Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Thực trạng vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (737.13 KB, 100 trang )




TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP



Đề tài:
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƢỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM





Sinh viên thực hiện : Lê Diệu Ly
Lớp : Anh 8
Khóa : 45B
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Trần Hồng Ngân






Hà Nội - 05/2010




MỤC LỤC


DANH MỤC HÌNH VẼ, BẢNG, BIỂU, TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI
TIÊU DÙNG 4
1. Khái niệm NTD và vai trò của NTD đối với nền kinh tế 4
1.1. Khái niệm NTD 4
1.2. Vai trò của NTD đối với nền kinh tế 6
2. Quyền lợi và trách nhiệm của NTD 9
2.1. Quyền lợi của NTD 9
2.1.1. Theo quy định của Liên hiệp quốc 9
2.1.2. Theo quy định tại Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD của Việt Nam 12
2.2. Trách nhiệm của NTD 13
3. Bảo vệ quyền lợi NTD và ý nghĩa của việc bảo vệ quyền lợi NTD 14
3.1. Bảo vệ quyền lợi NTD 14
3.1.1. Các nhân tố tham gia bảo vệ quyền lợi NTD 14
3.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền lợi NTD 17
3.2. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền lợi NTD 18
3.2.1. Đối với chính trị - xã hội 18
3.2.2. Đối với kinh tế 19
4. Tổ chức Quốc tế NTD và hướng dẫn của Liên hợp quốc về bảo vệ NTD 20
4.1. Tổ chức Quốc tế NTD - Consumers International 20
4.2. Hướng dẫn của Liên hợp quốc về bảo vệ NTD 22
4.2.1. Giới thiệu 22
4.2.2. Mục tiêu 23
4.2.3. Nguyên tắc chung 23




CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU
DÙNG Ở VIỆT NAM 25
1. Tình hình vi phạm quyền lợi NTD ở Việt Nam 25
1.1. Thực trạng vấn đề vi phạm quyền lợi NTD ở Việt Nam 25
1.1.1. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
và hạn chế cạnh tranh gây ảnh hưởng đến quyền lợi NTD 25
1.1.1.1. Vấn đề độc quyền 25
1.1.1.2. Tình trạng liên kết làm giá 28
1.1.1.3. Vấn đề bán hàng đa cấp 29
1.1.1.4. Vấn đề đầu cơ găm hàng, nói thách, nâng giá tùy tiện. 29
1.1.2. Vấn đề an toàn khi sử dụng hàng hóa, dịch vụ 30
1.1.2.1. Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm 30
1.1.2.2. Vấn đề hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng 32
1.1.3. Vấn đề cung cấp thông tin cho NTD 38
1.1.3.1. Vấn đề nhãn hàng 38
1.1.3.2. Vấn đề về thông tin quảng cáo, khuyến mại 41
1.1.4. Vấn đề xâm phạm quyền và lợi ích kinh tế của NTD 44
1.1.4.1. Vấn đề giá cả hàng hóa 44
1.1.4.2. Vấn đề đo lường hàng hóa 45
1.1.5. Vấn đề khiếu nại và bồi thường thiệt hại cho NTD 46
1.1.6. Vấn đề nhận thức của NTD và doanh nghiệp về các quyền và trách
nhiệm của mình 48
1.1.7. Vấn đề tiêu dùng bền vững 49
1.2. Đánh giá thực trạng tình hình vi phạm quyền lợi NTD ở Việt Nam 50
2. Thực trạng vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam 51
2.1. Hệ thống Pháp luật về vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam 51
2.1.1.1. Pháp lệnh Bảo vệ NTD 51

2.1.1.2. Nghị định 55/2008/NĐ-CP 52


2.1.1.3. Các văn bản liên quan 55
2.1.1.4. Dự thảo Luật Bảo vệ quyền lợi NTD 55
2.1.1.5. Đánh giá về hệ thống pháp luật về bảo vệ NTD ở Việt Nam 59
2.2. Tình hình hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước 61
2.2.1. Các cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam61
2.2.2. Tình hình một số hoạt động của các cơ quan chức năng chuyên ngành
ở Việt Nam 63
2.2.2.1. Hoạt động quản lý ATVSTP 63
2.2.2.2. Hoạt động quản lý nhãn hàng 64
2.2.2.3. Hoạt động tiêu chuẩn hoá 65
2.2.2.4. Hoạt động đấu tranh chống hàng nhái hàng giả và quản lý đo
lường 67
2.3. Thực trạng hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD của các tổ chức phi chính phủ
ở Việt Nam 68
2.3.1. Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ NTD Việt Nam - VINASTAS 68
2.3.2. Các hoạt động của VINASTAS 69
2.4. Đánh giá hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước và các tổ chức liên
quan đến vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD 71
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƢỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM. 74
1. Kinh nghiệm bảo vệ NTD của một số nước. 74
1.1. Kinh nghiệm bảo vệ quyền lợi NTD của Pháp 74
1.2. Kinh nghiệm bảo vệ quyền lợi NTD của Trung Quốc 75
1.3. Kinh nghiệm bảo vệ quyền lợi NTD của Mỹ 76
1.4. Kinh nghiệm bảo vệ quyền lợi NTD của Thái Lan 77
1.5. Kinh nghiệm bảo vệ quyền lợi NTD của Canada 78
1.6. Kinh nghiệm bảo vệ quyền lợi NTD của Ấn Độ 79

1.7. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 80


2. Một số giải pháp tăng cường bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam 82
2.1. Giải pháp từ phía Nhà nước 82
2.1.1. Tăng cường và hoàn thiện pháp luật bảo vệ NTD và tòa án bảo vệ
NTD. 82
2.1.2. Tuyên truyền giáo dục, nâng cao khả năng tự bảo vệ của NTD 82
2.1.3. Nâng cao ý thức bảo vệ quyền lợi NTD của doanh nghiệp 83
2.1.4. Cải thiện hoạt động của thị trường 84
2.2. Giải pháp từ phía các cơ quan tổ chức 85
2.2.1. Tăng nguồn kinh phí và xây dựng cơ sở hạ tầng 85
2.2.2. Xây dựng nguồn nhân lực 85
2.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức 86
2.2.4. Tăng cường sự liên hệ với NTD 86
2.3. Giải pháp từ phía các doanh nghiệp 87
2.3.1. Nâng cao chất lượng sản xuất kinh doanh 87
2.3.2. Cung cấp những thông tin trung thực về hàng hóa dịch vụ của doanh
nghiệp 88
2.3.3. Tăng cường trách nhiệm của doanh nghiệp nhằm chiếm được lòng tin
của NTD. 88
2.4. Giải pháp từ phía NTD 88
2.4.1. Tìm hiểu kỹ thông tin trước khi mua hàng 89
2.4.2. Mua hàng có nguồn gốc rõ ràng 89
2.4.3. Nâng cao ý thức về ATVSTP 90
2.4.4. Lấy hóa đơn, phiếu bảo hành khi mua hàng 90
2.4.5. Phản ứng mạnh mẽ với những hành vi xâm phạm quyền lợi NTD 91
KẾT LUẬN 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO





