Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Luật Thương Mại 2005 và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.22 KB, 15 trang )

Luật Thương Mại 2005 và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các hoạt động khuyến mại,
quảng cáo thương mại
Phần I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI VÀ
QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI
I. Một số khái niệm chung:
1. Hoạt động khuyến mại:
* Khái niệm:
“Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm
xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách
hàng những lợi ích nhất định” (Đ88.1 LTM)
1
.
* Đặc điểm của khuyến mại:
- Chủ thể thực hiện hành vi khuyến mại là thương nhân
- Cách thức thực hiện xúc tiến thương mại: dành cho khách hàng những lợi ích
nhất định.
- Mục đích của hoạt động này: xúc tiến việc bán hàng và cung ứng dịch vụ. Đây
chính là điểm để phân biệt hình thức này với các hình thức xúc tiến thương mại
khác.
* Các hình thức khuyến mại:
- Hàng mẫu
- Quà tặng
- Giảm giá
- Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ,
phiếu dự thi.
- Tổ chức các sự kiện để thu hút khách hàng.
2. Hoạt động quảng cáo thương mại:
Trong đời sống hàng ngày chúng ta được tiếp xúc rất nhiều với các hoạt
động “quảng cáo”, được hiểu đơn giản là thông báo cho nhau biết về một thông
tin nào đó. Theo Điều 4 Pháp lệnh quảng cáo năm 2001 thì Quảng cáo


(advertising) chính là “giới thiệu đến người tiêu dùng về hoạt động kinh doanh
1
Từ nay cách trình bày văn bản luật này được đọc là: Khoản 1 điều 88 Luật Thương Mại 2005
1
Luật Thương Mại 2005 và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các hoạt động khuyến mại,
quảng cáo thương mại
hàng hóa, dịch vụ bao gồm có mục đích sinh lời và không có mục đích sinh
lời”.
Quảng cáo thương mại (commerce advertisement) chính là một bộ phận của
quảng cáo nói chung, được Luật Thương Mại 2005 định nghĩa như sau: “là hoạt
động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng hoạt
động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của mình” (Đ102 LTM).
Đặc điểm của quảng cáo thương mại:
- Chủ thể: Thương nhân, thực hiện QCTM để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh
của mình hay thực hiện dịch vụ QCTM cho thương nhân khác theo hợp đồng
QC để kiếm lợi nhuận. Từ đặc điểm này chúng ta có thể phân biệt với những
hoạt động thông thường như cổ động, thông tin của các cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế - chính trị và xã hội để tuyên truyền đường lối, chính sách…Bên
cạnh đó, chủ thể thực hiện các hoạt động trên không nhất thiết phải là thương
nhân như chủ thể của hợp đồng thương mại thực hiện QCTM.
- Tổ chức thực hiện: Thương nhân có thể tự mình thực hiện các công việc cần
thiết để thực hiện QC hay thuê dịch vụ QC của thương nhân khác thông qua hợp
đồng dịch vụ.
- Cách xúc tiến thương mại: Trong hoạt động QCTM, thương nhân sử dụng
các sản phẩm và phương tiện QCTM để thông tin về hàng hóa dịch vụ đến
khách hàng, bao gồm: hình ảnh, hành động, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu
sắc, ánh sáng…để biểu thị nội dung QC. Đặc điểm này cho phép phân biệt
QCTM với các hình thức khác như: trưng bày, giới thiệu hàng hóa, hội chợ triển
lãm…
- Mục đích: giới thiệu hàng hóa, dịch vụ để xúc tiến thương mại (XTTM), đáp

ứng nhu cầu cạnh tranh và lợi nhuận của thương nhân, từ đó tạo ra sự hiểu biết
cho khách hàng về hàng hóa, dịch vụ của mình, lôi kéo khách hàng, công ty và
dịch vụ khác về phía mình.

