Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

khủng hoảng kinh tế 1997

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.31 KB, 19 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HOC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP. HCM
KHOA TÀI CHÍNH - KẾ TOÁN
Đề tài môn:
Tài chính quốc tế
Trình bày cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1997 bắt đầu từ
Thái Lan và diễn biến lây lan. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm
trong quan hệ Tài chính quốc tế. Tại sao lúc đó Việt Nam đứng
ngoài cuộc chơi, không chịu ảnh hưởng gì đáng kể.
GVHD: Th. S Huỳnh Thiên Phú
TP. HCM, ngày 3 tháng 12 năm 2013.
DANH SÁCH NHÓM
STT HỌ VÀ TÊN MSSV
1 Phan Bảo Tiên 2023120220
2
Nguyễn Thị Minh Thi
2023120222
3 Nguyễn Thị Ngọc Dung 2023120262
4 Ngô Thị Kim Phượng 2023120189
5 Bạch Ngọc Tuyền 2023120201
6 Bùi Minh Quân 2023120215
7 Lê Phạm Hoàng Tuấn 2023120238
8 Lâm Kim Ngân 2023120188
9 Hồ Lê Anh Thi 2023120133
10 Nguyễn Thị Huỳnh Trang 2023120177
11 Nguyễn Tuấn 2023120244
12 Nguyễn Thị Thu Phương 2023120269
2
MỤC LỤC
NỘI DUNG ĐỀ TÀI 5
I.KHỦNG HOẢNG KINH TẾ - TÀI CHÍNH CHÂU Á 1997 5


1.Nguyên nhân khủng hoảng 5
a.Dòng vốn nước ngoài vào ồ ạt 5
d.Nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán 7
e.Sự rút vốn ồ ạt và phối hợp không tốt giữa các nhà đầu tư 7
2.Diễn biến: 7
a.Thái Lan 7
b.Philippines 10
c.Hong kong 10
d.Hàn Quốc 10
e.Malaysia 11
f.Indonesia 11
g.Nước Mỹ và Nhật Bản 12
3.Hậu quả của khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997 - 1998 12
a.Hậu quả tới nền kinh tế: 12
b.Hậu quả tới xã hội: 13
II.BÀI HỌC RÚT RA TỪ CUỘC KHỦNG HOẢNG 14
1.Bài học kinh nghiệm 14
2.Đối với thế giới 14
3.Đối với Việt Nam 16
III.TÌNH HÌNH VIỆT NAM TRONG KHỦNG KHOẢNG KINH TẾ CHÂU Á
1997 16
1.Trước khi khủng hoảng kinh tế xảy ra 16
2.Thực trạng Việt Nam trong khủng hoảng 17
3
3.Nhận xét về tình hình Việt Nam sau khủng hoảng tài chính Châu Á 1997.18
4
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. KHỦNG HOẢNG KINH TẾ - TÀI CHÍNH CHÂU Á 1997
1. Nguyên nhân khủng hoảng.
Theo các chuyên gia thì đây là một cuộc khủng hoảng kép: Khủng hoảng tài

chính, tiền tệ – ngân hàng. Cuộc khủng hoảng này có mức độ lan truyền sâu rộng (với
mức thiệt hại gấp 4 lần so với cuộc khủng hoảng 94-95 ở Mexico)
a. Dòng vốn nước ngoài vào ồ ạt.
Những yếu tố dẫn đến khủng hoảng ở Đông Á không chỉ bó hẹp trong phạm vi
nội địa mà còn cả từ bên ngoài. Thế giới đánh giá quá cao tốc độ tăng trưởng của các
nước Đông Á. Do hiểu lầm về phép lạ kinh tế của Đông Á nên mới có phản ứng theo
bầy là ồ ạt đầu tư vào khu vực này, mà càng hồ hởi bao nhiêu thì càng hốt hoảng bấy
nhiêu khi có biến động.
Từ năm 1991 đến 1996, lượng vốn tư nhân chảy vào các nước đang phát triển tăng
nhanh từ 24,8 tỷ USD lên 65,8 tỷ USD.
Bảng: vốn tư nhân nước ngoài chảy vào 5 nước Đông Á 1991 – 1996
1991 1992 1993 1994 1995 1996
Vốn tư nhân ròng 24,8 29 31,8 36,1 74,2 65,8
Đầu tư trực tiếp ròng 6,2 7,3 7,6 8,8 7,5 8,4
Đầu tư chứng khoán ròng 3,2 6,4 17,2 9,9 17,4 20,3
Vay thương mại và đầu tư khác 15,4 15,3 7,0 17,4 49,2 37,1
Viện trợ chính thức ròng 4,4 2,0 0,6 0,3 0,7 -0,4
( Nguồn: NHTG, “World Economic Outlook”, 5/1998 và 3/2000)
Suất sinh lợi thấp ở các nền kinh tế phát triển, chênh lệch lãi suất giữa các nền
kinh tế Đông Á và các trung tâm tiền tệ quốc tế luôn ở mức dương, các chính sách mở
rộng tiền tệ của Hoa Kỳ, nới lỏng kiểm soát tài chính ở châu Âu…là những động lực
thúc đẩy dòng vốn vận chuyển từ Nhật Bản, Hoa Kì và EU tới các nền kinh tế Đông
Á. Thêm vào đó lãi suất nước ngoài thấp hơn lãi suất nội địa trong khi tỷ giá được cố
định rõ ràng chính là nguyên nhân khiến các tổ chức kinh doanh và nội địa đi vay
nước ngoài.
Một điểm đáng lưu ý nữa là hàng loạt các khoản vay nước ngoài ngắn hạn được
đầu tư dài hạn. Thái Lan vay nước ngoài chủ yếu thông qua các ngân hàng và công ty
tài chính. Ngân hàng Hàn Quốc cũng vay nước ngoài. Chỉ có hai nước Malaysia và
Philippines trong số năm nước chịu khủng hoảng là có dự trữ ngoại tệ cao hơn nợ
ngắn hạn. Nợ ngắn hạn nước ngoài cao hơn dự trữ ngoại tệ có nghĩa là trong thời gian

ngắn nền kinh tế sẽ không có khả năng chi trả.
5
Bảng: Nợ ngắn hạn vào quý II năm 1997
Nợ ngắn hạn nước
ngoài ( tỷ USD)
Dự trữ ngoại tệ
( tỷ USD)
Tỷ lệ nợ ngắn hạn
so với dự trữ
Hàn Quốc
Thái Lan
Indonesia
Malaysia
Philippines
70,18
45,57
34,66
16,27
8,29
34,07
31,36
20,34
26,59
9,8
2,06
1,45
1,70
0,61
0,85
( Nguồn: ADB, “Asian Development Outlook”, 1999)