DANH MỤC HÌNH VẼ, BẢNG, BIỂU, TỪ VIẾT TẮT


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt
Thuật ngữ
NTD
DN
CI
PLBVNTD
BVQLNTD
VINASTAS
ATVSTP
WTO
TCĐLCL
Người tiêu dùng
Doanh nghiệp
Consumers International
Pháp lệnh Bảo vệ Người tiêu dùng
Bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng
Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ Người tiêu dùng Việt Nam
An toàn vệ sinh thực phẩm
World Trade Organization
Tổng cục đo lường chất lượng



DANH MỤC HÌNH VẼ, BẢNG, BIỂU
Tên hình vẽ, bảng, biểu
Trang
Hình 1: Thang bậc nhu cầu của con người
3
Bảng 1: Mức độ tăng giá sản xuất một số sản phẩm theo mức tăng giá điện
27-28
Biểu đồ 1: Giá xăng và dầu thô ở Việt Nam từ 11/2007 đến 11/2008
Biểu đồ 2: 10 quốc gia bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ kém nhất thế giới
Biểu đồ 3: Tỷ lệ vị phạm quy chế ghi nhãn hàng trong một số ngành.
Biểu đồ 4: Thái độ tiếp nhận khiếu nại của khách hàng
26
38
41
48



1
LỜI MỞ ĐẦU

NTD là một lực lượng đông đảo và có vai trò vô cùng quan trọng trong nền
kinh tế nói riêng và sự phát triển của toàn xã hội nói chung. Trong chính sách kinh
tế của quốc gia, “kích cầu” là một biện pháp mà các chính phủ thường sử dụng khi
nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng bởi vì nó có tác dụng kích thích tiêu
dùng hàng hóa, dịch vụ, giúp lưu thông nền kinh tế và làm cho nền kinh tế sớm
thoát khỏi tình trạng trì trệ. Đồng thời, NTD là một mục tiêu vô cùng quan trọng
trong quá trình hoạch định chiến lược của các doanh nghiệp nói riêng. Bên cạnh đó,
khi NTD có tác động lớn đến nền kinh tế của một quốc gia thì cũng sẽ có tác động ít
nhiều đến cả tổng thể xã hội của quốc gia đó. Thực tế cho thấy, khi kinh tế phát

triển thì văn hóa, chính trị, xã hội cũng có những sự tiến bộ tương ứng. Do đó, việc
nghiên cứu về hành vi tiêu dùng và củng cố hơn nữa vai trò của NTD là rất quan
trọng trong việc giúp các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận, đáp ứng tốt hơn các nhu
cầu của NTD, từ đó mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp mình và sự thịnh vượng
cho nền kinh tế.
Với vai trò quan trọng như vậy, lẽ ra NTD phải được các doanh nghiệp tôn
trọng và bảo vệ quyền lợi. Tuy nhiên, NTD lại đang là những người phải chịu thiệt
thòi khi thực hiện hành vi tiêu dùng. So với doanh nghiệp, NTD thường ở vào vị trí
bất lợi hơn về thông tin của sản phẩm và do đó, các doanh nghiệp dễ dàng lợi dụng
để kiếm lời bất chính. Trên thực tế, những hành vi xâm phạm quyền lợi NTD là rất
phổ biến và dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế nói riêng. Bởi vậy,
yêu cầu cấp thiết đặt ra là làm thế nào để quyền và lợi ích chính đáng của NTD
được bảo vệ cũng như việc nâng cao ý thức của doanh nghiệp, của người dân và
toàn xã hội về vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD.
Ở Việt Nam, với cơ chế quản lý thị trường và hàng hóa còn nhiều hạn chế,
NTD còn chưa được đặt đúng vị thế mà đáng lẽ ra họ phải được hưởng. Đặc biệt
trong bối cảnh kinh tế nước ta đang bước vào giai đoạn hội nhập toàn cầu một cách


2
sâu rộng, bên cạnh mặt tốt là thị trường hàng hóa dịch vụ trở nên phong phú đa
dạng thì kéo theo đó là sự khó khăn trong việc quản lý hành vi của doanh nghiệp
cũng như vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD. Vi phạm quyền lợi NTD ở nước ta đang là
một vấn đề nóng hổi và cần được sự tham gia của các cơ quan chức năng, các hội
bảo vệ NTD và dư luận toàn xã hội.
Với tư cách là một trong số đông những NTD, em thấy quyền lợi NTD Việt
Nam đang bị xâm phạm nghiêm trọng. Việc nghiên cứu thực trạng vấn đề bảo vệ
quyền lợi NTD để tìm ra nguyên nhân và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao
tính hiệu quả trong các hoạt động này là một vấn đề cần kíp. Do đó em đã chọn đề
tài “Thực trạng vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam” để nghiên cứu

trong bài khóa luận tốt nghiệp của mình. Thông qua bài khóa luận, em hi vọng sẽ
mang lại một cái nhìn vừa tổng quát, vừa cụ thể về tình hình bảo vệ quyền lợi NTD
ở nước ta hiện nay và đưa ra một số giải pháp nhằm cải thiện hoạt động bảo vệ
quyền lợi NTD Việt Nam.
Bài khóa luận gồm có ba chương:
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI
TIÊU DÙNG
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƢỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG BẢO VỆ QUYỀN
LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM
Để có thể phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững thì bên cạnh các chính
sách, mục tiêu khác, chúng ta cần phải thực hiện được mục tiêu bảo vệ lợi ích của
NTD. Để làm được điều này cần có sự góp sức và phối hợp chặt chẽ của toàn xã
hội, trong đó cần có sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ NTD,
tổ chức xã hội, doanh nghiệp cũng như chính bản thân NTD.
Trong khóa luận này, thực trạng vấn đề bảo vệ NTD không chỉ được nghiên
cứu trên một phương diện nhất định mà em đã cố gắng xem xét vấn đề một cách


3
bao quát nhất. Trong bài khóa luận này, em có tham khảo một số văn bản pháp luật,
sách và tạp chí hướng dẫn về bảo vệ quyền lợi NTD và thu thập số liệu trên các
trang web trên internet. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong khóa luận này
là phương pháp phân tích sự kiện, thu thập, xử lý, thống kê, phân tích và so sánh số
liệu
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do kiến thức còn hạn chế, bài khóa luận khó
tránh khỏi thiếu sót. Em kính mong nhận được sự góp ý và nhận xét của các thầy cô
để có thể có một cái nhìn sâu sắc hơn về vấn đề bảo vệ NTD ở Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn!
















