Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp tác xã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.03 KB, 52 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển kinh tế là một yếu tố rất quan trọng trong việc phát triển xã
hội, nó quyết định sự bền vững và giàu mạnh của một quốc gia, sự tồn vong của nền
chính trị. Khi một quốc gia có một nền kinh tế phát triển mạnh thì sẽ thúc đẩy cả hệ
thống chính trị phát triển. Đối với Việt Nam của chúng ta, là một nước đang phát
triển, bên cạnh đó xuất phát điểm của Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu,
nên gặp rất nhiều khó khăn, chính vì lẽ đó việc phát triển kinh tế là không thể xem
nhẹ. Trong khi đó, quá trình hội nhập kinh tế thế giới, các nước đòi hỏi Việt Nam
phải có một nền kinh tế thị trường, cho nên, việc cấp thiết mà Nhà nước ta cần làm
ngay là tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, từng bước xóa bỏ độc quyền Nhà
nước trên nhiều lĩnh vực, xây dựng một nền pháp lý minh bạch, hợp lý để từ đó tạo
điều kiện cho các nền kinh tế phát triển về quy mô, cũng như tiềm lực về tài chính.
“Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chu nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức
sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở
hữu tư nhân trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”[1]. Chính vì
vậy, nên hợp tác xã sẽ đóng một vai trò quan trọng trong phát triền kinh tế của đất
nước.
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, tạo điều kiện bằng
nhiều chủ trương, đường lối, chính sách để tạo điều kiện cho hợp tác xã phát triển,
phù hợp với điều kiện tình hình mới. Tuy nhiên, việc áp dụng, thực thi các chính
sách của Đảng, Nhà nước về hợp tác xã còn gặp nhiều khó khăn. Hiệu quả về mặt
kinh tế của hợp tác xã trong thời gian qua mang lại chưa cao, năng lực cạnh tranh
của hợp tác xã so với các loại hình doanh nghiệp còn hạn chế, nhiều hợp tác xã làm
ăn còn kém hiệu quả. Mặt khác, nền pháp lý về hợp tác xã vẫn còn nhiều bất cập,
vướng mắc chưa được tháo gỡ. Hiện nay, chúng ta đã từng bước hoàn thiện hệ
thống pháp lý về hợp tác xã (Luật hợp tác xã năm 2003) và Chính phủ cũng đã có
nhiều văn bản đề ra những chính sách, hoạch định đường lối phát triển thành phần
kinh tế này. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện
nhằm tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế hợp tác xã phát triển một cách tương xứng với


vị trí mà Đảng và Nhà nước ta định ra.
Thêm vào đó, do bản thân xuất thân trong một gia đình nông dân, chuyên
canh tác lúa nước với quy mô nhỏ và thấy được tầm quan trọng của mô hình kinh tế
hợp tác xã rất gần gủi với người nông dân, tạo điều kiện cho gia đình và bản thân có
một cái nhìn mới về hợp tác xã thời hiện đại. Từ những yêu cầu đó, đã thúc đẩy tôi
chọn đề tài “Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp tác xã”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm hiểu rõ những quy định của pháp luật về đăng ký thành lập và kinh
doanh hợp tác xã. Qua đó, đưa ra những nhận xét, đánh giá về mô hình hợp tác xã
và đề xuất những giải pháp cải thiện pháp luật và chính sách cho loại hình kinh tế
này.
3. Phạm vi nghiên cứu
Luật hợp tác xã năm 2003 quy định rất nhiều vấn đề về hợp tác xã, trong
Niên luận này, chỉ tập trung nghiên cứu một cách khái quát về những vấn đề chung
nhất của hợp tác xã và những nội dung quy định cụ thể về đăng ký thành lập và kinh
doanh hợp tác xã. Để từ đó, có cái nhìn tổng quan và đề ra các giải pháp phát triển
kinh tế hợp tác xã.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu Niên luận do thu thập nhiều nguồn tài liệu khác
nhau, nên sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như: phương pháp
phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, so sánh và phân
tích luật viết.
5. Bố cục
Bố cục đề tài niên luận “Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp tác
xã” gồm ba phần:
- Phần mở đầu
- Phần nộidung
+ Chương 1: Khái quát chung về hợp tác xã
+ Chương 2: Những quy định của pháp luật hiện hành về hợp tác xã
+ Chương 3: Thực trạng và giải pháp

- Kết luận


CHƯƠNG 1:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP TÁC XÃ

1.1. Lịch sử hình thành và phát triển hợp tác xã
Vương quốc Anh, quê hương của hợp tác xã. Hợp tác xã đầu tiên được ra
đời tại Anh Quốc vào năm 1844, đến nay đã qua 165 năm, với nhiều thăng trầm,
nhiều khủng hoảng của nền kinh tế thị trường trên thế giới nhưng phong trào hợp
tác xã vẫn tồn tại và phát triển mạnh ở 4 châu lục, 96 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Đặc biệt, là sự ra đời của Liên hợp tác xã Quốc tế (International Cooperative
Aliancen, viết tắt là ICA) vào ngày 18 tháng 8 năm 1895 tại London – thủ đô của
Vương quốc Anh. ICA là tổ chức phi chính phủ lâu đời nhất, lớn nhất và tồn tại liên
tục kể từ khi thành lập, hiện là tổ chức tham vấn có uy tín và tiếng nói có trọng
lượng trong Hội đồng kinh tế - xã hội của Liên hợp quốc (UN). Năm 1988, Việt
Nam chính thức tham gia thành viên của tố chức ICA.
Ở Việt Nam, kinh tế hợp tác, hợp tác xã chính thức được Đảng và Nhà nước
quan tâm và phát triển từ rất sớm. Bắt đầu phát triển từ khi đất nước được giành độc
lập (1945), đưa nhân dân ta thoát khỏi cảnh áp bức, nô lệ của thực dân đế quốc. Tuy
nhiên, tùy thuộc vào mỗi giai đoạn phát triển phong trào kinh tế hợp tác xã được
hình thành và phát triển có khác nhau. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế hợp
tác xã ở nước ta có thể sơ lược như sau[2]:
Giai đoạn trước hòa bình lập lại ở Miền Bắc (1954): Giai đoàn này các
hợp tác xã tổ chức với mô hình đơn giản, trình độ thấp, hợp tác xã được hình thành
trong giai đoạn này chủ yếu ở vùng căn cứ cách mạng Việt Bắc. Ngày 08/3/1948, từ
một lô sản xuất chai lọ và ống tiêm cho ngành y tế phục vụ cho yêu cầu kháng chiến
ở vùng ATK (vùng an toàn khu ở Thái Nguyên), hợp tác xã Thủy tinh Dân chủ
được thành lập. Mặc dù mới ra đời, năng lực hạn chế, nhưng đây là cột mốc để xây
dựng và phát triển kinh tế hợp tác xã sau này.

Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975: Đây là giai đoạn khó khăn của
Việt Nam, vừa xây dựng phát triển kinh tế Miền Bắc, vừa chi viện giải phóng Miền
Nam thông nhất đất nước.
Tại Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (khóa II)
tháng 8/1955 đã đề ra chủ trương xây dựng thí điểm một số hợp tác xã nông nghiệp.
Trong 3 năm thực hiện thí điểm, chúng ta xây dựng được 45 hợp tác xã và trên
100.000 tổ đổi công. Đến tháng 4/1959, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 16 (khóa
II) đã quyết định chính thức đường lối, phương châm, chính sách hợp tác hóa nông
nghiệp và Trung ương đã triệu tập nhiều hội nghị nhằm thúc đẩy phong trào hợp tác
hóa. Đến cuối năm 1960, đại bộ phận nông dân ở Miền Bắc đã tham gia hợp tác xã
bậc thấp. Năm 1961, Nhà nước công bố điều lệ hợp tác xã công nghiệp Việt Nam
làm căn cứ thống nhất để củng cố tổ chức và cải tiến quản lý hợp tác xã. Sau năm
1972, tình hình kinh tế của các hợp tác xã nhìn chung còn rất nhiều khó khăn, do
thiếu hẳn về con người và vật chất.
Giai đoạn từ năm 1976 đến trước khi Luật hợp tác xã năm 1996:
Giai đoạn này có thể coi là thời kỳ khó khăn nhất trong quá trình phát triển
hợp tác xã ở nước ta; số lượng hợp tác xã bị giảm mạnh, từ 73.490 hợp tác xã năm
1987 đến năm 1996 giảm xuống còn 18.607 hợp tác xã. Mặt khác, sự giúp đỡ của
Nhà nước cho kinh tế hợp tác, hợp tác xã cũng thiếu kịp thời và không theo kịp tình
hình phát triển, nên tình hình phát triển loại hình kinh tế hợp tác xã thời kỳ này là
hết sức khó khăn.
Giai đoạn khi có Luật hợp tác xã năm 1996 đến trước khi có Luật hợp
tác xã năm 2003:
Năm 1996 Quốc hội đã thông qua Luật hợp tác xã và có hiệu lực kể từ ngày
01/01/1997. Luật hợp tác xã năm 1996 ra đời tạo hành lang pháp lý cho các hợp tác
xã hoạt động trong điều kiện kinh tế mới của cơ chế thị trường. Để chỉ đạo quá trình
thực thi Luật hợp tác xã, Ban bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị 68-CT/TW,
Chính phủ đã ban hành một số Nghị định thi hành Luật hợp tác xã: Nghị định 02
quy định về chức năng quản lý Nhà nước đối với hợp tác xã, Nghị định 15 quy định
về các chính sách ưu tiên đối với hợp tác xã, Nghị định 16 quy định về chuyển đổi

hợp tác xã cũ theo Luật. Đây là lần đầu tiên chúng ta có một hệ thống pháp luật khá
hoàn chỉnh về hợp tác xã, tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của hợp
tác xã trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến thời điểm năm
2000, có tổng số 11.791 hợp tác xã đang hoạt động theo Luật.
Ngày 18/3/2003 Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần 5 khóa IX ra Nghị
quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập
thể. Sau hơn một năm triển khai đã có hơn 100.000 tổ hợp tác và hơn 1.000 hợp tác
xã mới ra đời. Chỉ riêng năm 2003 thành lập mới được 1.034 hợp tác xã. Nhiều
chính sách quy định, phát triển về kinh tế hợp tác, hợp tác xã tiếp tục ban hành và
sửa đổi tạo tiền đề cho việc ban hành Luật hợp tác xã mới, hoàn thiện hơn.
Giai đoạn từ khi có Luật hợp tác xã năm 2003 đến nay:
Ngày 26/11/2003, tại kỳ hợp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật
hợp tác xã năm 2003 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2004. Luật hợp tác xã
năm 2003 ra đời trên tinh thần kế thừa và bổ sung Luật tác xã năm 1996 tạo điều
kiện cho khinh tế hợp tác xã phát triển tốt trong điều kiện tình hình mới như ngày
nay. Sau khi Luật hợp tác xã được ban hành, Chính phủ ban hành nhiều Nghị định
và các Bộ ban hành nhiều thông tư hướng dẫn đảm bảo Luật được thi hành một
cách đồng bộ. Đây là cơ sở pháp lý tương đối hoàn chỉnh thúc đẩy hợp tác xã phát
triển xứng tầm với vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân.
Đến giữa năm 2008, ước tính kinh tế tập thể có 17.977 hợp tác xã, liên hợp
tác xã và 350.000 tổ hợp tác. Hiện nay, kinh tế hợp tác xã không ngừng tăng lên về
số lượng cũng như chất lượng, kinh tế hợp tác xã đã góp phần nhiều vào sản phẩm
quốc nội, góp phần thúc đẩy kinh tế hộ phát triển, tăng thu nhập cho xã viên và
người lao động, góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
1.2. Bản chất của hợp tác xã
Bản chất hợp tác xã và nhận thức đúng đắn bản chất hợp tác xã là vấn đề đặc
biệt quan trọng. Lý luận về hợp tác xã ở nước ta hiện nay đã có bước phát triển cơ
bản so với giai đoạn trước đổi mới, thể hiện thông qua các quan điểm, chủ trương
của Đảng làm nền tảng cho việc ban hành khung khổ thể chế mới cho hợp tác xã
kiểu mới ra đời và phát triển. Luật hợp tác xã năm 2003 ra đời tạo điều kiện phát