2
Luật Thương Mại 2005 và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các hoạt động khuyến mại,
quảng cáo thương mại
II. Lý do đặt ra vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các hoạt
động khuyến mại, quảng cáo thương mại:
1. Các hoạt động XTTM ngày càng phát triển với nhiều hình thức khác nhau, với
những quy mô khác nhau kéo theo nhiều hệ quả nhất định. Với mỗi một thương nhân,
yếu tố lợi nhuận luôn được đặt lên hàng đầu nên trong nhiều trường hợp, các thương
nhân đã vì lợi ích trước mắt mà kinh doanh những hàng hóa, dịch vụ kém chất lượng,
quảng cáo sai sự thật, khuyến mại hàng giả, kém chuẩn,..làm ảnh hưởng đến quyền lợi
của người tiêu dùng (NTD). Thị trường kinh doanh càng sôi động thì các doanh nghiệp
càng cố gắng tạo ra nhiều hình thức thúc đẩy kinh doanh hơn và cũng tận dụng triệt để
ưu thế của KM và QCTM. Bất cứ một hoạt động kinh doanh nào cũng cần đặt ra vấn
đề bảo vệ quyền lợi NTD. Bản thân các hoạt động KM và QCTM là những hoạt động
mang tính chất mở, dễ bị lạm dụng để thực hiện các hành vi bất chính. Cũng xuất phát
từ hình thức tổ chức của các hoạt động này khá đa dạng, khó kiểm soát và thẩm định
chất lượng nên số lượng các vụ việc vi phạm xảy ra khá nhiều trong thực tế. Quá trình
các TN thực hiện các hoạt động đó đã tiềm ẩn những rủi ro cho lợi ích khách hàng, tiềm
ẩn nguy cơ xuất hiện những nạn nhân của các hoạt động trên. Lý do này xuất phát chủ
yếu từ cơ chế vận hành nền thị trường tự do hoạt động trong kinh doanh của nước ta.
Những quy định về KM và QCTM không những bảo vệ quyền lợi NTD mà còn góp
phần làm trong sạch môi trường kinh doanh.
2. Xuất phát từ tính tất yếu được bảo vệ quyền lợi của NTD bởi: NTD là nhân tố
chủ yếu tạo ra thị trường của TN và quyền lợi của họ luôn cần được bảo vệ. Trong kinh
doanh, TN với những ưu thế về vốn, chuyên môn,…họ có thể có nhiều cách thức khác
nhau để bảo vệ quyền lợi cho mình còn NTD thì khả năng tự bảo vệ mình hạn chế hơn

nhiều.
3. Xuất phát từ ý thức tuân thủ Pháp luật không cao của TN và người tiêu dùng.
Trong khi thương nhân luôn muốn tối đa hóa lợi nhuận và thực hiện các hành động
ngoài tầm pháp luật thì NTD lại mặc nhiên chấp nhận các hành vi đó của thương nhân
nếu chúng chưa gây thiệt hại và ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân mình. Với vai trò của
mình, Nhà nước cần thực hiện triệt để hơn nữa hoạt động xây dựng luật, quản lý và
tuyên truyền pháp luật của mình để bảo vệ quyền lợi NTD cũng chính là bảo vệ quyền
lợi của NN, của các tổ chức xã hội khác.
3
Luật Thương Mại 2005 và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các hoạt động khuyến mại,
quảng cáo thương mại
Phần II
BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG THỂ HIỆN QUA CÁC QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ KM VÀ QCTM
Phần này có 2 nội dung:
 Bảo vệ quyền lợi NTD thể hiện qua các quy định PL về KM và QCTM dưới góc
độ Luật Thương Mại (bao gồm LTM 2005 và các văn bản khác có liên quan
như: Pháp lệnh quảng cáo 2001, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD,..). Phần này
sẽ có thêm sự đề cập và so sánh với vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
dưới góc độ Luật cạnh tranh 2004.
 Hoàn thiện một số quy định Pháp Luật về KM và QCTM hiện nay để nâng cao
việc bảo vệ quyền lợi NTD.
I. Bảo vệ quyền lợi NTD dùng thông qua các quy định về KM và
QCTM dưới góc độ Luật Thương Mại:
1. Thông qua các quy định về Khuyến Mại:
Đặc trưng của hoạt động khuyến mại thương mại là thương nhân dành
cho khách hàng những lợi ích nhất định để tác động tới thái độ và hành vi mua
bán của khách hàng để lôi kéo họ mua hàng hoá của mình hoặc sử dụng dịch vụ
của mình hoặc bán hàng hoá cho mình. Các hình thức khuyến mại được quy
định tại Đ92 LTM và từ điều 7 đến điều 13 - Nghị định số 37/2006/NĐ - CP ngày