b. Tâm lý ỷ lại của các doanh nghiệp, ngân hàng… và cả bộ máy công quyền tin
rằng nhà nước sẽ giăng lưới đỡ cho các công ty lỗ.
Từ đầu thập niên 1990, tự do hóa tài chính được tiến hành với nhịp độ từ từ ở
hầu hết các nền kinh tế Đông và Đông Nam Á. Khi các ngân hàng cho vay theo chỉ
đạo của chính phủ thì luôn tồn tại một giả định ngầm rằng chính phủ sẽ bảo lãnh và
cứu giúp nếu khoản vay đó không đòi được. Chính vì vậy, mặc dù không hề có sự bảo
lãnh chính thức của chính phủ, nhưng các tổ chức tài chính ở Đông Á, đặc biệt là các
ngân hàng nhà nước hay ngân hàng lớn, luôn coi mình là “quá lớn nên không thể thất
bại”.
Tâm lý ỷ lại cũng xuất hiện đối với dòng vốn nước ngoài. Các nhà đầu tư nước
ngoài khi cho các tổ chức tài chính trong nước vay cũng ngầm giả định rằng khoản
cho vay của mình sẽ được chính phủ nước sở tại bảo lãnh khi nhìn thấy quan hệ gần
gũi giữa chính phủ với các ngân hàng nội địa. Khi kinh tế tăng trưởng khá, lượng vốn
nước ngoài chảy vào nhiều thì không ai nghĩ rằng lại có thể không đảo được nợ hay
vay mới khi các khoản vay trước đây đến kỳ đáo hạn.Vì tin như vậy, các thành phần
đã nói trên đã lấy quá nhiều rủi ro về tài chính, ngoại hối và tín dụng cho tới khi sụp
đổ thì kéo xập luôn các ngân hàng và doanh nghiệp. Do đó, khủng hoảng ngoại hối
mới thành tài chính và kinh tế.
c. Sự quản lý của chính phủ và chính sách kinh tế vĩ mô
Chính phủ cứng nhắc trong việc thực hiện chiến lược phát triển hướng về xuất
khẩu và sự kém linh hoạt trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thích ứng với những
chuyển biến nhanh chóng cuả thương trường.
Chính phủ mắc sai lầm trong việc quản lý chính sách tỉ giá hối đoái, cố định tỉ
giá đồng baht một cách cứng nhắc vào đồng đô la Mỹ rất lâu và nền kinh tế chịu ảnh
hưởng của nạn đô la hóa một cách trầm trọng. Cố định giá đồng bạc vào một vài ngoại
tệ mạnh và tin rằng sức xuất khẩu của mình lẫn nguồn đầu tư từ nước ngoài sẽ bảo vệ
được chế độ hối đoái ấy với một dự trữ ngoại tệ thấp. Dân chúng thì lạc quan vay tiền
6
ở nước ngoài với lãi suất rẻ để đầu tư vào trong với lợi suất cao nhờ chính sách ưu đãi
và sự bảo vệ của nhà nước. Trong 2 năm giá USD tăng 25 % nhưng chính phủ không

có sự điều chỉnh tỉ giá thích ứng. Giá đồng baht tăng làm suy yếu nhanh chóng khả
năng cạnh tranh hàng xuất khẩu và làm tăng tương ứng nợ nước ngoài, gây ra nạn đầu
cơ tiền tệ, kích thích nhu cầu ngoại tệ giả tạo, nhập khẩu gia tăng, thúc đẩy thâm hụt
cán cân thương mại và tài khoản vãng lai. Ngoài ra do hệ thống tín dụng hoạt động
yếu kém, sự dễ dãi trong quản lý tiền mặt và mua bán ngoại tệ tự do,sự chiếm dụng
vốn, nợ đọng khó đòi, sự mất cân đối giữa đầu tư và tiêu dùng quá mức là nguyên
nhân làm tăng cường độ khủng hoảng.
d. Nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán
Sự sụt giá trên thị trường BĐS và TTCK làm các nhà đầu tư lo ngại về tính bền
vững của hệ thống tài chính của Thái Lan. Thâm hụt tài khoản vãng lai cao tạo nên kỳ
vọng về sự phá giá của đồng baht. Từ giữa năm 1996, đồng Baht đã được bán ra hàng
loạt. Những người vay ngoại tệ trước đây tin rằng tỷ giá hối đoái được cố định thì nay
bắt đầu lo ngại và cũng mua đô la vào để đảm bảo có đô la để trả nợ khi đáo hạn.
Chính phủ Thái Lan ban đầu dùng dự trữ ngoại tệ để bảo vệ tỷ giá nhưng cũng không
có khả năng duy trì được lâu. Đồng Baht được thả nổi vào đầu tháng 7 năm 1997.
Đi liền với khủng hoảng tiền tệ là khủng hoảng ngân hàng. Lãi suất cao trong
thời gian chính phủ bảo vệ tỷ giá buộc cả các tổ chức tài chính và các đối tượng vay
vốn lâm vào tình thế khó khăn. Hàng loạt công ty tài chính của Thái Lan phá sản trước
cả khi phá giá đồng baht. Và khi đồng baht bị phá giá, trách nhiệm nợ phải trả tính ra
đồng nội tệ của các khoản nợ nước ngoài tăng vọt, kéo theo sự phá sản của nhiều
doanh nghiệp và tổ chức tài chính nữa.
e. Sự rút vốn ồ ạt và phối hợp không tốt giữa các nhà đầu tư.
Radelet và Sachs (1998) đưa ra ý tưởng rằng trục trặc ở Đông Á nảy sinh do nhà
đầu tư mất niềm tin và khủng hoảng xảy ra là một cuộc khủng hoảng mất tính thanh
khoản. Sự thất bại trong phối hợp đã làm cho các nhà đầu tư đồng loạt rút vốn. Một
ngân hàng đang hoạt động tốt nhưng bị người gửi tiền đến rút tiền ồ ạt cũng lâm vào
tình trạng khó khăn. Đông Á rơi vào tình trạng các nhà đầu tư không còn tin rằng dự
trữ ngoại tệ đủ để trả nợ ngắn hạn. Cả các nhà đầu tự nước ngoài lẫn trong nước đều
muốn chuyển vốn ra. Ngân hàng đòi lại vốn cho vay, từc hối đảo nợ và ngưng cho vay
mới; còn các nhà đầu tư chứng khoán thì bán chứng khoán, đổi ra ngoại tệ và chuyển

