Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Hoạt động gia công xuất khẩu và ý nghĩa của nó tới hoạt động xuất khẩu của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 94 trang )

Trờng đại học ngoại thơng
khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế
CHUYÊN NGàNH kinh tế đối ngoại
***







KhóA LUậN tốt nghiệp
Đề tài:
HOT NG GIA CễNG XUT KHU V í NGHA CA
Nể HOT NG XUT KHU CA VIT NAM




Sinh viờn thc hin :
Lp : Anh
Khúa : 45
Giỏo viờn hng dn : ThS. V Huyn Phng









Hà Nội, tháng 5 năm 2010


MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN CHUNG VỀ GIA CÔNG XUẤT KHẨU 4
I. Khái quát chung về gia công xuất khẩu 4
1. Thế nào là gia công và gia công xuất khẩu 4
1.1. Khái niệm gia công 4
1.2. Khái niệm gia công xuất khẩu 5
2. Phân loại gia công xuất khẩu 6
2.1. Theo quyền sở hữu nguyên vật liệu 6
2.2. Theo cách tính giá gia công 7
2.3. Theo số bên tham gia vào quan hệ gia công 8
3. Lịch sử phát triển của hoạt động gia công xuất khẩu ở Việt Nam 8
4. Vai trò của gia công xuất khẩu đối với nền kinh tế 10
4.1. Đối với bên đặt gia công 10
4.2. Đối với bên nhận gia công 11
II. Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc và Ấn Độ 15
1. Hàng dệt may 15
1.1. Dệt may Trung Quốc 15
1.2. Dệt may Ấn Độ 17
2. Gia công phần mềm 18
2.1. Gia công phần mềm Ấn Độ 18
2.2. Gia công phần mềm Trung Quốc 21
3. Hàng da giày 24

3.1. Da giày Trung Quốc 24
3.2. Da giày Ấn Độ 26


CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT HÀNG GIA CÔNG XUẤT
KHẨU 29
TẠI VIỆT NAM 29
I. Khái quát tình hình sản xuất hàng gia công xuất khẩu ở Việt Nam 29
1. Lợi thế của Việt Nam trong sản xuất hàng gia công 29
2. Tình hình sản xuất hàng gia công xuất khẩu 31
2.1. Tình hình cung cấp 31
2.2. Điều kiện sản xuất 35
2.3. Các ngành công nghiệp phụ trợ 41
II. Thực trạng sản xuất hàng gia công 46
1. Cơ cấu hàng gia công 46
1.1. Dệt may 46
1.2. Da giày 47
1.3. Phần mềm 48
2. Các thị trƣờng hàng gia công ở Việt Nam 50
2.1. Thị trường hàng dệt may 51
2.2. Thị trường hàng da giày 53
2.3. Thị trường hàng gia công phần mềm 54
3. Kim ngạch xuất khẩu 55
III. Đánh giá chung 57
1. Những kết quả và thành tựu đã đạt đƣợc 57
2. Những tồn tại và thách thức chủ yếu 59
CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO Ý NGHĨA CỦA
HOẠT ĐỘNG GIA CÔNG TRONG THỜI GIAN TỚI 63
I. Định hƣớng gia công xuất khẩu của Việt Nam 63
1. Định hƣớng phát triển ngành dệt may 63

1.1. Quan điểm và mục tiêu phát triển 63
1.2. Phương hướng phát triển đối với ngành dệt may 65
2. Định hƣớng phát triển ngành da giày 66


2.1. Quan điểm và mục tiêu phát triển 66
2.2. Phương hướng phát triển đối với ngành da giày 67
3. Định hƣớng phát triển cho ngành gia công phần mềm 68
3.1. Quan điểm và mục tiêu phát triển 68
3.2. Phương hướng phát triển ngành gia công phần mềm 70
II. Một số giải pháp nâng cao ý nghĩa của hoạt động gia công xuất khẩu
trong thời gian tới 70
1. Giải pháp phát triển nguồn nguyên liệu 71
2. Giải pháp nâng cao chất lƣợng và tạo thƣơng hiệu riêng cho sản phẩm 72
3. Giải pháp cho đào tạo, thu hút nguồn nhân lực 74
4. Giải pháp tăng nguồn vốn đầu tƣ 76
5. Giải pháp xây dựng chính sách hỗ trợ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu 77
6. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiểu biết pháp luật trong buôn bán
quốc tế 79
KẾT LUẬN 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83




DANH MỤC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ

Bảng 1: Mười mặt hàng xuất khẩu lớn trong năm giai đoạn 2006 - 2008 11
Bảng 2: Chi phí lao động ở một số quốc gia 30
Bảng 3: Thông tin máy móc thiết bị trong ngành 36

Bảng 4: Cơ cấu lao động trong ngành da giày qua các năm 38
Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam theo mặt hàng 46
Bảng 6: Một số loại phần mềm ứng dụng chủ yếu 50
Bảng 7: Kim ngạch từ hoạt động xuất khẩu và gia công hàng dệt may qua các năm 55
Bảng 8: Kim ngạch từ hoạt động xuất khẩu và gia công hàng da giày qua các năm 56
Bảng 9: Doanh thu công nghiệp phần mềm Việt Nam giai đoạn 2005-2009 56
Bảng 10: Mục tiêu phát triển ngành dệt may giai đoạn 2010 - 2020 64
Sơ đồ 1: Phương thức lưu chuyển hàng gia công 51

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1: FDI vào ngành dệt may trong giai đoạn 2000-2009 32
Biểu đồ 2: Cơ cấu mặt hàng ngành da giày 47
Biểu đồ 3: Cơ cấu sản phẩm phần mềm của Việt Nam năm 2009 50
Biểu đồ 4: Cơ cấu thị trường hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2005-2009 51
Biểu đồ 5: Cơ cấu thị trường ngành da giày 53
Biểu đồ 6: Các thị trường xuất khẩu gia công phần mềm Việt Nam giai đoạn
2005-2009 54









1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


Viết tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
APEC
Asia-Pacific Economic
Cooperation
Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
ASEAN
Association of Southeast
Asian Nations
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
ASEM
The Asia-Europe Meeting
Diễn đàn hợp tác Á - Âu
ASOCIO
Asian Oceanian Computing
Industry Organization
Tổ chức công nghiệp điện toán châu Á – châu Đại
Dương
ATC
Agreement on Textile and
Clothing
Hiệp định về hàng dệt may
CMMI
Capability Maturity Model
Integration
Chuẩn quản lý quy trình chất lượng
CNTT

Công nghệ thông tin

EU
Europian Union
Liên minh Châu Âu
FDI
Foreign direct investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GCPM

Gia công phần mềm
GCXK

Gia công xuất khẩu
GSP
The Generalized Systems
Preferential
Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập
ISO
International Organization for
Standardization
Tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hoá
MFN
Most Favoured Nation
Tối huệ quốc
NITT
National Institute of
Information Technology
Học viện Công nghệ thông tin
Quốc gia