4

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN
LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
1. Khái niệm NTD và vai trò của NTD đối với nền kinh tế
1.1. Khái niệm NTD
Theo lý thuyết về Thang bậc nhu cầu (Hierarchy of Needs) của con người của
nhà tâm lý học Abraham Maslow, ông sắp xếp các nhu cầu của con người theo một
hệ thống trật tự cấp bậc, trong đó, các nhu cầu ở mức độ cao hơn muốn xuất hiện thì
các nhu cầu ở mức độ thấp hơn phải được thỏa mãn trước. Về cơ bản, nhu cầu của
con người gồm có 5 bậc bao gồm: Nhu cầu cơ bản, nhu cầu về an toàn, nhu cầu về
xã hội, nhu cầu được tôn trọng, và nhu cầu được thể hiện mình.
Hình 1: Thang bậc nhu cầu của con người

(Nguồn: www.ship.edu)

Nhu cầu của con người có thể bắt nguồn từ những tác nhân kích thích nội tại
hay bên ngoài. Từ đó con người có động cơ hướng vào những đối tượng hàng hóa,
dịch vụ có khả năng thỏa mãn được nhu cầu của mình. Một số trong số những nhu


5
cầu này có những nhu cầu cơ bản như thức ăn, chỗ ở…và những nhu cầu khác cao
hơn tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cuộc sống thay đổi.
Theo quan điểm cá nhân, NTD có thể hiểu đơn giản là một hay nhiều người
dùng hay “tiêu” khoản tiền của mình để mua hàng hóa, dịch vụ nào đó để sử dụng
nhằm thỏa mãn, đáp ứng nhu cầu của họ.
Trên thực tế, người ta có thể đưa ra khá nhiều khái niệm về NTD song những
khái niệm đó đều có điểm chung nhất định, đó là những người mua và sử dụng hàng
hóa, dịch vụ.
Theo Điều 1 Pháp lệnh bảo vệ NTD 1999 quy định “NTD là người mua, sử
dụng hàng hóa dịch vụ cho mục đích sinh hoạt cá nhân, gia đình và tổ chức.” Cụ thể
hơn, Điều 2 và Điều 3 Nghị định 69/2001/NĐ-CP ngày 02/10/2001 của chính phủ
quy định chi tiết việc thi hành Pháp lệnh bảo vệ NTD đã chỉ rõ các đối tượng được
coi là NTD bao gồm:
- Người mua và là người sử dụng hàng hóa, dịch vụ đã mua cho chính bản
thân mình;
- Người mua hàng hóa và dịch vụ cho người khác, cho gia đình hoặc cho tổ
chức sử dụng;
- Cá nhân, gia đình, tổ chức sử dụng hàng hóa, dịch vụ do người khác mua
hoặc do được tặng, cho;
- Người mua, sử dụng hàng hóa dịch vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh
không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định 69/2001/NĐ-CP.
Như vậy có thể thấy, NTD có thể là người mua và sử dụng, cũng có thể là
người chỉ mua hoặc chỉ sử dụng hàng hóa, dịch vụ nhưng phải thỏa mãn điều kiện
là nhằm mục đích tiêu dùng chứ không phải phục vụ cho sản xuất hay mua bán trao

đổi với mục tiêu lợi nhuận.
Thông thường hai khái niệm NTD (consumer) và khái niệm “khách hàng”
(customer) rất dễ bị nhầm lẫn. Tuy nhiên, thông qua đặc điểm về NTD được cụ thể
hóa ở trên, ta có thể dễ dàng phân biệt hai khái niệm này. Một người tiến hành mua


6
một sản phẩm không phải luôn luôn là người sử dụng hoặc là người sử dụng duy
nhất của sản phẩm. Trong khi NTD mua hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích tiêu
dùng, sử dụng sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân thì “khách hàng” là
người mua hàng hóa, dịch vụ có thể cho mục đích cá nhân hoặc làm yếu tố đầu vào
phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Từ đó ta có thể thấy khái niệm “khách hàng” có
phạm vi đối tượng rộng hơn, có khách hàng không phải là NTD bởi vì họ không sử
dụng hàng hóa dịch vụ vào mục đích tiêu dùng phục vụ nhu cầu bản thân.
Thị trường NTD mua hàng hóa và dịch vụ cho tiêu dùng cá nhân. Nó là thị
trường cuối cùng mà hoạt động kinh tế được tổ chức ra để phục vụ nó. Do đó, NTD
cũng có thể được hiểu thông qua thuật ngữ “người sử dụng cuối cùng”. Điều này có
nghĩa là họ là những người mua hàng hóa, dịch vụ dưới dạng thành phẩm ở khâu
sản xuất cuối cùng, được bán ra trên thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, sử
dụng của bản thân, của gia đình hay phục vụ cho hoạt động của một tổ chức.
1.2. Vai trò của NTD đối với nền kinh tế
Tổng thống Mỹ J.Kennedy nói trong tuyên bố ngày 13/03/1962 trước Quốc
hội Mỹ: “Theo định nghĩa, NTD gồm tất cả chúng ta. Họ là nhóm kinh tế lớn nhất,
ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi gần như tất cả các quyết định kinh tế công cũng như
tư ”

Ta có thể thấy, NTD có thể là bất cứ ai. Họ tồn tại trong xã hội và tham gia
vào nền kinh tế với vai trò là người dẫn dắt nền kinh tế. Bởi vậy, NTD có ảnh
hưởng lớn đến nền kinh tế cũng như các mặt văn hóa, chính trị, xã hội của một đất
nước. Việc tìm hiểu vai trò của NTD là rất cần thiết bởi từ đó giúp ta nhận thức

được tầm quan trọng của NTD đối với nền kinh tế nói riêng và đưa ra những cách
thức để củng cố vai trò của NTD nhằm điều chỉnh, củng cố và phát triển nền kinh tế
của cả quốc gia.
Thứ nhất, NTD là điều kiện cần và là cơ sở cho sự tồn tại của nền kinh tế.
Nền kinh tế được tạo ra bởi hoạt động sản xuất, kinh doanh và cung ứng hàng hóa
dịch vụ. Cung và cầu tạo ra thị trường. NTD là một tập hợp lớn trong thị trường ấy