ra ngoài.
2. Diễn biến:
Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính ở châu Á nổ ra năm 1997 trước hết xuất
phát từ Thái Lan, rồi sau đó lan sang các nước khác như Philippines, Malaysia,
Indonesia, HongKong, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật bản, Mỹ…
a. Thái Lan
- Tình hình Thái Lan trước khủng hoảng:
Trước khi bắt đầu phân tích diễn biến khủng hoảng tại Thái Lan, ta nhìn lại sơ qua về
nền kinh tế của Thái Lan trước khủng hoảng:
7
+ GDP tăng cao, liên tục, xuất khẩu phát triển: Thái Lan bắt đầu thời kỳ công
nghiệp hóa đất nước từ năm 1961, khi bắt đầu kế hoạch phát triển năm thứ nhất. Tốc
độ tăng trưởng GDP trong thập niên 60 khoảng 8%/năm, trong thập niên 70 khoảng
7%/năm và trong thập niên 80 khoảng 8%/năm. Tổng sản phẩm nội địa theo đầu
người tăng từ mưc 440 USD năm 1955 lên 3.012 USD năm 1996. Nông nghiệp chiếm
tỷ trọng 39% trong nền kinh tế vào 1961 giảm xuống còn 26.7% năm 1976 và chỉ còn
10.4% năm 1996.
Thái Lan đã thực thi một chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu từ thập niên
80. Năm 1986 -1990 tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân là 28%/năm. Năm 1992
và 1993 khoảng 13%/năm. Năm 1994 và 1995 khoảng 20%/năm/ Năm 1996, tăng
trưởng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ chỉ còn 3.4% so với năm 1995. Giá trị xuất
khẩu theo đầu người đạt 630USD/người năm 1991, đã tăng lên 1.177USD/người năm
1996.
Như vậy, nhìn vào mức độ tăng trưởng GDP của Thái Lan suốt hơn 3 thập kỉ
từ 1961 đến 1996,ta thấy rất đáng yên tâm vì tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng
năm luôn từ 7% đến 8%. Tuy nhiên, chỉ tiêu GDP mới phản ánh đầu ra của nên kinh
tế mà chưa đề cập đến đầu vào. Trong khi đó từ năm 1991-1996, đầu tư Thái Lan rất
cao, hàng năm chiếm khoảng 40% GDP. Tăng trưởng cao dựa trên hiệu quả kinh tế
cao của sản xuất kinh doanh mới lâu bền, tăng trưởng cao mà chi phí tăng trưởng thấp
thì mới bên vững. Bình quân từ năm 1991 tới 1996, hệ số ICOR của Thái Lan là 5,22.

Tức là phải đầu tư 5,22 Baht thì GDP mới tăng 1Baht.
+ Các doanh nghiệp kinh doanh ngày càng kém hiệu quả: tăng trưởng GDP ở
mức cao, kéo dài nhiều thập kỷ, cộng thêm lãi suất tiết kiệm trong nước cao (bình
quân 16.3%, trong khi ở Mỹ là 7,6), và tỉ giá hối đoái gần như cố định tạo ra môi
trường kinh doanh khá hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư tài
chính, cho vay ngắn hạn và tín dụng thương mại. Như vậy, các doanh nghiệp trong
nước nếu vay vốn trực tiếp từ các ngân hàng, công ty nước ngoài như Mỹ thì chỉ chịu
lãi suất khoảng ½ lãi suất cho vay trong nước. Nếu các doanh nghiệp tận dụng khả
năng sử dụng vốn bên ngoài này không quan tâm thực sự đến hiệu quả sử dụng vốn
vay thì hiệu quả kinh tế sẽ giảm, dù tổng giá trị sản lượng có thể tăng.
Việc sử dụng đến gần 90% nguồn vốn nước ngoài ở dạng đầu tư tài chính và
tín dụng ngắn hạng sẽ tạo áp lực tài chính rất lớn lên các công ty, vì phải trả lãi
thường xuyên và bằng ngoại tệ. Hậu quả, là nếu quản lý kinh doanh không tốt thì hiệu
quả sản xuất kinh doanh của công ty sẽ thấp. Hơn nữa, tỉ suất thu hồi hay tỉ suất lợi
nhuận trên tài sản (ROA) bình quân của doanh nghiệp đã giãm từ 8%/năm vào năm
1991 xuống chỉ còn 1%/năm vào năm 1996. Trong một nên kinh tế mà lãi suất cho
vay là 16,3%/năm, còn hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là 1%/năm thì rõ ràng
đã đang tích lũy nguy cơ khủng hoảng ‘phá sản doanh nghiệp’
+ Ngân hàng kinh doanh ngày càng kém hiệu quả: Trước nhu cầu vốn của các
doanh nghiệp và do có phần buông lơi vai trò giàm sát hiệu quả kinh doanh của các
doanh nghiệp đi vay nên các ngân hàng và công ty tài chính Thái Lan rất tích cực vay
nợ từ nước ngoài để tài trợ cho doanh nghiệp trong nước.
8
+ Quốc gia tiến đến bờ vực mất khả năng thanh toán: trong suốt các năm 1991
-1996, cán cân thương mại của Thái Lan luôn bị thâm hụt, tổng cộng là 35,26 tỉ USD/
Thâm hụt tài khoản vãn lai năm 1996 tới 14.6 tỉ USD.
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình
quân hàng năm là 9%. Nhưng đếncuối năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm
xuống chỉ còn 6,4%, nợ nước ngoài tăng quá lớn so với dự trữ ngoại tệ (nợ 90 tỷ
USD, trong đó nợ ngắn hạn chiếm tới 40%). Theo báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế

giới của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng
kinh tế có thể không giữ được lâu.
- Diễn biến khủng hoảng ở Thái Lan
Việc đầu tư ồ ạt vào BĐS dẫn tới hậu quả tỷ lệ phòng trống của các nhà cao ốc
văn phòng và khu nhà ở lên tới 20%. Điều này đã gây khó khăn lớn cho các nhà đầu
tư BĐS phải trả nợ ngân hàng khi lãi suất lại đang ở mức cao (thời điểm này, các
Công ty tài chính và ngân hàng Thái Lan năm tới 30 tỷ USD các khoản vay không trả
được của các công ty). Đồng thời Thái Lan dựa chủ yếu vào danh mục đầu tư ngắn
hạn của nước ngoài mà phần lớn trong số này được thông qua các ngân hàng trong
nước và các công ty tài chính. Như vậy các khoản vay càng trở thành gánh nặng lớn
với Thái Lan.
Chính phủ Thái Lan giữ cố định tỷ giá đồng Baht đối với đồng đô la Mỹ trong
suốt 13 năm qua khiến đồng Baht trở nên kém linh hoạt và gây cản trở đối với các nhà
xuất khẩu. Đồng Baht lên giá đã làm cho hàng hoá của Thái Lan trở nên quá đắt trên
thị trường Châu Âu và kể từ giữa năm 1995 khi đồng Baht lên giá theo với đồng USD
đã làm Thái Lan mất đi hàng tỷ USD đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Như vậy từ việc
mua sản phẩm và dịch vụ nước ngoài nhiều hơn là thu nhập từ xuất khẩu và đầu tư,
Thái Lan trở thành nước có mức thâm hụt tài khoản vãng lai cao nhất thế giới (8% so
với GDP năm 1996). Thêm vào đó, chính sách quản lý ngoại hối của Thái Lan tương
đối tự do, cơ chế chuyển đổi ngoại tệ đồng Baht khá dễ dàng, do đó tạo điều kiện cho
các luồng vốn nước ngoài đổ vào hoặc chảy ra bất cứ lúc nào theo ý kiến của các nhà
đầu tư. Chính vì vậy, khi có biến động trên thị trường Tài chính tiền tệ, luồng vốn
ngoại tệ chuyển ra ngoài tăng mạnh, đã kéo theo đồng Baht xuống giá. Bối cảnh này
càng thúc đẩy giới đầu cơ trong và ngoài nước muốn phá giá đồng Baht để kiếm lợi
nhuận do chênh lệch tỷ giá.
Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan tuyên bố sẽ không phá giá Baht, song rốt
cục ngày 2/7/1997 Ngân hàng trung ương Thái Lan lại tuyên bố thả nổi đồng Baht.
Ngay sau khi đồng Baht giảm giá (15 - 20% so với USD) với mức thấp nhất 32
Bath/1USD kể từ 20 năm trở lại đây, nó đã kéo theo phản ứng giảm giá dây chuyền
đối với các đồng tiền trong khu vực như: đô la Singapore giảm giá 5%, Peso

