Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Vận dụng phép biện chứng duy vật vào thực tiễn quản lý tại viễn thông đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.98 KB, 32 trang )

GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
1









Tiểu luận


Vận dụng phép biện chứng duy vật vào
thực tiễn quản lý tại Viễn thông Đồng Nai



GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
2

LỜI CẢM Ơ N
Để hoàn thành được đề tài này, Lời đầu
tiên Nhóm 3 xin chân thành gửi lời cảm ơn
sâu sắc đến cô Tiến sỹ : Lê Thị Kim Chi đã có
công dạy dỗ tận tâm, tận lực và đầy tâm huyết
cho môn triết học. Đặc biệt là sự hướng dẫn
tận tình trong đề tài : “Vận dụng phép biện


chứng duy vật vào thực tiễn quản lý tại Viễn
thông Đồng Nai” giúp nhóm chúng em hoàn
thành tốt đề tài này.
Nhóm cũng rất cảm ơn sự đóng góp tích
cực và đầy tâm huyết của tất cả các thành
viên, bạn bè, đồng nghiệp, đặc biệt là sự cố
gắng nỗ lực của nhóm trưởng trong việc kết
nối mọi người tham gia xây dựng và hoàn
thành đề tài.
Xin cảm ơn Ban lãnh đạo Công ty Viễn
Thông Đồng Nai, lãnh đạo các phòng ban
nghiệp vụ đã tạo điều kiện thuận lợi nhất, dễ
dàng nhất để nhóm tìm hiểu, nghiên cứu và
hoàn thành đề tài.
Cuối cùng xin chân thành cảm ơn trường
Đại Học Lạc Hồng đã đồng hành cùng nhóm
chúng tôi trong quá trình trau dồi kiến thức,
nhân phẩm để trở thành người có ích cho gia
đình và xã hội.
TẬP THỂ SINH VIÊN NHÓM 3




NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
3























Giáo viên hướng dẫn




TS Lê Thị Kim Chi


LỜI MỞ ĐẦU


Trong bối cảnh kinh tế xã hội của thế giới hiện đại ngày nay, công tác quản trị
trên hầu hết các lĩnh vực không thể không vận dụng các nguyên tắc, phương pháp quản
GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
4

lý khoa học, mà còn đòi hỏi cần phải có phương pháp tư duy đúng đắn để lựa chọn mô
hình, thể chế phù hợp với quy mô tính chất của chủ thể hoạt động để đưa đến thành
công.
Quản lý doanh nghiệp là một quá trình hoạt động, liên kết giữa các bộ phận
trong doanh nghiệp với mối quan hệ chủ quan và khách quan. Do đó việc nghiên cứu và
vận dụng của tư duy khoa học và phù hợp với nghệ thuật quản trị sẽ mang lại giá trị
cốt lõi cho doanh nghiệp và có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp.
Theo V.I Lenin nhận định, Phép biện chứng duy vật của Mac-Angghen là học
thuyết về phát triển dưới hình thức đấy đủ, sâu sắc và toàn diện nhất, về tính tương đối
của tri thức con người. Đó là linh hồn của sống của chủ nghĩa Mác. Vì vậy việc vận
dụng phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa M ac -Lenin vào thực tiễn quản lý doanh
nghiệp mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Việc vận dụng phép biện chứng duy vật vào thực tiễn để chỉ đạo sản xuất, điều
hành doanh nghiệp…thể hiện rất nhiều khía cạnh khác nhau của khoa học triết học,
khoa học quản lý kinh tế, quản lý con người, văn hoá, đạo đức…tạo ra sức mạnh tổng
hợp, trong đó mỗi khía cạnh là một chuyên đề khoa học khá lý thú. Trong phạm vi đề
tài, nhóm 3 xin được phép phân tích “vai trò và ý nghĩa của phép biện chứng duy vật
vào thực tiễn quản lý doanh nghiệp Viễn Thông Đồng Nai” để chứng minh cho nhận
định trên.










NỘI DUNG ĐỀ TÀI

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÉP BIỆN CHỨNG
GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
5

DUY VẬT

1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN C ỦA PHÉP BIỆN
CHỨNG DUY VẬT
Phép biện chứng duy vật là một bộ phận lý luận cơ bản hợp thành thế giới quan và
phương pháp luận triết học của chủ nghĩa M ác – Lênin; là “khoa học về mối liên hệ p hổ biến”
và cũng là “khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự
nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”. “Theo quan niệm của Mác, cũng như của Hêghen
thì phép biện chứn g bao gồm cái mà ngày nay người ta gọi là lý luận nhận thức hay nhận thức
luận”.
1.1. Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng
1.1.1. Khái niệm biện chứng, phép biện chứng:
Trong chủ nghĩa Mác – Lênin, khái niệm biện chứng dùn g để chỉ những mối liên hệ,
tương tác, chuy ển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá
trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Biện chứng bao gồm biện chứng kh ách quan và biện chứng chủ quan. Biện chứn g
khách quan là biện chứng của thế giới vật chất, còn biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện

chứng khách quan vào trong đời sống ý thức của con người.
Theo Ph.Ănghen: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự
nhiên, còn biện ch ứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ phản ánh sự chi phối
trong toàn bộ giới tự nhiên…”.
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giowisthanhf
hệ thống các nguy ên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương
pháp luận của nhận thức v à thực tiễn. Với nghĩa như vậy, p hép biện chứng thuộc về biện chứn g
chủ quan, đồng thời nó cũng đối lập với phép siêu hình – phương pháp tư duy về sự vật, hiện
tượng của thế giới trong trạng thái cô lập và bất biến.
1.1.2. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng:
Phép biện chứng đã phát triển qua ba hình thức, ba trình độ cơ bản: phép biện chứng
chất p hác thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và phép biện chứng duy vật của
chủ nghĩa Mác – Lênin.
 Phép biện chứng chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng. Nó
là một nội dung cơ b ản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ
đại. Tiêu biểu cho những tư tưởng biện ch ứng của triết học Trung Quốc là “biến dịch luận”
(học thuyết về những nguyên lý, quy luật biến đổi phổ biến trong vũ trụ) của Âm dương gia.
Trong triết học Ấn Độ, biểu hiện rõ nét nhất của tư tưởng biện chứng là triết học của đạo phật,
với các phạm trù “vô ngã”, “vô thường”, “nhân duyên”… Đặc biệt, triết học Hy Lạp cổ đại đã
thể hiện một cách sâu sắc tinh thần của phép biện chứng tự phát. Ph.Ăngghen viết viết:
GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
6

“Những nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng tự phát, bẩm sinh, và
Arixtốt, bộ óc bách khoa nhất trong các nhà triết học ấy, cũng đã nghiên cứu những hình thức
căn bản nhất của tư duy biện chứng… Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưn g xét về thực
chất thì đúng đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được
Hêraclít trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời khôn g tồn tại, v ì mọi v ật
đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu

vong”.
Tuy nhiên, những tư tưởng biện chứn g đó về căn bản vẫn còn mang tính chất ngây thơ,
chất p hác. Ph.Ăngghen nhận xét: “trong triết học này, tư duy biện chứng xuất hiện với tính
chất thuần phác tự nhiên chưa bị khuấy đục bởi những trở ngại đáng yêu… Chính vì n gười Hy
Lạp chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích giới tự nhiên, cho nên họ hãy còn quan niệm giới tự
nhiên là một chỉnh thể và đứng về mặt toàn bộ mà xét chỉnh thể ấy. M ối liên hệ phổ biến giữa
các hiện tượng tự nhiên chưa được chứng minh về chi tiết; đối với họ, mối liên hệ đó là kết quả
của sự quan sát trực tiếp”. Phép biện chứng chất phác cổ đại nhận thức đúng về tính biện
chứng của thế giới nhưng bằng trực kiến thiên tài, bằng trực quan chất phác, ngây thơ, còn
thiếu sự chứng minh bởi nhữn g thành tựu phát triển của khoa học tự nhiên.
Từ nữa cuố i thế kỷ XV, khoa họ c tự nhiên bắt đầu p hát triển mạnh, đi sâu vào phân
tích, nghiên cứu từng yếu tố riêng biệt của thế giới tự nhiên, dẫn tới sự ra đời của phương pháp
siêu hình. Đến thế kỷ XVIII, phương pháp siêu hình trở thành phương pháp thống trị trong tu
duy triết học và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, khi khoa học tự nhiên chuyển từ việc nghiên
cứu đối tượng riêng biệt sang nghiên cứu quá trình thống nhất của các đối tượng đó trong mối
liên hệ, thì phương pháp tư duy siêu hình không còn phù hợp mà phải chuyển sang một hình
thức tư duy mới cao hơn là tư duy biện chứng.
H
 Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ Cantơ và hoàn thiện ở
Hêghen. Theo Ph.Ăngghen: “hình thức thứ hai của p hép biện chứng, hình thức quen thuộc nhất
với các nhà khoa học tự nhiên Đức, là triết học cổ điển Đức, từ Cantơ đến Hêghen”.
Các nhà triết học cổ điển Đức đã trình bày những tư tưởng cơ bản nhất của phép biện
chứng duy tâm một cách có hệ thống. Tính ch ất duy tâm trong triết học

Hêghen biểu hiện ở
chổ ông coi biện chứn g là quá trình phát triển khởi đầu của “ý niệm tuyệt đối”, coi biện chứn g
chủ quan là cơ sở của biện chứng khách quan. Theo Hêghen, “ý niệm tuyệt đối” là điểm đầu
khởi điểm của tồn tại, tự “tha hóa” thành giới tự nhiên và trở về với bản thân nó trong tồn tại
tinh thần. “…tinh thần, tư tưởng, ý niệm là cái có trước, còn thế giới hiện thực chỉ là một bản
sao chép của ý niệm”. C ác nhà triết học duy tâm Đức, mà đỉnh cao nhất là Hêghen, đã xây

dựng phép biện chứng duy tâm với hệ thống phạm trù, quy luật chung, có lôgích chặt chẽ của ý
thức, tinh thần. V.I.Lênin cho rằng: “Hêghen đã đoán được một cách tài tình biện chứng của sự
vật (của nh ững hiện tượng, của thế giới, của giới tự nhiên) trong b iện chứng của khái niệm”.
Ph.Ăngghen cũng nhấn mạnh tư tưởng của C.M ác: “tính chất thần bí mà phép biện chứng đã
mắc phải ở trong tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên
trình bày một cách bao quát và có ý thức hình thái vận động chung của phép biện chứng. Ở
GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
7

