Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Kinh nghiệm pháp luật các nước về Hợp tác xã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.09 KB, 28 trang )

Mở đầu 2
Kinh nghiệm pháp luật các nước về Hợp tác xã 3
1. Về định nghĩa hợp tác xã 3
2. Mục đích của Luật hợp tác xã 4
3. Điều kiện đăng ký kinh doanh 7
4. Tư cách xã viên 11
5. Về giá trị của khối lượng sản phẩm dịch vụ, xã viên phải sử
dụng
13
6. Về mức vốn góp tối đa của một thành viên 15
7. Ủy ban/ Ban điều hành 15
8. Chủ nhiệm HTX 18
9. Giám đốc điều hành/Trưởng ban quản trị 18
10.Chính sách ưu đãi, phát triển HTX 19
11. Về phân chia lợi nhuận 21
12.Về kiểm toán HTX 22
13.Tranh chấp/ Trọng tài 23
14.Vi phạm và hình phạt 24
15.Thanh tra, kiểm tra 24
16.Chấm dứt hoạt động 25
Tổng kết 26
1
Mở đầu
Hợp tác xã là một loại hình kinh tế tập thể khá phổ biến, hoạt động trên nhiều
lĩnh vực đời sống xã hội và hiện diện ở các nền kinh tế có trình độ phát triển khác
nhau.Mô hình hợp tác xã lần đầu tiên xuất hiện tại châu Âu vào thế kỷ 19, chủ yếu tại
Anh và Pháp.
Kinh nghiệm thế giới cho thấy, đến nay hợp tác xã vẫn tỏ ra là mô hình hoạt
động hiệu quả, phù hợp với điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Và quan trọng
hơn nữa, thông qua hợp tác xã, các hộ nông dân, các doanh nghiệp nhỏ hợp tác với
nhau, tăng sức mạnh để đối phó với khó khăn và tránh các nguy cơ thua lỗ cao.Theo


nghiên cứu gần đây được tiến hành bởi ICA – Liên minh hợp tác xã thế giới do Tổ
chức Lao động quốc tế (ILO) đề nghị, các HTX vững vàng trong khủng hoảng hơn
bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào. Các HTX tài chính duy trì được tình trạng tài
chính lành mạnh; các HTX nông nghiệp ở nhiều quốc gia vẫn hoạt động có lợi nhuận;
các HTX tiêu dùng đều báo cáo tăng doanh số và các HTX của những người lao động
ngành nghề vẫn tăng trưởng.
Tại Việt Nam, thống kê năm 2010 cho thấy, đến 01/07/2010, có tổng số 14.500
hợp tác xã trên toàn quốc,tổng doanh thu và thu nhập khác của hợp tác xã cả nước
năm 2010 đạt 28.404 tỷ đồng, bình quân khoảng 1.958 triệu đồng/hợp tác xã, đóng
góp khoảng 181 tỷ đồng thuế thu nhập doanh nghiệp cho Nhà nước; tổng lợi nhuận
sau thuế đạt gần 1.115 tỷ đồng. Đây là một con số không nhỏ, chứng tỏ mô hình này
hoạt động hết sức phổ biến tại nước ta, đóng vai trò quan trọng trong tiến trình phát
triển kinh tế. Để định hướng và quản lý mô hình này một cách hiệu quả đòi hỏi một
hành lang pháp lý hoàn chỉnh nhằm điều chỉnh các hoạt động của nó. Luật Hợp tác xã
được ban hành năm 2003 đã mang lại nhiều kết quả khả quan, tuy nhiên vẫn còn tồn
tại nhiều điểm cần bổ sung và sửa đổi.
2
Kinh nghiệm pháp luật các nước về Hợp tác xã
Dưới đây là kinh nghiệm pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt
tập trung vào các vấn đề đang được quan tâm trong Luật hợp tác xã sửa đổi.
1.Về định nghĩa hợp tác xã
Khái niệm về HTX ở Bangladesh, Ấn độ và Malaysia thuần chất là khái niệm
pháp lý. Nó khẳng định rằng: “HTX là một tổ chức được đăng ký hoặc chuẩn bị được
đăng ký theo bất kỳ luật nào liên quan đến tổ chức HTX trong thời hạn do các Bang
quy định”.
Theo Luật HTX Fiji, HTX được định nghĩa là “HTX là một hiệp hội của những
người tự nguyện gia nhập nhằm đạt được mục đích chung thông qua việc thành lập
một tổ chức quản lý dân chủ, góp vốn bằng nhau và chấp nhận chia sẻ rủi ro và lợi
nhuận từ các hoạt động do các thành viên chủ động tham gia, phải đăng ký (tạm thời
hoặc đầy đủ) theo luật này là HTX sơ cấp hay thứ cấp, các tổ chức cấp cao hoặc HTX