triển mới về chất cho hợp tác xã, đóng góp ngày càng quan trọng trong việc phát
triển kinh tế - xã hội đất nước.
Giải thích về bản chất hợp tác xã, Bác viết: Nếu chúng ta đứng riêng ra, thì
sức nhỏ, mà làm không nên việc. Thí dụ mỗi người mang một cái cột, một tấm tranh
ở riêng mỗi người một nơi, thì lều chẳng ra lều, nhà chẳng ra nhà. Nhóm những cột
ấy, tranh ấy, sức ấy, làm ra một cái nhà rộng rãi bề thế rồi anh em ở chung với
nhau ấy là hợp tác. Lại thí dụ 10 người muốn ăn cơm, mỗi người một nồi, nấu riêng
một bếp, nấu rồi ăn riêng; ăn rồi ai nấy dọn dẹp riêng của người nấy, thế thì mất
bao nhiêu củi, nước, công phu và thì giờ. Hợp tác xã là “góp gạo thổi cơm chung”
cho khỏi hao của, tốn công, lại có phần nhiều vui vẻ.
Qua thực tiễn phát triển hợp tác xã ở nước ta, có nhiều cái nhìn về bản chất
hợp tác xã còn thiển cận, nhận thức của nhiều người về hợp tác xã chưa rõ ràng,
chưa thống nhất, thậm chí còn lệch lạc, khi cho rằng hợp tác xã là một số cá nhân,
góp vốn để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu của thị
trường kết hợp với một số nguyên tắc hợp tác xã như tham gia tự nguyện, quản lý
dân chủ, … Quan niệm về hợp tác xã như vậy thực chất là mang tính chủ quan duy
ý chí, áp đặt, sẽ làm cho hợp tác xã trở nên hình thức, phát triển không bền vững.
Ngày nay, bản chất hợp tác xã đã được thể hiện khá sinh động “Hợp tác xã
là hiệp hội hay là tổ chức tự chủ của cá nhân liên kết với nhau một cách tự nguyện
nhằm đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung về kinh tế, xã hội và văn hóa
thông qua một doanh nghiệp được sở hữu chung và được kiểm soát một cách dân
chủ”.
Suy cho cùng, hạt nhân bản chất của hợp tác xã là: đồng sở hữu, đồng sử
dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã hoặc đồng là người lao động trong hợp tác
xã.
1.3. Vai trò và giá trị của hợp tác xã
Như Đảng và Nhà nước ta khẳng định: Xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong đó, lấy nền kinh tế
Nhà nước và kinh tế tập thể giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc dân. Chính vì
vậy, hợp tác xã là thể chế không thể thiếu được góp phần vào sự phát triển đất nước

hài hòa trên tất các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Mặt khác, hợp tác
xã còn góp phần thúc đẩy kinh tế hộ gia đình, kinh tế tư nhân, cá thể ở cả vùng nông
thôn và thành thị.
Ngày nay, ở Việt Nam số lượng hợp tác xã không ngừng tăng lên về số
lượng cũng như chất lượng, càng nhiều người tham gia vào hợp tác xã, góp phần tạo
ra một lượng sản phẩm lớn phục vụ cho xã hội, nâng cao đời sống xã viên và cộng
đồng, hỗ trợ kinh tế hộ phát triển, giải quyết việc làm, qua đó góp phần phát triển
kinh tế của đất nước.
Trong quá trình hình thành và phát triển hợp tác xã, các thành viên hợp tác
xã nhận thức ngày càng sâu sắc hơn vai trò và lợi ích của hợp tác xã mang lại và từ
đó lan tỏa vào cộng đồng xã hội, nhất là hiện nay ngày càng nhiều người tham gia
vào hợp tác xã, từ đó tạo nên giá trị văn hóa cao đẹp của hợp tác xã.
Giá trị mà hợp tác xã mang lại bao gồm: Tự giúp đỡ; Tự chịu trách nhiệm;
Dân chủ; Công bằng; Bình đẳng; Đoàn kế.
Ngoài ra, hợp tác xã còn mang những giá trị đạo đức như: tính trung thực, sự
cởi mở, trách nhiệm xã hội và sự quan tâm đến cộng đồng.
1.4. Khái niệm hợp tác xã, đặc điểm hợp tác xã
1.4.1. Khái niệm hợp tác xã
Khái niệm hợp tác xã là một nội dung rất quan trọng, vì nó xác định bản
chất của hợp tác xã và làm căn cứ cho toàn bộ nội dung pháp lý của pháp luật về
hợp tác xã.
Ngày 23 tháng 9 năm 1945, Đại hội liên minh hợp tác xã quốc tế (ICA) lần
thứ 31 tổ chức tại Manchester – Vương quốc Anh đã định nghĩa về hợp tác xã như
sau: “Hợp tác xã là hiệp hội hay là tổ chức tự chủ của cá nhân liên kết với nhau
một cách tự nguyện nhằm đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung về kinh tế, xã
hội và văn hóa thông qua một tổ chức kinh tế cùng nhau làm chủ chung và kiểm tra
dân chủ” [3].
Trong bản khuyến nghị phát triển hợp tác xã của Tổ chức lao động quốc tế
(ILO) được thông qua tại kỳ hợp thứ 90, diễn ra và tháng 6 năm 2002 tại Geneve –
Thụy Sỹ định nghĩa về hợp tác xã: “Hợp tác xã là một tổ chức tự chủ của những

người tình nguyện liên kết lại với nhau nhằm thỏa mãn những nhu cầu và mong
muốn về kinh tế, văn hóa và xã hội thông qua việc thành lập một doanh nghiệp sở
hữu tập thể, góp vốn bình đẳng, chấp nhận việc chia sẽ lợi ích và rủi ro, với sự
tham gia tích cực của các thành viên trong điều hành và quản lý dân chủ”[4].
Nhiều nước trên thế giới cũng đưa ra định nghĩa hợp tác xã cho phù hợp với
điều kiện nước mình. Ở Việt Nam, căn cứ vào tình hình, đặc điểm kinh tế - xã hội
của đất nước và kế thừa những quy định của Luật hợp tác xã năm 1996. Nước ta
định nghĩa về hợp tác xã như sau: “Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tập thể do cá
nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích
chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy
sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện
có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp
nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vị vốn điều
lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp
luật”[5].
Luật hợp tác xã năm 2003 đã kế thừa quy định của Luật hợp tác xã năm
1996, tiếp tục khẳng định vai trò của kinh tế hợp tác xã, là một tổ chức kinh tế mang
tính cộng đồng và xã hội sâu sắc. Việc thành lập nên hợp tác xã dựa trên nhu cầu,
lợi ích chung của các thành viên nhằm phát huy sức mạnh tập thể, cùng giúp nhau
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, nâng cao đời sống vật chất cho xã viên và
góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
So với Luật hợp tác xã năm 1996, thì ở Luật hợp tác xã năm 2003 đã mở
rộng hơn về đối tượng tham gia hợp tác xã đó là cá nhân, hộ gia đình và pháp nhân.
Điều này cũng tạo điều kiện cho kinh tế hợp tác xã phát triển về số lượng và mở
rộng thêm nguồn vốn đầu tư, tham gia vào hợp tác xã.
1.4.2. Đặc điểm hợp tác xã
- Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế, hoạt động như một loại hình doanh
nghiệp: Là một tổ chức kinh tế, các hợp tác xã được thành lập để tiến hành