Philippines 9 - 10% Ngày 14 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng Baht Thái bị tấn
công đầu cơ quy mô lớn. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht mới
đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280
cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn
giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn
nhất của Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu
trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu
trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar.
9
b. Philippines
Tháng 5/1997, Ngân hàng Trung Ương (NHTW) Philippines tăng lãi suất lên
1,75 điểm phần trăm và tiếp tục tăng lên 2 điểm vào tháng 6/1997. Sau khi khủng
hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương Philippines đã cố
gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng cách nâng lãi suất
ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất giá nghiêm
trọng, từ 26 peso ăn một dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và còn 40 vào cuối khủng
hoảng.
Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan
tới các vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm
2001, Chỉ số Tổng hợp PSE (Philippine Stock Exchange) của thị trường chứng khoán
Philippines giảm xuống còn khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm hồi
năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất giá.Giá trị của đồng peso chỉ được
phục hồi từ khi Gloria Macapagal - Arroyo lên làm tổng thống.
c. Hong kong
Cuộc khủng hoảng nổ ra 24 giờ sau khi Vương Quốc Anh trao trả Hong Kong lại
cho Trung Quốc. Tháng 10 năm 1997, Dollar Hong Kong vốn được neo vào Dollar
Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hong Kong lại cao hơn ở
Mỹ. Đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn công. Nhờ có dự trữ ngoại tệ lớn lên tới 80 tỷ
USD vào thời điểm đó tương đương 700% lượng cung tiền M1 hay 45% lượng cung
tiền M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hong Kong đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng

tiền của mình. Các thị trường chứng khoán ngày càng trở nên dễ đổ vỡ. Từ ngày 20
đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng
1
đã giảm 23%. Ngày 15 tháng 8 năm 1998, Hong
Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành 23% và ngay lập tức nâng vọt
lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hong Kong bắt đầu mua vào các loại cổ phiếu
thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu. Cơ quan này và
ông Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính Hong Kong đã công khai tuyên
chiến với giới đầu cơ. Chính quyền đã mua vào khoảng 120 tỷ Dollar Hong Kong
(tương đương 15 tỷ Dollar Mỹ) các loại chứng khoán. Sau này, vào năm 2001, chính
quyền đã bán ra số chứng khoáng này và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar Hong Kong
(khoảng 4 tỷ DollarMỹ).
Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hong Kong và thị trường chứng khoán
của nước này đã ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt
hại bởi chính sách điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia và bởi sự
sụp đổ của thị trường trái phiếu và tiền tệ ở Nga. Tỷ giá neo giữa Dollar Hong Kong
và Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức 7,8:1.
d. Hàn Quốc
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng
nợ nước ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong
nước lại nợ ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trường châu Á
bị khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở
1
Chỉ số Hang Seng là chỉ số chứng khoán được xây dựng dựa trên giá trị vốn hóa thị trường của các công ty lớn
nhất ở Hồng Kông
10
quy mô lớn. Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ
hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống
B2. Điều này góp phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng
trong ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt

7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách khắc khổ.
Năm 1998, Hyundai Motor mua lại Kia Motors. Quỹ đầu tư mạo hiểm trị giá 5 tỉ USD
của Samsung cũng giải thế do tác động quá mạnh của cuộc khủng hoảng, tiếp đó
Daewoo Motors phải bán lại cho General Motors. Trong khi đó, đồng Won giảm giá
xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000 KRW/USD. Dù có nhiều nỗ lực
trong việc cải thiện GDP trên đầu người, nhưng sau khủng hoảng, nợ quốc gia của
Hàn Quốc tăng gấp ba lần so với trước đó.
e. Malaysia
Trước khủng hoảng, tài khoản vãng lai của Malaysia thâm hụt 5%. Malaysia là
quốc gia nhận được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất, điều này phản ánh qua việc
KLSE (sàn giao dịch chứng khoán chính thức của Malaysia) được coi là sàn giao dịch
có hoạt động mạnh nhất trên thế giới (tổng giá trị giao dịch thậm chí vượt qua cả
NYSE mặc dù có mức vốn hóa thị trường thấp hơn rất nhiều). Ở thời điểm đó, mọi
người đều kỳ vọng quốc gia này tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng và trở thành nước
phát triển vào năm 2020. Vào thời điểm trước khi xảy ra khủng hoảng, KLSE Index
đang ở mức 1.200, đồng ringgit được giao dịch ở tỉ lệ 2.5:1 so với USD, lãi suất qua
đêm dưới 7%. Lãi suất qua đêm tăng từ dưới 8% lên 40%, làm cho mức đánh giá tín
dụng tụt xuống và xảy ra làn sóng bán chứng khoán và tiền tệ ồ ạt. Ngay sau khi Thái
Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng Ringgit của Malaysia và thị
trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm
từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm
giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước
ngoài. Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở
trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm giá của đồng Ringgit trong
tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng
vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai
và quý ba năm 1997. Năm 1998, GDP giảm 6,2%, đồng ringgit mất thêm 4,7% giá trị
và KLSE tụt xuống dưới 270 điểm.
f. Indonesia
Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của

Indonesia đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ
từ 8% lên 12%. Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế
độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn.
Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho
Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán
ra ồ ạt và lượng cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số
thị trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử.
Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc
biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình
11
hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến
cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF
khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này
tăng lên. Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta
đã có tới 500 người bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội
đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm 1998, Suharto buộc phải từ chức tổng
thống.Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000 : 1.
Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1. Do thay đổi
tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của Indonesia đã giảm
đi.
g. Nước Mỹ và Nhật Bản
Khủng hoảng khiến nền kinh tế nước Mỹ tuy không sụp đổ nhưng cũng bị tác
động nặng nề. Ngày 27/11/1997, chỉ số DJ công nghiệp giảm 554 điểm, tương đương
7,2%, NYSE tạm ngừng giao dịch trong thời gian ngắn.
Nhật Bản cũng chịu nhiều ảnh hưởng do là nền kinh tế lớn trong khu vực. Nhiều
nước Châu Á khác ở trong tình trạng thâm hụt cán cân thương mại với Nhật Bản. Vào
cuộc khủng hoảng, đồng yen Nhật giảm còn 147:1 với USD khi có những đợt bán ra ồ
ạt. Tốc độ tăng trưởng GDP của Nhật giảm từ 5% xuống còn 1,6%. Cuộc khủng
hoảng Châu Á cũng làm một số doanh nghiệp ở Nhật phá sản.

