Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Thực trạng quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.54 KB, 30 trang )

Thực trạng quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt
Nam
Trong những năm gần đây, mỗi năm tổ chức IC ( tổ chức Quốc tế người
tiêu dùng) đều lựa chọn các chủ đề hành động khác nhau, chẳng hạn, chủ đề
của năm 2004 là người tiêu dùng và nước sạch, năm 2005: về thực phẩm
biến đổi gen. Xuất phát từ thực tế, trên thế giới vẫn còn gần 2 tỉ người tiêu
dùng chưa được tiếp cận với nguồn điện và tình trạng sử dụng, khai thác
năng lượng bừa bãi, không đảm bảo tính bền vững; từ sự lo ngại đối với
những tác động tiêu cực đối với cả hành tinh trong tương lai, IC đã đưa ra
chủ đề cho ngày tiêu dùng thế giới năm 2006 là tiếp cận bền vững nguồn
năng lượng cho tất cả mọi người.
Bảo vệ quyền của người tiêu dùng cũng là một nội dung quan tâm của
Liên hợp quốc. Ý tưởng về việc xây dựng một hướng dẫn quốc tế về bảo vệ
người tiêu dùng được bắt đầu từ cuối những năm 1970, khi Hội đồng kinh tế
xã hội nhận thấy: việc bảo vệ người tiêu dùng có mối quan hệ đặc biệt đến
sự phát triển kinh tế, xã hội. Sau nhiều cuộc thảo luận và đàm phán giữa các
chính phủ về phạm vi và nội dung, ngày 9-4-1985, Đại hội đồng đã bỏ phiếu
thông qua nghị quyết 39/248 về các Hướng dẫn bảo vệ người tiêu dùng. Bản
Hướng dẫn này đã đưa ra một khuôn khổ quốc tế chung về thúc đẩy và bảo
vệ người tiêu dùng nhằm hỗ trợ các quốc gia, đặc biệt là quốc gia đang phát
triển trong việc xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ người
tiêu dùng nhằm khuyến khích hoạt động hợp tác quốc tế trên lĩnh vực này.
Cụ thể, bản Hướng dẫn đã đưa ra các nguyên tắc chỉ đạo để bảo vệ người
tiêu dùng trên các lĩnh vực: An toàn về thể chất; Bảo vệ và thúc đẩy lợi ích
kinh tế của người tiêu dùng; Tiêu chuẩn về an toàn và chất lượng hàng hoá
và dịch vụ của người tiêu dùng; Các điều kiện để phân phối hàng hoá và dịch
vụ tiêu dùng thiết yếu; Đánh giá việc hỗ trợ người tiêu dùng được bồi
thường; Chương trình giáo dục và thông tin cho người tiêu dùng; Các biện
pháp liên quan đến từng lĩnh vực cụ thể.
Đến đầu những năm 1990, đứng trước nguy cơ mang tính toàn cầu do sự
gia tăng nhanh chóng về mức độ tiêu dùng, yêu cầu thay đổi nhận thức về


tiêu dùng được cộng đồng quốc tế quan tâm nhiều hơn. Năm 1992, Hội nghị
về môi trường và phát triển của Liên hợp quốc đã đưa ra chương trình hành
động 21 về phát triển bền vững thông qua xoá đói nghèo và xoá bỏ những
mối đe doạ nghiêm trọng đến môi trường. Chương 4 của Chương trình hành
động này đề cập đến sự thay đổi "khuôn mẫu tiêu dùng" nhằm nhấn mạnh
đến sự cần thiết phải thay đổi khuôn mẫu tiêu dùng theo hướng đảm bảo tính
bền vững để giảm thiểu việc lạm dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, sử dụng
các vật liệu độc hại gây ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng đến sự phát triển
của các thế hệ tương lai. Tuy nhiên, tiêu dùng bền vững không có nghĩa là
giảm mức tiêu dùng mà là tạo ra thay đổi trong cách tiêu dùng theo hướng
hiệu quả, cải thiện chất lượng cuộc sống, đồng thời có sự chia sẻ để giảm bớt
khoảng cách giàu nghèo.
Đến năm 1999, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua nghị quyết bổ
sung thêm nội dung về thúc đẩy tiêu dùng mang tính bền vững vào Hướng
dẫn bảo vệ người tiêu dùng năm 1985. Sự mở rộng này đã tạo ra cơ hội quan
trọng để đưa vấn đề bảo vệ môi trường, phát triển bền vững vào chính sách
bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy mối liên hệ giữa lợi ích người tiêu dùng
và hoạt động tiêu dùng, nhờ đó có thể giúp cho các quốc gia xây dựng chính
sách, pháp luật theo hướng đảm bảo tiêu dùng bền vững .
Mặc dù không phải là văn kiện có giá trị pháp lý nhưng tập hợp các
Hướng dẫn của Liên hợp quốc đã đưa ra những mục tiêu chung được ghi
nhận ở cấp độ quốc tế để các chính phủ, đặc biệt là chính phủ các nước đang
phát triển có thể xây dựng và thúc đẩy chính sách, pháp luật cho người tiêu
dùng.
1. Nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Theo điều 18 của pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng số
13/1999/PL-UBTVQH 10 ngày 27/4/1999 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bao gồm:
+) Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về bảo
vệ người tiêu dùng.

+) Xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng, về tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm.
+) Chỉ đạo và phối hợp các hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của
các Bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ, hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân
các cấp.
+) Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
+) Tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật và những hiểu biết liên quan
đến việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
+) Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
+) Kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng, giải quyết khiếu nại, tố cáo của người tiêu dùng, xử ký vi phạm
pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
2. Các văn bản pháp lý về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
+) Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 1999
+) Nghị định số 69/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng
Các văn bản pháp lý có liên quan
+) Bộ luật dân sự
+) Bộ luật Hình sự
+) Luật Thương mại
+) Luật cạnh tranh
+) Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật
+) Luật Bảo vệ môi trường
+) Pháp lệnh Chất lượng sản phẩm
+) Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm…
3. Đánh giá chung về thành tựu và hạn chế trong hoạt động của cơ
quan nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam
3.1 Thành tựu đạt được
* Bổ sung hoàn chỉnh luật pháp bảo vệ người tiêu dùng và quyền lợi người
tiêu dùng

Cũng như nhiều nước trên thế giới, luật pháp Việt Nam là một trong những
công cụ, phương tiện chủ yếu bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Từ sau
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986) đến nay, Nhà nước ta đã
ban hành nhiều văn bản pháp quy liên quan đến việc bảo vệ người tiêu dùng,
đặc biệt “Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” đã được ban hành (số
13/1999/PL-UBTVQH10, ngày 27-4-1999). Ngoài ra, liên quan đến chất
lượng sản phẩm, Nhà nước quản lý bằng “Pháp lệnh chất lượng hàng hoá”
(số 18/1999/PL-UBTVQH10). Các cơ quan quản lý nhà nước và bảo vệ
pháp luật như Bộ Thương mại, Bộ Công an, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ
Tài chính đã phối hợp ra Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT, ngày 27-04-
2000 nhằm chống lại các hoạt động làm, buôn bán, vận chuyển, tiêu thụ
hàng giả, góp phần quan trọng bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng nước ta.
Với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp, môi trường cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trở nên bình đẳng hơn. Từ đó, chất lượng hàng hoá, dịch vụ cung cấp
cho người tiêu dùng được nâng lên, giá thành hạ xuống đáng kể. Chẳng hạn,
trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, do đảm bảo tính cạnh tranh khách quan
hơn giữa các nhà đầu tư, cung cấp dịch vụ mà trong thời gian gần đây, giá
cước điện thoại đã giảm đáng kể, chất lượng dịch vụ được nâng lên rõ rệt.
Trong lĩnh vực bảo hiểm, Nhà nước cũng đã ban hành một số văn bản pháp
quy về một số loại hình bảo hiểm (như bảo hiểm y tế) đối với một bộ phận
người nghèo, trẻ em …Trong lĩnh vực Ngân hàng, Nhà nước cũng có chính
sách thành lập các ngân hàng cho người nghèo vay vốn, đã hình thành hệ
thống các quỹ hỗ trợ người nghèo.
* Xây dựng và vận hành mạng lưới giám sát thực thi pháp luật bảo vệ
người tiêu dùng và quyền lợi người tiêu dùng
Để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Đảng, Nhà nước ta đã xây dựng và
vận hành khá hiệu quả mạng lưới giám sát thực thi pháp luật trực tiếp hoặc
gián tiếp bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
- Xây dựng mạng lưới giám sát hành chính. Các ngành quản lý chức năng
như Y tế, Hải quan, Quản lý thị trường, Giám sát kỹ thuật, Tiêu chuẩn đo