2
NT
National Treatment
Đãi ngộ quốc gia
ODA
Official Development
Assistant
Hỗ trợ phát triển chính thức
ODM
Original Design Manufacture
Sản xuất thiết kế gốc
OBM
Own Brand Manufacture
Sản xuất nhãn hiệu riêng
R&D
Research and Development
Nghiên cứu và phát triển
WITSA
World Information
Technology and Services
Alliance
Liên minh công nghệ thông tin thế giới
WTO
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới





1
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ba mươi năm qua, đặc biệt là từ sau năm 1986 khi tiến hành công cuộc đổi
mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, thay đổi đời sống mọi mặt của
người dân: kinh tế tăng trưởng ở mức tương đối cao, đời sống của nhân dân không
ngừng được cải thiện, tình hình chính trị và xã hội ổn định, quan hệ đối ngoại được
mở rộng và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Đặc
biệt từ khi gia nhập WTO và sau một loạt hiệp định thương mại được ký kết với các
quốc gia khác, kinh tế Việt Nam ngày càng có nhiều phát triển to lớn. Sự tham gia
của các doanh nghiệp Việt Nam vào các hoạt động thương mại ngày một mạnh mẽ,
trong đó xuất khẩu là một hoạt động khá sôi động hiện nay. Trong tình hình nguồn
nguyên liệu trong nước chưa thực sự phong phú, đầy đủ, chất lượng chưa cao và
phần nào cũng chưa đáp ứng được cho sản xuất phục vụ hàng xuất khẩu thì việc sản
xuất hàng xuất khẩu với nguồn nguyên liệu, vật tư đưa từ nước ngoài vào là một
giải pháp hữu hiệu giải quyết vấn đề này. Mặt khác, phần lớn các doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay còn chưa được trang bị dây chuyền máy móc hiện đại để sản xuất
hàng hóa với chất lượng và năng suất cao phục vụ xuất khẩu. Tại các nước phát
triển, chi phí sản xuất rất cao (đặc biệt là chi phí nhân công và mặt bằng nhà xưởng)
trong khi hàng hóa cần có sức cạnh tranh cao hơn, chủ yếu là cạnh tranh về giá cả
và chất lượng. Hoạt động gia công xuất khẩu đã đáp ứng được nhu cầu của cả hai
phía doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài. Do đó, có thể nói hoạt
động gia công xuất khẩu là một bộ phận không thể tách rời của hoạt động xuất khẩu
của nước ta. Với những lợi thế nhất định tạo thuận lợi cho việc phát triển nền gia
công, Việt Nam đang tạo uy tín ngày một lớn với thế giới, trong đó không thể
không nhắc đến các mặt hàng gia công chủ lực như: dệt may, gia dày, phần mềm…
Xuất phát từ thực tế đó, người viết đã chọn đề tài: “Hoạt động gia công xuất

khẩu và ý nghĩa của nó tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam” cho khóa luận tốt
nghiệp của mình.



2
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận là làm nổi bật được thực tế hoạt động gia
công xuất khẩu ở Việt Nam trong giai đoạn 2005-2009 trên cơ sở làm rõ các khái
niệm, vai trò của gia công đối với nền kinh tế. Đồng thời sẽ đánh giá được những
mặt tích cực và tiêu cực mà Việt Nam đang phải đối mặt, qua đó đề xuất những giải
pháp và định hướng để nâng cao ý nghĩa của hoạt động gia công ở Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên khóa luận cần phải làm rõ những vấn đề sau:
- Khái quát chung về hoạt động gia công quốc tế, vai trò và kinh nghiệm của
một số quốc gia.
- Nêu bật được thực trạng hoạt động gia công xuất khẩu ở Việt Nam. Trong
phần này trình bày về các tiền đề cho sự phát triền, điều kiện sản xuất, cơ cấu các
nhóm mặt hàng, tình hình xuất khẩu và đánh giá được những kết quả thu được cũng
như những hạn chế đang còn vướng mắc trong các nhóm hàng dệt may, da giày và
phần mềm.
- Từ những phân tích trên đề xuất định hướng và những giải pháp để nâng cao
ý nghĩa của hoạt động gia công xuất khẩu trong thời gian sắp tới.
Khóa luận tốt nghiệp tập trung nghiên cứu hoạt động gia công xuất khẩu
trong giai đoạn 2005-2009.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận đã sử dụng các phương pháp sau: phương pháp thống kê, phương
pháp phân tích, phương pháp khái quát và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương
pháp luận giải, phương pháp ứng dụng.
5. Kết cấu khóa luận

Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục bảng biểu, danh mục tài liệu tham
khảo, khóa luận được chia thành 3 chương:
Chương I: Tổng quan chung về gia công xuất khẩu
Chương II: Thực trạng hoạt động gia công xuất khẩu tại Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao ý nghĩa của hoạt động gia công



3
trong thời gian tới
Mặc dù đã có nhiều cố gắng và nỗ lực, song do những hạn chế về thời gian,
trình độ và kiến thức nên khóa luận không thể tránh khỏi những sai sót và khiếm
khuyết. Em mong nhận được những đóng góp quý báu từ phía thầy cô để đề tài của
mình được hoàn thiện hơn.
Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới giáo viên hướng
dẫn, Thạc sĩ Vũ Huyền Phương đã chỉ bảo và hướng dẫn tận tình để giúp em hoàn
thành khóa luận này.












4

CHƢƠNG I:
TỔNG QUAN CHUNG VỀ GIA CÔNG XUẤT KHẨU

I. Khái quát chung về gia công xuất khẩu
1. Thế nào là gia công và gia công xuất khẩu
1.1. Khái niệm gia công
Hoạt động gia công đã xuất hiện từ lâu đời và trong suốt một thời gian dài,
nó đã trở thành một phương thức sản xuất ở nhiều nước. Cũng như các quốc gia
khác trên thế giới, hoạt động gia công đã sớm xuất hiện ở Việt Nam nhưng mãi cho
đến khi Luật thương mại ra đời thì hoạt động này mới thực sự được coi là một hoạt
động kinh tế trong tổng thể nền kinh tế quốc dân.
Điều 178, Luật Thương mại Việt Nam 2005 được Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCN) tại kỳ họp thứ 11 thông qua vào ngày
10/05/1997 quy định: “Gia công trong thương mại là hoạt động thương mại, theo
đó bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của bên
đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất theo
yêu cầu của bên đặt gia công để hưởng thù lao”. Hoạt động gia công tồn tại trong
rất nhiều ngành nghề. Điều 180, Luật Thương mại Việt Nam 2005 quy định: “Tất
cả các loại hàng hoá đều có thể được gia công, trừ trường hợp hàng hóa thuộc diện
cấm kinh doanh”. Theo đó, bên nhận gia công là bên nhận thực hiện việc gia công
để hưởng một khoản tiền gọi là phí gia công còn bên đặt gia công là bên thuê gia
công hàng hóa để kinh doanh thương mại.
Từ khái niệm trên có thể thấy rằng, hoạt động gia công xuất hiện trong rất
nhiều lĩnh vực, song phương thức này được áp dụng phổ biến và chủ yếu trong lĩnh
vực công nghiệp và thủ công nghiệp. Ngay từ khi khoa học công nghệ chưa phát
triển, sản xuất phần lớn dựa trên những công cụ thô sơ thì phương thức gia công đã
được áp dụng. Phương thức này được áp dụng từ khi thương nhân ra đời. Với nhiệm
vụ làm cầu nối giữa người sản xuất với người tiêu dùng, đảm nhận khâu lưu thông
hàng hóa, thương nhân nắm được tình hình sản xuất cũng như nhu cầu tiêu thụ trên




