tiêu vươn tới. Đối với các tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng như
các NHTM thì việc cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn sao cho hợp lý là yếu tố
quyết định đến sự tồn tại của Ngân hàng. Chính vì vậy để có một cái nhìn khái quát về
hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại cổ phần Hàng hải- Hà nội chúng ta
sẽ đi xem xét tình hình huy động và sử dụng vốn của nó:


2.1.1. Tình hình huy động vốn:
Cũng giống như các Ngân hàng thương mại khác, công tác huy động vốn là một
nghiệp vụ quan trọng hàng đầu của Ngân hàng Hàng hải – Hà nội. Hoạt động này
nhằm giải quyết “đầu vào” tức là giải quyết vốn để Ngân hàng thương mại hoạt động;
đồng thời cũng là điểm nút trong kinh doanh Ngân hàng. Mỗi kỳ kinh doanh Ngân
hàng phải tính làm sao cho lượng vốn huy động phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn,
tình trạng thiếu vốn hay ứ đọng vốn đều gây rủi ro cho Ngân hàng.
Ngân hàng hàng hải – Hà nội trong hoạt động của mình đã cải tiến nghiệp vụ, đổi mới
phương thức hoạt động, hình thức huy động vốn, áp dụng chính sách lãi suất hợp lý
linh hoạt và Ngân hàng đã có những chính sách hợp lý nhằm duy trì hệ thống khách
hàng lâu năm và phát triển khách hàng mới. Để nắm bắt được hoạt động huy động vốn
của của Ngân hàng Hàng hải -Hà nội trong những năm gần đây chúng ta sẽ xem xét và
phân tích một cách chi tiết các chỉ tiêu ở bảng 1:
Bảng 1: Tình hình nguồn huy động vốn của Ngân hàng TMCP Hàng hải-Hà nội
(Đơn vị: triệu đồng)

Chỉ tiêu

Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Số tiền
Tỷ trọng
%
Số tiền
Tỷ trọng
%
Số tiền
Tỷ
trọng
%

Nguồn vốn huy động
430,48
8

100

553,976

100

627,817

100

Tiền thanh toán 210,51


48,9

272,55

49,2

315,79

50,3

Tiền gửi tiết kiệm 121,44

28,21

166,25

30,01

195,37

31,12

Nguồn khác 98,54

22,89

115,17

20,8


116,64

18,58

(Nguồn: Phòng tín dụng tại Ngân hàng Hàng hải- Hà nội)
Qua bảng số liệu mô tả kết quả huy động vốn của Ngân hàng Hàng hải Hà nội từ năm
2000 đến năm 2002 ta thấy:

×