lường chất lượng, Vệ sinh phòng dịch, Bảo vệ môi trường… đã phát huy tác
dụng góp phần hạn chế những tiêu cực trong việc đảm bảo chất lượng hàng
hoá, hạn chế sự ép buộc mua hàng, chống việc độc quyền tăng giá, chống
hàng giả, hàng nhái v.v.. đã góp phần tích cực trong việc bảo vệ quyền lợi
của người tiêu dùng Việt Nam trong thời gian vừa qua. Đặc biệt, các cơ quan
bảo vệ pháp luật của Bộ Công an đã tích cực triển khai các biện pháp giám
sát, kiểm soát, điều tra phá án nhằm chống lại tệ nạn làm và buôn bán hàng
giả, hàng kém chất lượng đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi
của người tiêu dùng nước ta.
- Xây dựng mạng lưới giám sát xã hội. Hiệp hội người tiêu dùng các cấp
từ trung ương xuống địa phương đã được thành lập. Ở cấp trung ương, tháng
5-1988, đã thành lập Hội khoa học kỹ thuật về tiêu chuẩn hoá, đo lường, chất
lượng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam, gọi tắt là Hội tiêu
chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (VINASTAS), là thành viên của
Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đồng thời là
thành viên của Tổ chức quốc tế người tiêu dùng (CI). Ở các cấp địa phương,
đến nay trên cả nước đã có 14 tỉnh và thành phố có tổ chức người tiêu dùng.
Đây là các tổ chức phi chính phủ, mang tính xã hội hoá cao. Các tổ chức này
đã tích cực đẩy mạnh các hoạt động tiêu chuẩn hoá, đo lường chất lượng và
bảo vệ người tiêu dùng trong cả nước. Bồi dưỡng nâng cao trình độ về tiêu
dùng cho hội viên nhằm tạo ra những hàng hoá dịch vụ ngày càng có chất
lượng tốt hơn. Tích cực thông tin tuyên truyền, giáo dục cho người tiêu dùng
về những quyền của họ, tổ chức giúp đỡ họ tự bảo vệ quyền lợi của mình.
Tham gia kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước các chủ trương chính
sách và các biện pháp nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ.
Trong thời gian, qua các cơ quan báo chí, truyền thông cũng tích cực vào
cuộc, đấu tranh không khoan nhượng với những hiện tượng, việc làm tiêu
cực gây ảnh hưởng xấu đến quyền lợi của người tiêu dùng. Đây chính là sự
giám sát dư luận mà các cơ quan thông tấn báo chí và truyền thông đã tạo ra.
Mặc dù sự giám sát dư luận không mang tính luật pháp nhưng nó tạo ra sức

ép dư luận xã hội rất lớn lên các biểu hiện, việc làm gây tổn hại cho người
tiêu dùng.
* Nâng cao khả năng tự bảo vệ của người tiêu dùng
Trong thời gian qua, các cơ quan nhà nước về bảo vệ lợi ích người tiêu dùng
kết hợp với các cơ quan phi chính phủ về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
báo chí tuyên truyền, đài phát thanh, truyền hình, các tổ chức hội chợ quảng
cáo và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ban ngành khác của Nhà nước đã
tích cực tiến hành các hoạt động thông tin, hướng dẫn, tuyên truyền, giáo
dục, nhằm đem lại cho người tiêu dùng các kiến thức, nhận thức về quyền lợi
của mình, về quyền được bảo vệ trong xã hội, từ đó tạo ra ý thức thường trực
tự bảo vệ. Các hoạt động này được tiến hành dưới nhiều hình thức khác
nhau: xuất bản các ấn phẩm như tờ bướm, bản tin, tạp chí nhằm phổ biến
kiến thức, trao đổi thông tin về chất lượng sản phẩm, về quyền được bảo vệ
của người tiêu dùng trước vấn nạn hàng giả, hàng nhái, trước các dịch vụ
chất lượng thấp... Qua các hoạt động đó, cập nhật thông tin cần thiết cho
người tiêu dùng.Các cơ quan quản lý nhà nước và hội bảo vệ người tiêu
dùng Việt Nam đã chủ dộng, thường xuyên tổ chức các hội thảo, các cuộc
toạ đàm, hội nghị bàn tròn, các buổi gặp gỡ trao đổi ý kiến về những vấn đề
cần quan tâm xung quanh quyền của người tiêu dùng và bảo vệ quyền lợi
của người tiêu dùng.
3.2 Một số tồn tại, bất cập
* Luật không đồng bộ, kém hiệu lực
Chế định về quản lý nhà nước luôn là chế định rất quan trọng ở trong bất kỳ
lĩnh vực nào, đóng vai trò quyết định trong việc thực thi các quy định của
pháp luật trên thực tế. Pháp lệnh bảo vệ quyền và lợi ích người tiêu dùng
cũng như Nghị định số 69 đã dành hẳn một chương để quy định các vấn đề
về quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng. Tuy nhiên, cho đến nay các
quy định này đã thể hiện những bất cập làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động bảo vệ người tiêu dùng:
Thứ nhất, thiếu công cụ pháp luật để cơ quan nhà nước về bảo vệ người