Hêghen, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được
cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau cái vỏ thần bí của nó”.
 Tính chất duy tâm trong phép biện chứng cổ điển Đức, cũng như trong triết học
Hêghen là hạn chế cần phải v ượt qua. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khắc phục hạn chế đó đế sáng
tạo nên phép biện chứng duy vật. Đó là giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện chứng trong
lịch sử triết học, là sự kế thừa tinh thần phê phán đối với phép biện chứng cổ điển Đức.
Ph.Ăngghen tự nhân xét: “Có thể nói rằng hầu như chỉ có Mác và tôi là những người đã cứu
phép biện chứng tự giác thoát khỏi triết học duy tâm Đức và đưa nó vào trong quan niệm duy
vật về tự nhiên và về lịch sử”.
1.2. Phép biện chứng duy vật
1.2.1. Khái niệm phép biện chứng duy vật
Định n ghĩa khái quát về phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen cho rằng: “Phép biện
chứng… là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự
nhiên, của xã hội lo ài người và của tư duy”.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin còn có một số định nghĩa khác về phép
biện chứng duy vật. Khi nhấn mạnh vai trò của n guy ên lý về mối liên h ệ p hổ biến, Ph.Ăngghen
đã định nghĩa: “phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”; còn khi nhấn mạnh vai
trò của nguyên lý về sự phát triển (trong đó có bao hàm học thuyết về sự phát triển của nhận
thức) trong phép biện chứng mà C.M ác đã kế thừa từ triết học của Hêghen, V.I.Lênin đã khẳng
định : “Trong số những thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là học

thuyết xề sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học
thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này không phản ánh vật chất
luôn luôn phát triển không ngừng”,v.v
1.2.2. Những đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin có hai đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin là phép biện chứng được
xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa họ c. Với đặc trưng này, phép biện chứng
duy vật không chỉ có sự khác biệt căn bản với p hép biện ch ứng duy tâm cổ điển Đức, đặc biệt
là với phép biện chứng của Heeghen (là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng thế giới
quan duy tâm), mà còn có sự khác biệt về trình độ p hát triển so với nhiều tư tưởng biện chứn g
đã từng có trong lịch sử triết học từ thời cổ đại (là phép biện chứng về căn bản được xây dựng
trên lập trường của chủ nghĩa duy vật nhưng sau đó là chủ nghĩa duy vật còn ở trình độ trực
quan, ngây thơ và chất phác).
Hai là, trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin có sự thống nhất giữa
nội dung thế giới quan (duy vật biện chứng) và phương pháp luận (biện chứn g duy vật), do đó
nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo
thế giới.
GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
8

Mỗi nguyên lý, quy luật trong phép biện chứn g duy vật của chư nghĩa Mác – Lênin
không chỉ là sự giải thích đúng đắn về tính biện chứn g của thế giới mà còn là phương pháp
luận khoa học của việc nhận thức và cải tạo thế giới. Trên cơ sở khái quát các mối liên h ệ phổ
biến và sự phát triển, những quy luật phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của tất
thảy mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, p hép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác – Lênin cung cấp những nguyên tắc p hương pháp luận chung nhất cho quá trình
nhận thức thế giới và cải tạo thế giới, đó không chỉ là nguyên tắc phương pháp luận khách
quan mà còn là phương pháp luận toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể, phương pháp luận phân
tích mâu thuẫn nhằm tìm ra nguồn gốc, động lực cơ bản của các quá trình vận động, phát

triển,… Với tu cách đó, phép biện chứng duy vật chính là công cụ khoa học vĩ đại để giai cấp
cách mạng nhận thức và cải tạo thế giới.
Với những đặc trưng cơ bản trên, phép biện chứng duy vật giữ vai trò là một nội dung
đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tạo nên tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời nó cũng là
thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt

động sáng tạo trong các lĩnh vực
nghiên cứu kho a học.
Tóm lại, những điều trình bày ở trên, có thể thấy rằng trước Mác đã tồn tại hai hình
thức của phép biện chứng: phép biện chứng ngây thơ, thự p hát của triết học cổ đại và phép biện
chứng duy tâm của triết học cổ điển Đức. Phép biện chứng duy vật

do C.Mác và Ph.Ăngghen
sáng lập ra trên cơ sở tiếp thu và chỉnh lý một cách duy vật đối với phép

biện chứng duy tâm
của Hêghen. Trong triết học Mác, phép biện chứng thực sự trở thành khoa học nghiên cứu các
quy luật của thế giới khách quan và của hoạt độn g chủ quan.


2. NỘI DUNG CHÍNH CỦA PHÉP DUY VẬT BIÊN CHỨNG
Sự phong phú và và đa dạng của các sự vật hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy
quy định nội dung phép biện chứng duy vật . Nội dung của phép biện chứng duy vật bao gồm
nguyên lý về mối quan hệ phổ biến và nguyên lý về sự p hát triển. Nó được xem là linh hồn
sống của chủ n ghĩa Mac.
2.1. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
2.1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng duy vật, mối liên hệ phổ biến dùng để khái quát mối quan hệ,
sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các s ự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các giai

đoạn phát triển của một sự vật, hiện tượng.
Các mối quan hệ mang tính khách qu an, phổ biến và đa dạng, chúng giữ những vai trò
khác nhau quy định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng. Trong hoạt động nhận thức
và hoạt độn g thực tiễn, không nên tuyệt đối hóa mối liên hệ nào và cũng không nên tách rời
GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
9

mối quan hệ này với mội quan h ệ khác bởi trên thực tế, các mội quan hệ còn phải được n ghiên
cứu cụ thể trong sự biến đổi và phát triển của chúng.
Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến khái quát bức tranh toàn cảnh về thế giới trong
những mối quan hệ chằng chịt giữa các sự vật hiện tượng của nó.
Từ nguyên lý về mối quan hệ phổ biến con người rút ra nhữn g quan điểm nguyên tắc
chỉ đạo hoạt động nhận thức và ho ạt động thực tiễn.
2.1.2. Nguyên lý về sự phát triển
Phát triển dùng để khái quát quá trình vận động đi lên từ thấp đến cáo từ đơn giản đền
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Quá trình này vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy
vọt làm cho sự vật hiện tượng cũ mất đi, sự vật hiện tượng mới về chất ra đời. Sự phát triển
không theo đường thẳng mà theo dạng “xoắn ốc”, cái mới dườn g như lặp lại một số đặc trưng,
đặc tính của cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn, thể hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có những
bước thụt lùi trong sự phát triển.
Phát triển có tính khách quan, phổ biến đa dạng. Từ nguyên tắc này con người rút ra
được những quan điểm, n guyên tắc chỉ đạo hoạt độn g nhận thức và hoạt động thực tiễn.
2.2. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
Bên cạnh các cặp phạm trù, phép biện chứng duy vật còn bao h àm ba quy luật phổ biến
về sự vận động phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Đó là quy luật

chuyển hóa

những sự

thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại, quy luật thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ định.
2.2.1. Quy luật lượng – chất: quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về
lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại.
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi v ề chất và
ngược lại là một trong ba quy luật cơ bản, phổ biến của Phép biện chứng duy vật. Quy luật này
vạch ra hình thức và cách thức của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và
tư duy.
a) Khái niệm chất và lượng
Chất là một phạm trù của triết học, dùng để chỉ tính quy định kh ách quan vốn có của sự
vật, hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với cái khác.
Lượng là một phạm trù triết học, dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật về p hương diện, số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu
của các quá trình vận động, phát triển của sự vật.
Chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật hiện tượn g. Hai
phương diện đó tồn tại một cách khách quan, tuy nhiên sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có
ý nghĩa tương đối, có cái trong mối quan hệ này đón g vai trò là chất nh ưng trong mối quan hệ
khác lại là lượng.
GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
10

b) Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:
Tính thống nhất giữa chất và lượng trong một sự vật:
Sự vật, hiện tượng nào cũng là thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng, sự thay đổi
về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất. Giới hạn của sự thay đổi về lượng chưa làm thay
đổi về chất được gọi là độ. Trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó mà chưa
chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác.
Quá trình chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất:

Sự vận động, biến đổi của sự vật hiện tượng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng, lượn g biến
đổi trong phạm vi “ độ” chưa làm chất thay đổi nhưng khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất
định thì sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là điểm n út. Sự thay đổi về lượng khi
đạt tới điểm nút, với những điều kiện xác định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Sự
thay đổi về chất gọi là bước nhảy.
Quá trình chuyển hóa từ những sự thay đổi về chất thành những sự thay đổi
về lượng:
Khi chất mới ra đời, sẽ tác động trở lại lượng mới. Chất mới tác độn g tới lượng mới
làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, p hát triển của sự vật. Như
vậy, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất và
lượng. Sự thay đổi về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qu a b ước nhảy.
Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình đó liên t ục diễn ra, tạo
thành phương thức phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong
tự nhiên, xã hội, tư duy.
2.2.2. Quy luật mâu thuẫn:
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật ở vị trí “hạt nhân” của
phép biện chứng duy vật, quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi
quá trình vận động và phát triển.
a) Khái niệm mâu thuẫn
Quan điểm siêu hình coi mâu thuẫn là cái đối lập phản logic, không có sự thống nhất,
không có sự chuyển hóa biện chứng giữa các mặt đối lập. Ngược lại, p hép biện chứng duy vật
quan niệm mâu thuẫn để chỉ mối liên hệ thống nhất và đấu tranh, chuyển hóa giữa các mặt đối
lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau
b) Quá trình vận động của mâu thuẫn
Sự thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập
Thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc, khôn g tách rời nhau,
quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại. Xét về phương
GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
11


