Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Khủng hoảng kinh tế đông á- bài học cho kinh tế Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.28 KB, 24 trang )

Khủng Hoảng Kinh Tế Đông - Bài Học Cho Kinh Tế Việt Nam
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ ĐÔNG Á- BÀI HỌC CHO KINH TẾ VIỆT
NAM
A. LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế thế giới đang trải qua một giai đoạn suy thoái mới, mà nguyên nhân
chính của nó là do sự suy yếu của nền kinh tế Mỹ dẫn đến sự suy yếu của
đồng Dollar khủng hoảng giá lương thực và giá dầu. Nền kinh tế đầu tàu
của mỹ suy giảm kéo theo đó là sự suy yếu của đồng Dollar đã làm cho nền
kinh tế các nước phát triển, cũng như đang phát triển dường như chững lại.
Ngay cả những nền kinh tế được dự báo sẽ tăng trưởng nhanh như n Độ,
Inđônêxia, Việt Nam …. cũng đang chững lại theo. Thêm vào đó là sự khủng
hoảng lương thực và nhiên liệu chủ yếu là xăng dầu đã làm cho nền kinh tế
của nhiều nước phụ thuộc vào giá nhiên liệu nhập khẩu lâm vào tình trạng
khó khăn. Tâm lý của một đại bộ phận nhà đầu tư và người dân hoang
mang, chính điều này đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới giảm. Liệu nền kinh tế thế giới có lâm vào
một cuộc khủng hoảng mới hay không? Khủng hoảng kinh tế thế giới lần
này sẽ có tác dụng ra sao đối với nền kinh tế thế giới và nền kinh tế việt
nam? Đặc biệt là khi chúng ta hội nhập thì một triệu chứng nhỏ của nền
kinh tế các nước trong khu vực và thế giới sẽ ảnh hưởng ra sao đến nền kinh
tế Việt Nam. Trên cơ sở những thực trạng nội tại của nền kinh tế hiện nay,
nhóm chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu về cuộc khủng hoảng kinh tế
Đông và bài học kinh nghiệm rút ra. Mục tiêu của bài viết là nghiên cứu
và tìm hiểu thêm những vấn đề từ cuộc khủng hoảng kinh tế Đông và bài
học kinh nghiệm từ đó chúng ta có thêm một bài học để có thể đối phó với
tình hình kinh tế hiện nay. Bằng các phương pháp thống kê, phân tích …
nhóm chúng tôi sẽ đưa ra những đánh giá cụ thể về những diễn biến và tình
hình cụ thể cũng như những bài học kinh nghiệm rút ra. Tuy đã có nhiều cố
gắng nhưng bài viết sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự
đóng góp của các thầy cô và các bạn.
CHƯƠNG I. KHỦNG HOẢNG KINH TẾ- NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN.


I. Khủng Hoảng Kinh Tế .
1. Khái Niệm Khủng Hoảng Kinh Tế .
Dựa trên thực tế phát triển của nền kinh tế thế giới nhất là trongkhoảng 200
năm trở lại đây khi mà nền kinh tế của các nước trên thế giới có sự phụ
thuộc vào nhau rất lớn thì người ta thấy rằng khi nền kinh tế của một nước
xấu đi thì nó ngay lập tức tác động dây chuyền đến tất cả các nước. Do đó
đánh giá nên kinh tế một đất nước đang ở giai đoạn nào? Liệu có suy thoái
Nhóm thực hiện: TCDN12 - 1 -
Khủng Hoảng Kinh Tế Đông - Bài Học Cho Kinh Tế Việt Nam
hay không có ảnh hưởng rất lớn đến việc đònh ra các biện pháp kinh tế để
phát triển kinh tế trong ngắn và dài hạn. Sự suy giảm trong sản xuất làm
giảm tổng sản phẩm quốc nội thực trong một khoảng thời gian tương đối
dài thì được gọi là økhủng hoảng kinh tế. Có nhiều học thuyết khác nhau
của nhiều nhà kinh tế đề cập đến khủng hoảng kinh tế cũng như đưa ra
nhiều khái niệm về khủng hoảng kinh tế. Theo những khái niệm đưa ra thì
một khái niệm được đa số chấp nhận đó là “ khủng hoảng kinh tế là sự suy
giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong
một chu kỳ kinh tế.”
Một đònh nghóa khác với cách hiểu ngày nay là học thuyết kinh tế chính trò
của Mác-Lênin. Theo đó thì khủng hoảng kinh tế đề cập đến vấn đề tái sản
xuất đang bò suy sụp tạm thời. Thời gian khủng hoảng làm xung đột giữa
các giai tầng trong xã hội thêm căng thẳng, đồng thời nó tái khởi động một
quá trình tích tụ tư bản mới. ( theo kinh tế chính trò Marx)
2. Khủng Hoảng Và Suy Thoái.
Theo kinh tế học vó mô thì suy thoái kinh tế (recessionl, economic
downturn) là sự suy giảm của tổng sản phẩm quốc nội thực trong thời gian
hai quý hoặc hơn hai quý liên tiếp trong năm ( nói cách khác là tốc độ tăng
trưởng kinh tế âm liên tục trong hai quý). Tuy nhiên đònh nghóa này không
được chấp nhận rộng rãi. Cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia (NBER) của
Hoa Kỳ đưa ra đònh nghóa về suy thoái kinh tế còn mập mờ hơn “là sự tụt