quốc gia đăng ký theo quy định tại điều này”.
Theo Luật HTX Indonesia: “HTX có nghĩa là một tổ chức kinh tế của những
người với nội dung (đặc trưng) xã hội có các cá nhân hoặc pháp nhân là thành viên, tổ
chức kinh tế nông nghiệp như là một tổ chức cùng cố gắng tập thể dựa trên sự tương
hỗ lẫn nhau (điều 3). Luật này cũng định nghĩa các chức năng của HTX tại điều 4:
i. Như là một cơ quan đấu tranh cho sự chuyển biến về tiêu chuẩn bảo trợ xã
hội của người dân.
ii. Vì sự dân chủ hoá của nền kinh tế quốc gia;
iii. Như là một đơn vị kinh tế chủ chốt của người dân Indonesia.
iv. Như là một công cụ để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và tăng cường sự
Bộ Luật HTX Philippines tại điều 3 quy định khái niệm chung về HTX như
sau: “Một HTX là một hiệp hội của người dân được đăng ký vì mục tiêu lợi nhuận
chung, những người này gia nhập một cách tự nguyện nhằm đạt được mục đích về
kinh tế xã hội theo luật, cùng góp vốn bằng nhau và chấp nhận chia sẻ rủi ro và lợi
nhuận cũng như thực thi các nguyên tắc quốc tế chung về HTX”. Theo Luật
3
Philippines cũng quy định mục đích của HTX là : “Mục đích đầu tiên của HTX là
nhằm cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các thành viên của mình và thông qua đó để
gia tăng thu nhập và tích luỹ, đầu tư, năng suất, và sức mua và thúc đẩy việc phân
phối công bằng phần lợi ích thu được thông qua việc sử dụng tối đa kinh tế theo quy
mô, chia sẻ giá cả và rủi ro, đồng thời cũng đóng góp cho các hoạt động từ thiện của
HTX.
Một HTX có thể cung cấp cho xã viên lợi ích kinh tế tối đa, dạy họ các hiệu
quả nhất để thực hiện công việc theo kiểu HTX, và truyền bá các HTX và ý tưởng
mới trong kinh doanh và quản lý, cho phép những nhóm người thu nhập thấp nâng
cao vị thế của mình.
Luật HTX Thái định nghĩa HTX là “một nhóm người thành lập nhằm thực hiện
những hoạt động giúp đỡ lẫn nhau và được đăng ký theo luật này”.
Như vậy, nhìn chung, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế do thành viên lập ra
nhằm mục đích hỗ trợ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình, từ đó giúp thành