diện nào đó giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có một số yếu tố giống nhau. Sự thống nhất của
các mặt đối lập bao hàm sự thống nhất của nó.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác động qua lại, bài trừ, phủ
định nhau của các mặt đối lập. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập rất phong p hú tùy thuộc
vào tính chất, mối quan hệ và điều kiện cụ thể của sự vật, hiện tượng.
Quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa
giữa chúng. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập diễn ra hết sức phong phú, đa d ạng tùy thuộc
vào tính chất của các mặt đối lập cũng như t ùy thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể.
Quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Trong sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, sự đấu tranh giữa chúng là tuy ệt
đối, sự thống nhất giữa chúng là tương đối, có điều k iện, tạm thời, trong sự thống nhất đã có sự
đấu tranh, đấu tranh trong tính thống nhất của chúng.
Vai trò của mâu thuẫn đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật
Sự liên hệ, tác động và chuyển hóa giữa các mặt đối lập là n guồn gốc, động lực của sự
vận động và phát triển trong thế giới hay nói cách khác “sự phát triển là một cuộc đấu tranh
giữa các mặt đối lập”.
2.2.3. Quy luật phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng
duy vật, quy luật này vạch ra khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi sự vận độn g, phát triển
diễn ra trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy , đó là khuynh hướng vận động, phát triển
của sự vật thông qua những lần phủ định biện chứng, tạo thành hình thức mạng tính chu kỳ
“phủ định của phủ định”.
a) Khái niệm
Phủ định là khái niệm chỉ sự mất đi của sự vật này, sự ra đời của sự vật khác. Phủ định
biện chứng là sự p hủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật.
b) Phủ đị nh của phủ định
Phủ định biện chứng có vai trò to lớn đối với các quá trình vận động, phát triển
phủ định biện chứng là dây chuyền vô tận. Trong quá trình vận động, phát triển, không có sự
vật, hiện tượng nào tồn tại vĩnh viễn. Sự vật ra đời, trải qua những giai đoạn nhất định rồi trở

thành lỗi thời và b ị thay thế bởi sự vật mới tiến bộ hơn. Sự vật mới này đến lượt nó cũng sẽ trở
thành lỗi thời và b ị thay thế bởi sự vật mới khác. Sự phát triển là quá trình vô tận và không có
sự phủ định cuối cùng. Qua mỗi lần phủ định, sự vật loại bỏ được nh ững yếu tố lạc hậu, lỗi
thời, tích lũy những yếu tố mới, tiến bộ hơn. Do đó, sự phát triển thông qua phủ định biện
chứng là quá trình đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện
.
GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
12


Hình thức “phủ định của phủ định” của các quá trình vận động, phát triển.
Tính chất chu kỳ của các quá trình phát triẻn thường diễn ra theo hình thức “xoáy ốc”, đó cũng
là tính chất phủ định của p hủ định. Theo tính chất này, mỗi chu kỳ phát triển của sự vật thường
trải qua ít nhất hai lần phủ định cơ bản với ba hình thái tồn tại chủ yếu của nó, trong đó hình
thái cuối mỗi chu kỳ lặp lại những đặc trưng cơ bản của hình thái ban đầu nhưng trên cơ sở
mới cao hơn về trình độ phát triển nhờ kế thừa được nh ững nhân tố tích cực và loại bỏ được
những nhân tố tiêu cực qua hai lần phủ định. Quy luật p hủ định của phủ định khái quát tính
chất chung, p hổ biến của sự phát triển, đó không phải là sự phát triển theo đường thẳng mà
theo hình thức “xoáy ốc”, thể hiện tính chất biện chứng của sự phát triển, đó là tính kế thừa,
tính lặp lại và tính tiến lên.
Tóm lại, nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định trong phép biện chứng
duy vật phản ánh mối quan hệ biện chứn g giữa cái p hủ định và cái khẳng định

trong quá

trình
phát triển của sự vật. Phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết
quả của sự kế thừa những nội dun g tích cực từ trong sự vật cũ, phát huy nó trong sự vật mới và

tạo nên tính chu kỳ của sự phát triển. Nhận xét về vai trò của quy luật này, Ph.Ăngghen khẳng
định : Phủ định cái phủ định là gì? Là một quy luật vô cùng phổ biến và chính vì vậy mà có một
tầm quan trọng và có tác dụng vô cùng to lớn về sự p hát triển của tự nhiên, của lịch sử và tư
duy.
2.3. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật:
Các mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng được p hép duy vật biện chứng kh ái
quát thành các cặp phạm trù cơ bản như: cái riêng - cái chung, tất nhiên - ngẫu nh iên, bản chất
- hiện tượng, n guyên nhân - kết quả, khả năng – hiện thực, nội dung – hình thức…Chúng được
hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động nhận thức, hoạt động cải tạo tự nhiên, xã hội.
Các phạm trù cái riêng - cái chung - cái đơn nhất, tất nhiên – ngẫu nhiên, bản chất – hiện
tượng là cơ sở của phương pháp luận của các phương pháp phân tích và tổng h ợp, diễn dịch và
quy nạp, khái quát hóa, trừu tượng hóa để từ đó nhận thức toàn bộ các mối liên hệ theo hệ
thống. Các phạm trù nguyên nhân - kết quả, khả năng - hiện thực là cơ sở p hương pháp luận để
chỉ ra mối liên hệ và phát triển giữa các sự vật, hiện tượng là một quá trình. Các phạm trù nội
dung - hình thức là cơ sở phương pháp luận để xây dựng các hình thức tồn tại trong sự phụ
thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa dạng của p hương pháp nhận thức với thực tiễn.
23.1 Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất:
Theo quan điểm của p hép biện chứng duy vật, nhận thức bắt đầu từ sự phản ánh các sự
vật, hiện tượng cụ thể của thế giới. Nhưng trong quá trình so sánh giữa các sự vật, hiện tượng
này với các sự vật, hiện tượng khác; phân biệt chỗ giốn g nhau và khác nhau giữa chúng, nhận
thức đi đến chỗ phân biệt cái riêng-cái chun g. Cái riêng là phạm trù dung để chỉ một sự vật,
hiện tượng nhất định và cái đơn nhất. Cái chung là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những
thuộc tính lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng. Cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ những
mặt, những đặc điểm chỉ có ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật,
hiện tượng khác.
GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
13

Giữa cái riêng, cái chung, và cái đơn nhất có mối liên hệ biện chứng với nhau. Cái

chung chỉ tồn tại trong cái riêng, biểu hiện thông qua cái riêng; ngược lại, cái riêng chỉ tồn tại
trong mối liên hệ với cái chun g, bao hàm cái chung; cái riêng là cái toàn bộ, phong p hú hơn cái
chung, cái chun g cà cái bộ p hận nhưng sâu sắc hơn cái riêng; cái đơn nhất và cái riêng có thể
chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình vận độn g, phát triển của sự vật. V.I Lenin viết: “Cái riêng
chỉ tồn tại trong mối liên hệ đến cái

chung. C ái chun g chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái
riêng. Bất cứ cái riêng nào cũng là cái chung, bất cứ cái chung nào cũng bao quát một cách đại
khái tất cả cái riêng. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập
đầy đủ vào cái
chung…. Bất
cứ cái riêng nào cũng thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa mà liên hệ với những cái riêng
thuộc loại khác.”
2.3.2 Nguyên nhân và kết quả:
Nhận thức về sự qua lại giữa các mặt, các yếu tố, hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với
nhau dẫn đến sự xuất hiện các sự vật, hiện tượng mới và do vậy phát sinh ra mối liên hệ nhân
quả. Nguyên nhân là do sự tương tác qua lại giữa các mặt trong cùng một sự vật, hiện tượng
hoặc giữa các sự vât, hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất định. Kết quả là những
biến đổi xuất hiện do s ự tương tác qua lại giữa các mặt trong cùng một sự vật, hiện tượng hoặc
giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Giữa n guyên nhân và kết quả có mối liên hệ qua lại quy định lẫn nhau. Nguyên nhân là
cái sinh ra kết quả nên luôn có trước cái kết quả, sau khi xuất hiện, kết quả ảnh hưởng tích cực
trở lại đối với n guy ên nhân. Sự phân biệt nguyên nhân - kết quả lúc này có tính tương đối. Một
sự vật, hiện tượng ở trong mối quan hệ này là nguy ên nhân, nhưng lại là kết quả ở trong mối
quan hệ khác và n gược lại tạo nên chuỗi nhân - quả vô tận. Do vậy, nguyên nhân - kết quả bao
giờ cũng ở tron g mối quan hệ cụ thể.

2.3.3 Tất nhiên và ngẫu nhiên:
Trong khi phản ánh hiện thực khách quan, con người nhận thức được tính không một
nghĩa, không cùng một giá trị của các mối liên hệ khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng

nên phân chia chúng thành những mối liên hệ nh ất định, phải xảy ra đúng như thế và các nhóm
liên hệ có thể xảy ra, cũng có thể không xảy ra, cũng có thể xảy ra thế này hay thế khác. Tất
nhiên do mối liên hệ bản chất, do mối liên hệ cơ bản bên trong của sự vật, hiện tượng quy định
và trong những điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như thế chứ không thể khác. Ngẫu nhiên
do mối liên hệ không bản chất, do những nguyên nhân, hoàn cảnh bên ngoài quy định; có thể
xuất hiện, có thể không xuất hiện; có thể xuất hiện thế này, có thể xuất hiện thế khác.
Giữa tất nhiên và ngẫu nhiên có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tất nhiên bao giờ
cũng vạch đường đi cho mình thong qua vô số ngẫu nhiên, còn ngẫu nhiên là hình thức biểu
hiện c ủa tất nhiên, bổ sung cho tất nhiên. Tất nhiên đóng vai trò chi phối sự phát triển, còn
ngẫu nhiên chỉ có thể làm cho sự phát triển diễn ra nhanh hoặc chậm, trong h ình thức này hay
hình thức khác. Sự p hân biệt tất nhiên-ngẫu nhiên có tính tương đối, trong những điều kiện
nhất định, chúng chuyển hóa lẫn nhau.
GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
14