3. Hậu quả của khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997 - 1998
a. Hậu quả tới nền kinh tế:
- Cuộc khủng hoảng tài chính 1997 có thể khiến cho một đất nước từ trạng thái
tăng trưởng cao nhanh chóng rơi vào tình trạng suy thoái, sụt giảm kinh tế trầm trọng.
Không chỉ có vậy, đồng tiền trong nước mất giá liên tục làm cho tình trạng vay nợ, xét
trên góc độ đồng nội tệ, thêm trầm trọng, ngay cả khi trên thực tế giá trị tài sảncủa họ
không hề thay đổi. Một kết quả tất yếu khác từ sự mất giá tiền tệ là lạm phát thực tế và
lạm phát kỳ vọng đều tăng, từ đó lãi suất trên thị trường cũng tăng chóng mặt. Doanh
nghiệp và các hộ gia đình do đó cũng phải thanh toán lãi suất rất cao, tác động tiêu
cực đến bảng cân đối tài sản của họ.
- Thị trường nợ ở các quốc gia mới nổi khu vực Đông Á có đặc trưng là những
hợp đồng nợ có kỳ hạn rất ngắn, thường là dưới một tháng. Do đó lãi suất ngắn hạn
tăng lên ở những quốc gia này đồng nghĩa với tác động rất lớn đến dòng tiền và bảng
cân đối kế toán của các đơn vị trong nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng còn phải đối mặt
với một vấn đề trầm trọng khác là khối lượng rất lớn những khoản nợ ngắn hạn bằng
ngoại tệ, trong khi đồng tiền trong nước bị phá giá. Giá trị của những khoản nợ này
tăng lên vùn vụt và tiếp tục làm tiêu hao đi lượng tài sản thực đang còn rất ít của các
ngân hàng. Khi mà hoạt động cấp tín dụng và cho vay sụt giảm thì cũng đồng nghĩa
với việc các hoạt động của nền kinh tế bị đình trệ và tốc độ tăng trưởng GDP thực
cũng sẽ sụt giảm theo. Nguồn lực bị bào mòn, ngân hàng không còn đủ khả năng cho
vay, khi hoạt động cho vay không còn được tiếp tục, các hoạt động của nền kinh tế bị
thu hẹp là điều dễ hiểu và tất yếu.
12
- Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất
giá tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á.
Nhiều doanh nghiệp bị phá sản, dẫn đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng
nghèo trong các năm 1997-1998. Những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là
Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan.
b. Hậu quả tới xã hội:
- Sự mất giá đồng tiền mở đầu cho cuộc khủng hoảng đã gần như ngay lập tức

tác động tới giá hàng hóa và dịch vụ. Lạm phát không chỉ giảm thu nhập thực tế mà
cùng với sự sụp đổ của thị trường chứng khoán, lạm phát còn làm giảm nghiêm trọng
tỉ lệ dự trữ hộ gia đình.
- Biểu đồ: Lạm phát tại một số nước Đông Á 1996 - 1998
- Tác động tiêu cực tới việc làm xảy ra ngay sau khi đồng tiền mất giá. Thất
nghiệp tăng nhanh tại những nước bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính.
Biểu đồ: Tỉ lệ thất nghiệp 1997 - 1998
- Tỉ lệ đói nghèo ngày càng gia tăng trong giai đoạn 1997 -1998. Phân biệt xã
hội càng thêm mở rộng khoảng cách. Tại Hàn Quốc, khủng hoảng đã khiến cho tỉ lệ
đói nghèo tăng mạnh từ 3% (quí IV năm 1997) đến 6.4% (suốt quí I năm 1998) và
chạm mức 7.5% (quí III năm 1998). Tại Malaysia, tỉ lệ này tăng từ 6.8% đến 7.6%
(1998).
- Ngân sách cho giáo dục và y tế cộng đồng tại các nước khủng hoảng bị cắt
giảm không thương tiếc để dồn ngân sách bù đắp cho nền kinh tế.
- Tỉ lệ tội phạm và bạo lực cũng tăng cao trong giai đoạn 1997 -1999 tại những
nước Đông Á này. Mất ổn định chính trị với sự ra đi của Suharto ở Indonesia và
Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan là một ví dụ điển hình. Tâm lý chống phương Tây
gia tăng cùng với sự phê phán gay gắt nhằm vào George Soros và Quỹ Tiền tệ Quốc
13
tế. Các phòng trào Hồi giáo và ly khai phát triển mạnh ở Indonesia khi chính quyền
trung ương của nước này suy yếu.
- Tại Hàn Quốc và Malaysia, ngân sách chính phủ dành cho việc bảo vệ môi
trường cũng bị cắt giảm mạnh. Chính phủ Hàn Quốc đã cắt giảm 12% chi phí bảo vệ
môi trường trong ngân sách bổ sung năm 1998. Chính phủ Malaysia thì cắt giảm phần
ngân sách của Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường.
Không những gây hậu quả nghiêm trọng tới nền kinh tế Đông Á, cuộc khủng hoảng
tài chính 1997 còn có tác động không nhỏ tới xã hội.
II. BÀI HỌC RÚT RA TỪ CUỘC KHỦNG HOẢNG.
1. Bài học kinh nghiệm.
Khủng hoảng tài chính Đông Á làm người ta nhận thức rõ hơn sự cần thiết phải