các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Lợi nhuận và mục tiêu quan trọng nhất
trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ như tất cả các loại hình
doanh nghiệp khác.
Việc xác định hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tạo điều kiện cho hợp tác xã
bình đẳng trước pháp luật với các loại hình doanh nghiệp khác và đảm bảo quyền
lợi vật chất chính đáng của các thành viên hợp tác xã.
- Mỗi hợp tác xã có số lượng thành viên từ bảy người trở lên:
Số lượng thành viên tham gia hợp tác xã là một yếu tố quan trọng, ảnh
hưởng lớn đến quy mô tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã. Việc
quy định về số lượng thành viên và cơ cấu thành viên của hợp tác xã là một trong
những tiêu chí để phân biệt hợp tác xã với các loại hình doanh nghiệp khác.
- Các thành viên của hợp tác xã cùng góp tài sản, công sức, cùng hưởng lợi
và cùng chịu trách nhiệm:
Pháp luật quy định khá chặc chẽ giữa các thành viên khi tham gia hợp tác
xã. Mối qua hệ giữa các thành viên được hình thành trên nguyên tắc tự nguyện, bình
đẳng, tương trợ lẫn nhau và cùng hưởng lợi. Các thành viên cùng sản xuất, cùng
kinh doanh, cùng làm các dịch vụ và phân phối lợi nhận theo nguyên tắc “lời ăn, lỗ
chịu” . Các thành viên trong hợp tác xã được Nhà nước đảm bảo quyền tự chủ trong
sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, nhưng pháp luật cũng yêu cầu họ phải tự chịu trách
nhiệm về các hoạt động của mình.
1.5. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã
Nguyên tắc và hoạt động của hợp tác xã là những khuôn khổ pháp lý để xây
dựng các văn bản pháp luật về tổ chức quản lý và hoạt động của các hợp tác xã. Nó
còn là tiêu chí để phân biệt các hợp tác xã với các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác.
Căn cứ vào nền tảng Chủ nghĩa Mác – Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về
hợp tác xã, đồng thời, tiếp thu kinh nghiệm phát triển phong trào hợp tác xã quốc tế
và kế thừa những quy định của Luật hợp tác xã năm 1996, Luật hợp tác xã năm
2003 quy định nguyên tắc và tổ chức hoạt động của hợp tác xã như sau:
1.5.1. Nguyên tắc tự nguyện[6]

Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tập thể do các xã viên tự nguyện tham gia
mong muốn sử dụng dịch vụ hợp tác xã, sẵn sàng chấp nhận các nghĩa vụ thành
viên hợp tác xã, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo nếu đủ điều kiện theo
luật định. Theo đó, không ai, không tổ chức nào có thể ép người dân tham gia hợp
tác xã.
Hợp tác xã phải thực hiện nguyên tắc “tự nguyện” như là nguyên tắc đầu tiên
của hợp tác xã. Mặc dù về nguyên tắc, việc tham gia hợp tác xã là có lợi hơn hoạt
động đơn lẻ, nhưng xã viên tham gia hợp tác xã phải dựa trên cơ sở tự nguyện,
không chịu bất kỳ áp buộc nào. Chính vì lẽ đó, Luật hợp tác xã năm 2003 quy định:
“Tự nguyện: mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân đủ điều kiện theo quy định của
Luật này, tán thành điều lệ hợp tác xã đều có quyền gia nhập hợp tác xã; xã viên
hợp tác xã có quyền ra hợp tác xã theo Điều lệ hợp tác xã”.
Theo đó, bên cạnh việc tự nguyện gia nhập hợp tác xã của các xã viên, hợp
tác xã không giới hạn việc kết nạp thêm xã viên mới, đồng thời, xã viên hợp tác xã
cũng có quyền rời khỏi hợp tác xã theo quy định Điều lệ hợp tác xã nếu xét thậy
hợp tác xã không mang lại lợi ích cho mình.
1.5.2. Nguyên tắc dân chủ, bình đẳng va công khai[7]
Đây là nguyên tắc khá quan trọng để thể hiện ý tưởng và nguồn gốc hình
thành hợp tác xã. Theo nguyên tắc này: “xã viên có quyền tham gia quản lý, kiểm
tra, giám sát hợp tác xã và có quyền ngang nhau trong biểu quyết; thực hiện công
khai phương hướng sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối và những vấn đề
khác quy định trong Điều lệ hợp tác xã”.
Khi tham gia thành lập hợp tác xã, tất cả các xã viên đều hiểu biết rõ ràng
nhu cầu chung của mình về kinh tế, văn hóa, xã hội; hợp tác xã đáp ứng được nhu
cầu chung đó có hiệu quả hơn so với từng cá nhân riêng lẻ. Xã viên nào cũng nhận
thức rõ ràng như vậy và giống nhau thì đương nhiên quyết định của họ là bình đẳng.
Tất cả các xã viên cùng tham gia quản lý hợp tác xã thông qua biểu quyết, quyết
định các vấn đề của hợp tác xã. Biểu quyết của xã viên có giá trị ngang nhau. Bên
cạnh đó, xã viên có quyền đề đạt và yêu cầu Ban quản trị, Ban kiểm soát giải thích
và trả lời những vấn đề xã viên quan tâm, trong trường hợp không được trả lời, xã