2.3.4 Nội dung và hình thức:
Việc nhận thức nội dung và hình thức gắn liền với việc nghiên cứu các yếu tố quy định
sự tồn tại của s ự vật và phương thức tồn tại của nó. Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt,
những yếu tố tạo nên sự vật, hiên tượng. Hình thức là p hương thức tồn

tại và phát triển

của sự
vật, hiện tượng, là hệ thống có mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố sự vật, hiện
tượng.
Giữa nội dung và hình thức có mối liên hệ qua lại, quy định lẫn nhau, trong đó nội dung
giữ vai trò quyết định. Nội dung đòi hỏi hình thức phải phù hợp với nó. Khi nội dung thay đổi
thì hình thức cũng phải thay đổi theo. Tuy nhiên, hình thức có tính độc lập tương đối và tác
động tích cực trở lại nội dung. Khi hình thức phù hợp với nội dung, nó là động lực thúc đẩy nội

dung phát triển, còn khi không phù h ợp, hình thức cản trở sự phát triển của nội dung. Cùn g một
nội dun g, trong quá trình phát triển, có thể thể hiện dưới nhiều hình thức và ngược lại, một
hình thức có thể phù hợp với nhiều nộ i dung.
2.3.5 Bản chất và hiện tượng:
Khi có được nhận thức đầy đủ về những mặt, những mối liên hệ tất yếu và những đặc
tính riêng của sự vật, thì nhận thức đó vẫn chưa vươn tới sự phản ánh đầy đủ về sự vật. Để
nhận thức đúng sự vật từ các hiện tượng phong p hú, nhiều vẻ, con người tiếp tục đi sâu n ghiên
cứu bản ch ất của sự vật. Bản chất là tổn g hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên
tương đối ổn định bên trong, quy định sự tồn tại vận động và phát triển của sự vật. Hiện tượng
là những biểu hiện bề n goài của sự vật.
Giữa bản chất và hiện tượng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Bản chất và h iện
tượng thống nhất với nhau. Sự thống nhất đó thể hiện ở chỗ: bản chất có thể thể hiện thong qua
hiện tượng, còn hiện tượng là sự thể hiện c ủa bản chất. T uy vậy, “nếu hình thái biểu hiện và
bản chất sự vật thể phù hợp trực tiếp với nhau, thì mọi khoa học sẽ trở nên thừa”. Hiện tượng
thể hiện bản chất trong hình thức đã cải biến, nhiều khi xuyên tạc nội dung thật sự của bản chất
bằng cách bổ sung vào bản chất một vài tính chất, yếu tố do hoàn cảnh cụ thể quy định, làm
hiện tượng phong phú hơn bản chất. Bản chất tương đối ổn định, ít biến đổi hơn, còn hiện
tượng thường xuyên biến đổi hơn.
2.3.6 Khả năng và hiện thực:
Khi đã nhận thức được bản chất và những mâu thuẫn vốn có của những sự vật, hiện
tượng, chúng ta có thể p hán đoán là sự vật, hiện tượng sẽ biến đổi theo hướng nào, nghĩa là
chúng ta có thể nhận thức được đồng thời cả hiện thực và khả năng biến đổi của sự vật, hiện
tượng. Khả năng là cái chưa xảy ra, nhưng sẽ xảy ra khi có các điều kiện thích hợp. Hiện thực
là cái đang có, cái tồn tại thực sự.
Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt ch ẽ với nhau trong quá trình vận
động, phát triển của sự vật. Trong hiện thực bao giờ cũng chứa đựng những khả năng nhất
định, ngược lại khả n ăng lại trong h iện thực và khi đủ điều kiện sẽ trở thành hiện thực mới.
Mối liên hệ giữa khả năng và hiện thực diễn ra rất phức tạp. Trong từng giai đoạn phát triển
GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang

15

của sự vật thường xuất hiện rất nhiều khả năng. Khả năng nào biến thành hiện tực là tùy thuộc
vào điều kiện cụ thể. Trong hoạt động thực tiễn phải dự báo các khả năng và tạo điều kiện để
khả năng tốt trở thành hiện thực và ngăn ngừa các khả n ăng xấu.
Các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật không phải là hệ thống bất biến, mà
phát triển cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn. Mối liên hệ giữa các cặp phạm trù
của các ngành khoa học với các p hạm trù của phép biện chứng duy vật là mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng. Do vậy, khi nghiên cứu các cặp phạm trù, cần liên h ệ ch úng với nhau và
với các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, bởi vì dù quan trọng đến mấy, chỉ riêng
các cặp phạm trù hoặc các quy luật cơ bản c ủa phép biện chứng duy vật cũng không phản ánh
đầy đủ các mối liên hệ của thế giới.


Chương 2: VẬN DỤNG THỰC TIỄN

I. GIỚI THUỆU CHUNG VỀ VIỄN THÔNG ĐỒNG NAI
1/ Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của Viễn thông Đồng Nai
VNPT hiện là Tập đoàn Bưu chính Viễn thông hàng đầu tại Việt Nam. Với những
đóng góp và thành tựu đã đạt được trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa X ã hội và Bảo vệ
Tổ quốc, VN PT đã vinh dự được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động
thời kỳ 1999 - 2009 vào ngày 22/12/2009.
Kế thừa 65 năm xây dựng, phát triển và gắn bó trên thị trường viễn thông Việt
Nam, VNPT vừa là nhà cung cấp dịch vụ đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển của
ngành Bưu chính, Viễn thông Việt Nam, vừa là t ập đoàn có vai trò chủ chốt trong việc
đưa Việt Nam trở thành 1 trong 10 quốc gia có tốc độ phát triển Bưu chính Viễn thông
nhanh nhất toàn cầu.
Tháng 1/2006, VNPT chính thức trở thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt
Nam thay thế cho mô hình Tổng công ty cũ theo quyết định số 06/2006/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ, với chiến lược phát triển theo mô hình tập đoàn kinh tế chủ lực của

Việt Nam, kinh doanh đa ngành nghề, đa lĩnh vực, đa sở hữu, trong đó Bưu chính - Viễn
thông - CNTT là nòng cốt.
Với hơn 90 nghìn cán bộ công nhân viên, hạ tầng công nghệ viễn thông tiên tiến,
mạng lưới dịch vụ phủ sóng toàn bộ 64 tỉnh thành trên cả nước, VNPT tự hào là nhà cung
cấp dịch vụ bưu chính, viễn thông số 1 tại Việt Nam, phục vụ hơn 71 triệu thuê bao di
động, gần 12 triệu thuê bao điện thoại cố định và khoảng hàng chục triệu người sử dụng
Internet.
Ngày 24/6/2010, Công ty mẹ - Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam chuyển
đổi hoạt động sang mô hình Công ty trách nhiệm Hữu hạn một thành viên do Nhà nước
làm chủ sở hữu theo quyết định số 955/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Sứ mệnh: VNPT luôn nỗ lực trong việc ứng dụng có hiệu quả BC-VT-CNTT tiên
tiến để mang đến cho người tiêu dung, nhân dân Việt Nam những giá trị tươi đẹp cho
cuộc sống.
GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
16

Tầm nhìn: VNPT luôn là tập đoàn số 1 Việt Nam về phát triển Bưu chính – Viễn
thông và Công nghệ thông tin.
Viễn thông Đồng Nai (VNPT Đồng Nai) được thành lập trên cơ sở tách ra từ
Bưu điện tỉnh Đồng N ai cũ và chính thức đi vào hoạt động vào ngày 01/01/2008. Viễn
thông Đồng Nai là đơn vị trực thuộc, hạch toán phụ thuộc VNPT, có chức năng: tổ chức
xây dựng, quản lý, vận hành, lắp đặt, khai thác, bảo dưỡng sửa chữa mạng viễn thông;
cung cấp các dịch vụ viễn thông trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Thông tin giao dịch:
Tên đơn vị : VIỄN THÔNG ĐỒNG NAI
Tên viết tắt: VNPT Đồng Nai
Địa chỉ: 61 Nguyễn Văn Trị, P. Hoà Bình, TP.Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai.
Điện thoại : 061 – 3842916. Fax : 061 – 3824840.
Website: www.vnptdongnai.vn


2/ Ngành nghề kinh doanh – Sản phẩm, dịch vụ
a) Ngành nghề kinh doanh:
Với sứ m ệnh và tầm nhìn như trên, Viễn thông Đồng Nai tổ chức kinh doanh các
ngành nghề sau:
+ Tổ chức xây dựng, quản lý, vận hành, lắp đặt, khai thác, bảo dưỡng, sữa chữa
mạng viễn thông trên địa bàn tỉnh;
+ Tổ chức, quản lý, kinh doanh và cung cấp các dịch vụ viễn thông, công nghệ
thông tin;
+ Sản xuất kinh doanh, cung ứng, đại lý vật tư, thiết bị viễn thông – công nghệ
thông tin theo y êu cầu sản xuất kinh doanh của đơn vị và nhu cầu của khách hàng;
+ Khảo sát, tư vấn, thiết kế, lắp đặt, bảo dưỡng các công trình viễn thông – công
nghệ thông t in;
+ Kinh doanh dịch vụ quảng cáo; dịch vụ truyền thông;
+ Kinh doanh bất động sản, cho thuê văn phòng;
+ Tổ chức phục vụ thông tin đột xuất theo yêu cầu của cấp uỷ Đảng, Chính quyền
địa phương và cấp trên;
+ Kinh doanh các ngành nghề khác khi được Tập đoàn cho phép.

b) Một số sản phẩm, dịch vụ chính:
Một số dịch vụ chủ yếu Viễn thông Đồng Nai đang cung cấp:
- Dịch vụ Điện thoại Cố định, Fax truyền thống
- Dịch vụ Internet gián tiếp MegaVNN: cung cấp các giải pháp kết nối Internet cho
khách hang phổ thông.
- Dịch vụ Internet băng thông rộng FiberVNN: Công nghệ kết nối viễn thông hiện
đại trên thế giới với đường truy ền dẫn hoàn toàn bằng cáp quang từ nhà cung cấp
dịch vụ tới tận địa điểm của khách hàng.
- Dịch vụ Internet trực tiếp : Internet leased line
- Dịch vụ Kênh thuê riêng: leased line
GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3

ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
17

- Dịch vụ truyền số liệu M etroNET: Với MetroNET, khách hàng có thể sử dụng
nhiều kiểu kết nối như: Điểm – Điểm (Point to Point), Điểm – Đa Điểm (P - mP)
và Đa Điểm – Đa Điểm (Multipoint – to - Multipoint), Cung cấp khả năng sử dụng
đồng thời ba loại dịch vụ: thoại (voice) – dữ liệu (data) – hình ảnh (video) như:
- Dịch vụ giải đáp thông tin 1080 : Tư vấn, giải đáp thông tin cho khách hàng
- Dịch vụ truyền hình theo yêu cầu M yTV: Là dịch vụ truyền hình đa phương tiện,
mang đến cho khách hàng hình thức giải trí khác biệt: TRUYỀN HÌNH THEO
YÊU CẦU.
- Dịch vụ VNPT SCHOOL: là một hệ thống các ứng dụng phần mềm phục vụ tác
nghiệp, điều hành và quản lý thông tin học sinh, giáo viên trong nhà trường; và là
kênh trao đổi thông tin giữa nhà trường và Gia đình thông qua môi trường mạng
Internet. Để cho dù là bất cứ nơi đâu và bất cứ thời điểm nào, Nhà trường cũng có
thể cập nhật thông tin, bảo đảm thông tin đó sẽ đến được với Học sinh và Phụ
huynh học sinh một cách thường xuyên và cụ thể.
- M ột số sản phẩm chính: điện thoại cố định, điện thoại di động, sim, thẻ điện thoại
di động,

3/ Cơ cấu tổ chức
Viễn thông Đồng Nai gồm có 8 phòng, ban và 8 trung tâm trực thuộc theo Sơ đồ tổ chức
đính kèm.

4/ Sơ lược chức năng – nhiệm vụ của các phòng chức năng và các đơn vị trực thuộc
a) Các phòng chức năng:
 Phòng Tổ chức Cán bộ – Lao động tiền lương:
 Có chức năng tham mưu, đầu mối giúp cho Ban Giám đốc trong việc điều hành, tổ
chức quản lý về công tác tổ chức cán bộ, lao động t iền lương : Sắp xếp bố trí lao động
hợp lý; Phân công bổ nhiệm, tuyển dụng định mức, định biên lao động đúng ngành nghề

theo nhu cầu; Lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng trình độ, nâng cao tay nghề cho đội ngũ
cán bộ công nhân viên; Phân phối quỹ tiền lương hợp lý; Giải quyết các chế độ chính
sách, quyền lợi cho người lao động…
 Phòng Tổng hợp – Hành chánh Quản trị:
 Có chức năng là đầu mối trong quan hệ giao dịch giữa các phòng ban trong Viễn
thông tỉnh và các đơn vị trong và ngoài ngành; là tham mưu cho Giám đốc trong công tác
tổ chức quản lý điều hành các hoạt động như: tổng hợp, thi đua, khen thưởng, công tác
hành chính, văn thư lưu trữ và quản trị.
 Phòng Kế hoạch và Kinh doanh:
 Có chức năng, tham mưu đầu mối giúp cho Ban Giám đốc trong việc tổ chức, quản lý,
chỉ đạo điều hành về công tác kế họach sản xuất kinh doanh; thực hiện các thủ tục mua
sắm vật tư - thiết bị phục vụ SXKD và cung ứng cho các công trình thuộc phạm vi quản
lý trên địa tỉnh Đồng Nai.
GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
18

 Thống kê, phân tích, đánh giá các số liệu, chuẩn bị các biểu mẫu kế hoạch, báo cáo
cần thiết. Cân đối và báo cáo về kế hoạch phân bổ các nguồn vốn: quỹ phúc lợi khen
thưởng, chi quảng cáo, tiếp khách…
Phòng M ạng và Dịch vụ:
 Có chức năng tham mưu, đầu mối giúp cho Ban Giám đốc trong công tác xây dựng
các quy trình, quy định về quản lý, điều hành, vận hành khai thác thiết bị viễn thông, ứng
dụng khoa học tiến bộ kỹ thuật; phương án phát trển mạng viễn thông nông thôn, xây
dựng các cơ sở dữ liệu Viễn thông Đồng Nai; hướng dẫn các hệ thống đảm bảo an toàn
cho công tác mạng và các thiết bị vận hành.
 Phòng Đầu tư – Xây dựng cơ bản:
 Có chức năng tham mưu, đầu mối giúp cho Ban Giám đốc trong công tác tổ chức, chỉ
đạo, điều hành, quản lý các lĩnh vực về công tác đầu tư – xây dựng, phát triển mạng lưới
viễn thông - công nghệ thông tin; cơ sở hạ tầng mạng và các lĩnh vực khác được Tập

Đoàn giao trên địa bàn tỉnh Đồng Nai;
 Phối hợp với các phòng ban chức năng trong việc xây dựng kế hoạch đầu tư Xây dựng
cơ bản. Lập các dự toán, thiết kế, kiểm tra, quản lý việc thực hiện các công trình.
 Phòng Kế toán – Thống kê – Tài chính:
 Có chức năng tham mưu, đầu mối giúp cho Ban Giám đốc trong công tác tổ chức,
quản lý, điều hành các hoạt động công tác chuyên môn nghiệp vụ kế toán – thống kê – tài
chánh trong mọi hoạt động Đầu tư – xây dựng phát triển mạng lưới, phát triển sản xuất –
kinh doanh của Viễn thông Đồng Nai; Đảm bảo công tác quản lý tài chính kế toán tại đơn
vị thực hiện một cách đầy đủ, kịp thời các nghiệp vụ kinh tế phát sinh để phục vụ đắc lực
cho công tác quản lý tại Đơn vị.
 Chịu trách nhiệm quản lý các loại vốn, đảm bảo an toàn và không ngừng phát triển
vốn kinh doanh. Xác định doanh thu, chi phí, phân phối thu nhập và nộp ngân sách, nộp
ngành, xác định lợi nhuận trích lập và quản lý các quỹ t ập trung của ngành.
 Cập nhật kịp thời chính xác tất cả các chứng từ nghiệp vụ kinh tế phát sinh, tổng hợp
và lập các báo biểu tái chính kế toán theo quy định của Nhà nước và của ngành.
 Chuyên viên trực tuyến Thanh tra – Thi đua truyền thống:
 Tham mưu cho Giám đốc đơn vị xây dựng kế hoạch, chương trình công tác thanh tra,
kiểm tra, giải quyết tố cáo, khiếu nại, tố cáo của công dân, cán bộ công nhân viên; Tuyên
truyền phổ biến pháp luật.
 Tổ chức xây dựng và quản lý theo dõi thực hiện Quy chế Bảo vệ Bí mật Nhà nước,
bí mật sản xuất kinh doanh của đơn vị và các đơn vị trực thuộc. Hướng dẫn các Đơn vị
trực thuộc xây dựng và thực hiện phương án bảo vệ an toàn mạng lưới và an ninh thông
tin trong hoạt động Viễn thông trên địa bàn Đồng Nai
 Phòng nghiên cứu và phát triển (R & D):
GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
19

 Tham mưu, giúp việc cho Giám đốc thực hiện chức năng t ổ chức, quản lý công tác
nghiên cứu khoa học và hợp tác phát triển các dịch vụ Viễn thông , nghiên cứu phát triển

các kế hoạch (dài hạn, trung hạn, hàng năm) . Thực hiện các thủ tục để thẩm định/xét
duyệt/nghiệm thu/đánh giá các báo cáo về các dịch vụ kinh doanh theo quy định - Theo
dõi, đôn đốc, kiểm tra tiến độ thực hiện các công trình nghiên cứu trong phạm vi quản
lý.Phối hợp với các phòng chức năng khác đề xuất cơ chế phát triển nhóm nghiên cứu
chuyên sâu và các sản phẩm dịch vụ đặc trưng của đơn vị.Thực hiện nhiệm vụ khác có
liên quan tới chức năng được giao theo yêu cầu của Giám đốc.

b) Các đơn vị sản xuất kinh doanh trực thuộc :
- Gồm có 08 đơn vị :
+ Trung tâm Viễn thông 1 : Quản lý, khai thác và vận hành bảo dưỡng các thiết
bị viễn thông : Chuyển mạch, truyền dẫn, băng rộng … ; Kinh doanh các dịch vụ Kênh
thuê riêng quốc tế, liên tỉnh và nội tỉnh.
+ Trung tâm Viễn thông 2;3;4;5 : Quản lý, khai thác và vận hành bảo dưỡng các
Trạm Viễn thông và Mạng ngoại vi; Kinh doanh bán hàng hoá, phát triển dịch vụ thuê
bao viễn thông tin học trên địa bàn quản lý.
+ Trung tâm D ịch vụ Khách hàng : Kinh doanh các dịch vụ di động VNP; Kinh
doanh bán hàng hoá; Thu cước dịch vụ Viễn thông và chăm sóc khách hàng trên toàn
Viễn thông Đồng Nai.
+ Trung tâm Tin học : Quản lý, vận hành mạng máy tính điều hành SXKD; xây
dựng và triển khai các ứng dụng tin học vào công tác quản lý, điều hành sản xuất, kinh
doanh của VTĐN; Cung cấp thông tin - kinh tế - xã hội phục vụ khách hàng trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai.
+ Trung tâm Điều hành viễn thông : Quản lý, điều hành mạng lưới Viễn thông –
Tin học của Viễn thông Đồng Nai đạt chất lượng, hiệu quả cao, đảm bảo thông tin liên
lạc thông suốt, đáp ứng nhu cầu thông tin trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.