có một hệ thống tài chính - ngân hàng vững mạnh, minh bạch. Điều này thôi thúc Quỹ
Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thanh toán Quốc tế đổi mới các quy chế về ngân hàng
và các tổ chức tín dụng nói chung.
Chính phủ nhiều nước đang phát triển cho rằng các dòng vốn đầu tư gián tiếp
nước ngoài và vốn vay ngân hàng nước ngoài có thể đem lại những tác động bất lợi
với nền kinh tế của họ. Do đó, nhiều chính phủ đã ban hành những quy chế nhằm điều
tiết các dòng vốn này.
Bên cạnh đó, những thỏa thuận ở cấp khu vực nhằm phát triển một hệ thống
phòng ngừa khủng hoảng tái diễn đã được thúc đẩy ở châu Á, ví dụ như Sáng kiến
Chiang Mai, Tiến trình Đánh giá và Đối thoại Kinh tế ASEAN+3, Sáng kiến Thị
trường Trái phiếu Châu Á,
Về mặt học thuật, các nhà nghiên cứu kinh tế đã nhận thấy sự hạn chế của các
mô hình lý luận về khủng hoảng tiền tệ trước đây trong việc giải thích nguồn gốc và
sự lây lan của khủng hoảng tài chính Đông Á. Đã có nhiều nỗ lực nhằm đưa ra một
mô hình mới về khủng hoảng tiền tệ, chẳng hạn như mô hình phương pháp tiếp cận
bảng cân đối tài sản, lý thuyết bong bóng, lý thuyết về nguồn gốc khủng hoảng từ
chính sách tài chính và chính sách tiền tệ.
2. Đối với thế giới
 Phải có công cụ điều tiết luồng vốn:
Không phải tình cờ khi hai nước châu Á ít bị ảnh hưởng nhất của cuộc khủng
hoảng tài chính, Trung Quốc và Ấn Độ, cũng chính là những nước không tự do hóa thị
trường vốn. Và trong số những nước đã tự do hóa thị trường vốn, cũng không phải
ngẫu nhiên mà nước khống chế tốt nhất những tác động của cuộc khủng hoảng,
Singapore, chính là nước có hệ thống luật pháp tốt nhất.
Do thiếu các biện pháp kiểm soát, nhiều nền kinh tế châu Á đã rơi vào tình trạng
quá phụ thuộc vào nguồn tài chính rất dễ biến động từ bên ngoài - đó là các khoản vay
ngắn hạn. Cuối năm 1996, các nước Đông Á đã nợ các ngân hàng châu Âu 318 tỷ
USD, ngân hàng Nhật Bản 260 tỷ USD và ngân hàng Mỹ 46 tỷ USD, đa số là dưới
hình thức vay ngắn hạn - dưới 1 năm.
14

Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho biết trong 3 năm trước thời điểm 1997, các khoản
nợ ngắn hạn của Thái Lan chiếm tới 7-10% GDP, trong khi tổng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) chỉ chiếm 1% GDP.
Khi xảy ra khủng hoảng, các nguồn vốn ngắn hạn này biến mất cũng nhanh như
khi xuất hiện, vì không hề có các công cụ điều tiết.
 Cần xây dựng hành lang pháp lý phù hợp:
Hệ thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo vào những năm trước thời điểm
1997 đã dẫn đến sự phát triển quá mức của thị trường tín dụng ở nhiều nước châu Á,
như Indonesia, Malaysia, Philippines, Hàn Quốc và Thái Lan, kéo theo việc đầu tư dư
thừa vào một số ngành kinh tế.
Việc dư thừa nguồn tín dụng còn dẫn đến tình trạng lãng phí, với cuộc chạy đua
sở hữu tòa nhà cao nhất thế giới ở các nước châu Á là một ví dụ. Tệ hơn, việc “thừa
tiền” còn châm ngòi cho sự phát triển bong bóng của thị trường bất động sản, từ đó lại
quay lại tình trạng dư thừa tín dụng, vì các ngân hàng cho vay nhiều hơn giá trị thực
của tài sản thế chấp. Kết quả là khi “bong bóng” vỡ, các ngân hàng phải hứng chịu
hậu quả.
Hệ thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo còn cho phép các ngân hàng có tỷ
lệ vốn lưu động không phù hợp. Theo số liệu năm 1997 của Ngân hàng Thanh toán
Quốc tế (BIS), ở Philippines (17%), Hồng Kông (18%) và Singapore (19%), tỷ lệ này
cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn tối thiểu quốc tế.
 Nguy cơ dư thừa vốn
Chính phủ của các nền kinh tế mới nổi không thể làm gì nhiều để ngăn “lũ” vì
nguồn cơn của sự mất cân bằng trên thị trường tài chính quốc tế không nằm trong tầm
kiểm soát trực tiếp của họ.
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á không phải chỉ do người châu Á gây ra.
Ngân khố của hầu hết các nền kinh tế châu Á đều ở mức cân bằng hoặc thặng dư, và
không hề có lạm phát. Cuộc khủng hoảng xảy ra phần nhiều là do những thay đổi về
mô hình của hoạt động trung gian tài chính quốc tế.
Sự mở rộng đáng kể của khả năng thanh khoản quốc tế vào thập niên 90 đã làm
gia tăng sự cạnh tranh trong ngành dịch vụ tài chính trên toàn thế giới. Vì thế, các

giám đốc tài chính buộc phải tìm kiếm những khoản lợi nhuận cao hơn, thông qua các
dự án đầu tư mạo hiểm.
Chính sách kinh tế vĩ mô của các cường quốc kinh tế đóng vai trò quan trọng
trong sự mở rộng của khả năng thanh khoản quốc tế. Ví dụ như ở Mỹ, việc thâm hụt
ngân sách giảm xuống trong khi khả năng sản suất tăng lên đã dẫn đến tốc độ lạm phát
giảm và do đó lãi suất giảm.
Hệ quả tất yếu là luồng vốn đổ vào châu Á tăng lên, vì lãi suất ở châu Á cao hơn,
còn các nước châu Á nhận thấy việc vay mượn quy đổi bằng đồng đôla Mỹ hoặc yên
Nhật có lợi hơn là bằng đồng nội tệ.
Tuy nhiên, tình trạng mất cân đối này không thể kéo dài. Việc tăng nguồn vốn đã
gia tăng sức ép đối với việc tăng tỷ giá hối đoái, từ đó làm trầm trọng thêm tình hình
thâm hụt thương mại. Và khi thị trường tạo sức ép giảm giá đồng tiền, tình hình càng
trở nên xấu đi do sự rút vốn đột ngột của các nhà đầu tư nước ngoài. Thị trường tài
chính châu Á chao đảo.
15
3. Đối với Việt Nam
Về phía Việt Nam, cuộc khủng hoảng là sự cảnh báo trước những nguy cơ Việt
Nam có thể gặp phải trong quá trình phát triển kinh tế với chính sách như hiện nay.
Việt Nam không bị ảnh hưởng bao nhiêu trong cuộc khủng hoảng tài chánh Á châu
năm 1997, môt phần vì kinh tế Việt Nam lúc đó còn chưa hội nhập bao nhiêu vào với
kinh tế thế giới, một phần nữa là vì sự kiểm soát chặt chẽ việc tư bản ngoại quốc đầu
tư vào Việt Nam. Nhưng đến năm 2007, tình hình kinh tế Việt Nam cũng như là sự
hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu đã khác hẳn với cách đây 10 năm.
Th\ nhất, hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp và hiệu quả kinh tế quốc
gia là cơ sở quan trọng nhất đảm bảo cho phát triển bền vững và phải trở thành một
mục tiêu và chỉ tiêu của quản lý kinh tế đất nước, quản lí ngành và mỗi doanh nghiệp.
Cần đưa ra các chỉ tiêu như tỉ suất lợi nhuận, và tỉ suất giá trị gia tăng trên vốn riêng
của doanh nghiệp theo các ngành, theo các thành phần kinh tế và theo địa phương
trong cả nước, đồng thời theo dõi chặt chẽ sự biến động của chỉ số ICOR với mỗi địa
phương và cả nước.