5
một thị trường nào đó. Bởi vậy để có hàng hóa đem bán trên thị trường, thương
nhân cung cấp cho người sản xuất một số máy móc, nguyên vật liệu, thiết bị, thuê
họ sản xuất cho mình một loại hàng hóa đó rồi mang tiêu thụ và trả lại cho người
sản xuất một khoản thù lao tương ứng với công sức họ bỏ ra.
Nếu xét về góc độ kinh tế xã hội, phương thức tổ chức sản xuất này thực sự
đã bộc lộ rất nhiều ưu điểm, đó là: mở rộng quy mô và tập trung hóa được sản xuất
mà không cần đầu tư cơ sở mới; tận dụng được tiềm năng của công nghiệp nhẹ, thủ
công nghiệp; tận dụng được khả năng lao động và thời gian lao động của mọi lực
lượng lao động.
1.2 Khái niệm gia công xuất khẩu
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, sự chật hẹp về thị trường đã thôi thúc
quá trình buôn bán trao đổi hàng hóa diễn ra giữa các nước khác nhau trên thế giới.
Phân công lao động xã hội đã trở thành phân công lao động quốc tế, và theo đó
phương thức gia công quốc tế cũng ra đời. Luật Thương mại 2005 không đề cập lại
đến khái niệm gia công xuất khẩu nhưng ở Luật Thương mại 1997 và Nghị định số
57/1998/NĐ – CP ngày 31 tháng 7 năm 1998 có hướng dẫn về khái niệm này.
Theo điều 132, Luật Thương mại 1997 quy định: “Gia công với thương nhân
nước ngoài là việc gia công thương mại, theo đó bên đặt gia công, bên nhận gia
công là thương nhân có trụ sở chính hoặc nơi cư trú thường xuyên tại các nước
khác nhau nhưng phải có một bên là thương nhân hoạt động thương mại tại Việt
Nam”.
Trong nghị định số 57/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 31 tháng 7 năm
1998 quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu, gia công và đại lý mua bán với nước ngoài thì “Gia công hàng hóa với
thương nhân nước ngoài là việc thương nhân Việt Nam, doanh nghiệp được thành
lập theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhận gia công hàng hóa tại Việt Nam
cho thương nhân nước ngoài hoặc đặt gia công hàng hóa ở nước ngoài”. Theo đó,

doanh nghiệp Việt Nam có thể đóng vai trò là bên đặt gia công hoặc là bên nhận gia
công. Tuy nhiên do điều kiện thực tế ở Việt Nam nên hoạt động thuê thương nhân
nước ngoài là rất ít. Gia công quốc tế ở Việt Nam thường được hiểu là thương nhân



6
Việt Nam là bên nhận gia công cho thương nhân nước ngoài và hoạt động này còn
được gọi là gia công xuất khẩu.
Gia công xuất khẩu ra đời là hệ quả tất yếu của sự chênh lệch về trình độ
kinh tế, về công nghệ, kỹ thuật giữa các quốc gia và một phần là do lợi thế tài
nguyên, về nhân công khác nhau ở mỗi nước. Thực tế cho thấy phần lớn các hợp
đồng gia công quốc tế được ký kết giữa một doanh nghiệp ở một quốc gia có nền
kinh tế kém phát triển hơn nhưng lại có nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ
với một doanh nghiệp của một quốc gia có nền kinh tế phát triển và trình độ khoa
học công nghệ cao. Trong quan hệ gia công cho bên nước ngoài, bên nhận gia công
dựa vào cơ sở vật chất, kỹ thuật vào lao động sẵn có để tiến hành gia công, đôi khi
bên đặt gia công còn trợ giúp bên nhận gia công về máy móc thiết bị, công nghệ sản
xuất, kỹ thuật viên…
Việc tiến hành phương thức kinh doanh gia công quốc tế thực sự đã mang lại
nhiều lợi ích cho các bên tham gia, trở thành phương thức khá phổ biến trong ngoại
thương của nhiều nước. Trong quá trình phát triển theo hướng chuyên môn hóa
ngày càng sâu rộng của nền kinh tế thế giới, trên cơ sở phát huy những lợi thế của
mỗi quốc gia thì đây là một loại hình kinh doanh rất phù hợp.
2. Phân loại gia công xuất khẩu
2.1 Theo quyền sở hữu nguyên vật liệu
- Giao nguyên liệu, thu thành phẩm
Đây là hình thức gia công trong đó bên đặt gia công giao toàn bộ nguyên liệu
hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia công và sau thời gian sản xuất, chế tạo, bên
đặt gia công sẽ thu hồi thành phẩm và trả phí gia công. Trong trường hợp này,

quyền sở hữu nguyên vật liệu vẫn thuộc về bên đặt gia công.
Theo hình thức này, bên nhận gia công có lợi là không phải bỏ tiền mua
nguyên vật liệu và nếu biết sử dụng tiết kiệm so với định mức tiêu hao nguyên vật
liệu thì còn được hưởng phần dư thừa. Tuy nhiên bên nhận gia công cũng có những
bất lợi nhất định. Họ sẽ rơi vào thế thụ động trong sản xuất do phụ thuộc quá nhiều
vào bên thuê gia công trong vấn đề chất lượng và tiến độ giao nguyên liệu. Ngoài ra
bên nhận gia công thường bị ép giá vì bên giao gia công phải chịu một số rủi ro về