viên có quyền đưa ra Đại hội xã viên để giải quyết.
Khi đề ra phương hướng hoạt động sản xuất, kinh doanh thì mọi xã viên đều
có quyền như nhau bàn bạc về việc thực hiện phương án nào sao có hiệu quả nhất
trong việc đáp ứng nhu cầu chung của xã viên. Mặt khác, hợp tác xã phải công khai
đến từng xã viên trong Đại hội xã viên hoặc thông báo bằng văn bản định kỳ trực
tiếp tới từng xã viên, nhóm xã viên cùng sinh sống theo địa bàn hoặc thông tin trên
bản tin hàng ngày tại trụ sở hợp tác xã về: kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh;
việc trích lập các quỹ; chia lãi theo vốn góp, theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp
tác xã; các đóng góp xã hội; các quyền lợi, nghĩa vụ của từng xã viên, trừ những
vấn đề thuộc về bí mật kinh doanh, bí quyết công nghệ sản xuất do Đại hội xã viên
quy định.
Với cách thức như vậy, rõ ràng hợp tác xã được quản lý một cách dân chủ
bởi các xã viên; mỗi xã viên có một lá phiếu biểu quyết như nhau; xã viên được thụ
hưởng lợi ích từ nhiều cách: vốn góp, mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã, …
Như vậy, lợi ích của hợp tác xã đều thuộc về xã viên; lợi ích được phân phối công
bằng theo nhiều sự đóng góp mà không bình quân chủ nghĩa cào bằng. Đây là
nguyên tắc mang tính tất yếu do bản chất của hợp tác xã quy định.
1.5.3. Nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi[8]
Luật hợp tác xã năm 2003 quy định: “hợp tác xã tự chủ và tự chịu trách
nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh; tự quyết định về phân phối thu
nhập. Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế và trang trải các khoản lỗ của hợp
tác xã, lãi được trích một phần vào các quỹ của hợp tác xã, một phần chia theo vốn
góp và công sức đóng góp của xã viên, phần còn lại chia cho xã viên theo mức độ
sử dụng dịch vụ của hợp tác xã”.
Xét cho cùng, hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự quản của các xã viên, mang lại
lợi ích cho xã viên, tự chủ về tài chính, thì đương nhiên tự chủ về hoạt động và
trong mọi hoạt động của mình. Hợp tác xã phải tự hạch toán sản xuất kinh doanh, tự
quyết định về bộ máy quản lý, huy động nguồn vốn chọ hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình, cũng như chấp nhận chịu những rủi ro mà trong quá trình hoạt
động sản xuất, kinh doanh mang lại trên tinh thần “lời ăn, lỗ chịu”. Không một cá

nhân, tổ chức nào có thể can thiệp vào công việc nội bộ của hợp tác xã. Bên cạnh
đó, hợp tác xã cũng tự mình phân phối lợi nhuận mà quá trình hoạt động mang lại
dựa vào vốn góp, công sức đóng góp và mức độ sử dụng dịch vụ hợp tác xã của
từng xã viên.
1.5.4. Nguyên tắc hợp tác và phát triển cộng đồng[9]
“Hợp tác” tinh thần chủ đạo của hợp tác xã, đây là đặc trưng cơ bản của loại
hình kinh tế hợp tác xã. Theo nguyên tắc này: “xã viên phải có ý thức phát huy tinh
thần xây dựng tập thể và hợp tác với nhau trong hợp tác xã, trong cộng đồng xã
hội; hợp tác giữa các hợp tác xã trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp
luật”.
Để cho hợp tác xã được phát triển mạnh và bền vững, đòi hỏi mỗi xã viên
phải luôn phát huy tinh thần xây dựng tập thể, nêu cao ý thức hợp tác, đoàn kết,
tương trợ, giúp đỡ nhau trong mọi hoạt động của hợp tác xã, cũng như của từng xã
viên, cùng nhau chăm lo xây dựng hợp tác xã, đồng thời có ý thức hợp tác trong
cộng đồng xã hội.
Kinh tế xã viên nếu đứng riêng lẻ thì sẽ yếu kém, không đủ sức cạnh tranh,
chính vì vậy, mỗi xã viên tham gia hợp tác với nhau điều đó là rất cần thiết nhưng
chưa đủ. Nếu hợp tác xã rời rạc, thiếu sự hợp tác, liên kết thì cũng giống như xã
viên đơn lẻ. Vì vậy, hợp tác xã chỉ thực sự mạnh và mạnh hơn nữa nếu chúng được
liên kết lại với nhau trên cơ sở đáp ứng lợi ích chung của các thành viên hợp tác xã.
Bên cạnh đó, hợp tác xã phải đảm bảo sự phát triển của cộng thành viên của
mình thông qua các chính sách do chính xã viên quyết định. Xã viên hợp tác xã
không chỉ thụ hưởng lợi ích kinh tế mà còn tham gia sinh hoạt đời sống tinh thần
bằng các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch, … Ngoài ra, hợp tác xã còn
góp phần phát triển đời sống dân cư trên địa bàn mình, rút ngắn cách biệt giữa nông
thôn và thành thị, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo, góp phần giải quyết mâu thuẫn
của từng xã viên, chăm lo phát triển xã hội, …Từ đó, góp phần ổn định an ninh
chính trị và trật tự an toàn tại cơ sở.
1.6. Phân biệt hợp tác xã với công ty cổ phần và công ty trách nhiệm
hữu hạn có hai thành viên trở lên

1.6.1. Những điểm giống nhau
Hợp tác xã, công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn đều là tổ chức
kinh tế có tư cách pháp nhân và đều có sự bình đẳng như nhau trước pháp luật; đều
được Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của
pháp luật.
Khi tham gia hợp tác xã, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, xã
viên hợp tác xã, thành viên công ty đều phải góp vốn theo quy định theo Điều lệ
hợp tác xã hoặc Điều lệ công ty và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa
vụ trong phạm vi vốn góp vào hợp tác xã hoặc vào công ty (đối với công ty trách
nhiệm hữu hạn là số vốn đã cam kết, đối với công ty cổ phần là số cổ phần đã mua).
1.6.2. Những điểm khác nhau
Về Mục tiêu: Mục tiêu của hợp tác xã nhằm giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau bên
cạnh mục tiêu lợi nhuận trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Còn mục tiêu
của công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn là lợi nhuận.
Về loại hình tổ chức: Hợp tác xã là tổ chức kinh tế - xã hội. Hoạt động của
hợp tác xã không chỉ hướng tới lợi ích kinh tế, mà còn quan tâm đáp ứng các nhu
cầu và nguyện vọng của xã viên về xã hội, văn hóa và các nhu cầu khác. Còn công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp, thực hiện các
hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Về sở hữu: Trong hợp tác xã có sở hữu tập thể và sở hữu xã viên. Sở hữu
tập thể của hợp tác xã gồm các nguồn vốn tích lũy từ quá trình hoạt động sản xuất,
kinh doanh, các tài sản do Nhà nước hoặc các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
tài trợ làm tài sản không chia và các quỹ không chia của hợp tác xã. Sở hữu của xã
viên là vốn góp. Còn công ty trách nhiệm hữu hạn,công ty cổ phần không có sở hữu
tập thể, chỉ có sở hữu thành viên là vốn góp cổ phần.
Về nguyên tắc quản lý: Quản lý trong hợp tác xã dựa trên cơ sở “đối
nhân”, tức là yếu tố con người sẽ quyết định đến mọi hoạt động sản xuất, kinh
doanh, tổ chức, quản lý, sự tồn tại và phát triển của hợp tác xã. Còn quản lý trong
công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty cổ phần dụa trên cơ sở “đối vốn”, nghĩa là,
trong mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, tổ chức, quản lý và vận mệnh của công