tiêu dùng có thể thực thi vai trò của mình. Trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ của mình, cơ quan nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng không thể thực
hiện những biện pháp xử lý nhằm đảm bảo các quy định của pháp luật được
thực hiện nghiêm túc, ví dụ khi có vụ việc ảnh hưởng đến người tiêu dùng,
cơ quan nhà nước có thẩm quyền không thể độc lập thực hiện việc xử lý các
vụ việc này mà phải nhờ tới sự giúp đỡ của cơ quan có liên quan khác và
việc các cơ quan này có thực hiện việc phối hợp hay không cũng không có
quy định cụ thể.
Thứ hai, còn mang nặng tính hình thức: Các quy định về nội dung quản lý
nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng thể hiện tính chung chung, khó thực
hiện. Ví dụ, Khoản 7- Điều 18 Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
cũng như Khoản 4- Điều 9 Nghị định số 69/2001/NĐ-CP quy định: “Hướng
dẫn, kiểm tra, thanh tra tổ chức và các cá nhân trong việc thi hành pháp luật
về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; giải quyết các khiếu nại, tố cáo; xử lý
các vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong phạm vi
thẩm quyền”. Đây thực sự là một quy định hết sức quan trọng để cơ quan
quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng có thể thực hiện tốt vai trò,
nhiệm vụ của mình trên thực tế. Tuy nhiên, việc thanh tra, kiểm tra thế nào?
Nội dung thanh tra? Đối tượng thanh tra, kiểm tra? Trình tự, thủ tục thanh
tra, kiểm tra thế nảo? Xử lý vi phạm ra sao? Tất cả những vấn đề đó vẫn
chưa được giải quyết trong các văn bản pháp luật hiện hành.
Ngoài ra, các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước về bảo vệ người
tiêu dùng cho đến nay đã thể hiện sự lạc hậu, không cập nhật các yêu cầu của
cuộc sống, đặc biệt trong thời hội nhập, “hậu WTO” và thương mại điện tử.
Do các cơ quan nghiên cứu pháp luật, các cơ quan lập pháp của chúng ta
không theo kịp sự phát triển nhanh chóng của thị trường, của cuộc sống xã
hội nên đã không kịp thời trong việc ban hành một hệ thống luật pháp đồng
bộ, có khả năng điều chỉnh các vấn đề kinh tế - xã hội, bảo vệ được quyền
lợi chính đáng của người tiêu dùng. Mặc dù cho đến nay đã có khá nhiều văn
bản pháp lý chứa đựng một số nội dung liên quan đến bảo vệ quyền lợi của

người tiêu dùng, nhưng còn rời rạc (đôi khi chồng chéo, phủ định nhau),
chưa có sự gắn kết thành một hệ thống đồng bộ điều chỉnh các yếu tố về
người tiêu dùng và quyền lợi người tiêu dùng. Cũng chính sự rời rạc, thiếu
tính hệ thống đó đã tạo ra nhiều kẽ hở nghiêm trọng để một số cá nhân, tổ
chức kinh tế vẫn “lách” được, tránh được luật pháp khi vi phạm quyền của
người tiêu dùng. Đây cũng là nguyên nhân gây khó khăn cho các cơ quan
thực thi pháp luật , dẫn tới vừa làm giảm uy quyền của luật pháp vừa làm
giảm hiệu lực của các cơ quan thực thi pháp luật.
* Hoạt động của các cơ quan giám sát, thực thi pháp luật bảo vệ người
tiêu dùng còn nhiều hạn chế
Mạng lưới giám sát hành chính chưa mạnh, hoạt động quan liêu, bị chi phối
bởi nhiều cơ quan công quyền khác.
- Đấu tranh chống hàng giả nhìn chung chưa hiệu quả, mang nặng tính
phong trào, hình thức.
Tại Việt Nam, trong năm qua Cục Quản lý Thị trường đã công bố hàng ngàn
mẫu hàng giả, hàng nhái được xác minh, tịch thu. Chỉ tính đến tháng 6-2007,
lực lượng Cảnh sát Điều tra tội phạm kinh tế cũng đã lập 3.700 hồ sơ cá
nhân đối tượng sản xuất buôn bán hàng giả.
Trong 5 năm (2002 - 2007), lượng hàng hóa giả đã bị bắt giữ bao gồm:
25.450 chai rượu các loại, 8 tấn bột ngọt, 85.000 tấn xi măng, 25 tấn mỹ
phẩm các loại, 35 triệu cơ số thuốc tân dược, 50.000 chai bia, nước ngọt, đồ
uống, 19 tấn bánh kẹo v.v…
Hầu hết, hàng giả xuất hiện ở tất cả mọi lĩnh vực, từ những sản phẩm hàng
hóa có giá trị rất thấp như hộp diêm, cây con giống, nén nhang, gói bột màu
đến những hàng hóa mang trị giá cao như hàng may mặc, đồ gia dụng, sắt,
thép, thuốc bảo vệ thực vật, phụ tùng xe máy, điện tử, điện lạnh.
Bảng 1: Hàng giả, hàng kém chất lượng về VSATTP do lực lượng Quản lý
thị trường thu giữ từ năm 2004 đến năm 2006
Số
TT