7
tồn đọng vốn trong nguyên liệu, chất lượng nguyên liệu, rủi ro về đảm bảo tiến độ
thực hiện hợp đồng. Nhìn chung hiệu quả kinh tế của hình thức gia công này thường
thấp đối với cả hai bên và các hợp đồng ký kết theo hình thức này có xu hướng
giảm trong các năm gần đây.
- Giao nguyên liệu chính, nhận thành phẩm
Bên đặt gia công giao nguyên vật liệu chính còn một số nguồn nguyên vật
liệu phụ do bên nhận gia công cung cấp. Ở hình thức này, bên nhận gia công có thể
chủ động hơn trong quá trình sản xuất do được quyền tự cung cấp một số nguyên
liệu phụ. Hiệu quả kinh tế sẽ cao hơn do bên gia công có thể tận dụng ngay nguồn
nguyên liệu phụ sẵn có trong nước, tiết kiệm được một số chi phí như vận tải,
thuế… Hiện nay hầu hết các hợp đồng dệt may và da giày của Việt Nam được ký
kết theo hình thức này. Tuy nhiên tỷ lệ cung cấp nguyên vật liệu trong nước còn
thấp, chủ yếu là nguyên phụ liệu đơn giản nên giá trị không cao.
- Mua đứt, bán đoạn
Theo hình thức này bên đặt gia công bán nguyên liệu cho bên nhận gia công
và sau thời gian sản xuất chế tạo, bên đặt gia công sẽ mua lại thành phẩm. Mua đứt,
bán đoạn là hình thức mới nhất của gia công quốc tế. Ở hình thức này, quyền sở hữu
nguyên vật liệu chuyển từ bên đặt gia công sang bên nhận gia công nhưng bên đặt
gia công vẫn chịu trách nhiệm tiêu thụ sản phẩm. Lợi ích của bên nhận gia công là

hoàn toàn chủ động trong việc chuẩn bị nguyên liệu trong sản xuất. Ngoài ra do bên
gia công tự bỏ tiền mua nguyên vật liệu nên sẽ không bị ép giá, giá gia công trong
trường hợp này cũng cao hơn hai loại trên. Tuy nhiên rủi ro về tồn đọng vốn trong
nguyên liệu và rủi ro về chất lượng nguyên liệu đã chuyển sang cho bên nhận gia
công.
2.2 Theo cách tính giá gia công
- Hợp đồng thực chi thực thanh
Bên nhận gia công thanh toán với bên đặt gia công toàn bộ những chi phí
thực tế đã bỏ ra trong quá trình gia công cộng với tiền thù lao gia công.
- Hợp đồng khoán
Hai bên xác định một mức giá định mức cho mỗi sản phẩm, bao gồm chi phí



8
định mức và thù lao định mức. Việc thanh toán giữa hai bên chỉ dựa trên giá định
mức đó mà không tính tới chi phí thực tế mà bên nhận gia công đã bỏ ra. Mục đích
của hình thức gia công này đó là bên đặt gia công khuyến khích bên nhận gia công
phải chú trọng vào việc tiết kiệm nguyên vật liệu. Bên nhận gia công cũng phải nắm
rõ giá định mức để tránh việc bù lỗ trong quá trình gia công.
2.3 Theo số bên tham gia vào quan hệ gia công
- Gia công hai bên
Chỉ có hai bên gia công là bên đặt gia công và bên nhận gia công. Mối quan hệ
giữa bên thuê gia công và bên nhận gia công được xác định trong một hợp đồng gia công.
- Gia công chuyển tiếp
Có nhiều bên tham gia vào quan hệ gia công, sản phẩm gia công của hợp
đồng gia công này được sử dụng làm nguyên vật liệu cho hợp đồng gia công khác.
Nói cách khác, có nhiều bên nhận gia công và thành phẩm của một đơn vị này là
bán thành phẩm của một nguyên liệu của một đơn vị khác. Tuy nhiên đối tượng
nhận gia công chuyển tiếp vẫn phải do bên đặt gia công chỉ định. Mục đích của bên

đặt gia công khi lựa chọn hình thức này là tận dụng tối đa thế mạnh của mỗi quốc
gia, giảm chi phí vận chuyển đồng thời vẫn có thể giữ được bí mật công nghệ và
độc quyền loại hàng hóa đó (Văn Thành Hòa, 2003).
3. Lịch sử phát triển của hoạt động gia công xuất khẩu ở Việt Nam
Hoạt động gia công xuất khẩu đã xuất hiện ở Việt Nam ngay từ khi nước ta
vừa mới bước ra khỏi hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và Pháp. Thời kỳ này, nền
kinh tế nước ta thực sự rơi vào tình trạng kiệt quệ; cơ sở vật chất kỹ thuật bị tàn
phá; trang thiết bị phục vụ cho sản xuất còn lạc hậu, chắp vá, không đồng bộ; trình
độ tay nghề của người lao động cũng như quan hệ kinh tế đối ngoại của quốc gia
còn hạn chế. Bởi vậy trong suốt một thời gian dài kể từ sau giải phóng cho đến
trước khi thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, hoạt động gia công xuất khẩu ở
nước ta tuy đã đạt được một vài kết quả nhưng quy mô và năng lực sản xuất còn
hạn chế, thị trường còn hạn hẹp, hiệu quả kinh tế không cao. Hoạt động gia công
xuất khẩu của nước ta ở giai đoạn này có một số đặc điểm như:
Về mặt hàng gia công: chủ yếu gia công hàng may mặc, thêu ren, dệt thảm
và một số sản phẩm công nghiệp nhẹ như dụng cụ sản xuất cầm tay…



9
Về thị trường gia công: bạn hàng chủ yếu của ta trong thời kì này là Liên Xô
và các nước thuộc khối Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và một số nước gần chúng ta
như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Công, Nhật Bản
Về phương thức gia công: nhìn chung thời kỳ này nước ta chủ yếu gia công
theo phương thức giao nguyên liệu, thu thành phẩm mà không có sự chuyển giao
quyền sở hữu nguyên vật liệu. Bởi vậy sự phụ thuộc của ta vào bên đặt gia công là
rất lớn, thu nhập thực tế cuả nhân công là rất thấp và nếu tiếp tục duy trì hoạt động
này sẽ không hiệu quả cho nền kinh tế.
Sau khi thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, nhất là trong xu hướng hội
nhập như hiện nay, hoạt động gia công ở nước ta đã thu được nhiều kết quả to lớn,

đóng góp một phần không nhỏ trong kim ngạch xuất nhập khẩu. Trong đó không
thể không nhắc đến sự đa dạng về phương thức, phong phú về mặt hàng, tăng
trưởng về kim ngạch và mở rộng về thị trường. Ở giai đoạn này:
Về mặt hàng gia công: đến thời kỳ này tuy có nhiều cải tiến trong kỹ thuật
nên cơ cấu hàng gia công đã thay đổi mở rộng thêm với một số loại mặt hàng như:
may mặc, giày dép, thêu ren, túi xách, phần mềm, cơ khí…
Về thị trường gia công: sau sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống XHCN ở
Đông Âu, đứng trước thử thách mở cửa và hội nhập, Việt Nam đã cố gắng duy trì
những thị trường truyền thống và không ngừng mở rộng thị trường sang các nước
phát triển như: Pháp, Mỹ, Italia, Hà Lan… Trong đó đáng nói nhất là chúng ta đã
thâm nhập vào thị trường Mỹ - một thị trường có sức tiêu thụ lớn nhưng nổi tiếng là
khó tính và có nhiều rào cản thương mại, chính trị vào loại bậc nhất trên thế giới.
Hiện nay, Mỹ là một trong những thị trường tiêu thụ hàng gia công lớn nhất của
Việt Nam với những mặt hàng chính là: dệt may, da giày.
Về phương thức gia công: hình thức gia công ở giai đoạn hiện nay đã phong
phú lên rất nhiều gồm giao nguyên liệu, thu thành phẩm; giao nguyên liệu chính,
thu thành phẩm và gia công mua đứt bán đoạn nếu xét theo hình thức sở hữu nguyên
vật liệu. Các doanh nghiệp không chỉ bỏ sức lao động ra để gia công mà còn đầu tư
vốn để tận dụng nguồn nguyên liệu trong nước, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa cho sản
phẩm gia công đồng thời tăng thêm thu nhập bằng ngoại tệ. Với cách làm này chúng
ta đã có sự chủ động hơn và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế. Một số doanh
nghiệp Việt Nam còn tiến hành nhập khẩu nguyên phụ liệu từ một nước thứ ba theo