viên cải thiện hoạt động kinh tế, thu nhập, nâng cao mức sống của thành viên; thành
viên vừa là chủ sở hữu vừa là người sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã. Hợp
tác xã trước hết phải bảo đảm cung ứng sản phẩm, dịch vụ cho thành viên theo nhu
cầu của thành viên. Đây chính là nội hàm “hợp tác” của khái niệm “hợp tác xã”. Việc
đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về hợp tác xã sẽ giúp phân biệt rõ ràng sự khác biệt
giữa Hợp tác xã và Doanh nghiệp, nhằm có những hình thức quản lý và thúc đẩy hiệu
quả hoạt động của mô hình này.
2. Mục đích của luật Hợp tác xã
Luật HTX của 5 quốc gia Bangladesh, Ấn đọ, Sri Lanka, Hàn quốc và Nhật bản
có quy định về mục đích cả Luật.
Bangladesh
4
Lời nói đầu Luật HTX Bangladeshi có đoạn: “Xét thấy rất thích hợp để thiết
lập những quy định xa hơn về thành lập và hoạt động của HTX và khuyến khích sự
tiết kiệm, tự hỗ trỡ lẫn nhau giữa các cá nhân bằng những phương thức phù hợp với
nhu cầu và lợi ích chung, nhằm đạt được điều kiện sống tốt đẹp hơn và có phương
thức sản xuất kinh doanh tốt hơn, do đó có thể dẫn đến kết quả là phải sửa đổi luật
liên quan đến HTX ở Bangladesh”.
Fiji
Chương 4 quy định mục đích của HTX:
i. HTX nhằm mục đích cải thiện lợi ích kinh tế và xã hội của xã viên thông qua
việc cung cấp những dịch vụ hiệu quả mà xã viên có nhu cầu và có thể sử dụng được.
ii.Mục đích chính của HTX không phải tối đa hoá lợi nhiận mà là dịch vụ cho
xã viên và một HTX sẽ điều hành dựa trên các nguyên tắc kinh doanh hợp lý.
Ấn độ
Ở Ấn độ mỗi bang đều có luật riêng của mình bên cạnh luật chung của liên
bang. Do đó mục đích của luật liên bang là “nhằm thống nhất và sửa đổi bổ sung các
luật liên quan đến HTX hoạt động phục vụ lợi ích của xã viên ở nhiều bang”.
Sri Lanka
Luật chính điều chỉnh HTX là luật HTX số 5 năm 1972, lời nói đầu của luật

này như sau: “một luật nhằm cung cấp cho sự phát triển HTX và thống nhất và sửa
đổi bổ sung luật liên quan đến việc thành lập và quản lý HTX, và cung cấp những vấn
đề liên quan”. Đã có một vài lần sửa đổi bổ sung luật này, và lần sửa đổi đem lại lợi
ích nhiều nhất cho HTX là Luật sửa đổi số 11 năm
1992, theo đó, mọi người có thể thấy các cuộc họp cấp bộ được tổ chức dưới sự
đỡ đầu của VP ICA khu vực châu Á, Thái bình Dương đã gây ảnh hưởng đáng kể đến
sự tự do hoá trong quyền quản lý đăng ký kinh doanh. Lời nói đầu luật 1972 được bổ
sung bằng cách thay thế từ “hành chính” cho từ “quản lý”; các nhà chính trị tích cực
được bảo vệ trong việc nắm giữ quyền điều hành HTX hoặc được bầu vào Uỷ ban/
hội đồng quản trị; điều khoản cho phép những xã viên không đầy đủ được ký hợp
5
đồng kinh doanh với HTX; luật tại chương XIA cung cấp “các điều khoản đặc biệt áp
dụng cho HTX có vốn nhà nước, và tại đây cơ quan ĐKKD vẫn giữ quyền kiểm soát,
tuy nhiên những quyền này cũng đã được giảm bớt nhiều”.
Một sự tiến bộ quan trọng đáng ghi nhận nữa là việc sửa đổi lần thứ 13 của
Hiến pháp Sri Lanka và việc thành lập Hội đồng cấp tỉnh, chủ thể của việc hợp tác đã
được chuyển cho Hội đồng cấp tỉnh, và chính quyền trung ương chỉ năm giữ những
vẫn đề về chính sách, mục tiêu quốc gia và HTX có xã viên ở nhiều tỉnh. Rất nhiều
hội đồng cấp tỉnh tới nay đã ban hành Quy chế riêng về hợp tác, một số đó tăng
cường quyền lực của Bộ trưởng (cấp tỉnh)/ cơ quan ĐKKD một cách đáng kể.
Hàn Quốc
Luật HTX NN Hàn Quốc khẳng định: Mục đích của luật này là nhằm bảo bệ sự
phát triển cân bằng của kinh tế quốc gia thông qua nâng cao sản lượng nông sản và
thúc đẩy địa vị kinh tế và xã hội của nông dân thông qua các tổ chức HTX độc lập
của người nông dân”.
Nhật Bản
Điều 1 Luật HTX NN Nhật Bản khẳng định mục đích của luật là: “Luật nhằm
mục đích khuyến khích sự phát triển của hệ thống HTX nông dân, qua đó tăng năng
suất nông nghiệp và vị trí kinh tế xã hội của người nông dân, cũng như đảm bảo sự
phát triển của nền kinh tế quốc gia”.