ty tùy thuộc vào tỷ lệ vốn của từng thành viên tham gia vốn góp vào Điều lệ của
công ty. Chẳng hạn, việc tổ chức Đại hội, đối với hợp tác xã phải có ít nhất 1/3 tổng
số xã viên cùng có đơn yêu cầu triệu tập Đại hội gửi Ban quản trị. Trong khi đó, đối
với công ty cổ phần là có cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu 10% số cổ phần phổ
thông liên tục ít nhất trong sáu tháng sẽ có quyền triệu tập Đại hội; công ty trách
nhiệm hữu hạn là có thành viên hoặc nhóm thành viên sở hữu trên 35% vốn Điều lệ
có quyền triệu tập Đại hội. Hoặc là trong vấn đề biểu quyết thông qua quyết định
Đại hội, với hợp tác xã thì mỗi xã viên là một phiếu bầu, còn công ty cổ phần thì số
phiếu biểu quyết phụ thuộc vào cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi biểu quyết,
công ty trách nhiệm hữu hạn thì số phiếu biểu quyết phụ thuộc vào phần vốn góp
nhiều hay ít.
Về phân phối: Trong hợp tác xã, lãi sau thuế trước hết dành để trích lập các
quỹ, trong đó quỹ phát triển sản xuất và quỹ dự phòng bắt buộc phải trích lập. Việc
phân phối cho xã viên được thực hiện dưới 3 hình thức: phân phối theo vốn góp,
theo công sức đóng góp và mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã. Còn trong công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, lãi chủ yếu dùng để phân phối theo vốn
góp.
Về mức vốn góp: Trong hợp tác xã, vốn góp tối đa của một xã viên không
được vượt quá 30% vốn điều lệ của hợp tác xã. Trong công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty cổ phần vốn góp của một thành viên và một cổ đông không bị hạn chế.
Về số lượng thành viên: Hợp tác xã: xã viên tối thiểu là 7, không hạn chế
số lượng tối đa. Đối với công ty cổ phần: tối thiểu là 3, không hạn chế số lượng.
Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn: tối thiểu là 2 và tối đa là 50.
Về chứng khoán: Hợp tác xã và công ty trách nhiệm hữu hạn không được
quyền phát hành cổ phiếu. Còn công ty cổ phần được quyền phát hành chứng khoán
ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
1.7. Quyền và nghĩa vụ của hợp tác xã
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế, hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có
tư cách pháp nhân được pháp luật quy định cho những quyền và bắt buộc phải chịu
những nghĩa vụ cụ thể. Việc quy định quyền và nghĩa vụ cho hợp tác xã tạo một

hành lang pháp lý để hợp tác xã thuận lợi trong quá trình hoạt động của mình.


1.7.1. Quyền của hợp tác xã
Trong việc tổ chức quản lý và sản xuất, kinh doanh dịch vụ, các hợp tác xã
có những quyền chủ yếu như sau[10]:
- Lựa chọn ngành, nghề sản xuất, kinh doang mà pháp luật không cấm;
- Quyết định hình thức và cơ cấu tổ chức sản xuất, kinh doanh của hợp tác
xã;
- Trực tiếp xuất khẩu, nhập khẩu hoặc liên doanh, liên kết với tổ chức cá
nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài để mở rộng sản xuất, kinh doanh
theo quy định của pháp luật;
- Thuê lao động trong trường hợp xã viên không đáp ứng được yêu cầu sản
xuất, kinh doanh của hợp tác xã theo quy định của pháp luật;
- Quyết định kết nạp xã viên mới, giải quyết việc xã viên ra hợp tác xã, khai
trừ xã viên theo quy định của Điều lệ hợp tác xã;
- Quyết định việc phân phối thu nhập, xử lý các khoản lỗ của hợp tác xã;
- Quyết định khen thưởng những xã viên có nhiều thành tích trong xây dựng
và phát triển hợp tác xã; thi hành kỷ luật những xã viên vi phạm Điều lệ hợp tác xã;
quyết định việc xã viên phải bồi thường các thiệt hại đã gây ra cho hợp tác xã;
- Vay vốn tổ chức tín dụng và huy động các ngồn vốn khác; tổ chức tín dụng
nội bộ theo quy địn của pháp luật;
- Được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật;
- Từ chối yêu cầu của tổ chức, cá nhân trái với quy định của pháp luật;
- Khiếu nại các hành vi vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của hợp tác xã;
- Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
1.7.2. Nghĩa vụ của hợp tác xã
Bên cạnh việc thực hiện các quyền, các hợp tác xã còn phải thực hiện các
nghĩa vụ nhất định. Đó là hai mặt của một vấn đề, giữa quyền và nghĩa vụ của hợp
tác xã có những mối quan hệ khăng khít với nhau. Luật hợp tác xã quy định hợp tác

xã có những nghĩa vụ sau[11]:
- Sản xuất, kinh doanh đúng ngành, nghề, mặt hàng đã đăng ký;
- Thực hiện đúng quy định của pháp luật về kế toán, thống kê và kiểm toán;
- Nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp
luật;
- Bảo toàn và phát triển vốn hoạt động của hợp tác xã; quản lý và sử dụng
đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật;
- Chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn
tích lũy và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật;
- Bảo vệ môi trường, môi sinh, quan cảnh, di tích lịch sử - văn hóa và các
công trình quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật;
- Bảo đảm các quyền của xã viên và thực hiện các cam kết kinh tế đối với xã
viên;
- Thực hiện các nghĩa vụ đối với xã viên trực tiếp lao động cho hợp tác xã
và người lao động do hợp tác xã thuê theo quy định của pháp luật về lao động;
khuyến khích và tạo điều kiện để người lao động trở thành xã viên;
- Đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc cho xã viên là cá nhân và người lao động
làm việc thường xuyên cho hợp tác xã theo quy định của Điều lệ hợp tác xã phù hợp
với quy định của pháp luật về bảo hiểm; tổ chức cho xã viên không thuộc đối tượng
trên tham gia đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện. Chính phủ quy định cụ thể về việc
đóng bảo hiểm xã hội đối với xã viên hợp tác xã;
- Chăm lo giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ hiểu biết của xã
viên, cung cấp thông tin để mọi xã viên tích cực tham gia xây dựng hợp tác xã;
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Tóm lại, những quy định về quyền và nghĩa vụ của hợp tác xã là cơ sở, là
nền tảng tạo nên địa vị pháp lý của hợp tác xã.

