Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Đổi mới cơ chế quản lí nhà nước đối với doanh nghiệp sau đăng kí thành lậpx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.25 KB, 8 trang )

ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
SAU ĐĂNG KÝ THÀNH LẬP
Bùi Anh Tuấn
Cục Quản lý đăng ký kinh doanh
1. Sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
sau đăng ký thành lập
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: “Nhà nước tạo môi trường
pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để
phát triển; bằng chiến lược quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử
dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế-xã hội,
khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh
tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, kiểm soát, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh
theo quy định của pháp luật…”. Quán triệt chủ trương này, công tác quản lý
nhà nước đối với doanh nghiệp trong những năm qua đã đánh dấu nhiều cải
cách đáng ghi nhận, đặc biệt là trong việc dỡ bỏ các rào cản gia nhập thị trường
của doanh nghiệp. Nhờ đó, trong 5 năm 2006-2010, đã có 343,8 nghìn doanh
nghiệp đăng ký thành lập (cao gấp 2,3 lần so với 5 năm 2001-2005) với tổng số
vốn đăng ký ước đạt 2.600 nghìn tỷ đồng (cao gấp 8,4 lần so với cùng 5 năm
2001-2005). Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khu vực doanh nghiệp,
công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp đã được đổi mới, khắc phục
nhiều yếu kém của phương thức quản lý trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung
trước đây, từng bước hoàn thiện theo hướng phù hợp với nền kinh tế thị trường,
góp phần quan trọng vào sự phát triển và nâng cao vai trò của các doanh
nghiệp trong nền kinh tế; đồng thời phát huy các nguồn nội lực, khơi dậy ý
thức lập nghiệp cho người dân, tạo thêm nhiều cơ hội cho doanh nghiệp, doanh
nhân lựa chọn hình thức kinh doanh, lĩnh vực, ngành, nghề kinh doanh, làm
phong phú thêm sản phẩm hàng hóa, dịch vụ phục vụ nhu cầu xã hội, tạo thêm
công ăn việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý nhà nước
đối với doanh nghiệp sau đăng ký thành lập cũng còn hạn chế, thể hiện ở một
số điểm sau:


a) Công tác xây dựng khung khổ pháp lý còn chưa được hoàn thiện
Hệ thống pháp luật về doanh nghiệp – công cụ quản lý quan trọng nhất –
hiện đã được đổi mới nhưng còn tồn tại nhiều vấn đề cần sửa đổi, bổ sung. Đây
là một trong những tác nhân cơ bản làm cho quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp chưa phù hợp với cơ chế thị trường, trong đó cơ bản là chưa thực sự
đảm bảo tính nhất quán, tính đồng bộ, tính ổn định, tính khả thi và tính tiên
liệu, cụ thể là:
Thứ nhất, tính nhất quán của hệ thống pháp luật về doanh nghiệp không
cao; thiếu đồng bộ giữa các lĩnh vực khác nhau, giữa pháp luật và tổ chức thực
hiện pháp luật. Chức năng tạo lập cơ sở pháp lý cho hoạt động của doanh
nghiệp đã bị phân tán và đôi khi thiếu sự thống nhất, thậm chí mâu thuẫn về
nội dung giữa các quy định pháp luật của các cấp quản lý khác nhau. Vì vậy,
thực tế là có nhiều quy định được ban hành nhưng không có đủ điều kiện thực
hiện hoặc thực hiện không hiệu quả do thiếu sự đồng bộ giữa các quy định
khác nhau.
Thứ hai, pháp luật về doanh nghiệp còn hay thay đổi, tính tiên liệu chưa
cao. Nguyên nhân là do quá trình soạn thảo chưa có sự chuẩn bị đúng mức và
chưa nắm bắt đầy đủ về các quy luật vận động của đối tượng và phạm vi điều
chỉnh theo kinh tế thị trường. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật về
doanh nghiệp còn bị động, nhằm giải quyết nhu cầu ngắn hạn trước các hiện
tượng thực tế đang diễn ra, chưa gắn kết với công tác dự báo và thiếu hẳn một
chương trình tổng thể xây dựng pháp luật doanh nghiệp một cách dài hạn và
đồng bộ. Vì vậy, nhiều văn bản pháp luật vừa ban hành đã phải sửa đổi, bổ
sung, thậm chí không áp dụng được trong thực tế v.v…
b) Thiếu cơ chế công khai, minh bạch, vừa làm giảm hiệu suất của công
tác quản lý, vừa gây ra tình trạng nhũng nhiễu
Không chỉ thiếu công khai, minh bạch trong xây dựng, hướng dẫn thực
hiện pháp luật mà công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau đăng ký
thành lập còn thiếu công khai, minh bạch trong công tác phổ biến, tuyên
truyền, cung cấp thông tin pháp luật, thông tin doanh nghiệp. Do thiếu sự sắp