Từ đó, có thể nhận ra rằng các mục đích được quy định tại luật HTX Ấn độ rõ
ràng hơn, Lời nói đầu của Luật HTX Băngladét có tầm nhìn rộng hơn thông qua
tuyên bố về HTX. Trong Luật Hàn quốc, dưới phần tham khảo được áp dụng đối với
HTX NN, lại tiếp tục khẳng định mục đích là tăng cường vị thế kinh tế xã hội của
người nông dân thông qua HTX độc lập. Mặt khác, mục đích của Luật Nhật bản là
nhằm phát triển hệ thống HTX của người nông dân mà cuối cùng cũng có mục đích
giống như luật Hàn quốc. Mặc dù ý định của luật HTX của hai quốc gia là gần như
nhau nhưng cái nhìn của những nhà lập pháp người nhật về mặt từ ngữ, có vẻ xuất
phát từ quan điểm của những HTX tự chủ. Việc khác nhau trong cách tiếp cận có thể
6
là do cách dùng từ khi dịch từ tiếng Hàn quốc sang tiếng Anh. Trong luật SriLanka
mục đích là để phát triển HTX và thể chế và quản lý HTX. Từ thể chế và quản lý có
vẻ như không đúng là từ luật mà cơ bản là một phương tiện để cung cấp tư cách pháp
lý và khung điều hành cho HTX mà thôi. Theo đó lần sửa đổi năm 1992, mục dích
của Luật được sửa đổi thành “Thể chế và điều hành HTX”. Tuy nhiên, có thể hợp lý
hơn nếy mục đích của luật là “hỗ trợ thành lập, đăng ký và phát triển HTX”.
3.Điều kiện đăng ký kinh doanh
Tất các HTX trước khi tiến hành các hoạt động đều phải được ĐKKD theo quy
dịnh của pháp luật. Tất cả các luật đều quy định sử dụng từ “HTX” mà không ĐKKD
là trái luật. Vì vậy đánh giá thủ tục ĐKKD được đề cập và các điều kiện để được
ĐKKD sẽ được bàn đến như sau.
Bangladesh
Việc ĐKKD HTX sẽ được cơ quan ĐKKD HTX Registrar of the
Cooperative Societies (RCS) xem xét và trong vòng 90 ngày phải có quyết định về
việc ĐKKD(điều 10;4). Một số điều kiện về tài chính đối với HTX tín dụng và HTX
có mối quan hệ không giới hạn là vô lý. Trong trường hợp RCS từ chối cấp ĐKKD,
Chính phủ Bangladesh có thể sẽ xem xét lại. Trường hợp bị từ chối bởi cán bộ
ĐKKD tại Phục lục 4 (1)có thể được kháng cáo.
Fiji
Phần 7 Luật HTX Fiji quy định:

a. HTX sơ cấp cần có tổi thiểu 10 thành viên (là cá nhân hoặc tổ chức);
b. Tối thiểu 2 HTX sơ cấp có thể thành lập 1 HTX thứ cấp;
c. Tối thiểu 2 HTX sơ cấp hoặc thứ cấp có thể thành lậpp một tổ chức cấp trên.
Cơ quan ĐKKD có thể trì hoãn việc ĐKKD, Lý do của việc trì hoãn này phải
phù hợp với các quy định pháp luật và phải được nêu trong thư trì hoãn. Trong thời
gian trì hoãn ĐKKD, HTX sẽ được theo dõi. Thời gian theo dõi, thử thách tối đa 2
năm, trong thời gian đó nếu HTX bù đắp được những thiếu sót thì có thể sẽ nhận
được chứng nhận ĐKKD đầy đủ từ cơ quan ĐKKD. Có một điều khoản quy định có
7
thể kháng cáo lại quyết định của cơ quan ĐKKD trong vòng 1 tháng.Trong thời gian
thử thách HTX có thể thực hiện tất cả các chức năng như một HTX thực sự.
Theo phần 12.2, cơ quan ĐKKD phải cấp giấy chứng nhận ĐKKD hoặc từ chối
trong vòng 2 tháng.
Ấn độ
Theo luật HTX liên bang Ấn độ, các điều kiện ĐKKD như sau:
8
a. Trong trường hợp HTX liên bang tối thiểu phải có 50 thành viên (là cá
nhân) ở mỗi bang;
b. Trong trường hợp HTX liên bang trong đó thành viên là các HTX, phải
có đại diện tối thiểu hai HTX, được đăng ký ở hai bang khác nhau; và
c. Trong trường hợp HTX liên bang có thành viên là một HTX liên bang
và HTX khác, phải có người đại diện là của từng HTX trên.
Cơ quan ĐKKD theo phần 7 (3) được cho phép xem xét cấp ĐKKD trong
vòng 6 tháng và có thể yêu cầu chính quyền TW gia hạn thêm. Trong vòng 60
ngày có thể gửi đơn kháng cáo lại quyết định của cơ quan ĐKKD theo phàn
90/92.
Một mô hình Luật HTX đã được giới thiệu với sự đánh giá cao của chính
phủ TW và một số bang trong thực thi. Những đặc trưng của Luật này được nêu
tại Phụ lục.
Indonesia

Theo điều 44 Luật HTX Indonesia, những sáng lập viên của HTX phải
trình bản sao văn bản ghi nhớ cho cơ quan hành chính được chỉ định bởi Bộ
trưởng. Thời gian tối đa cho phép để ĐKKD là 6 tháng. Tuy nhiên trong trường
hợp cơ quan hành chính từ chối cấp ĐKKD cho HTX phải có thông báo chính
thức và giải thích lý do từ chối cho những người sáng lập trong vòng 3 tháng.
Những người này có thể kháng cáo lên Bộ trường và sẽ được giải quyết trong
vòng 3 tháng. Quyết định của Bộ trưởng sẽ là quyết định cuối cùng. Không có
quy định khác về điều kiện ĐKKD như số thành viên tối thiểu,… ngoại trừ việc
Điều lệ HTX phải phù hợp với luật.
Nhật bản
Ở NHật Bản, luật quy định cụ thể thủ tục để tàhnh lập một HTX NN. Tối
thiểu 15 nông dân để thành lập một HTX sơ cấp. Theo điều 60, việc ĐKKD sẽ
đựơc giải quyết trong vòng 2 tháng kể từ khi nộp đơn. Trong trường hợp trong
9
vòng 2 tháng nhà chức trách không trả lời cho phép hoặc không cho phép
ĐKKD, HTX có thể yêu cầu đăng ký và được cấp chứng nhận ĐKKD (Điều
61).
Hàn Quốc
Đăng ký KD HTX ở Hàn quốc được điều chỉnh taij tại điều 16, 17 và 18
luật HTX NN Hàn Quốc. Có 2 điều kiện quan trọng để ĐKKD. Thành viên tối
thiểu phải là 20 người và Điều lệ phải phù hợp với Điều lệ mẫu do Bộ trưởng
ban hành, nếu có thay đổi gì phải được Bộ trưởng thông qua. Điều này dường
như là rất chặt chẽ. Xã viên HTX có quyền thay đổi điều lệ tuy nhiên điều này
phải phù hợp với Luật.
Malaysia
Số thành viên tối thiểu đối với công ty sơ cấp ở Malaysia là 100 người và
50 người đối với Hiệp hội nông dân. Không có thời hạn cho việc cơ quan
ĐKKD quyết định về việc ĐKKD. Chỉ trong trường hợp bị từ chối, kháng cáo
phải được gửi tới Bộ trưởng trong vòng 2 tháng.
Nepal