CHƯƠNG 2:
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THÀNH LẬP, ĐĂNG KÝ
KINH DOANH HỢP TÁC XÃ


2.1. Đối tượng và điều kiện trở thành xã viên hợp tác xã
2.1.1 Đối tượng
Đối tượng tham gia hợp tác xã được ấn định ngay tại Điều đầu tiên của Luật
hợp tác xã năm 2003. Tuy nhiên, so với Luật hợp tác xã năm 1996 quy định chung
về đối tượng tham gia hợp tác xã là “người lao động”, trong khi đó, Điều 22 lại quy
định hộ gia đình cũng có thể trở thành xã viên hợp tác xã. Như vậy, giữa hai điều
luật trên có sự mâu thuẫn, không thống nhất về đối tượng tham gia hợp tác xã. Để
khắc phục mâu thuẫn nói trên, đồng thời quán triệt tinh thần Nghị quyết số 13-
NĐ/TW ngày 18/3/2002 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX chủ trương
mở rộng đối tượng tham gia hợp tác xã, cho phép “thành viên tham gia hợp tác xã
bao gồm cả thể nhân và pháp nhân; các bộ, công chức được tham gia hợp tác xã với
tư cách là xã viên”. Luật hợp tác xã năm 2003 đã bổ sung và khẳng định những đối
tượng tham gia hợp tác xã gồm[12]: cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu, lợi
ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức thành lập.
2.1.2. Điều kiện trở thành xã viên hợp tác xã
* Đối với cá nhân:
Cá nhân muốn trở thành xã viên hợp tác xã phải đáp ứng các yêu cầu
sau[13]:
- Là công dân Việt Nam, từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ;
- Có đơn xin gia nhập hợp tác xã; tán thành Điệu lệ, Nội quy, Quy chế của
hợp tác xã;
- Góp vốn theo quy định của Điều lệ hợp tác xã; góp sức với các hình thức
trực tiếp quản lý, trực tiếp tham gia lao động sản xuất, tư vấn cung cấp kiến thức,
kinh doanh và khoa học kỹ thuật cho hợp tác xã tùy thuộc vào nhu cầu của hợp tác
xã;
Cá nhân không đủ các điều kiện nói trên, cá nhân đang bị truy cứu trách
nhiệm hình sự, cá nhân đang phải chấp hành hình phạt tù, cá nhân bị Tòa án tước
quyền hành nghề do phạm các tội theo quy định của pháp luật và cá nhân đang

trong thời hạn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh không
được là xã viên hợp tác xã.


* Đối với cán bộ, công chức:
Cán bộ, công chức muốn trở thành xã viên hợp tác xã phải đáp ứng các yêu
cầu sau[14]:
- Được sự đồng ý bằng văn bản của thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lý cán
bộ, công chức;
- Có đơn xin gia nhập hợp tác xã; tán thành Điệu lệ, Nội quy, Quy chế của
hợp tác xã;
- Góp vốn theo quy định của Điều lệ hợp tác xã; góp sức với các hình thức
trực tiếp quản lý, trực tiếp tham gia lao động sản xuất, tư vấn cung cấp kiến thức,
kinh doanh và khoa học kỹ thuật cho hợp tác xã tùy thuộc vào nhu cầu của hợp tác
xã;
- Không được giữ các chức danh: Trưởng Ban quản trị và thành viên Ban
quản trị; Trưởng Ban kiểm soát và thành viên Ban kiểm soát; Chủ nhiệm, Phó chủ
nhiệm hợp tác xã; kế toán trưởng hoặc kế toán viên và các cán bộ chuyên môn
nghiệp vụ của hợp tác xã;
Cán bộ, công chức không có đủ các điều kiện quy định nói trên; cán bộ, công
chức đang làm việc trong các lĩnh vực thuộc bí mật nhà nước, sĩ quan, hạ sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp trong các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân không được
là xã viên hợp tác xã.
* Đối với hộ gia đình:
Hộ gia đình muốn trở thành xã viên hợp tác xã phải đáp ứng các yêu cầu
sau[15]:
- Là hộ gia đình mà các thành viên trong hộ có cùng tài sản chung để hoạt
động kinh tế như: diện tích đất đang sử dụng vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp;
những tài sản cố định khác phục vụ sản xuất, kinh doanh của hộ gia đình;
- Hộ gia đình phải cử người đại diện bằng giấy ủy quyền. Người đại diện của

hộ phải có đủ các điều kiện như đối với cá nhân như quy định trên và theo quy định
của Điều lệ hợp tác xã. Khi muốn thay đổi người đại diện, hộ gia đình phải có đơn
đề nghị Ban quản trị xem xét, quyết định;
Hộ gia đình không có đủ các điều kiện theo trên không được là xã viên hợp
tác xã.
* Đối với pháp nhân:
Pháp nhân muốn trở thành xã viên hợp tác xã phải đáp ứng các yêu cầu
sau[16]:
- Là các tổ chức, cơ quan (trừ quỹ xã hội, quỹ từ thiện) theo quy định của Bộ
luật Dân sự và theo quy định của Điều lệ hợp tác xã;
- Có đơn xin gia nhập hợp tác xã. Người đứng tên trong đơn phải là đại diện
theo pháp luật của pháp nhân và tham gia vào hoạt động của hợp tác xã, thực hiện
các nghĩa vụ của một xã viên theo quy định của Điều lệ hợp tác xã. Người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân có thể uỷ quyền cho cá nhân khác là người trong bộ
máy lãnh đạo của pháp nhân làm đại diện tham gia hợp tác xã nếu Điều lệ hợp tác
xã không quy định khác;
- Góp vốn, góp sức theo quy định của Điều lệ hợp tác xã;
Cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân không được sử
dụng tài sản của Nhà nước và công quỹ để góp vốn vào hợp tác xã;
Pháp nhân không có đủ các điều kiện quy định như trên không được là xã
viên hợp tác xã.
Để tạo điều kiện cho người lao động có thể phát huy những tìm năng về tư
liệu sản xuất, tiền vốn, kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của họ và tăng
cường thu nhập cho họ, Luật hợp tác xã quy định cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân
có thể là xã viên của nhiều hợp tác xã trong trường hợp Điều lệ hợp tác xã không
cấm.
Từ những quy định trên cho thấy, hai đối tượng mới được tham gia hợp tác
xã là cán bộ, công chức và pháp nhân. Việc quy định bổ sung hai đối tượng này có ý
nghĩa rất lớn, thể hiện một cách nhìn mới về loại hình kinh tế hợp tác xã trong tầm
quản lý vĩ mô của Nhà nước, coi hợp tác xã là một loại hình tổ chức kinh tế như các