7
và là cơ sở, là điều kiện cần thiết để nền kinh tế có thể tồn tại và phát triển. Hoạt
động lao động và sản xuất từ xa xưa đã gắn với sự ra đời của con người bởi vì khi
đó, con người đã có những nhu cầu cơ bản nhất để sinh tồn. Tuy nhiên, chỉ đến khi
trình độ của con người đạt đến một mức độ nhất định, theo đó là nhu cầu cũng dần
được nâng lên thì mới xuất hiện hoạt động sản xuất hàng hóa, và nền kinh tế ra đời.
Từ đó cho đến nay, mỗi hoạt động sản xuất muốn tồn tại được đều phải gắn với nhu
cầu của con người và được thực hiện hóa bằng việc tiêu dùng. Chỉ có như thế, nhà
sản xuất mới có thể tiêu thụ được sản phẩm, thu hồi vốn, tạo được lợi nhuận, tái sản
xuất cũng như mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời, những hoạt động kinh tế khác
liên quan đến tiêu dùng sản phẩm đó cũng mới có thể tồn tại được. Ngược lại, khi
sản xuất không gắn với tiêu dùng, hoạt động sản xuất đó sẽ nhanh chóng bị đào thải.
Trên quy mô của cả nền kinh tế, quy luật đó không hề thay đổi.
Thứ hai, NTD là mục tiêu và là động lực của hoạt động sản xuất kinh doanh.
NTD không chỉ là cơ sở của sự tồn tại một nền kinh tế mà còn là mục tiêu và động
lực của nền kinh tế đó. Hành vi của người tiêu dùng chịu ảnh hưởng của bốn yếu tố
chủ yếu: văn hóa, xã hội, cá nhân và tâm lý. Do đó việc tìm hiểu về hành vi, thái độ
và quá trình ra quyết định của NTD rất cần được chú trọng. Các nhà sản xuất kinh
doanh luôn phải hướng tới NTD để đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của họ. Để tồn tại,
các hoạt động sản xuất kinh doanh phải được gắn với việc tiêu dùng. Trong khi đó,
tiêu dùng lại phụ thuộc vào nhu cầu của con người mà những nhu cầu đó thì luôn
thay đổi, kéo theo đó các hoạt động sản xuất, cung ứng hàng hóa dịch vụ cũng phải

thay đổi theo sao cho phù hợp. Suy cho cùng, các hoạt động sản xuất kinh doanh tạo
ra hàng hóa, dịch vụ thì cần phải có người tiêu dùng chúng hay mục tiêu mà chúng
hướng tới chính là những NTD. NTD sẽ là những người tiêu thụ, sử dụng và đánh
giá chất lượng cũng như giá trị của những sản phẩm đó. Muốn đáp ứng nhu cầu và
độ thỏa dụng ngày càng cao của NTD, các nhà sản xuất kinh doanh phải luôn không
ngừng tìm tòi, sáng tạo và phát triển sản phẩm của mình. Khi đó, NTD sẽ thỏa mãn
hơn với những tính năng và chất lượng của sản phẩm mà mình sử dụng. Nhu cầu
thỏa mãn cao hơn của NTD sẽ mang lại cho các nhà sản xuất kinh doanh động lực
giúp đáp ứng tốt hơn các nhu cầu đó và mang lại lợi nhuận cho chính mình.


8
Thứ ba, NTD góp phần dẫn dắt nền kinh tế phát triển. Cũng chính vì NTD là
mục tiêu và là động lực của hoạt động sản xuất kinh doanh nên họ cũng chính là bộ
phận góp phần dẫn dắt sự phát triển của nền kinh tế. Tính dẫn dắt nền kinh tế của
NTD được thể hiện qua tác dụng gợi mở phương hướng thay đổi, phát triển cho
hoạt động sản xuất và cung ứng hàng hóa dịch vụ. Xu hướng thay đổi của NTD là
ngày càng đòi hỏi sản phẩm dịch vụ mang lại nhiều lợi ích và độ thỏa mãn cao hơn.
Điều đó đòi hỏi các nhà sản xuất, cung ứng hàng hóa dịch vụ phải sáng tạo, tìm tòi
nhiều hơn để đáp ứng được nhu cầu của NTD. Không những vậy, để tăng cường
khả năng cạnh tranh, thu hút NTD, các nhà sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ
cũng phải tích cực nghiên cứu phát triển các sản phẩm mới không chỉ để thỏa mãn
trước những nhu cầu sẽ xuất hiện mà còn để NTD hài lòng hơn với những nhu cầu
hiện tại. Nhờ vậy, nền kinh tế sẽ không ngừng phát triển và đó cũng chính là sự tác
động qua lại giữa nhu cầu và sản xuất.
Tóm lại, NTD có vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Không có
NTD, nền kinh tế không thể tồn tại và phát triển. Trong chính sách kinh tế của quốc
gia, “kích cầu” là một biện pháp mà các chính phủ thường sử dụng khi nền kinh tế
rơi vào tình trạng khủng hoảng bởi vì nó có tác dụng kích thích tiêu dùng hàng hóa,
dịch vụ, giúp lưu thông nền kinh tế và làm cho nền kinh tế sớm thoát khỏi tình trạng

trì trệ. Đồng thời, NTD là một mục tiêu vô cùng quan trọng trong quá trình hoạch
định chiến lược của các doanh nghiệp nói riêng. Bên cạnh đó, khi NTD có tác động
lớn đến nền kinh tế của một quốc gia thì cũng sẽ có tác động ít nhiều đến cả tổng
thể xã hội của quốc gia đó. Thực tế cho thấy, khi kinh tế phát triển thì văn hóa,
chính trị, xã hội cũng có những sự tiến bộ tương ứng. Do đó, việc nghiên cứu về
hành vi tiêu dùng và củng cố hơn nữa vai trò của NTD là rất quan trọng trong việc
giúp các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của NTD, từ
đó mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp mình và sự thịnh vượng cho nền kinh tế.




9
2. Quyền lợi và trách nhiệm của NTD
2.1. Quyền lợi của NTD
2.1.1. Theo quy định của Liên hiệp quốc
Trong nghị quyết 39/948 với tên gọi “Các nguyên tắc chỉ đạo để bảo vệ NTD”
được đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 9/05/1985, Liên hợp quốc đã chỉ
ra 8 quyền cơ bản của NTD, bao gồm:
- Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản
Con người được tạo ra bởi các yếu tố thể chất, tinh thần và xã hội. Các nhu
cầu cần thiết để duy trì các yếu tố tạo ra con người gọi là nhu cầu cơ bản hay còn
gọi là các nhu cầu để tồn tại và phát triển của con người . Quyề n được thỏa mãn
những nhu cầu cơ bản nghĩa là NTD có quyền có được những hàng hóa, dịch vụ
thiết yếu phục vụ cho nhu cầu tối thiểu để con người có thể tồn tại được… Trên
thực tế, tuy những nhu cầu cơ bản là giống nhau nhưng tùy theo từng người, từng
hoàn cảnh, từng điều kiện kinh tế lại có mức độ lại khác nhau. Trong xã hội hiện đại
và phát triển, nhu cầu cơ bản cũng thay đổi, tương ứng với trình độ phát triển của xã
hội. Khi đó, nhu cầu cơ bản không chỉ là nhu cầu vật chất tối thiểu để tồn tại mà còn
bao gồm những nhu cầu về tinh thần như giao tiếp, học hành, chăm sóc sức khỏe, đi

lại… để cho con người có thể tồn tại và phát triển.
- Quyền được an toàn
Nhu cầu về an toàn là nhu cầu được xếp ưu tiên sau nhu cầu cơ bản về thể chất
và sinh lý. An toàn về tính mạng nghĩa là bảo vệ cho con người tránh được các nguy
cơ đe dọa cuộc sống và an toàn về tinh thần là tránh được mọi sự sợ hãi, lo lắng.
Tiêu dùng để thỏa mãn nhu cầu nhưng vấn đề an toàn thì nhất thiết cần được đảm
bảo. NTD được quyền bảo vệ tránh khỏi những hàng hóa dịch vụ có hại cho thể
chất, sức khỏe và tinh thần để NTD có cảm giác yên tâm về an toàn thân thể, việc
làm, gia đình, sức khỏe. Quyền về an toàn ở đây không chỉ liên quan đến hàng hóa,
dịch vụ cuối cùng mà còn liên quan đến cả quá trình sản xuất hàng hóa đó.