Ở Nepal, tổ chức cơ sở có thể được đăng ký với số lượng thành viên tối
thiểu là 25 người và tổ chức cấp hai (thứ cấp) là 5 HTX. HTX sẽ được Giám đốc
điều hành ĐKKD nếu sau khi điều tra, Điều lệ hợp lệ. Không có quy định về
giới hạn thời gian ĐKKD.
Philippines
HTX ở Philippines có tối thiểu 15 xã viên. Cơ quan phát triển HTX phải
xem xét cấp ĐKKD trong vòng 30 ngày. Trong trường bị từ chối, HTX có thể
kháng cáo lên Văn phòng Chủ tịch trong vòng 90 ngày. Nếu trong vòng 30 ngày
cơ quan ĐKKD chưa giải quyết ĐKKD cho HTX, HTX được coi là đã được
đăng ký.
Sri Lanka
Ở Sri Lanka số lượng xã viên tối thiểu là 10. Có quy định thủ tục ĐKKD
cụ thể nhưng không có quy định về giới hạn thời gian cấp hay không cấp ĐKKD
10
của cơ quan ĐKKD. Cơ quan ĐKKD chỉ cấp chứng nhận ĐKKD khi xét thấy
HTX có khả năng kinh tế. Trong trường hợp bị từ chối ĐKKD, HTX có thể
kháng cáo lên Bộ trưởng.
Thailand
Các thủ tục và điều kiện ĐKKD được quy định tại các luật HTX khác
nhau và một điều thú vị được quy định trong Luật HTX là “ HTX được ĐK sẽ
không gây hại đến hệ thống HTX”.
Có thể nhận thấy rằng có sự giống hoặc khác nhau về quá trình ĐKKD
giữa các quốc gia trong khu vực. Trong nhiều trường hợp quyền tự quyết của cơ
quan ĐKKD là lớn, điều này dễ dẫn đến nhiều vẫn đề trong thực tiễn. Do vậy có
thể thấy sẽ là lý tưởng nếu quá trình ĐKKD được quy định như sau:
a. Nên có thời hạn để cơ quan ĐKKD giải quyết vụ việc. Hiện nay nó
khoảng từ 30 ngày (Philippines) và 2 tháng (Nhật Bản) đến 6 tháng (Ấn độ và
Indonesia), trong khi đó một số quốc gia không có quy định
(Bangladesh, Malaysia, Nepal, Sri Lanka, Thailand). Nên có quy định về giới
hạn thời gian, có thể là khoảng 60 ngày.

b. Trong trường quên không ra quyết định cấp ĐKKD hoặc không cấp
ĐKKD, trong thời hạn cho phép, HTX có thể được cấp ĐKKD, như trường hợp
của Philippines; hoặc việc từ chối có thể dẫn đến việc HTX kháng cáo lên cấp
trên trong thời hạn cho phép.
c. Việc xem xét khả năng tồn tại của HTX không nên giao cho cơ quan
ĐKKD. Giải pháp của Fiji là hợp lý hơn cả, khi đó cơ quan ĐKKD trong trường
hợp nghi ngờ có thể chỉ cấp giấy chứng nhận ĐKKD tạm thưòi cho HTX trong
thời hạn tối đa 2 năm, trong thời gian đó, HTX phải chứng tỏ mình. Nếu HTX
không được hoạt động hợp lý giấy chứng nhận ĐKKD tạm thời sẽ bị chấm dứt.
Cán bộ ĐKKD nên để tâm đến 2 vẫn đề đầu tiên: Đó là việc áp dụng và điều lệ
có phù hợp với luật HTX và tuyên bố của HTX hay không, và; liệu xã viên có
khả năng sử dụng các dịch vụ do HTX dự định thành lập đưa ra.
4.Tư cách xã viên
11

×