xếp, bố trí hợp lý, dễ tiếp cận nên mặc dù các văn bản quy phạm pháp luật
được công bố trên cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước, song, các
doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận, nắm bắt văn bản
pháp luật, đặc biệt là trong các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện. Thiếu thông
tin doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước rất khó khăn trong việc quản lý hoạt
động của doanh nghiệp trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình. Chính
sự “mập mờ” về chính sách, pháp luật làm phát sinh nạn nhũng nhiễu, của một
bộ phận cán bộ, công chức trong quá trình quản lý doanh nghiệp.
2
2
2
c) Chưa có cơ chế khuyến khích các đối tượng khác tham gia quản lý, giám
sát doanh nghiệp
Kinh nghiệm quốc tế chỉ ra rằng, một mô hình khung “hậu kiểm” đối với
doanh nghiệp bao gồm bảy thành tố: Kiểm tra giám sát nội bộ doanh nghiệp,
Kiểm tra giám sát của chủ nợ, Kiểm tra giám sát của Hiệp hội người tiêu dùng,
Kiểm tra giám sát của đối thủ cạnh tranh, Kiểm tra giám sát của các hội nghề
nghiệp, Kiểm tra giám sát của xã hội và công luận và cuối cùng mới là Kiểm
tra giám sát của Nhà nước. Tuy nhiên, thực tế trong những năm qua cho thấy
vai trò giám sát của các nhóm đối tượng trên về hoạt động của doanh nghiệp
còn hạn chế do chưa được nhận thức đúng đắn cũng như thiếu các công cụ,
thông tin hỗ trợ hoạt động giám sát. Về khía cạnh Nhà nước, hệ thống cung cấp
thông tin doanh nghiệp còn thiếu và chưa tương xứng với sự phát triển của thị
trường. Việc chưa phát huy được vai trò kiểm tra, giám sát của các thành tố
khác đã làm giảm hiệu lực của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
d) Chức năng của các cơ quan quản lý nhà nước đôi khi còn chồng chéo,
chưa rõ ràng
Trên thực tế, tình trạng chồng chéo, không rõ ràng về chức năng quản lý
nhà nước đối với doanh nghiệp của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND xảy ra
phổ biến do cơ chế phân định chức năng và giao nhiệm vụ quản lý nhà nước

được quy định trong nhiều nhóm văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, gồm:
các luật và văn bản quy phạm pháp luật về các loại hình doanh nghiệp; trong
các luật và văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ; trong các luật và văn
bản quy phạm pháp luật khác và trong văn bản điều hành của các cơ quan quản
lý nhà nước.
Việc phân công, phân cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong
lĩnh vực thanh kiểm tra thực thi pháp luật và chính sách đối với các loại hình
doanh nghiệp chưa thực sự rõ ràng. Gần như tất cả các cơ quan quản lý ngành,
lĩnh vực hoặc địa phương đều có chức năng thanh, kiểm tra trong ngành, lĩnh
vực hoặc địa phương nhưng do chưa rõ trách nhiệm và nghĩa vụ cũng như sự
phối hợp của các cơ quan, dẫn tới vừa chồng chéo, phiền hà, vừa buông lỏng
trong nhiều khâu, nhiều lĩnh vực.
e) Chậm đổi mới về phương thức quản lý, áp dụng công nghệ thông tin
trong quản lý
Trong thời gian qua, việc áp dụng công nghệ thông tin trong thực hiện
công tác hàng ngày của cơ quan nhà nước nhìn chung đã có sự tiến bộ. Giao
3
3
3
dịch giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp trong một số lĩnh vực như
đăng ký kinh doanh, thuế… đã được thực hiện thông qua mạng internet. Tuy
nhiên, việc đổi mới về công nghệ trong quản lý của các cơ quan nhà nước nói
chung còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Thiếu
đồng bộ trong áp dụng công nghệ thông tin khiến cho trao đổi, chia sẻ thông
tin giữa các cơ quan nhà nước chưa thực sự thông suốt, doanh nghiệp phải kê
khai một nội dung nhiều lần cho nhiều cơ quan nhà nước, gây khó khăn cho cả
doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý nhà nước.
2. Quan điểm đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau đăng ký
thành lập

Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần XI vừa qua đã xác định
chức năng cơ bản của Nhà nước trong giai đoạn tới là: Đổi mới, nâng cao vai
trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế trong giai đoạn mới trên cơ sở tôn trọng và vận dụng đầy đủ, đúng đắn
các quy luật và cơ chế vận hành của kinh tế thị trường. Nhà nước tập trung duy
trì ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng phát triển, tạo điều kiện để nền kinh tế
phát triển nhanh, bền vững. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách
kinh tế; đổi mới công tác xây dựng, thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội. Phân định rõ hơn chức năng quản lý kinh tế của Nhà
nước và chức năng của các tổ chức kinh doanh vốn và tài sản nhà nước.
Để thực hiện mục tiêu nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý
nhà nước đối với doanh nghiệp sau đăng ký thành lập nhằm tăng cường việc
tuân thủ pháp luật và ngăn chặn, giảm thiểu tình trạng vi phạm pháp luật của
doanh nghiệp, trong thời gian tới, cần thống nhất triển khai trên cơ sở một số
quan điểm sau:
Một là, thống nhất, đồng bộ và liên thông công tác quản lý nhà nước giữa
cấp trung ương và địa phương, giữa quản lý doanh nghiệp theo ngành và theo
lãnh thổ, trong đó chú trọng công tác tăng cường xây dựng và kết nối trực
tuyến cơ sở dữ liệu thông tin có tính pháp lý, chuẩn xác về doanh nghiệp;
Hai là, đổi mới nội dung quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp theo
lộ trình, dần từng bước và đồng bộ với các giải pháp có liên quan như cải cách
hành chính, cải cách luật pháp, đổi mới nguồn nhân lực, cơ cấu lại khu vực
doanh nghiệp, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thực hiện cam kết quốc tế… theo
hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế;
4
4
4
Ba là, hoàn thiện bộ máy thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên cơ sở
kế thừa, nâng cao hiệu quả hoạt động và không làm gián đoạn hoạt động của

các cơ quan quản lý nhà nước;
Bốn là, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Nhà
nước phải song hành với phát huy vai trò kiểm tra giám sát trong nội bộ doanh
nghiệp, kiểm tra giám sát của bạn hàng, đối thủ cạnh tranh, chủ nợ của doanh
nghiệp, kiểm tra, giám sát của người tiêu dùng, của các hiệp hội, kiểm tra giám
sát của xã hội và công luận.
3. Nguyên tắc đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau đăng ký
thành lập
Nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau đăng ký thành lập
bao gồm các nội dung sau: ban hành và thực hiện văn bản pháp luật chung cho
mọi loại hình doanh nghiệp sau đăng ký thành lập; giám sát, kiểm tra, thanh tra
việc tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp; xử lý các hành vi vi phạm pháp luật
của doanh nghiệp, của cá nhân và tổ chức có liên quan theo quy định của pháp
luật. Để thực hiện tốt các nội dung nêu trên, quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp trong thời gian tới cần tuân thủ một số nguyên tắc sau:
Một là, quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp phải được bảo đảm.
Quản lý nhà nước phải tôn trọng và tạo điều kiện để vận hành các quy luật
khách quan của cơ chế thị trường đối với doanh nghiệp, như quy luật cung cầu,
quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị… Cơ quan quản lý nhà nước có trách
nhiệm đảm bảo quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, hạn chế sử dụng
biện pháp hành chính để can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp.
Hai là, nhà nước quản lý doanh nghiệp bằng pháp luật, chấm dứt quản lý
bằng các mệnh lệnh hành chính. Pháp luật về doanh nghiệp phải là công cụ để
khuyến khích doanh nghiệp tự do phát triển, thể hiện nguyên tắc doanh nghiệp
tự do kinh doanh tất cả các ngành, nghề pháp luật không cấm. Công cụ chính
sách hành chính của quản lý nhà nước cần được hạn chế trong phạm vi điều
tiết vĩ mô, đảm bảo tiến bộ, công bằng trong phân bổ các nguồn lực và phân
phối lại kết quả sản xuất kinh doanh.
Ba là, trách nhiệm quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp phải được phân

định rõ ràng gắn liền với chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà
nước. Doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực, chuyên
ngành chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước nào thì cơ quan đó chịu trách
nhiệm quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp đó. Đối với doanh nghiệp hoạt
5
5
5

×