10
- Quyền được thông tin
Đối với NTD nói chung, thông tin về hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ mà họ sử
dụng là rất cần thiết. Tuy nhiên, không phải lúc nào các nhà sản xuất kinh doanh
cũng cung cấp đúng và đầy đủ thông tin, thậm chí đôi khi vì lợi nhuận còn cố tình
nói sai lệch về những sản phẩm của mình gây nhầm lẫn trong quá trình lựa chọn
hàng hóa của NTD. Điều đó đã vi phạm quyền được thông tin của NTD. Theo quy
định, NTD có quyền được cung cấp đầy đủ thông tin xác thực và tin cậy về chất
lượng, giá thành cũng như tính năng sử dụng của hàng hóa đó để từ đó họ có thể
đưa ra quyết định tiêu dùng. Bất cứ nội dung gì liên quan đến hàng hóa, dịch vụ
cũng cần phải được thông tin cho NTD biết. Nội dung thông tin cho NTD có thể
được thực hiện thông qua việc ghi nhãn mác, hướng dẫn sử dụng hay qua quảng cáo
giới thiệu trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Quyền được lựa chọn
NTD có quyền lựa chọn hang hóa, dịch vụ sao cho phù hợp với nhu cầu và
đáp ứng độ thỏa dụng của chính mình. Họ được toàn quyền quyết định trong việc có
nên tiêu dùng hay không để đảm bảo quyền được thỏa mãn và an toàn. NTD cần

phải tự mình quyết định trong việc tiêu dùng của mình. Bất cứ hành vi gò ép, dụ dỗ,
mồi chài nào đối với NTD đều không được chấp nhận, thậm chí ngay cả khi dựa
vào vị thế độc quyền trong việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ.
- Quyền được lắng nghe
Ngoài quyền được nghe hay được thông tin, NTD còn được quyền lắng nghe
bởi các nhà sản xuất kinh doanh và các cơ quan chức năng có liên quan. Họ được
quyền liên hệ, bày tỏ ý kiến với nhà sản xuất kinh doanh về các loại hàng hóa, dịch
vụ do họ cung ứng cũng như góp ý với nhà nước, các cơ quan, tổ chức có liên quan
đến những vấn đề của họ. NTD có thể trực tiếp đề xuất ý kiến của mình hoặc thông
qua các cơ quan chức năng, hội NTD, hay thông qua đại diện của mình để bày tỏ ý
kiến. NTD cần được giải đáp những thắc mắc trong quá trình tiêu dùng một cách rõ
ràng và nhanh chóng. Những hành vi không tôn trọng, phớt lờ hoặc đàn áp ý kiến
NTD đều là vi phạm quyền được lắng nghe của NTD. Tôn trọng quyền được lắng


11
nghe của NTD không chỉ là nghĩa vụ, quyền lợi của các nhà sản xuất kinh doanh mà
con là bí quyết giúp các nhà sản xuất kinh doanh củng cố và phát triển vị thế của
mình hay có được niềm tin của khách hàng bởi khi đó họ sẽ hiểu NTD cần gì hơn
nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại hay tạo ra những nguồn cung mới trong tương lai.
Tôn trọng quyền được lắng nghe của NTD không chỉ là nghĩa vụ, quyền lợi của các
nhà sản xuất kinh doanh mà con là bí quyết giúp các nhà sản xuất kinh doanh củng
cố và phát triển vị thế của mình hay có được niềm tin của NTD – mấu chốt để
doanh nghiệp tồn tại và phát triển bởi khi đó họ sẽ hiểu NTD cần gì hơn nhằm đáp
ứng nhu cầu hiện tại hay tạo ra những nguồn cung mới trong tương lai.
- Quyền được bồi thường
Trong trường hợp NTD có những điều không vừa ý, bị thiệt thòi, thiệt hại, họ
có quyền khiếu nại. Nếu những khiếu nại đó là chính xác và hợp lý, NTD có quyền
được bồi thường những thiệt hại cả vật chất lẫn tinh thần do những vấn đề đó gây
ra. Các nhà sản xuất kinh doanh phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu sản

phẩm của mình gây tổn hại đến NTD. Nhà sản xuất kinh doanh phải bồi thường cho
NTD nếu sản phẩm dịch vụ do họ cung ứng không đúng với nội dung đã giới thiệu,
quảng cáo, giao kết hợp đồng. Các khiếu nại của NTD có thể được giải quyết bằng
cách hòa giải giữa người cung ứng và NTD thông qua các văn phòng khiếu nại của
NTD; bằng cách trực tiếp giữa người cung ứng và NTD hoặc thông qua các cơ quan
quản lý nhà nước liên quan, hoặc trong trường hợp không giải quyết được thì có thể
thông qua hệ thống tòa án dân sự. Bồi thường thỏa đáng cho những khiếu nại chính
đáng của NTD sẽ nâng cao được tín nhiệm của doanh nghiệp, cải thiện được hình
ảnh của doanh nghiệp trong con mắt NTD.
- Quyền được giáo dục về tiêu dùng
Hành vi tiêu dùng là một hành vi phức tạp và bị chi phối bởi nhiều yếu tố.
Không phải tiêu dùng nào cũng là tốt. NTD có quyền được hướng dẫn, giáo dục
những kiến thức và kỹ năng về tiêu dùng. Khi kiến thức tiêu dùng được nâng cao,
NTD có khả năng tự bảo vệ mình tránh khỏi những thiệt thòi không đáng có. Việc
giáo dục NTD có thể được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin đại chúng,