10
đúng những tiêu chuẩn về mẫu mã, chất lượng mà bên đặt gia công yêu cầu rồi giao
sản phẩm cho bên đặt gia công đúng 100% so với các quy định cuả hợp đồng sau khi
quá trình gia công hoàn tất. Ngoài ra họ còn sử dụng phương pháp gia công chuyển
tiếp, vừa đẩy nhanh được quy trình, vừa rút ngắn được thời gian gia công.

4. Vai trò của gia công xuất khẩu đối với nền kinh tế
4.1 Đối với bên đặt gia công
Lợi ích lớn nhất của bên thuê gia công là giảm được chi phí sản xuất do tận
dụng được nguồn nhân lực và một phần nguồn nguyên liệu ở nước nhận gia công.
Bên đặt gia công tận dụng được chênh lệch về chi phí gia công và một phần nguyên
phụ liệu, hạ chi phí đầu vào cho sản xuất, nhờ đó hạ giá thành sản phẩm, tăng cường
sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường. Có thể khẳng định nguồn gốc lợi nhuận
chủ yếu của các nhà kinh doanh gia công quốc tế chính là phần lao động thặng dư
không được trả công của người lao động nước ngoài. Phần lao động thặng dư này
đem lại lợi nhuận cao hơn so với cùng một lượng tư bản đầu tư trong nước.
Thứ hai, bên đặt gia công có thể chủ động được nguồn hàng trong hoạt động
kinh doanh của mình. Khi có nhu cầu lớn về một mặt hàng, thông thường doanh
nghiệp sẽ phải đầu tư để mở rộng sản xuất. Tuy nhiên doanh nghiệp có thể thực
hiện được điều này bằng cách thuê nước ngoài gia công nhằm tiết kiệm vốn đầu tư
và tăng lợi nhuận. Hơn nữa doanh nghiệp có thể đảm bảo vững chắc lượng đầu ra
sản phẩm để đáp ứng kịp thời nhu cầu tiêu thụ.
Thứ ba, bên đặt gia công có nhiều cơ hội để mở rộng thị trường tiêu thụ hàng
hóa của mình tại nước nhận gia công. Khi có quan hệ với nước nhận gia công trong
hoạt động gia công có nghĩa là doanh nghiệp đặt gia công có điều kiện hiểu thêm về
thị trường này. Nếu như nhu cầu tiêu dùng ngay tại nước này được đáp ứng bởi
chính hàng hóa gia công thì doanh nghiệp sẽ tăng được thị phần tiêu thụ. Đây là một
cơ hội tốt để tăng doanh thu và phát triển thương hiệu sản phẩm.
Thứ tư, tranh thủ tận dụng được những thị trường có mối quan hệ ưu đãi với
Việt Nam: quá trình toàn cầu hóa đã hình thành và phát triển nhiều tổ chức liên kết
kinh tế Nhà nước. Một trong những vai trò của liên kết kinh tế Nhà nước là giúp các
nước tham gia loại bỏ bớt trở ngại ngăn sự phát triển của quá trình buôn bán quốc tế
như: thuế quan, thủ tục nhập khẩu và các biện pháp hạn chế mậu dịch khác. Bên
cạnh đó, các nguyên tắc điều chỉnh thương mại quốc tế như MFN (Most favoured




11
nation hay còn gọi là “Tối huệ quốc”), GSP (The Generalized Systems Preferential
còn gọi là “Chế độ thuế quan ưu đãi phổ cập”), NT (National Treatment hay “Đối
xử quốc gia”)… mà các nước đối xử với Việt Nam hiện nay dành cho chúng ta rất
nhiều ưu đãi về thuế quan, thị trường… Do vậy, khi lấy Việt Nam làm thị trường
gia công, các nước đặt gia công sẽ tận dụng được rất nhiều lợi ích để thâm nhập vào
các thị trường khác.
4.2 Đối với bên nhận gia công
Thứ nhất, tăng thu nhập quốc dân đặc biệt là tăng nguồn thu ngoại tệ: trong
bảng báo cáo “Mười mặt hàng xuất khẩu lớn trong giai đoạn 2006 - 2008” của
Viện nghiên cứu và quản lý Kinh tế Trung Ương thì các mặt hàng như dệt may, da
giày máy vi tính, sản phẩm điện tử (chứa hoạt động gia công phần mềm) là những
mặt hàng có ưu thế trong cơ cấu hàng xuất khẩu của nước ta.
Bảng 1: Mƣời mặt hàng xuất khẩu lớn trong năm giai đoạn 2006 – 2008

STT
MẶT HÀNG
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Giá
trị
Tỷ
trọng
Giá
trị
Tỷ
trọng
Giá trị

% tăng giá trị so
với năm 2007
1
Dầu thô
8265
20.8
8488
17.5
10500
23.1
2
Hàng dệt may
5834
14.6
7750
16
9100
17.5
3
Giày dép
3592
9
3994
8.2
4700
17.6
4
Hàng hải sản
3358
8.4

3763
7.7
4600
21.2
5
Gạo
1276
3.2
1490
3.1
2900
94.8
6
Gỗ và các sản
phẩm gỗ
1933
4.9
2404
5
2829
19.6
7
Máy vi tính, các
sản phẩm điện tử
1708
4.3
2154
4.4
2638


21.1
8
Cà phê
1217
3.1
1911
3.9
2111
13.8
9
Cao su
1286
3.2
1393
2.9
1603
14.2
10
Than đá
915
2.3
1000
2.1
1388
36
Nguồn: Tổng cục Hải quan và tính toán của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế TƯ