Mặt hàng 2004 2005 2006 Tịch thu hàng
1 Rượu (chai) 9.878 26.240 13.216 Giả, kém chất lượng
2 Bia (chai, lon) 9.001 7.454 13.394 Giả, kém chất lượng
3 Nước giải khát các loại (chai,
lon)
90.896 31.210 27.366 Quá hạn sử dụng
4 Nước khoáng (chai)
35.331 2.691 15.247
Giả nhãn hiệu, quá hạn sử
dụng
5 Nước mắm, nước chấm (lít)
16 26 10.939
Giả nhãn hiệu, kém chất
lượng
6 Mì chính (kg) 2.291,2 6.676 3.361 Giả nhãn hiệu
7 Bánh kẹo các loại (kg)
8.493 16.778 2.762
Kém chất lượng, quá hạn sử
dụng
8 Thuốc lá (bao) 3.126 3.786 575 Giả nhãn hiệu
9 Sữa hộp (kg) 4.835 48.310 7.960 Giả,quá hạn sử dụng
10 Thịt cá hộp (hộp) 5.366 7.551 536 Giả,quá hạn sử dụng
11 Mì ăn liền (gói) 730 1.850 898 Quá hạn sử dụng
12 Tôm (kg)
19.371 9.779 518
Tiêm chích tạp chất, kém
chất lượng
Nguồn: Tài liệu hội nghị tổng kết VSATTP
Thời gian qua, Nhà nước, các cơ quan có trách nhiệm đã ban hành nhiều
quy định để ngăn ngừa tình trạng sản xuất, buôn bán hàng giả. Tuy nhiên,

trên thực tế hiện nay, các chế tài xử lý với hành vi làm hàng giả, buôn bán
hàng giả... còn nhiều vấn đề cần quan tâm, hoàn chỉnh, trong đó chủ yếu là
hình thức, mức độ xử phạt vẫn chưa đủ mạnh, tính ngăn đe, giáo dục hạn
chế. Chúng ta mới chủ yếu áp dụng việc xử phạt hành chính, phạt tiền ở mức
thấp mà chưa chú trọng xử lý hình sự kết hợp với kinh tế thỏa đáng. Trên
thực tế có rất nhiều vụ sản xuất, buôn bán hàng giả xảy ra rất nghiêm trọng
nhưng tỷ lệ xử lý hình sự của các cơ quan pháp luật còn ít. Theo thông tin từ
cơ quan công an thì trong số hàng nghìn vụ sản xuất, buôn bán hàng giả xảy
ra trên địa bàn cả nước từ năm 2002 đến giữa năm 2007 thì chỉ có hơn 160
vụ được đưa ra xử lý hình sự. Chính sự thiếu kiên quyết đó là một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại và gia tăng của tệ sản xuất, buôn bán
hàng giả, với nhiều vụ đối tượng tái phạm nguy hiểm.
- Mạng lưới giám sát xã hội chưa có thực quyền, chưa thực sự phát huy
hiệu quả hoạt động, ở nhiều địa phương việc thành lập các hiệp hội người
tiêu dùng còn mang tính hình thức.
- Các hình thức xử phạt còn nhẹ, chưa thích đáng. Ví dụ về việc xử lý các
vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm trong năm 2007

×