12
báo chí, hội thảo, triển lãm…Nhiều nước đã đưa giáo dục về tiêu dùng vào các
chương trình giáo dục ở các trường học.
- Quyền được có một môi trường lành mạnh và bền vững
NTD nào cũng muốn được sống trong một môi trường lành mạnh. Các nhà sản
xuất kinh doanh không nên vì tối đa hóa lợi nhuận mà làm ảnh hưởng đến môi
trường xung quanh, gây ô nhiễm không khí, nguồn nước hay khiến nguồn tài
nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt. Ô nhiễm môi trường chắc chắn sẽ không thể đảm
bảo một môi trường bền vững. Việc bảo vệ và tạo ra một môi trường trong sạch
lành mạnh là một công việc rất cần thiết, nếu không, nó có thể ảnh hưởng tới cả
những thế hệ tương lai.
2.1.2. Theo quy định tại Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD của Việt Nam
Bên cạnh việc đương nhiên thừa nhận 8 quyền cơ bản của NTD mà Liên hợp

quốc đưa ra, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD số 13/1999/PL-UBTVQH10 của Việt
Nam còn quy định một số quyền cụ thể như sau:
- Quyền lựa chọn hàng hoá, dịch vụ; được cung cấp các thông tin trung thực
về chất lượng, giá cả, phương pháp sử dụng hàng hoá, dịch vụ; được bảo đảm an
toàn về tính mạng, sức khoẻ và môi trường khi sử dụng hàng hoá, dịch vụ; được
hướng dẫn những hiểu biết cần thiết về tiêu dùng.
- Quyền đòi bồi hoàn, bồi thường thiệt hại khi hàng hoá, dịch vụ không đúng
tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng, giá cả đã công bố hoặc hợp đồng đã giao kết;
khiếu nại, tố cáo, khởi kiện theo quy định của pháp luật đối với việc sản xuất, kinh
doanh hàng cấm, hàng giả, hàng hoá, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số
lượng và việc thông tin, quảng cáo sai sự thật.
- Quyền đóng góp ý kiến trong việc xây dựng và thực hiện chính sách, pháp
luật về bảo vệ quyền lợi NTD; yêu cầu tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng
hoá, dịch vụ thực hiện đúng trách nhiệm trong việc bảo vệ quyền lợi NTD.
- Quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh bảo đảm tiêu chuẩn,
chất lượng hàng hoá, dịch vụ thuộc nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở, đi lại, học tập,


13
bảo vệ sức khoẻ, bảo vệ môi trường và các hàng hoá, dịch vụ khác đã đăng ký, công
bố.
- Quyền được thành lập tổ chức để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
theo quy định của pháp luật. NTD trực tiếp hoặc thông qua đại diện để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Như vậy, bên cạnh quyền được đảm bảo thỏa mãn nhu cầu của mình, NTD
còn có những quyền và lợi ích chính đáng khác như quyền được an toàn; quyền
được cung cấp thông tin đầy đủ chính xác về hàng hóa, dịch vụ; quyền được đóng
góp ý kiến; quyền được khiếu nại, bồi thường hợp lý… NTD là một nhân tố quan
trọng trong nền kinh tế. Để cân bằng vị thế NTD trong tương quan với nhà cung cấp
cần tiến tới trao quyền cho NTD, khiến họ tự nhận thức được quyền lực và thức tỉnh

sức mạnh sẵn có. Việc quy định cụ thể và rõ ràng về quyền và lợi ích hợp pháp của
NTD là rất cần thiết bởi vì khi đó, NTD có thể hiểu được những quyền lợi của mình
khi tham gia tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu bản thân. Đồng
thời, tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan chức năng, các ngành, các cấp có liên quan
dựa vào đó để xem xét, giải quyết những tranh chấp phát sinh có thể xảy ra giữa
NTD và các nhà sản xuất kinh doanh, cung ứng hàng hóa, dịch vụ.
2.2. Trách nhiệm của NTD
Trách nhiệm của NTD được quy định nhằm hướng dẫn, giáo dục và bảo vệ
NTD tránh khỏi những thiệt hại phát sinh, đồng thời nâng cao ý thức của NTD phải
có trách nhiệm khi tham gia tiêu dùng.
Điều 12 và Điều 13 Pháp lệnh bảo vệ NTD 1999 quy định trách nhiệm của
NTD khi tham gia vào việc mua bán và sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Cụ thể:
- Trách nhiệm tự bảo vệ mình trong việc tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ; thực
hiện đúng hướng dẫn về phương pháp sử dụng hàng hoá, dịch vụ; không được tiêu
dùng hàng hoá, dịch vụ gây tổn hại đến môi trường, trái với thuần phong mỹ tục,
gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của mình và cộng đồng.


14
- Trách nhiệm phát hiện, tố cáo các hành vi gian dối về tiêu chuẩn, đo lường,
chất lượng, nhãn hiệu hàng hoá, giá cả và các hành vi lừa dối khác của tổ chức, cá
nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, gây thiệt hại cho mình và cộng đồng
theo quy định của pháp luật.
3. Bảo vệ quyền lợi NTD và ý nghĩa của việc bảo vệ quyền lợi NTD
3.1. Bảo vệ quyền lợi NTD
Bảo vệ quyền lợi NTD là làm sao để quyền lợi của NTD không bị xâm hại,
làm sao để NTD tránh được những rủi ro khi tham gia vào tiêu dùng. Điều này rất
có cần thiết bởi vì NTD có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của một quốc
gia. Nền kinh tế phát triển thì sản xuất kinh doanh phải diễn ra suôn sẻ. Mặt khác,
sản xuất kinh doanh lại gắn liền với tiêu dùng. Do đó, muốn nền kinh tế phát triển

thì phải kích thích được tiêu dùng và đảm bảo nhu cầu của NTD phải được đáp ứng.
Vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD luôn là vấn đề trọng tâm được nhiều các ngành các
cấp quan tâm.
3.1.1. Các nhân tố tham gia bảo vệ quyền lợi NTD
- Nhà nƣớc và các cơ quan có thẩm quyền
Bảo vệ quyền lợi NTD là một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản lý
nhà nước và được thực hiện hóa bởi một hệ thống quy định pháp lý cụ thể. Thực
tiễn cho thấy, khi nền kinh tế thị trường càng phát triển, mức độ tự do hóa thương
mại càng gia tăng thì càng nảy sinh nhiều vấn đề gây ảnh hưởng đến quyền lợi
NTD. Việc chờ đợi ý thức trách nhiệm của các cơ sở sản xuất kinh doanh nếu thiếu
vắng một hệ thống quy định pháp lý là điều không thể bởi họ còn bị chi phối bởi
nhiều yếu tố liên quan đến lợi nhuận, cạnh tranh… Những quy định pháp lý sẽ là cơ
sở cho các nhà sản xuất kinh doanh ý thức được vấn đề quyền lợi NTD và trách
nhiệm của mình trong việc bảo vệ quyền lợi NTD. Bên cạnh đó, NTD cũng có cơ sở
để thực hiện quyền lợi của mình. Trong trường hợp các doanh nghiệp không tuân
thủ đúng quy định của pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi NTD thì hệ thống
pháp lý sẽ tạo khung quy định những biện pháp xử phạt và cưỡng chế đối với những
doanh nghiệp đó.