12
Vào năm 2009 mới đây, dệt may và da giày đạt kim ngạch 9,1 tỷ USD và 4,1
tỷ USD tiếp tục là những mặt hàng đi đầu của xuất khẩu Việt Nam. Hiện nay, 3
nhóm hàng này vẫn tồn tại chủ yếu ở dạng gia công (gia công hàng dệt may và da
giày chiếm hơn 70% kim ngạch xuất khẩu, hoạt động xuất khẩu phần mềm thì hầu
như chỉ tồn tại ở phương thức gia công) do đó có thể thấy hoạt động gia công xuất
khẩu đã tạo nên nguồn thu đáng kể cho kim ngạch xuất khẩu tại Việt Nam. Qua
bảng 1, ta thấy hàng dệt may có sức tăng trưởng mạnh nhất, nổi trội vào năm 2008
với con số 17,5% do đó hàng gia công dệt may nói riêng chiếm tỷ trọng khoảng
13,16% kim ngạch xuất khẩu của năm. Mức tăng của hàng gia dày có chậm hơn
nhưng vẫn là một mặt hàng duy trì ở vị trí thứ 3 trong 3 năm liên tục. Riêng với
mảng gia công phần mềm, Việt Nam đang được xếp hạng thứ 10 trong biểu đồ các
quốc gia xuất khẩu phần mềm trên thế giới và đang cố gắng mục tiêu đạt doanh thu
trên 800 triệu USD vào năm 2010 (Thanh Hà, 2007, “Công nghiệp phần mềm và
mục tiêu 800 triệu USD”).
Thứ hai, thông qua hoạt động gia công xuất khẩu, hàng triệu việc làm được
tạo ra cho người lao động: vào ngày 31/12/2009, Tổng cục Thống kê tổ chức công
bố số liệu thống kê kinh tế- xã hội chủ yếu năm 2009 và kết quả điều tra mẫu trong
tổng điều tra dân số, kết quả chỉ ra tính đến 0 giờ ngày 1.4.2009, dân số của Việt
Nam là 85.789.573 người. Việt Nam hiện đang ở trong thời kỳ dân số vàng, nhóm
dân số trong độ tuổi lao động cao gần gấp đôi nhóm dân số trong độ tuổi phụ thuộc.
Cả nước có 43,8 triệu người trong độ tuổi lao động đang làm việc chiếm 51,1% dân
số, trong đó thành thị có 11,9 triệu người, nông thôn có 31,9 triệu người, lao động
nữ chiếm 56,6% tổng lực lượng lao động (“Tốc độ tăng dân số chậm là thành công
lớn của công tác dân số trong 10 năm qua”, 2009, www.nguoidaibieu.com.vn). Vì
vậy, cần có chính sách tạo nên một lực lượng lao động vàng, có chất lượng đưa đất
nước phát triển. Ba ngành trên tạo ra một khối lượng việc làm không nhỏ cho người
lao động, trong đó ngành dệt may là nguồn thu hút lao động chính với khoảng 1,6
triệu công nhân, số nhân công nữ chiếm 80% lao động lĩnh vực này. Ngành da giày
và phần mềm thì khiêm tốn hơn, với khoảng 0,6 triệu lao động hoạt động ở ngành

da giày và 48.000 người trong ngành phần mềm (con số vào tháng 5/2009). Năm



13
2010, khi mà nền kinh tế thế giới đã có nhiều phục hồi thì Việt Nam đang mong
muốn tạo thêm nhiều việc làm hơn nữa cho người lao động, giảm bớt các vấn đề xã
hội mà thất nghiệp gây ra.
Thứ ba, thúc đẩy các cơ sở sản xuất trong nước nhanh chóng thích ứng với
đòi hỏi của thị trường thế giới, góp phần cải tiến các quy trình sản xuất trong nước
theo kịp trình độ quốc tế: theo thống kê, phần lớn doanh nghiệp nước ta đang sử
dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình thế giới 2-3 thế hệ. Có 76% máy
móc, dây chuyền nhập khẩu là công nghệ đã lạc hậu; 75% số thiết bị đã hết khấu
hao; 50% là đồ tân trang. Rất nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang sử dụng
máy móc, thiết bị do các doanh nghiệp nước ngoài đã thải, bỏ. Tính chung cho các
doanh nghiệp, mức độ thiết bị hiện đại chỉ có 10%, mức độ trung bình là 38% và
mức độ lạc hậu là 52%. Đặc biệt là khu vực sản xuất nhỏ, thiết bị lạc hậu và rất lạc
hậu chiếm 75%. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư đổi mới công
nghệ ở mức thấp, chỉ chiếm 0,2% - 0,3% doanh thu so với mức 5% của Ấn Độ hay
10% của Hàn Quốc (Nguyễn Đức Thành, 2008). Tham gia vào hoạt động gia công
quốc tế, chúng ta cần phải dần dần cải thiện hệ thống máy móc, trang thiết bị, quy
trình sản xuất để đáp ứng tốt nhu cầu cuả đối tác, đồng thời lâu dài sẽ tự mình xuất
đi những sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam có uy tín trên trường quốc tế.
Thứ tư, tạo điều kiện thâm nhập thị trường các nước tránh những biện pháp
hạn chế nhập khẩu do các nước đề ra: khi tham gia vào hoạt động kinh tế quốc tế,
mỗi quốc gia có thể lựa chọn cho mình chính sách mậu dịch tự do hoặc chính sách
bảo hộ mậu dịch. Sử dụng chính sách mậu dịch tự do đồng nghĩa với việc Nhà nước
không can thiệp vào quá trình điều tiết ngoại thương mà mở cửa hoàn toàn thị
trường nội địa. Thực hiện chính sách mậu dịch tự do làm cho nền kinh tế dễ rơi vào
hiện tượng khủng hoảng, phát triển mất ổn định, bị lệ thuộc vào tình hình chính trị

bên ngoài; những nhà sản xuất kinh doanh trong nước phát triển chưa đủ mạnh thì
dễ dàng bị phá sản trước sự tấn công của hàng hóa nước ngoài (Võ Thanh Thu,
2005). Chính bởi những nhược điểm này mà ngày nay trên thế giới ngay cả những
nước có nền kinh tế mạnh nhất như Mỹ, Nhật đều không thực hiện chính sách này
với tất cả các ngành hàng mà chỉ thực hiện sự tự do mậu dịch trong một số ngành



14
hàng đủ mạnh cạnh tranh được với hàng hóa nước ngoài và cũng chỉ thực hiện trong
một thời gian nhất định. Chính sách bảo hộ mậu dịch phổ biến với những biện pháp
thuế và phi thuế như: thuế quan, hệ thống thuế nội địa, giấy phép xuất nhập khẩu,
hạn ngạch, các biện pháp kỹ thuật để hạn chế hàng nhập khẩu. Lấy ví dụ với thị
trường Mỹ là quốc gia có hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý hàng nhập khẩu rất
phức tạp, đặc biệt là cơ chế quản lý hàng dệt may, hàng nông sản thực phẩm. Hàng
rào bảo hộ thị trường Mỹ hết sức tinh vi: Mỹ sử dụng luật chống bán phá giá, các
rào cản kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, nguyên vật liệu để sản xuất
nguồn hàng, các biện pháp khiến đối tác phải tự hạn chế xuất khẩu vào Mỹ, áp dụng
đạo luật chống bán phá giá. Song, nếu chúng ta chỉ là bên gia công thì không cần
phải chú ý nhiều tới những rào cản mà các quốc gia áp đặt tới nước xuất khẩu trực
tiếp.
Thứ năm, khắc phục khó khăn do thiếu nguyên liệu để sản xuất các mặt
hàng xuất khẩu, tranh thủ vốn và kỹ thuật nước ngoài: mặc dù dệt may và da giày là
những ngành mang lại nguồn thu lớn cho Việt Nam nhưng chúng ta mới chỉ xuất
khẩu sản phẩm đi với tư cách gia công. Lý do chính nằm ở vấn đề thiếu nguyên liệu
và các điều kiện sản xuất cơ sở hạ tầng non kém. Theo giới kinh doanh da giày, 3
loại nguyên liệu chủ yếu để sản xuất da giày là chất liệu da và giả da, đế, các
nguyên liệu phụ trợ như keo dán, chỉ khâu, cúc, nhãn hiệu, gót thì đến 70-80% là
nhập khẩu từ các nước châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc Riêng đế
giày, khâu nguyên phụ liệu được các doanh nghiệp Việt Nam chủ động tốt nhất,