Th\ hai, để các doanh nghiệp và nền kinh tế phát triển bền vững thì lãi suất vốn
vay để đầu tư phải tương đương với hoặc nhỏ hơn khả năng sinh lời của doanh
nghiệp. Vậy, để phát triển bền vững , lãi suất tín dụng chủ yếu phải hình thành từ quan
hệ cung cầu vốn trên thị trường chứ không dựa vào ý chí của nhà nước. Nếu lãi suất
tín dụng nhỏ hơn khả năng sinh lời của doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp
có tính cạnh tranh cao, thì doanh nghiệp có thể sẽ càng phát triển nhanh và hiệu quả
kinh doanh cao.
Th\ ba, cần có một tổ chức chuyên trách của chính phủ theo dõi sự biến động
của lạm phát, tỉ giá hối đoái, lãi suất tín dụng trong nước và quốc tế, cán cân tài
khoảng vãng lai, nợ quốc gia, hiệu quả kiinh doanh của các doanh nghiệp để đề suất
chính sách và điều tiết cần thiết, đảm bảo phát triển quốc gia bền vững với tăng trưởng
tương đối cao.
III. TÌNH HÌNH VIỆT NAM TRONG KHỦNG KHOẢNG KINH TẾ CHÂU
Á 1997.
1. Trước khi khủng hoảng kinh tế xảy ra
Vào giữa những năm 1992 và 1997, Việt nam đã đạt tốc độ tăng trưởng GDP cao
ở mức 8-9%, tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế tiền tệ Châu á năm 1997 đã làm cho
sự phát triển kinh tế của nhiều nước Châu á bị tụt lùi và tác động tiêu cực tới nền kinh
tế Việt nam. Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt nam đã giảm xuống còn 4, 8% vào
năm 1999.
Trước khủng hoảng kinh tế Việt Nam có những thành tựu:
 Việt Nam không còn là một quốc gia đói nghèo và lạc hậu sau cuộc
Kháng chiến chống Mỹ năm 1975. Việt Nam ngày nay cũng khác xa so với trước
năm 1996, khi phương tiện giao thông chủ yếu của người dân là xe đạp. Việt Nam,
quốc gia có dân số trẻ nhất thế giới - 60% dân số dưới 35 tuổi - có tiềm năng to lớn.
16
Việt Nam đã bắt đầu thực hiện một chương trình cải cách kinh tế, mang tên “Đổi
mới” từ năm 1986.
 Nền kinh tế kế hoạch tập trung của Việt Nam đã trở thành một nền kinh
tế thị trường. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện hai chương trình lớn là giảm bớt

quy mô quân đội và bắt đầu một chính sách “mở cửa” với tất cả các nước.
 Năm 1995, Việt Nam đã làm nên lịch sử khi thiết lập quan hệ ngoại giao
với Mỹ. Sáu năm sau đó, thương mại giữa Việt Nam và Mỹ bắt đầu. Các quan hệ
thương mại với Trung Quốc được nối lại sớm hơn, từ năm 1990, khi hai nước nhất
trí mở cửa lại các đường biên giới. Năm 1995, Việt Nam gia nhập ASEAN.
 Người ta thấy ngay được những lợi ích của chính sách mở cửa. Từ năm
1990-1997, kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng trung bình 8%/năm.
 Giai đoạn 1993-1997 là thời kỳ kinh tế Việt Nam kiềm chế thành công
lạm phát đồng thời lại tăng trưởng nhanh chóng
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997-1998 đã làm mất đi khá
nhiều những thành tựu này. Thời gian đó, tất cả các tỉnh thành của Việt Nam đã phải
gánh chịu đồng thời “bốn cơn bão” lớn.
Năm 1997, kinh tế Việt Nam đang gặp khó khăn do các hệ thống tài chính và
ngân hàng yếu kém, một ngân sách đóng kín, hệ thống hành chính quan liêu không
hiệu quả và những vi phạm bản quyền.
2. Thực trạng Việt Nam trong khủng hoảng
Việt Nam đang trên đà phát triển và mở cửa hội nhập thì xảy ra cuộc khủng
hoảng tài chính - tiền tệ khu vực. Cuộc khủng hoảng này bắt đầu từ Thái Lan lan sang
Hàn Quốc, Indonesia,
 Do tác động của cuộc khủng hoảng, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
đang ở mức cao trong thời kỳ 1995-1997, thì đến năm 1998 chỉ tăng 5,76%, năm
1999 chỉ tăng 4,77%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký, nếu năm 1995 đạt
trên 6,9 tỷ USD, năm 1996 đạt gần 10,2 tỷ USD, thì năm 1997 còn gần 5,6 tỷ USD,
năm 1998 còn gần 5,1 tỷ USD, năm 1999 còn gần 2,6 tỷ USD.
 Lạm phát nếu năm 1996 ở mức 4,5%, năm 1997 ở mức 3,6%, thì năm
1998 lên mức 9,2%. Giá USD nếu năm 1995 giảm 0,6%, 1996 tăng 1,2%, thì năm
1997 tăng 14,2%, năm 1998 tăng 9,6%, Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu năm
1996 ở mức 33,2%, năm 1997 ở mức 26,6%, đến năm 1998 chỉ còn 1,9%.
 Nhập khẩu nếu năm 1996 còn tăng 36,6%, thì năm 1997 chỉ còn tăng
4% và năm 1998 giảm 0,8%, năm 1999 chỉ tăng 2,1%.