15
Vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD không chỉ thể hiện trong các văn bản pháp luật
mà còn trong thiết chế thực thi pháp luật như các cơ quan Nhà nước, cơ quan hành
chính, hệ thống tòa án các cấp, các tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD. Nhà nước ở bất
cứ quốc gia nào cũng luôn có vai trò to lớn trong bảo vệ NTD. Đó là cơ quan lập ra
các chính sách, tổ chức thực hiện các chính sách và kiểm tra giám sát việc thực hiện
các chính sách bảo vệ NTD ở nước mình. Các tổ chức phi chính phủ như Hiệp hội
bảo vệ NTD và các cơ quan quản lý của nhà nước như Cục Quản lý cạnh tranh, Cục
quản lý thị trường phải tham gia đôn đốc, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ
sở sản xuất kinh doanh hàng hóa và dịch vụ để họ có ý thức hơn về việc đảm bảo

quyền lợi NTD. Nhờ đó, kịp thời phát hiện, ngăn chặn những hành vi gây tổn hại
đến quyền và lợi ích hợp pháp của NTD. Chính quyền và các đoàn thể có trách
nhiệm tuyên truyền giáo dục kiến thức về tiêu dùng, cung cấp thông tin về chất
lượng hàng hóa, giám sát thị trường, kịp thời can thiệp những hành vi vi phạm
quyền lợi NTD, cũng như chấn chỉnh, kiểm tra về chuyên môn theo từng lĩnh vực
sản xuất để bảo đảm độ an toàn cao cho NTD.
- Ngƣời sản xuất – kinh doanh
Người sản xuất, kinh doanh muốn phát triển vững thay vì chỉ quan tâm đến lợi
ích của riêng mình thì phải hơn nữa đến quyền và lợi ích chính đáng của NTD. Họ
phải có trách nhiệm đối với NTD về sự an toàn khi sử dụng sản phẩm, phải phục vụ
tốt NTD, hướng dẫn NTD trong việc sử dụng sản phẩm, phải lắng nghe tiếng nói
của NTD để nâng cao chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, nhà sản xuất kinh doanh
nên có trách nhiệm cung cấp thông tin kịp thời và chính xác về hàng hóa và dịch vụ,
trách nhiệm bảo đảm tiêu chuẩn đo lường và chất lượng, trách nhiệm bảo hành,
trách nhiệm bảo đảm an toàn cho NTD và trách nhiệm tiếp nhận khiếu nại cũng như
đền bù thỏa đáng cho NTD.
- Bản thân NTD
Bản thân NTD phải có trách nhiệm tự bảo vệ mình, phải có hiểu biết để sử
dụng đồng tiền của mình một cách hợp lý, đồng thời phải quan tâm đến mọi người,


16
môi trường xung quanh, phải cảnh giác, phối hợp với các bên có liên quan trong
việc ngăn chặn và trừng trị những vấn đề tiêu cực trong xã hội.
NTD có khả năng tự bảo vệ chính mình thông qua việc ý thức được quyền lợi
chính đáng và trách nhiệm của mình. Khi quyết định tiêu dùng, để đảm bảo quyền
lợi của mình, việc nghiên cứu, tìm hiểu kỹ về chất lượng, xuất xứ, thông tin chính
xác về sản phẩm là một công việc không thể thiếu. Từ đó NTD có thể bảo vệ chính
mình tránh khỏi các thông tin sai lệch, hiểu lầm và rủi ro, thiệt hại khi tiêu dùng sản
phẩm.

NTD có quyền bày tỏ ý kiến đối với nhà sản xuất kinh doanh, đối với các cơ
quan có thẩm quyền. NTD có quyền được khiếu nại và bồi thường nếu khiếu nại
hợp lý. NTD có quyền chọn lựa không dùng hàng kém chất lượng, tẩy chay hàng
giả, hàng nhái, điều này cũng giúp các nhà sản xuất chân chính được bảo vệ. NTD
góp ý, phản ảnh về chất lượng sản phẩm, nhà sản xuất thấy được khuyết điểm, khắc
phục, sửa chữa, sẽ giúp cho hàng hóa tốt hơn, chính điều này lại tạo lợi thế cho
NTD khi được sử dụng sản phẩm tốt, còn nhà sản xuất có lợi là được tín nhiệm bán
được nhiều hàng hóa, thu lợi nhuận nhiều hơn….
NTD nên phải tự bảo vệ mình, có ý thức chọn lựa hàng tốt, tẩy chay không
mua hàng giả, hàng nhái, và có ý thức trách nhiệm góp phần bảo vệ quyền lợi chung
của cả cộng đồng bằng hành động thiết thực như đóng góp ý kiến về chất lượng
hàng hóa, lên tiếng báo động xã hội đối với những vấn đề làm thiệt hại lợi ích
chung.
Sức mạnh to lớn của NTD là thái độ với các nhà sản xuất kinh doanh và quyền
tẩy chay sản phẩm. Quyền này chỉ được phát huy khi NTD ý thức được sức mạnh
của mình và đoàn kết lại. Khi hội NTD đã phát triển thành một lực lượng đông đảo,
sẵn sàng tham gia tổ chức bảo vệ quyền lợi của chính mình thì vấn đề xâm hại
quyền lợi NTD sẽ có xu hướng giảm.
NTD là một lực lượng đông đảo của xã hội và dư luận xã hội cũng là một
trong “vũ khí” hiệu quả mà họ tạo ra trong việc bảo vệ quyền lợi của chính mình.


17
Do đó, dư luận xã hội có ý nghĩa lớn trong việc khuyến khích các hành động góp
phần bảo vệ NTD, đồng thời lên án, phê phán những hành động xâm phạm quyền
lợi của NTD.
Vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD hiện nay được toàn thể xã hội quan tâm và được
coi là một trong những vấn đề quan trọng nhằm bảo đảm tốc độ tăng trưởng luôn đi
đôi với chất lượng tăng trưởng. Bảo vệ quyền lợi NTD là trách nhiệm chung của
toàn xã hội. Mọi quyền và lợi ích hợp pháp của NTD phải được tôn trọng và bảo vệ.