II/ THỰC TRẠNG VẬN DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT TRONG
THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG NAI
Trong thực tiễn quản lý sản xuất kinh doanh của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông
Việt Nam t hì Viễn thông Đồng N ai nhìn chung đã làm tốt công việc quản lý của mình, đã

đạt được doanh thu và lợi nhuận cao thứ 3 trong Tập đoàn (chỉ sau Viễn thông Hồ Chí
M inh và Viễn thông Hà Nội). Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì Viễn
thông Đồng Nai cũng không tránh khỏi những điều còn thiếu sót. Dưới đây, do giới hạn
về thời gian nghiên cứu và nội dung chỉ gói gọn trong bài báo cáo ngắn, chúng em xin
phép chủ yếu phân tích một số khía cạnh quản lý trong Viễn thông Đồng Nai, có phần
hơi thiên về khía cạnh chưa thành công đứng trên quan điểm của phép biện chứng duy
vật của Mác để chúng ta thấy rõ ý nghĩa và giá trị của phép biện chứng duy vật vận dụng
trong thực tiễn quản lý doanh nghiệp.
GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
20


1/ Thực trạng vận dụng phép biện chứng duy vật khi thực hiện chức năng họach
định
- Trong quá trình thực hiện chức năng hoạch định thì Viễn t hông Đồng Nai đã
chưa thấy rõ được vai trò của thực t iễn đối với nhận thức trong khi thực hiện chức năng
hoạch định như doanh nghiệp chưa tiến hành phân tích rõ những điểm mạnh, điểm yếu
của doanh nghiệp, chưa phân tích rõ những cơ hội và nguy cơ của môi trường vĩ mô, môi
trường vi mô tác động đến doanh nghiệp. Điều này cũng thể hiện rõ Viễn thông Đồng
Nai vẫn chưa vận dụng tốt nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt
động thực tiễn khi thực hiện chức năng hoạch định. Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi, muốn
nhận thức rõ được chức năng hoạch định thì Viễn thông Đồng Nai phải xem xét sự tồn tại
của doanh nghiệp trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau
bên trong bản thân doanh nghiệp và trong mối quan hệ qua lại giữa doanh nghiệp mình
với các doanh nghiệp cạnh tranh khác, giữa doanh nghiệp mình với môi trường bên ngoài
doanh nghiệp như Nhà nước, khách hàng, nhà cung cấp, cộng đồng dân cư trên tỉnh Đồng
Nai,… Do chưa làm tốt việc phân tích thực tiễn này, nên Viễn thông Đồng Nai cũng chưa
xây dựng được tốt kế hoạch, chiến lược dài hạn cho mình.
Việc chưa xây dựng tốt kế hoạch, chiến lược dài hạn cho mình thể hiện các nhà

quản trị Viễn thông Đồng Nai cũng chưa vận dụng được tốt quan điểm biện chứng trong
phép biện chứng duy vật của Triết học Mác. Quan điểm biện chứng của Triết học M ác đã
chỉ rõ rằng các nhà quản trị phải xem xét doanh nghiệp trong mối liên hệ, tương tác,
chuyển hóa, vận động, phát triển theo quy luật của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó đòi hỏi các nhà quản trị phải tiến hành
đánh giá được những thế mạnh và hạn chế của doanh nghiệp mình, tính tích cực, tiêu cực
của từng bộ phận trong doanh nghiệp,…; hiện tại và xu hướng phát triển tương lai của
doanh nghiệp;…
- Bên cạnh đó, trong chỉ tiêu kế hoạch của doanh nghiệp lại thể hiện tư tưởng duy
tâm, chủ quan, duy ý chí vì đã có những lúc doang nghiệp đặt ra kế hoạch quá cao, vượt
xa khỏi khả năng thực tế năng lực của doanh nghiệp. Tư tưởng duy tâm chủ quan quy ý
chí này thể hiện trước hết từ phía Tập đoàn Bưu Chính Viễn thông Việt Nam, ví dụ như
khi xây dựng chỉ tiêu bán thẻ di động Vinaphone cho Viễn thông Đồng Nai năm 2011,
cuối năm 2010, Tập đoàn đã giao cho Viễn Thông Đồng Nai phải bán được 320 tỷ đồng
thẻ cào di động Vinaphone trong năm 2011 trong khi năng lực của Viễn thông Đồng Nai
nói riêng, năng lực của cả tỉnh Đồng Nai nói chung (bao gồm tất cả các đối thủ khác
ngoài Viễn thông Đồng Nai cùng bán thẻ trả trước Vinaphone) không thể nào đạt được
mức đó trong năm 2011. Thực tiễn đã chứng minh cụ thể qua kết quả 6 tháng đầu năm
2011 cho thấy theo số liệu thống kê thực tế (do chính Tập đoàn Bưu chính Viễn thông
Việt Nam cung cấp) thì tổng tài khoản chính được nạp tại cả tỉnh Đồng Nai đối với thẻ
trả trước Vinaphone của tháng cao nhất chỉ là 21 tỷ đồng. Tức tổng thị trường bán thẻ trả
trước Vinaphone trong năm 2011 không thể nào vượt con số 252 tỷ đồng và Viễn thông
Đồng Nai nếu có chiếu được 70% thị phần thì cũng chỉ đạt được tối đa 176,4 tỷ đồng
trong năm 2011 (tức đạt không quá 55% kế hoạch đặt ra ban đầu). Tuy vậy, không còn
cách nào khác, Viễn thông Đồng Nai vẫn phải phân bổ chỉ tiêu kế hoạch “không tưởng”
đó xuống cho các trung tâm trực thuộc thực hiện và một số trung tâm kỹ thuật cũng phải
tham gia bán thẻ trả trước Vinaphone như Trung tâm Tin Học, Trung tâm 1 (chuyên phụ
trách các thiết bị của Viễn thông Đồng Nai), thậm chí tất cả các cán bộ, công nhân viên
cũng phải tham gia bán thẻ trả trước Vinaphone. Việc giao chỉ tiêu kế hoạch vượt quá
khả năng của các cán bộ công nhân viên cho nên đã gây không ít hoang mang, chán nản

GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
21

trong nội bộ doanh nghiệp và đã có những biểu hiện không hăng say, nhiệt tình làm việc
ở một số cán bộ công nhân viên vì họ cho rằng có cố cỡ nào cũng không thể đạt được kế
hoạch được giao. Một số nơi thì bán phá thị trường để nhằm t ăng doanh thu cho đơn vị,
gây rối loạn thị trường, giảm hiệu quả cho đơn vị.
- Tiếp theo kế hoạch thì đứng giác độ phép biện chứng duy vật thì doanh nghiệp sẽ
phải xây dựng các biện pháp về kỹ thuật, biện pháp về kinh doanh, biện pháp về quản
lý,… để tổ chức thực hiện kế hoạch. Viễn thông Đồng Nai có đưa ra một số biện pháp để
thực hiện nhưng thực sự hoàn chỉnh. Cụ thể là các biện pháp mà Khối quản lý Viễn thông
Đồng Nai (cụ thể là do các phòng ban chức năng) và các trung tâm trực thuộc đưa ra chỉ
là một số nội dung phương hướng hoạt động. Những nội dung kế hoạch thực hiện này
chưa thể hiện mối quan hệ biện chứng với những kết quả mong muốn đạt được đó là
hoàn thành kế hoạch bao nhiêu phần trăm hoặc vượt bao nhiêu phần trăm lý do tại sao,…
Điều này cho thấy các nhà quản trị chưa tầm quan trọng của nguy ên tắc t oàn diện trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của triết học M ác đối với thực tiễn quản lý
doanh nghiệp. Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta phải nắm được đâu là mối liên hệ chủ
yếu, bản chất quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Rõ ràng mối liên
hệ giữa các biện pháp thực hiện với chỉ tiêu kế hoạch phải là mối liên hệ chủ yếu ảnh
hưởng đến sự vận động, phát triển của doanh nghiệp. Nếu mối quan hệ này không được
thiết lập khoa học, lôgíc thì doanh nghiệp dễ rơi vào trạng thái hoạt động một cách mò
mẫm, ngẫu nhiên, dẫn đến lãng phí trong quản lý. M ặt khác, đây cũng một phần là biểu
hiện của tư tưởng duy tâm chủ quan, duy ý chí: đặt ra kế hoạch nhưng không hoàn chỉnh
biện pháp thực hiện thì có khác nào nó chỉ là ý muốn chủ quan, tách con người ra khỏi sự
vật, không thấy hết vai trò to lớn, tính năng động chủ quan của con người.
- Tại VTĐN, quy luật Lượng – Chất được vận dụng triệt để qua việc VTĐN đặc
biệt chú trọng và đặt nhiệm vụ nâng cao chất lượng dịch vụ lên hàng đầu. Có nhiều nội
quy, quy định về việc xử lý bảo dưỡng hạ tầng mạng Viễn thông như: thời gian xử lý

thuê bao hư hỏng, bảo dưỡng định kỳ mạng cáp, hệ thống tổng đài, chăm sóc khách hàng,
nâng cấp thiết bị nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ. Chất lượng dịch vụ là “Chất”, khi
đã nâng cao được “ Chất” thì ngày càng nâng cao uy tín thương hiệu VNPT và khi đã có
uy tín cùng với niềm tin của khách hàng thì ngày càng có nhiều khách hàng sử dụng dịch
vụ, đó là “Lượng” .
- Trong công việc xử lý hệ thống thông tin, nếu không tính toán kỹ các nguyên
nhân và lường trước các kết quả sẽ dẫn đến rủi ro rất lớn nếu lỗi hệ thống xảy ra, điều
này đặc biệt nghiêm trọng do sẽ mất tín hiệu trên diện rộng ảnh hưởng lớn đến thông tin
liên lạc của nhiều doanh nghiệp hay các tổ chức và các khách hàng cá thể nhỏ lẻ. Nhận
thức được điều này, ban lãnh đạo Viễn thông Đồng Nai đã ban hành quy định về xử lý sự
cố về thông tin rất chặt chẽ: mọi sự cố phải được xử lý ngay, nhưng t ối đa không được
quá 4 giờ. Điều này cho thấy baln lãnh đạo đã nhận thức tốt mối liên nhệ nhân quả trong
phép biện chứng duy vật của Mác.
- Khi hoạch định chính sách giá, đôi khi ban lãnh cũng bị ảnh hưởng bởi tư tưởng
duy tâm chủ quan, duy ý chí. Họ cho rằng nhu cầu và thị hiếu đều giống nhau giữa các
địa bàn trong toàn tỉnh Đồng Nai cho nên họ đã ban hành chính sách giá thống nhất trong
toàn tỉnh. Ví dụ trong năm 2011, ban lãnh đạo Viễn thông Đồng Nai đã ban hành chính
sách giá dịch vụ lắp đặt đường truyền Internet cáp quang FiberVNN thống nhất trong
toàn tỉnh Đồng Nai (≥ 1.200.000 đồng/line) áp dụng cho cả các doanh nghiệp vừa, nhỏ và
cả các đại lý Internet. Dịch vụ này phù hợp với các đối tượng là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, các đại lý Internet. Điều này đã gặp phải một số vấn đề sau đây:
GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
22