cũng chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu sản xuất của ngành nói chung. Chất liệu giả da,
đặc biệt được sử dụng nhiều cho giày thể thao, mặc dù chiếm tỷ trọng xuất khẩu gần
bằng 50% giá trị da giày xuất khẩu nói chung, cũng sử dụng đến 80% nguyên liệu
nhập ngoại. Ngành công nghiệp da giày ở Việt Nam đang dựa chủ yếu vào các hợp
đồng thầu phụ với các nhà sản xuất hàng đầu thế giới như Nike, Adidas, Reebok
(Phan Anh, 2008, “Da giày vẫn vướng ở khâu nguyên phụ liệu”)… Việt Nam đang
được các hãng này cung cấp mẫu mã, nguyên vật liệu và có khi cả máy móc. Trong
lĩnh vực dệt may, tình trạng nhập khẩu nguyên vật liệu bông, sợi, vải, tơ tằm vào
khoảng 70%. Việt Nam đang phải nhập khẩu nguyên liệu dệt may từ Trung Quốc,



15
Thái Lan, Malaysia, Indonesia. Hàng dệt may đa phần được làm theo các hợp đồng
thầu phụ cho các hãng nước ngoài, trong đó các hãng này thường cung cấp nguyên
liệu, mẫu mã trong khi Việt Nam đảm nhận các khâu cắt, ghép, đăng ten. Đôi khi
các hãng này cung cấp cho chúng ta cả trang thiết bị. Bởi vậy, tuy giá trị gia tăng
tạo ra cho nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào lực lượng lao động và hàm lượng nhập
khẩu trong sản phẩm cuối cùng lên tới 80% nhưng nhờ quá trình gia công xuất khẩu
(GCXK), chúng ta phần nào học hỏi được kinh nghiệm sản xuất và tham gia vào
quá trình thương mại quốc tế trong khi điều kiện trong nước chưa cho phép việc tự
mình sản xuất các sản phẩm thương hiệu Việt Nam.
II. Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc và Ấn Độ
Hiện nay, hoạt động gia công mang lại một nguồn thu đáng kể trong hoạt
động xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên trong thời gian về lâu về dài, chúng ta cần
thu hẹp lại phạm vi của hoạt động gia công, tự mình khẳng định tên tuổi và thương
hiệu riêng trên thị trường thế giới. Việc học hỏi kinh nghiệm từ những nước vừa thu
hút được nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư chọn làm thị trường gia công lại
vừa tự xuất khẩu được khối lượng lớn những mặt hàng của chính quốc gia mình là
một điều quan trọng. Trung Quốc và Ấn Độ là hai quốc gia như thế. Khóa luận sẽ

tập trung trên 3 mặt hàng chính cũng là những mặt hàng gia công có thế mạnh của
Việt Nam, gồm có: dệt may, da giày và phần mềm.
1. Hàng dệt may
1.1 Dệt may Trung Quốc
Trung Quốc hiện là cường quốc dệt may lớn nhất trên thế giới, xuất khẩu
luôn chiếm vị trí quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc. Theo
số liệu của Bộ ngoại thương Trung Quốc, năm 2009 trong tổng 1201,7 tỷ USD xuất
khẩu, xuất khẩu dệt may chiếm 163 tỷ USD, tương đương 13,6%. Xuất khẩu hàng
dệt và may của Trung Quốc tăng vọt từ 2,3 tỷ USD từ năm 1978 lên 61,86 tỷ USD
năm 2002, đặc biệt từ 2002 sau khi Trung Quốc gia nhập WTO thì sự phát triển của
dệt may nước này không thể cản nổi. Sau khi hiệp định về hàng dệt may ATC
(Agreement on Textile and Clothing) chấm dứt từ 1/1/2005 xuất khẩu Trung Quốc
tiếp tục tăng mạnh hơn bao giờ hết (Nguyễn Hoàng, 2009).



16
Công nghiệp dệt may là một trong những ngành công nghiệp có lợi thế cạnh
tranh nhất của Trung Quốc, chiếm vị trí chi phối trên thị trường hàng dệt may toàn
cầu. Với khoảng 100.000 doanh nghiệp tham gia sản xuất hàng dệt may, Trung
Quốc được đánh giá là một trong những nước có quy mô dệt may lớn nhất thế giới,
có mạng lưới sản xuất nguyên liệu thô, có mạng lưới sản xuất nguyên liệu cho
ngành may cũng như mạng lưới marketing lớn và rộng khắp thế giới.
Thế mạnh nổi bật của Trung Quốc là chủ động về nguồn nguyên liệu, Trung
Quốc có thể sản xuất khối lượng bông lớn và khối lượng sợi được sản xuất trung
bình hàng năm là 24 triệu tấn, chiếm 1/3 sản lượng thế giới, các nhà máy của Trung
Quốc có thể đáp ứng những đơn hàng với khối lượng lớn và trong khoảng thời gian
tương đối ngắn. Với nguồn nguyên liệu dồi dào Trung Quốc không chỉ đáp ứng nhu
cầu phần lớn nguyên liệu dệt may trong nước mà còn trở thành quốc gia cung ứng
nguyên liệu lớn cho công nghiệp dệt may thế giới.