Mọi hành vi vi phạm quyền và lợi ích chính đáng của NTD phải được xử lý kịp thời
và nghiêm minh, nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Như vậy, bảo vệ quyền lợi NTD là một vấn đề rất đang được chú ý và là trách
nhiệm của mọi người, của toàn xã hội. Hiệu quả của hoạt động bảo vệ này có được
khi có sự tham gia và phối hợp hành động của mọi người, từ người làm công tác
quản lý nhà nước đến các doanh nhân, doanh nghiệp, từ các tổ chức bảo vệ quyền
lợi NTD đến chính bản thân NTD. Việc xây dựng luật bảo vệ NTD hay thành lập
các tổ chức, uỷ ban đại diện bảo vệ NTD đều cần thiết trong việc dẫn dắt NTD tiếp
cận thông tin, tiếp cận pháp luật bảo vệ quyền lợi của mình; hướng dẫn NTD tạo
thói quen thiết lập chứng cứ; quy rõ trách nhiệm cho đơn vị quản lý nhà nước và
liên kết các lực lượng xã hội để cùng giải quyết các vấn đề bảo vệ NTD. Để quyền
và lợi ích chính đáng của NTD được bảo vệ thì cần có một chiếc “kiềng ba chân”
trong đó, Nhà nước cùng các cơ quan chức năng, người sản xuất kinh doanh và
người tiêu dùng đóng vai trò là ba chiếc chân vững chắc.
3.1.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến quyền lợi NTD
- Yếu tố lợi nhuận của các cơ sở tổ chức sản xuất kinh doanh.
Quan hệ kinh tế chủ yếu trong xã hội, bên cạnh quan hệ giữa các nhà sản xuất
với nhau là quan hệ giữa NTD và nhà sản xuất kinh doanh. Là lực lượng hết sức
đông đảo, nhưng vì chưa nhận thức đầy đủ các quyền và trách nhiệm của mình,
không có đầy đủ kiến thức về mọi mặt và thường hành động riêng lẻ nên trong mối
quan hệ đó, NTD thường đứng ở thế yếu và chịu nhiều thiệt thòi. Để tăng lợi nhuận,
một số doanh nghiệp thường lợi dụng những khe hở của pháp luật, công tác quản lý


18
và lòng tin của NTD để thực hiện những hành vi thủ đoạn gian dối làm tổn hại đến
lợi ích của NTD dưới những hình thức rất phong phú như cung cấp hàng hóa kém
phẩm chất, ép giá, gian lận về đo lường hoặc đưa ra những thông tin thiếu trung
thực dễ gây nhầm lẫn… Khi đó, NTD thường mắc phải những sai lầm trong việc
lựa chọn tiêu dùng và có nguy cơ sử dụng hàng hóa, dịch vụ thiếu độ an toàn, đặc

biệt là đối với những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu và hàng hóa, dịch vụ có ảnh hưởng
trực tiếp tới sức khỏe của con người.
- Hệ thống pháp lý chưa đầy đủ và sự quản lý lỏng lẻo của các cơ quan
chức năng có liên quan. Một khi hệ thống pháp lý chưa đầy đủ sẽ tạo những kẽ hở
cho các cơ sở sản xuất kinh doanh không chân chính thực hiện những hoạt động gây
ảnh hưởng lớn đến quyền lợi NTD. Sự quản lý, kiểm tra, giám sát đôn đốc thực hiện
của Nhà nước và các cơ quan chức năng là rất cần thiết trong vấn đề tham gia bảo
vệ NTD. Thiếu sự tham gia này, quyền lợi NTD sẽ rất dễ bị xâm phạm bởi vì sẽ
không có đủ chế tài cũng như quy định để xử phạt các hoạt động gây tổn hại tới
quyền lợi NTD. Theo đó người sản xuất kinh doanh sẽ không ngần ngại lách luật và
có những hành động vi phạm tới quyền lợi NTD nhằm tối đa hóa lợi nhuận.
- Sự thiếu kiến thức tiêu dùng, thiếu sự am hiểu về hàng hóa, dịch vụ cũng
như cách thức tiêu dùng của bản thân NTD. Họ thường không có đủ kiến thức
cũng như về điều kiện kỹ thuật để tự mình biết được hàng hóa dịch vụ có thực sự tốt
như những thông tin được công bố hay không. Nói cách khác, NTD luôn ở vào vị trí
bất lợi về thông tin so với doanh nghiệp.
Chính vì những lý do trên, những nhà sản xuất, cung ứng hàng hóa dịch vụ có
rất nhiều động cơ gây tổn hại đến quyền lợi của NTD. Nếu sự quản lý của nhà nước
không đủ mạnh và không hiệu quả trong việc trấn áp những hoạt động đó thì quyền
lợi của NTD sẽ khó được đảm bảo.
3.2. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền lợi NTD
3.2.1. Đối với chính trị - xã hội
- Trong nền kinh tế thị trường, NTD là đối tượng của người sản xuất và kinh
doanh, là động lực phát triển của sản xuất và kinh doanh nói riêng và của toàn bộ


19
nền kinh tế và xã hội nói chung. Tất cả mọi người đều cần trao đổi, mua bán để có
những hàng hóa, dịch vụ đáp ứng các nhu cầu của mình, tiếp đó là đáp ứng nhu cầu
của gia đinh và tổ chức của mình. Như vậy có thể thấy rằng, NTD là tất cả mọi

người, không phân biệt tuổi tác, thành phần, dân tộc, giới tính, địa vị xã hội. Hơn
nữa NTD có mặt ở khắp mọi nơi, từ thành thị đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa, hải
đảo… Bảo vệ NTD không những chỉ là công việc có tính chất xã hội mà còn có tính
chất kinh tế, chính trị rõ rệt. Một khi NTD, lực lượng xã hội đông đảo nhất, bao
gồm toàn thể mọi người, được tôn trọng, được bảo vệ, được nâng cao cuộc sống vật
chất và tinh thần, họ sẽ trở thành một động lực phát triển xã hội rất to lớn, đóng góp
cho sự nghiệp phát triển xã hội nói chung. Quyền lợi của NTD bị xâm phạm sẽ
khiến cho sự phát triển của xã hội bị kìm hãm. Việc bảo vệ NTD là một công việc
có tính chất xã hội rộng lớn và sâu sắc và được đông đảo mọi người trên toàn thế
giới quan tâm.
- Việc bảo vệ NTD là một nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước và các cơ quan
quản lý Nhà nước, là nhiệm vụ của các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh chân
chính.Thực tế, trong nền kinh tế thị trường, thị trường chủ yếu do tiêu dùng điều
tiết. NTD có ảnh hưởng to lớn đến những quyết sách về kinh tế, dù là của khu vực
nhà nước hay của khu vực tư nhân và NTD cũng là đối tượng chịu ảnh hưởng nhiều
nhất của các quyết định về kinh tế. Chính phủ ở các nước đều rất quan tâm đến vấn
đề NTD và nếu giải quyết tốt vấn đề này sẽ làm cho kinh tế phát triển, xã hội chính
trị ổn định. Ngược lại, sẽ làm cho kinh tế chậm phát triển thậm chí khủng hoảng xã
hội, rối loạn và mất ổn định chính trị. Bảo vệ NTD là một trong những hoạt động
nhằm thực hiện một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đồng thời cũng là duy trì
và bồi dưỡng cho một động lực kinh tế quan trọng. Khi nền kinh tế thị trường càng
phát triển thì vấn đề NTD và bảo vệ NTD càng cần đề ra và thực hiện một cách
nghiêm túc.
3.2.2. Đối với kinh tế
- Bảo vệ NTD giúp củng cố niềm tin cho NTD đối với hàng hóa, dịch vụ, từ
đó khuyến khích tiêu dùng. Niềm tin của NTD là mong muốn của tất cả các nhà sản

×