04/04/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.
Ngoài ra, pháp luật không cấm thương nhân sử dụng các hình thức khác để
khuyến mại nhưng khi thực hiện phải được cơ quan quản lý nhà nước về thương
mại chấp thuận. Với mỗi hình thức khuyến mại, pháp luật lại có những quy định
riêng.
Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, LTM 2005 và Nghị định số
37/2006/NĐ - CP đã quy định về hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại; về hàng
hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại; quyền và nghĩa vụ pháp lý của thương nhân
thực hiện khuyến mại; các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại; về
nguyên tắc thực hiện khuyến mại. Tuy nhiên, những quy định này chưa thực sự
đầy đủ để đảm bảo lợi ích của khách hàng. Trong thực tế, khách hàng luôn là
4
Luật Thương Mại 2005 và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các hoạt động khuyến mại,
quảng cáo thương mại
người phải chịu thiệt thòi do những hành vi gian lận trong khuyến mại hoặc do
các sai sót kỹ thuật trong in ấn tem, phiếu, vật phẩm có chứa đựng thông tin về
lợi ích vật chất mà khách hàng được hưởng trong đợt khuyến mại. Ví dụ: Một
khách hàng của công ty sữa Hanoimilk đã mua sản phẩm sữa IZZI trong đợt khuyến mại từ 15-
04 đến 15-08-2005 với một thẻ cào có thông tin trúng thưởng 30.000.000 đồng (sau khi cào
phần nhũ bạc). Khi liên hệ với Công ty để nhận giải thưởng, khách hàng nhận được trả lời:
"phiếu cào đó không hợp lệ ". Sau khi sự việc xảy ra, Công ty TNHH Sáng tạo (đơn vị thực
hiện in ấn toàn bộ thẻ cào của đợt khuyến mại theo hợp đồng đã ký với Hanoimilk) đã thừa
nhận lỗi sai sót kĩ thuật. Nhưng lợi ích mà khách hàng nhận được chỉ là lời xin lỗi của
Hanoimilk, bởi vì không tìm thấy quy định cụ thể trong pháp luật hiện hành làm cơ sở pháp lý
bảo vệ quyền lợi của họ trong trường hợp này
2
. Hay trong các chương trình khuyến mại
mang tính may rủi, thì việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng là việc rất khó
bởi lẽ: LTM 2005 chỉ quy định thương nhân có nghĩa vụ "thực hiện đúng chương
trình khuyến mại đã thông báo và cam kết với khách hàng" (Đ6.3 LTM). Chỉ với quy định