Lực lượng lao động Trung Quốc rất dồi dào trong ngành dệt may, đội ngũ
nhân viên kỹ thuật giỏi, lực lượng lao động chính quy và có khả năng tận dụng
trang thiết bị, máy móc tạo ra những sản phẩm mới chất lượng cao. Vì vậy Trung
Quốc có lợi thế cạnh tranh vượt trội về chi phí sản xuất.
Một số bài học của Trung Quốc để phát triển ngành dệt may:
- Lựa chọn đúng chiến lược phát triển cho thị trường: bài học thành công của
Trung Quốc và Ấn Độ đều cho thấy họ xác định xuất khẩu hàng dệt may là một
trong những định hướng tập trung của chiến lược xuất khẩu hàng hóa vì phù hợp
với trình độ phát triển của một nước đang phát triển. Do định hướng chiến lược
đúng đắn, Trung Quốc ngày càng tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu đối với
hàng dệt may. Trong marketing và phân phối sản phẩm, các nhà kinh doanh Trung
Quốc nổi tiếng là những nhà phân phối tốt có khả năng đáp ứng bất cứ yêu cầu nào
của khách hàng từ những lô hàng lớn đến những lô hàng nhỏ với yêu cầu cá biệt
trong thời gian ngắn do họ nắm bắt và biết được khách hàng muốn gì ở sản phẩm
của mình.
- Hỗ trợ của Chính phủ: tận dụng những ưu thế sẵn có, nắm bắt những cơ hội
sau khi gia nhập WTO, Chính phủ Trung Quốc đã và đang xây dựng những nhà



17
máy dệt có quy mô lớn để tăng cường năng lực sản xuất cho ngành dệt may nước
này. Bên cạnh đó, chính phủ Trung Quốc cũng tiến hành nhiều biện pháp nhằm hỗ
trợ cho các doanh nghiệp nước này như: khuyến khích các doanh nghiệp phát triển
và có nhãn hiệu riêng, tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và phát triển thông qua
các biện pháp xúc tiến thương mại và tăng tính cạnh tranh; các cơ quan của chính
phủ Trung Quốc thường xuyên thông báo các tin tức về việc phát triển đầu tư trong
ngành công nghiệp dệt may, đưa ra những cảnh báo về mức độ rủi ro đối với các
doanh nghiệp, tránh đầu tư quá mức và lặp lại nhiều lần trong lĩnh vực này.
- Đa dạng hóa sản phẩm, mẫu mã: Trung Quốc có đội ngũ các nhà thiết kế

thời trang khá chuyên nghiệp, đồng thời cũng có những trung tâm thời trang phát
triển như ở Thượng Hải, Hồng Kông, Bắc Kinh luôn cung cấp những mẫu thời trang
mới nhất cho các nhà thiết kế nhằm biến những ý tưởng, những thị hiếu của khách
hàng thành hiện thực.
1.2 Dệt may Ấn Độ
Theo các nhà nghiên cứu kinh tế, Ấn Độ là nước hưởng lợi thứ hai sau Trung
Quốc khi hạn ngạch được xóa bỏ theo ATC. Tuy nhiên bước đột phá diễn ra sau khi
chính phủ Ấn Độ đẩy mạnh quá trình cải cách và các nhà sản xuất trong nước tăng
cường nâng cao sức cạnh tranh cho mình. Thời điểm WTO gỡ bỏ hạn ngạch mở ra
nhiều vận hội mới cho ngành dệt may Ấn Độ, Ấn Độ đã đưa ra nhiều chiến lược
như kết hợp nông nghiệp với dệt may, đảm bảo nguồn cung bông cho sản xuất chỉ
và công nghiệp dệt đầy đủ, tránh tình trạng bông dao động mà ảnh hưởng tới giá cả
sản phẩm dệt may. Trong giai đoạn 2000-2009, Ấn Độ đầu tư gần 1,2 tỷ USD hiện
đại hóa những nhà máy do bị xuống cấp, 2 tỷ khác cũng được rót vào mua máy móc
hiện đại, phục vụ cho dây chuyền sản xuất và hệ thống quản lý chất lượng, nhằm
đạt được tiêu chuẩn quốc tế. Hiện nay 70% nhà xưởng của Ấn Độ hiện đại hơn các
cơ sở sản xuất của Trung Quốc hay Parkistan. Các doanh nghiệp may mặc Ấn Độ
hiện đang có nhiều lợi thế trong cuộc chiến cạnh tranh dành thị phần: chi phí lao
động thấp, giàu nguồn nguyên liệu thô… Ấn Độ là nước sản xuất bông lớn thứ ba
thế giới, ngành dệt trong nước có sức cạnh tranh, đội ngũ các nhà thiết kế chuyên
nghiệp (Nguyễn Hoàng, 2009).



18
Một số kinh nghiệm của Ấn Độ:
- Lợi thế so sánh về nhân công: Ấn Độ phát huy lợi thế chi phí nhân công rẻ
nên gia tăng xuất khẩu những sản phẩm may mặc có giá thành hạ để có thể cạnh
tranh với các sản phẩm của các đối thủ. Nhiều nhà bán buôn bán lẻ tìm đến Ấn Độ
do họ không muốn phụ thuộc vào Trung Quốc.

- Tăng cường xuất khẩu những sản phẩm có chất lượng cao: Ấn Độ có ưu thế
hơn Trung Quốc trên thị trường cao cấp. Họ có thể cung cấp những lô hàng có số
lượng ít may mặc và đồ dùng gia đình như ga giường, khăn tắm, thảm, mền chăn có
màu sắc, cách dệt và thêu theo yêu cầu của khách hàng.
- Phát triển lợi thế cạnh tranh trong ngành công nghiệp phụ trợ, nhất là
ngành dệt vải: Ấn Độ hiện là nước sản xuất chỉ lớn nhất thế giới, chiếm 25% thị
phần thế giới đồng thời cũng là nhà sản xuất sợi cotton hàng đầu. Với lực lượng lao
động dồi dào, Ấn Độ hiện là nuớc có lợi thế cạnh tranh hơn Trung Quốc đối với hai
mặt hàng là vải bông xù, vải bông chéo. Công nghiệp dệt Ấn Độ đã hoàn thiện cả về
nghệ thuật và khoa học để sản xuất các sản phẩm dệt đẹp mắt; ngành công nghiệp
dệt tự cung được nguồn nguyên liệu thô, và có tính hội nhập cao; hệ thống sản xuất
những lô hàng nhỏ đa dạng có thể cạnh tranh trong nhu cầu thay đổi thời trang trong
thời gian ngắn, và có thể cung cấp những lô hàng khối lượng nhỏ và lớn; các sản
phẩm có chất lượng cao tinh tế, trung cấp và thứ cấp cho người tiêu dùng. Hàng
năm Ấn Độ xuất khẩu được các sản phẩm dệt tới 176 nước trên thế giới.
2. Gia công phần mềm
Trong bản báo cáo: Top 50 quốc gia hấp dẫn nhất về gia công phần mềm
2009 do tập đoàn A.T. Kearney - Tập đoàn tư vấn hàng đầu thế giới của Hoa Kỳ
công bố thì Ấn Độ và Trung Quốc là hai quốc gia hàng đầu trong lĩnh vực gia công
phần mềm. Lĩnh vực này hiện đã chuyển thế mạnh sang cho các nước thuộc Đông
Nam Á và châu Á thay vì ở châu Âu như trước đây.
2.1 Gia công phần mềm Ấn Độ
Nhắc tới công nghệ thông tin (CNTT) nói chung và gia công phần mềm
(GCPM) nói riêng thì không thể không nhắc đến Ấn Độ. Công nghệ thông tin là
một trong những lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất của nền kinh tế Ấn Độ.

×