 Viettel, EVN và FPT đã ban hành gói cước từ 500.000 đồng – 800.000 đồng –
1.000.000 đồng – 1.200.000 đồng/line áp dụng cho tất cả các khách hàng trong
toàn tỉnh Đồng Nai tùy khách hàng lựa chọn gói cước nào.
 Chất lượng của các đối thủ cạnh tranh thì không bằng chất lượng của Viễn thông
Đồng Nai nhưng hầu đại lý Internet, các công ty nhỏ lại muốn gắn đường truyền

Internet cáp quang với giá rẻ, không quan t âm nhiều tới chất lượng đường truyền
vì cho rằng chất lượng đường truyền gần như tương đương giữa các đối thủ cạnh
tranh. Trong đó, các đại lý Internet là đặc biệt quan tâm tới chất lượng giá cả, thậm
chí sẵn sàng bỏ đối nhà cung cấp dịch để ký hợp đồng với nhà cung cấp dịch vụ
khác nếu thấy giá rẻ hơn.
 Đối với những doanh nghiệp vừa thì lại quan tâm tới chất lượng và không quan
tâm nhiều đến giá cả.
 Tại thành phố Biên Hòa thì tập trung nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhiều đại lý
Internet; tại huyện Nhơn Trạch, huyện Long Thành thì tập trung nhiều doanh
nghiệp vừa và nhỏ, ít đại lý Internet; tại một số huyện như Long Khánh, Định
Quán, Tân Phú thì có rất ít doanh nghiệp, ngược lại những nơi này lại có nhiều đại
lý Internet; t ại các huyện còn lại thì vừa có một ít doanh nghiệp vừa và nhỏ, vừa
có một số đại lý Internet.

Qua một số thông tin nói trên ta thấy:
 Thị trường đã có sự phân loại theo đối tượng khách hàng và theo khu vực khác
nhau.
 Các đối thủ cạnh tranh tuy chất lượng đường truyền không bằng Viễn thông Đồng
Nai nhưng đã biết linh hoạt ban hành chính sách giá với nhiều gói cước tùy khách
hàng lựa chọn.

Kết quả là tuy chất lượng đường truyền của các đối thủ cạnh tranh không bằng với
Viễn thông Đồng Nai nhưng họ đã chiếm được số lượng khách hàng đáng kể, trong khi
Viễn thông Đồng Nai rất chật vật trong việc kiếm được khách hàng mặc dù trong nội bộ
đã có nhiều chính sách thưởng cho tập thể, cá nhân khi kiếm được khách hàng mới. Điều
này cũng dễ hiểu, đứng giác độ kinh doanh t hì các đối thủ cạnh tranh đã đáp ứng được
phần lớn nhu cầu, thị hiếu thị trường dịch vụ viễn thông cho nên đã thu được khá lớn số
lượng khách hàng, còn Viễn thông Đồng Nai chỉ thu hút được phần lớn khách hàng có
quy mô vừa thôi. Đứng ở giác độ phép biện chứng duy vật của triết học M ác thì cho thấy
trong chính sách định giá nói trên thì Viễn thông Đồng Nai đã bị ảnh hưởng bởi tư tưởng

duy tâm chủ quan, duy ý chí. Tư tưởng chỉ đạo của lãnh đạo về giá đã thoát ly điều kiện
hiện thực khách quan (điều kiện, nhu cầu, thị hiếu khác nhau giữa các đối tượng khách
hàng và giữa các thị trường khác nhau) nên việc kinh doanh mới không thu hút được đa
số các đối tượng khách hàng mà Viễn thông Đồng Nai muốn nhắm tới.

- Tuy nhiên, khi thực hiện chức năng hoạch định, các nhà quản trị đã nhận thức
được mâu thuẫn giữa “tính nghiêm minh” và “tính linh hoạt” của kế hoạch trong doanh
nghiệp. Vào tháng 8/2011, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã quyết định điều
chỉnh lại nhiều chỉ tiêu kế hoạch cho phù hợp với khả năng thực tế của doanh nghiệp
trong thời gian 5 tháng thực hiện còn lại. Trên cơ sở đó, Viễn thông Đồng Nai đã tiến
hành phân bổ lại chỉ tiêu mới phù hợp hơn cho các trung tâm trực thuộc. Điều này thể
hiện các nhà quản trị đã nhận thức được quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập trong phép biện chứng duy vật của triết học Mác. Tuy nhiên, nhận thức này cũng
GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
23

chưa trọn vẹn, cụ thể là đến tháng 8/2011 thì chỉ tiêu doanh thu được điều chỉnh lại cho
phù hợp với khả năng thực tế là tốt nhưng chỉ tiêu chi phí lại đòi hỏi phải cắt giảm đi
50% so với kế hoạch ban đầu trong khi chỉ còn chưa đầy 5 tháng thì đúng là “ép người
quá đáng”. Có một số trung tâm đến tháng 8/2011 đã chi thực tế vượt trên chỉ tiêu kế
hoạch mới thì còn gần 5 tháng thì làm sao mà hoàn thành được chỉ tiêu chi phí (?!). Cho
nên đã dẫn đến tình trạng một số trung tâm đã phải cắt giảm m ột khoản chi phí cần thiết
phải chi trong năm 2011 sang năm 2012 mới chi. Điều này đã gây ra một số tình trạng rối
loạn trong sản xuất kinh doanh vì việc cần thiết, gần như bắt buộc nhưng lại không được
chi tiền để thực hiện, đặc biệt là một số chi phí sửa chữa, đẩy một số bộ phận của một số
trung tâm vào tình trạng “dở khóc, dở cười”. Đây cũng là m ột phần biểu hiện của tư
tưởng duy tâm chủ quan, duy ý chí cần phải được khắc phục.

2/ Thực trạng vận dụng phép biện chứng duy vật khi thực hiện chức năng tổ chức

- Có một nguy ên t ắc trong quản trị khi tiến hành thực hiện chức năng tổ chức đó
là: mục tiêu nào thì cơ cấu nấy. Đứng ở giác độ phép biện chứng duy vật của triết học
M ác thì ta phải hiểu quan điểm biện chứng trong triết học Mác đó là mục tiêu của doanh
nghiệp có quan hệ biện chứng với việc xây dựng cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp. Và
nhiều nhà kinh tế trên thế giới cũng đồng ý rằng nếu ta xây dựng cơ cấu phù hợp với mục
tiêu thì doanh nghiệp mới có cơ hội thành công cao trong quản lý doanh nghiệp. Trái lại
thì sẽ gây lãng phí, thậm chí có thể thất bại. Thế nhưng từ khi chia tách giữa bưu chính và
viễn thông (năm 2008) đến nay, cơ cấu tổ chức của Viễn thông Đồng Nai vẫn không hề
thay đổi trong khi ai cũng thấy rất rõ ràng rằng 3 năm qua đã có rất nhiều thay đổi trong
ngành viễn thông, công nghệ mới ra đời (tạo ra dịch vụ mới cạnh tranh với dịch vụ cũ của
đơn vị), nhu cầu, thị hiếu của khách hàng đã thay đổi rất nhiều, dẫn đến mục tiêu kinh
doanh cũng đã thay đổi theo từng thời kỳ. Nhận thức được điều này, Viễn thông Hồ Chí
M inh đã thay đổi cơ cấu ngay từ năm 2009 do vậy Viễn thông Hồ Chí Minh đã có thể
hoạt động khá hiệu quả và cạnh tranh khá tốt với các đối thủ cạnh tranh như Viettel, FPT,
EVN,… tại thị trường thành phố Hồ Chí Minh. Điều đó cho thấy các nhà quản trị Viễn
thông Đồng Nai chưa nhận thức sâu sắc quan điểm biện chứng trong phép biện chứng
duy vật của triết học Mác. Họ đã bị rơi vào quan điểm siêu hình xem cơ cấu là bất biến,
là không thay đổi, họ cũng bị rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm, xem cái cũ là tốt nhất, là
hoàn hảo nhất cho nên không muốn thay đổi.
- Trong công t ác tổ chức, ban lãnh đạo đã thấy được sự thiếu nhân viên kinh doanh
nhưng lại thừa công nhân dây máy. Nhận biết được điều này là quan trọng, nhưng giải
quyết bài toán này như thế nào thì lại là một vấn đề không đơn giản. Trong thời gian qua,
do chưa hiểu rõ quan điểm biện chứng cũng như nguyên tắc toàn diện trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn của triết học Mác đối với công tác tổ chức cho nên ban lãnh đạo
Viễn thông Đồng Nai đã thực hiện đơn giản là yêu cầu các trung tâm trực thuôc phải
bằng mọi cách cắt giảm 20% lực lượng công nhân dây máy chuyển thành nhân viên kinh
doanh. Điều này xét ở góc độ nhân sự thì cũng có cái hay, nhưng xét trên quan điểm biện
chứng, cũng như dựa trên nguyên tắc toàn diện trong triết học Mác thì chưa được hợp lý.
Dẫn đến hậu quả là một số nơi công nhân dây máy chưa quen với việc bán hàng cho nên
hiệu quả kinh doanh không cao mà đôi khi còn gây chán nản cho nhân viên, không hài

lòng đối với khách hàng. Việc chủ quan duy ý chí dễ dàng dẫn đến không hiệu quả và
lãng phí cho doanh nghiệp.
- Hiện tại trong việc phân công chức năng nhiệm vụ kinh doanh cho các trung t âm
thì ban lãnh đạo cũng chưa nhận thức được nguyên tắc toàn diện của triết học Mác dẫn
đến việc phân công bán sim, thẻ cho 3 trung tâm bị trùng lắp tại thị trường thành phố
GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
24