 Do độ mở của kinh tế Việt Nam lúc này chưa cao (xuất khẩu so với
GDP mới đạt 30%, đồng tiền chưa chuyển đổi), do đã có dầu thô, gạo, xuất khẩu
17
với khối lượng lớn, do có sự chủ động ứng phó từ trong nước, nên Việt Nam đã
không bị cuốn hút vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng này và dần dần đã vượt
qua. Tăng trưởng kinh tế cao dần lên, bình quân thời kỳ 2000 - 2007 đã đạt
7,63%/năm.
 GDP bình quân đầu người năm 2007 tính bằng USD đã đạt 843 USD,
cao gấp gần 2,3 lần năm 1999. Bình quân năm FDI nếu thời kỳ 1998 - 1999 vốn
đăng ký chỉ có trên 3,8 tỷ USD thì thời kỳ 2000 - 2008 đã đạt gần 12,9 tỷ USD và
thực hiện đạt 4 tỷ USD; ODA cam kết đạt gần 3,5 tỷ USD, giải ngân đạt 1,75 tỷ
USD.
 Xuất khẩu tăng liên tục với tốc độ cao (năm 2008 cao gấp trên 5,4 lần
năm 1999, bình quân 1 năm thời kỳ 2000 - 2008 lên đến 20,7%). So với GDP năm
2008 xuất khẩu đạt 70%; nhập khẩu đạt 90%; cộng cả xuất khẩu và nhập khẩu so
với GDP lên tới 160%, thuộc loại cao thứ 3 ở Đông Nam Á và thứ 5 trên thế giới -
chứng tỏ độ mở của nền kinh tế Việt Nam khá rộng.
 Dự trữ ngoại hối tăng khá: nếu cuối năm 2002 đạt chưa được 3,7 tỷ
USD, thì đến cuối năm 2007 đã đạt trên 21 tỷ USD. Lượng kiều hối bình quân năm
thời kỳ 2000 - 2008 đạt tỷ USD. Vị thế của Việt Nam đã chuyển sang mở cửa hội
nhập đầy đủ với thế giới, ký hiệp định thương mại Việt - Mỹ, gia nhập WTO
3. Nhận xét về tình hình Việt Nam sau khủng hoảng tài chính Châu Á 1997
Những quốc gia bị ảnh hưởng đều có những đặc điểm chung trong nền kinh tế
như sau: sự sụt giảm của chỉ số chứng khoáng, sự phá sản đóng cửa của hàng loạt các
ngân hàng và công ty tài chính hay những ảnh hưởng ít nhiều đến cán cân xuất nhập
khẩu. Tuy nhiên, điều đáng nói là trong bối cảnh đó, Việt Nam gần như đứng ngoài
bán kính tâm bão, các ảnh hưởng trực tiếp là không xảy ra. Hay nền kinh tế nước ta đã
cực kì “vững mạnh” đến mức có thể ngăn ngừa mọi sự ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng? Điều này là không thể bởi nước ta vẫn là một trong những nước đang phát
triển và càng không thê gọi là một nước có nền kinh tế mạnh. Vậy tại sao Việt Nam

đứng ngoài cuộc chơi, không chịu ảnh hưởng gì đáng kể?
Th\ nhất, đồng tiền nước ta không phải là một đồng tiền được chuyển đổi tự do
ra ngoại tệ. không phải hễ có VNĐ là chúng ta có thể dễ dàng chuyển đổi ra USD như
các đồng tiền Bath, Rupi của các nước khác trong Đông Nam Á. Quy mô giao dịch
của nước ta còn quá ít so với thị trường vốn còn quá sơ khai và đóng cửa, những giao
dịc lớn hầu như chịu sự kiểm soát của NHTW. Luồng chảy ngoại tệ vào và ra vùng
biên giới bị kiểm soát rất chặt chẽ bởi các chúng từ nhập – xuất khẩu. Nhờ đó nạn đầu
tư tiền tệ được xem là không thể ở nước ta.
Th\ hai,chúng ta hoàn toàn chưa có hoạt động đầu tư gián tiếp. Đó là việc các
nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn vào đầu tư bằng cách mua cổ phiếu, trái phiếu của các
công ty khác trong nước. Việc chuyển vốn vào và ra của phương thức này đơn giả hơn
rất nhiều so với hoạt động đầu tư gián tiếp, nếu có một điều gì bất thường có dấu hiệu
18
xảy ra trong nền kinh tế bất lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài thì họ bắt đầu bán các
trái cổ phiếu đó trên thị trường chứng khoáng, việc bán tháo đó lập tức tạo nên một
dòng xoáy của việc chuyển vốn ồ ạt ra nước ngoài. Trong thời điểm này chúng ta vẫn
chưa có thị trường chứng khoán nên hình thức đầu tư này cũng như việc tìm kiếm các
cơ hội bán để đầu cơ là không thể xảy ra. Đầu tư nước ngoài của chúng ta tại thời
điểm đó chỉ là đầu tự trực tiếp (FDI) bằng việc lập ra các doanh nghiệp có vốn nước
ngoài hoạt đông trên lãnh thổ, việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài bị kiểm soát rất
chặt chẽ bằng các hình thức đánh thuế cũng như việc kiểm soát bằng tài khoản ngoại
tệ.
Trên đây là hai nguyên nhân chính làm cho Việt Nam có một sự tách biệt tương
đối trong cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên, dễ dàng nhận thấy rằng việc không chịu ảnh
tưởng nhiều từ khủng hoảng lần này đã cho thấy cả hai mặt tích cực và tiêu cực đối
với tình hình kinh tế Việt Nam thời kì đó.
Tiêu cực là vì vào giữa những năm 1992 và 1997, Việt nam đã đạt tốc độ tăng
trưởng GDP cao ở mức 8-9%, tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế tiền tệ đã làm cho
sự phát triển kinh tế của nhiều nước Châu á bị tụt lùi và tác động tiêu cực tới nền kinh
tế Việt nam. Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt nam đã giảm xuống còn 4, 8% vào

năm 1999. Ngoài ra, nếu sau này có xảy ra những cuộc khủng hoảng khác, đặc biệt là
xảy ra ở khu vực Châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng thì Việt Nam sẽ ít có
kinh nghiệm giải quyết những vấn đề xảy ra nếu Việt Nam bị ảnh hưởng do chính
sách tài chính phát triển kinh tế ở mỗi nước là khác nhau. Ngoài ra, dựa vào lý do mà
Việt nam không chịu ảnh hưởng nhiều từ cuộc khủng hoảng đã có ý kiến cho rằng:
giải pháp cho Việt Nam trong việc ngăn ngừa những khủng hoảng tương tự trong
tương lai chính là “đóng cửa” với thế giới bên ngoài. Nói cách khác, việc chúng ta
chưa mở thị trường vốn, chưa đa dạng các hình thứ đầu tư quốc tế, tức là chưa tham
gia vào quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế đã giúp chúng ta ngăn ngừa các tác động
xấu từ cuộc khủng hoảng.
Tích cực là vì nền kinh tế của Việt Nam không bị ảnh hưởng nhiều, rút được
nhiều kinh nghiệm từ các nước xung quanh làm bài học, là sự cảnh báo trước những
nguy cơ Việt Nam có thể gặp phải trong quá trình phát triển kinh tế. Giúp cho Việt
Nam nhận ra những điểm mạnh, điểm yếu và các vần để có thể xảy ra từ các yếu tố
bên trong cũng như bên ngoài để có thể phòng ngừa, phát triển và khắc phục, tránh đi
vào vết xe đổ.
19

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×