này thì việc kiểm soát tính trung thực của thương nhân khi thực hiện khuyến mại
bằng hình thức này là vô cùng khó khăn. Ví dụ như trong chương trình khuyến mại "bật
nắp chai trúng thưởng" với cơ cấu 200.000 giải thưởng trong đó có 06 xe ô tô BMW của một
công ty bia, không ai có thể chắc chắn rằng có đủ 200.000 giải thưởng với 06 nắp chai in hình
xe BMW trong số sản phẩm được bán trong đợt khuyến mại?
3
. Như vậy, quyền lợi của
người tiêu dùng là không thể đảm bảo trong khi hàng hoá vẫn được tiêu thụ
trong thời gian khuyến mại.
Về trình tự, thủ tục thực hiện khuyến mại, LTM 2005 và Nghị định số
37/2006/NĐ - CP đã có những quy định hợp lý. Tuy nhiên, theo khoản 3 điều 16
và khoản 3 điều 17 của Nghị định số 37/2006/NĐ - CP thì cơ quan quản lí nhà
nước có thẩm quyền khi nhận hồ sơ đăng kí thực hiện chương trình khuyến mại
phải xem xét, xác nhận bằng văn bản về việc đăng kí thực hiện chương trình
khuyến mại, trường hợp không xác nhận phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ
lí do. Nhưng luật lại không quy định các điều kiện để thương nhân có được sự
xác nhận của cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền và trong trường hợp bị từ
2
Xem Pháp luật về xúc tiến thương mại ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, TS. Nguyễn Thị Dung,
NXB. Chính trị Quốc Gia, 2007, trang 113.
3
Xem Pháp luật về xúc tiến thương mại ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, SĐD, trang 115.
5
Luật Thương Mại 2005 và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các hoạt động khuyến mại,
quảng cáo thương mại
chối xác nhận thì luật cũng không quy định những quyền của thương nhân trong
trường hợp này. Quy định như trên đã biến thủ tục "đăng kí" thành thủ tục "xin
phép". Như vậy sẽ hạn chế quyền tự do hoạt động khuyến mại của thương nhân,
qua đó gián tiếp ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng.
Theo Điều 17 Nghị định 175/2004/NĐ - CP ngày 10/10/2004 của Chính

phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại thì mức phạt cao
nhất đối với hành vi vi phạm quy định về khuyến mại là 70.000.000 VNĐ. Mức
phạt như vậy dường như còn thấp nên sẽ không đủ sức răn đe. Do đó, mà tình
trạng vi phạm quy định về khuyến mại còn rất phổ biến. Ví dụ: Bà Lê Thị Ngọc, ngụ
ở Q.8 mua một chiếc chảo không dính ở một siêu thị điện máy tại quận 1 với mức giảm giá
20%. Sau đó, so sánh với giá không giảm tại siêu thị Co-opmart, bà nhận ra mức giá ban đầu
của siêu thị điện máy cao hơn khỏang gần 10%. Như vậy xét về tổng giá trị, bà đã mua được
hàng rẻ hơn siêu thị, nhưng không đúng với cam kết “giảm giá 20%”, bởi lẽ cơ sở của việc
giảm giá - tức giá thị trường, đã bị nâng lên cao hơn rất nhiều. Hay như trong cuốn cẩm nang
mua sắm phát hành trong tháng khuyến mãi tại TP.HCM năm 2007 này, rất nhiều đơn vị chỉ
nêu chung chung: giảm giá 20 - 50% “một số mặt hàng”, hoặc hàng bán giá đặc biệt giảm từ
50% trở lên với “số lượng có hạn”… Tình trạng khách đến, nơi bán trả lời “hết hàng” vẫn
tiếp tục xảy ra. Với hình thức đăng ký khuyến mãi suốt tháng 9.2007, mà không đủ hàng bán
cho khách, là nhà kinh doanh đã thông tin sai sự thật
4
.
Nhằm đảm bảo quyền lợi của thương nhân khác, PL cấm khuyến mại
nhằm cạnh tranh không lành mạnh, thực hiện KM mà giá trị hàng hóa, dịch vụ
dùng để khuyến mại vượt quá hạn mức tối đa theo quy định của PL. Mức phạt
hiện hành đối với những vi phạm này từ 3 – 5 triệu VNĐ.
2. Thông qua các quy định về Quảng cáo Thương mại:
Quảng cáo là hoạt động có tính thông tin một chiều từ phía người ra
quảng cáo nhằm mục tiêu đã định là thái độ ứng xử cuối cùng của khách hàng.
Vì những lí do của việc bảo vệ NTD trong hoạt động QCTM như đã phân tích ở
phần I của bài viết này, ta có thể rõ thấy nếu pháp luật không quy định một cách
cụ thể và có cách thức kiểm soát thoả đáng thì việc sử dụng quảng cáo của
4
Theo tintuconline.vietnamnet.vn/vn/kinhte/165075
6

×