Biên Hòa (giữa các trung tâm: Trung tâm 2, Trung tâm Tin học, Trung tâm Dịch vụ
khách hàng), ví dụ tại Pouchen, sau khi Trung tâm Dịch vụ khách hàng tới chào bán sim,
thẻ điện thoại di động Vinaphone của Viễn thông Đồng Nai thì Trung tâm 2 lại tiếp tục
tới mời chào bán sim, thẻ điện thoại di động Vinaphone của Viễn thông Đồng Nai. Tình
trạng tương tự cũng xảy ra khi bán hàng cho Trường Đại học Lạc Hồng. Điều này gây
lãng phí nguồn nhân lực và chi phí cho doanh nghiệp và gây phản cảm cho khách hàng.
M ột ví dụ khác là Sau khi Trung tâm 2 chào thẻ game cho các dại lý Internet tại thành
phố Biên Hòa thì Trung tâm Tin Học đã tới chào cho đại lý lần nữa nhưng với giá thấp
hơn. Điều này cho thấy ban lãnh đạo đôi khi lại xuất phát từ nguy ện vọng chủ quan để
phân công nhiệm vụ cho các trung tâm thực hiện, họ đã coi nhẹ “sự tồn tại” của sự vật
khách quan, họ đã bị rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Mác và Lên Nin đã dạy chúng ta rằng,
chúng t a cần phải xuất phát từ sự vật tồn tại khách quan để rút ra những quy luật trong đó
để hướng dẫn cho hành động của chúng ta. Do đó nếu các nhà quản lý nhìn vào thực tế để
tiến hành phân công nhiệm vụ thì sẽ không dẫn đến trường hợp “dẫm chân nhau” như
vậy.
Dick Cacson, một nhà quản trị nổi tiếng của M ỹ đã chỉ ra rằng chỉ có những doanh
nghiệp nào làm tốt công tác tổ chức thì hoạt động sản xuất kinh doanh mới t huận lợi và
đạt hiệu quả cao. Muốn vậy thì ít nhất các nhà quản trị không được vi phạm những lý
luận căn bản của triết học Mác.

3/ Thực trạng vận dụng phép biện chứng duy vật khi thực hiện chức năng điều

khiển
- Trong công tác tuyển dụng, các nhà quản trị Viễn thông Đồng Nai cũng chưa
phân tích hết các mặt thực tế trong doanh nghiệp như khi có nhu cầu về tuyển dụng lao
động cho vị trí hoặc công việc nào đó thì các nhà quản trị đã không thấy được rằng bên
cạnh việc đó, doanh nghiệp lại thừa người ở một số lĩnh vực khác cho nên dẫn đến việc
vừa thiếu người, vừa thừa người: thừa người ở bộ phận này, thiếu người ở bộ phận kia;
thừa người làm việc kém, thiếu người lao động chất lượng cao;… Qua đây cho thấy
nguyên tắc toàn diện trong triết học Mác rất quan trọng, nó giúp ta có cái nhìn mang tính
hệ thống trong toàn doanh nghiệp, không vì cứ thiếu là tuyển vào, gây lãng phí cho doanh
nghiệp.
- Trong công tác đào tạo, Viễn thông Đồng Nai đã xây dựng được quy trình đào
tạo khá tốt: xuất phát từ tình hình thực tế nhu cầu về công việc hoặc nhu cầu về bồi
dưỡng để tạo cán bộ nguồn theo quy hoạch thì từng phòng ban, trung tâm trực thuộc sẽ
lập đề xuất vào cuối năm trên cơ sở đó, Phòng Tổ chức cán bộ - Lao động tiền lương sẽ
tổng hợp thành kế hoạch đào tạo cho năm sau. Năm sau sẽ căn cứ vào kế hoạch đào tạo
đã xây dựng hoặc yêu cầu đào tạo đột xuất trong năm theo đề xuất của các phòng ban
hoặc các trung t âm trực thuộc, Phòng Tổ chức cán bộ - Lao động tiền lương sẽ tiến hành
tổ chức các buổi huấn luyện cho can bộ công nhân viên. Điều này cho thấy Viễn thông
Đồng Nai đã nhận thức rõ được nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật
của Mác. Theo quan điểm của nguyên lý về sự phát triển thì các nhà quản lý của Viễn
thông Đồng Nai đã xem sự vận động của doanh nghiệp là theo hướng đi lên, từ thấp tới
cao, từ đơn giản tới phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Cho nên các nhà
lãnh đạo đã tiến hành nghiên cứu từ yêu cầu thực tế để phát hiện ra những nhân tố tích
cực; những con người còn yếu cần bổ khuyết và tổ chức đào tạo, bồ dưỡng để đẩy nhanh
sự phát triển đi lên của doanh nghiệp. Phát triển nguồn nhân lực là vấn đề cốt lõi, là điều
kiện cơ bản để doanh nghiệp có thể phát huy được nội lực và phát triển bền vững. Tại
VTĐN hiện nay, số lượng nhân viên kỹ thuật chiếm 70%, đại đa số là công nhân lành
GVHD: TS. LÊ THI KIM CHI NHÓM 3
ĐẾ TÀI 1: VẬN DỤNG PBCDV VÀO THỰC TIỄN QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG N AI Trang
25


nghề có kinh nghiệm trong thực tiễn nhưng lại chậm tiếp thu những công nghệ mới. Do
công nghệ liên tục phát triển, mặt bằng trình độ CB.CNV cũng phải nâng lên để đáp ứng
được với công nghệ mới như Công nghệ Inernet băng thông rộng FiberVNN, Metronet ,
vì vậy VTĐN thường xuyên tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ để nâng cao trình
độ cho đội ngũ CB.CNV, xây dựng đội ngũ lao động có trình độ và kỹ năng nghiệp vụ
vững vàng, phẩm chất đạo đức lối sống tốt, cơ cấu lao động (theo trình độ học vấn, giới
tính, độ tuổi, ) hợp lý nhằm đáp ứng được nhu cầu phát triển và giúp VTĐN phát huy
thế và lực trong giai đoạn mới, trong năm 2011 đã tổ chức 18 lượt đào tạo ngắn hạn cho
CB.CNV.
- Phát triển nhân lực thông qua việc vận dụng quy luật thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập là hết sức cần thiết bởi quy luật này là “hạt nhân” của phép biện
chứng duy vật. Quy luật này được vận dụng để đánh giá năng lực nhân viên qua mỗi đợi
tập huấn hay tổng kết, động viên các nhân viên lấy thất bại làm bài học để tạo sự thành
công, lấy cái xấu để nhấn mạnh tuyên dương gương người tốt, lấy cái tốt để phê bình việc
xấu
- Hiện tại trong Viễn thông Đồng nai có hiện tượng: có người làm việc rất nhiều,
rất hiệu quả nhưng cuối cùng vẫn lãnh lương tương đương với người có cùng nhiệm vụ
nhưng chỉ làm ít việc, làm việc kém hiệu quả. Vậy bản chất của hiện tượng này là gì? Do
ban lãnh đạo của Viễn thông Đồng Nai chưa t ìm được bản chất của hiện tượng này cho
nên mới dẫn tới hiện tượng trên. Để xóa bỏ hiện tượng trên, đòi hỏi các nhà quản trị phải
tiến hành nghiên cứu, tìm ra bản chất của nó và thay đổi bản chất đó thì mới xóa đi được
hiện tượng đó.
- Bằng những giải thưởng có giá trị và những ghi nhận những sáng kiến của cán
bộ công nhân viên, Viễn thông Đồng Nai đã tổ chức rất tốt và rất t hành công việc khuyến
khích, ủng hộ các ý tưởng sáng tạo từ cán bộ công nhân viên trong đơn vị. Điều này cho
thấy các nhà quản trị Viễn thông Đồng Nai đã thấy được và tôn trọng các giá trị người
lao động, đã coi người lao động là chủ nhân sáng tạo, là lực lượng hết sức tiến bộ.

4/ Thực trạng vận dụng phép biện chứng duy vật khi thực hiện chức năng kiểm tra

Do Viễn thông Đồng Nai vẫn chưa xây dựng được bảng mô tả công việc cho từng
vị trí công việc, từng người cho nên việc kiểm tra hiệu quả thực hiện công việc của từng
người hiện nay rất khó, chủ yếu dựa vào bản đăng ký công việc của tháng trước của từng
chuyên viên hoặc từng phòng chức năng để đánh giá hiệu quả công việc của chuyên viên
đó hoặc của phòng đó. N goài ra Viễn thông Đồng Nai vẫn chưa tổ chức được việc kiểm
tra bao quát được hết tất cả các mặt trong quản lý như hiện nay hầu hết là tập trung kiểm
tra kế toán, kiểm tra công tác tổ chức và kiểm tra một số công tác khác theo yêu cầu của
Nhà nước như kiểm tra về công tác phòng chống cháy nổ, kiểm tra an toàn vệ sinh lao
động,… trong khi còn rất nhiều mặt khác, lĩnh vực khác vẫn chữa được kiểm tra như
kiểm tra hiệu quả của một dự án, chương trình nào đó. Điều này cho thấy doanh nghiệp
vẫn chưa nhận thức rõ được nguyên tắc toàn diện trong triết học Mác. Nguyên tắc này đòi
hỏi các nhà quản trị phải xem doanh nghiệp như là một hệ thống do đó khi tiến hành
kiểm tra thì phải đảm bảo kiểm tra được bao quát tất cả các mặt, tất cả các cán bộ công
nhân viên, của tất cả các phòng ban, bộ phận. Từ đó, các nhà quản trị phải rút ra được
mặt bản chất, mối liên hệ cơ bản trong quá trình thực hiện công việc của từng cán bộ
công nhân viên, từng bộ phận, phòng ban.

III/ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VẬN D ỤNG HIỆU QUẢ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY
VẬT TRONG QUẢN LÝ TẠI VIỄN THÔNG ĐỒNG NAI

×