doanh nghiệp khác. Việc mở rộng thêm đối tượng tham gia hợp tác xã nhằm thu hút
thêm nguồn nhân lực, tài lực, cũng như các nguồn lực khác để phát triển hợp tác xã.
Tuy nhiên, để tránh tình trạng cán bộ, công chức không chuyên tâm đến công việc
Nhà nước, chuyển sang làm việc tại các hợp tác xã sẽ gây ảnh hưởng xấu đến hiệu
quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Luật hợp tác xã năm 2003 ghi nhận quyền
tham gia hợp tác xã của cán bộ, công chức nhưng giới hạn họ không được quản lý
và điều hành hợp tác xã, cũng như đối với hộ gia đình và pháp nhân khi tham gia
hợp tác xã phải thông qua người đại diện có đủ điều kiện như đối với cá nhân tham
gia, quy định này nhằm đảm bảo tính công bằng giữa các xã viên.
2.2. Một số chính sách khuyến khích và hỗ trợ hoạt động đối với hợp
tác xã
2.2.1. Đối với hợp tác xã nông nghiệp[17]
Hợp tác xã có nhu cầu sử dụng đất để xây dựng trụ sở, nhà kho, sân phơi, cơ
sở dịch vụ trực tiếp phục vụ xã viên sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng
thủy sản, làm muối nhưng chưa được giao đất thì làm thủ tục xin giao đất. Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào quỹ đất của địa phương xem xét, quyết định việc giao
đất không thu tiền sử dụng đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hợp
tác xã.
Hợp tác xã đang sử dụng đất vào các mục đích xây dựng trụ sở, nhà kho, sân
phơi, cơ sở dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng
thủy sản, làm muối được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại
Điều 53 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ
về thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm
2009 về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sử dụng nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất.
Ngoài diện tích đất giao không thu tiền sử dụng đất, hợp tác xã nông nghiệp
được giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thuê đất trả tiền hàng năm theo quy định
của pháp luật đất đai và được hưởng chính sách ưu đãi về miễn, giảm tiền sử dụng
đất, tiền thuê đất theo quy định của Chính phủ.
Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các hợp tác xã thuê lại

đất, sử dụng hợp pháp đất của tổ chức, cá nhân để phát triển sản xuất kinh doanh.
2.2.2. Đối với hợp tác xã phi nông nghiệp[18]
Hợp tác xã được lựa chọn hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc
hình thức thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm theo quy định của pháp luật đất đai.
Diện tích đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm của hợp tác xã phục vụ xây
dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh và làm dịch vụ trực tiếp cho xã viên được xác định
theo dự án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, quyết định theo quy
định của pháp luật về đầu tư, xây dựng và pháp luật về đất đai.
Trường hợp đất do hợp tác xã đang sử dụng mà chưa được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thì được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
theo quy định tại Điều 53 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm
2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày
19 tháng 10 năm 2009 về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sử dụng
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
2.2.3. Chính sách ưu đãi về thuế[19]
Hợp tác xã được ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập
từ các hoạt động dịch vụ phục vụ sản xuất, kinh doanh của xã viên theo quy định tại
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 và Nghị định 124/2008/NĐ-CP ngày 11
tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008.
Đối với các hợp tác xã nông nghiệp ngoài được hưởng ưu đãi như trên còn
được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập tạo ra từ hoạt động
dịch vụ trực tiếp phục vụ đời sống xã viên.
2.2.4. Chính sách hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại[20]
Các hợp tác xã sản xuất hàng hóa xuất khẩu không thuộc đối tượng được hỗ
trợ kinh phí từ chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia, nếu có dự án
xúc tiến thương mại được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì được hỗ trợ 50% kinh
phí theo quy định của chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia cho
các nội dung hoạt động sau đây: Thông tin thương mại, tuyên truyền xuất khẩu; Tư
vấn xuất khẩu; Đào tạo nâng cao năng lực và kỹ năng kinh doanh xuất khẩu; Tham

gia hội chợ triển lãm hàng xuất khẩu; Quảng bá thương hiệu sản phẩm.
2.2.5. Chính sách hỗ trợ ứng dụng đổi mới, nâng cao trình độ công
nghệ, khuyến nông, khuyến ngư và khuyến công[21]
Hợp tác xã có dự án ứng dụng đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ thì được
vay vốn trung và dài hạn từ Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, Quỹ phát
triển khoa học công nghệ của các Bộ, ngành và địa phương.
Hợp tác xã tổ chức tập huấn cho xã viên tiếp thu công nghệ mới thuộc
Chương trình xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao khoa học và công nghệ
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và miền núi thì được hỗ trợ 100% kinh
phí.
Hợp tác xã được hưởng các chính sách về khuyến nông, khuyến ngư, khuyến
công theo quy định tại Nghị định số 02/2010/NĐ-CP ngày 08 tháng 01 năm 2010
của Chính phủ về khuyến nông và Nghị định số 134/2004/NĐ-CP ngày 09 tháng 6
năm 2004 của Chính phủ về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn.
2.2.6. Chính sách hỗ trợ hợp tác xã đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản
xuất, đời sống của cộng đồng xã viên và tham gia các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội[22]
Các hợp tác xã được hỗ trợ: Xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, kinh
doanh của hợp tác xã và đời sống của xã viên; Xây dựng cụm công nghiệp, cụm
làng nghề nông thôn để phát triển sản xuất và kinh doanh.
Hợp tác xã được ưu tiên tham gia các chương trình phát triển kinh tế - xã hội
sau đây: Các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn và quản lý các công
trình sau khi hoàn thành, kể cả các công trình hạ tầng phục vụ phát triển cụm công
nghiệp và cụm làng nghề ở nông thôn; Các dự án, chương trình phát triển kinh tế -
xã hội khác trên địa bàn phù hợp với khả năng của hợp tác xã.
Hàng năm, các hợp tác xã phải chủ động đăng ký với cơ quan quản lý
chương trình phát triển kinh tế - xã hội địa phương về nhu cầu và khả năng tham gia
triển khai các dự án thuộc chương trình mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói,
giảm nghèo để được hỗ trợ, ưu tiên tham gia. Cơ quan quản lý chương trình mục
tiêu có trách nhiệm thông báo công khai tới huyện, xã về phạm vi, đối tượng và điều

kiện của từng chương trình; tiếp nhận, xem xét và phê duyệt đơn đăng ký tham gia
chương trình của hợp tác xã; giúp hợp tác xã làm các thủ tục cần thiết để tham gia
chương trình; kiểm tra, giám sát và giải quyết các phát sinh trong quá trình triển
khai dự án giao cho hợp tác xã thực hiện.
2.2.7. Chính sách hỗ trợ tín dụng[23]

×