giảm hoạt động kinh tế trên cả nước, kéo dài nhiều tháng”. Suy thoái kinh
tế có thể liên quan sự suy giảm đồng thời của các chỉ số kinh tế của toàn bộ
hoạt động kinh tế như việc làm, đầu tư, và lợi nhuận doanh nghiệp.các thời
kỳ suy thoái kinh tế có thể đi liền với hạ giá cả ( giảm phát), hoặc ngược lại
tăng nhanh giá cả (lạm phát) trong thời kỳ đình lạm.
Một sự suy thoái trầm trọng và lâu dài được gọi là khủng hoảng kinh tế.
Dựa trên đặc điểm cũng như khái niệm đưa ra người ta phân biệt giữa
khủng hoảng kinh tế và suy thoái kinh tế. Nhìn từ góc độ đònh nghóa và đặc
điểm thì ta có thể thấy rằng:
Cả hai đều phản ánh một trạng thái chung của nền kinh tế đó là sự đình
đốn sản xuất trong nền kinh tế trong một khoảng thời gian và đều dẫn đến
những hậu quả về mặt xã hội. Tuy nhiên giữa khủng hoảng kinh tế và suy
thoái kinh tế có một sự phân biệt đó là thời gian diễn ra và phục hồi khác
nhau. Theo đó thì, khủng hoảng kinh tế kéo dài trong một thời gian dài hơn
Nhóm thực hiện: TCDN12 - 2 -
Khủng Hoảng Kinh Tế Đông - Bài Học Cho Kinh Tế Việt Nam
và gây hậu quả nghiêm trọng hơn, còn suy thoái thì có thể là sự suy giảm
trong sản xuất tạm thời trong một giai đoạn ngắn hơn. Tuy nhiên, thực tế thì
sự phân biệt này không phải lúc nào cũng rõ ràng. Khi nền kinh tế có dấu
hiệu suy thoái, sản xuất bắt đầu đình trệ thì như vậy nguy cơ của một cuộc
khủng hoảng kinh tế sẽ diễn ra. Một khi nền kinh tế lâm vào tình trạng khó
khăn có thể dẫn đến hậu quả là sản xuất của một số ngành bò giảm sút, làm
cho mặt hàng này trở nên khan hiếm và bắt đầu cho một cuộc khủng hoảng
thiếu. Hay khi nền kinh tế có dấu hiệu khó khăn thì tiêu dùng một mặt hàng
lại giảm, điều này dẫn đến lượng hàng hoá trở nên dư thừa và nguy cơ dẫn
đến một cuộc khủng hoảng thừa hay giảm phát. Rõ ràng khó có thể phân
biệt một cách minh bạch giữa khủng hoảng và suy thoái, cũng như nhận
đònh chính xác nền kinh tế đang ở giai đoạn suy thoái hay trong thời kỳ
khủng hoảng.
Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm của khủng hoảng kinh tế, thì chúng ta có

thể dễ dàng nhận thấy rằng khủng hoảng kinh tế có những dấu hiệu sau:
 Sự yếu kém của hệ thống tài chính trong điều hành nền kinh tế
 Lạm phát tăng nhanh hơn so với tốc độ tăng trưởng danh nghóa của nền
kinh tế ( hay tốc độ tăng trưởng kinh tế thực âm) trong hơn 2 quý trong một
năm kinh tế.
 Tình trạng phát triển bong bóng của thò trường bất động sản.
 Sự sụt giảm liên tục của thò trường chứng khoán.
Khủng hoảng kinh thể chia ra làm nhiều dạng khác nhau. Xét về một cuộc
khủng hoảng tài chính thì: khủng hoảng tài chính là sự that bại của một hay
một số nhân tố trong nền kinh tế trong việc đáp ứng nay đủ nghóa vụ, bổn
phận tài chính của mình. Dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng tài chính:
• Các nhtm không hoàn trả được các khản tiền gửi của người gửi tiền.
• Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng loại A cũng không thể
hoàn trả các khoản vay cho ngân hàng.
• Chính phủ từ bỏ tỷ giá hối đoái cố đònh.
Để có thể hiểu thêm về khủng hoảng, chúng ta đi vào tìm hiểu và phân tích
cuộc khủng hoảng tài chính Châu năm 1997.
Nhóm thực hiện: TCDN12 - 3 -
Khủng Hoảng Kinh Tế Đông - Bài Học Cho Kinh Tế Việt Nam
II. CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ TÀI CHÍNH 1997.
1.Tình hình chung của cuộc khủng hoảng.
Từ tháng 7/1997 đến tháng 12/1997, đánh dấu một loạt các biến cố ở khu
vực đông á. Đầu tiên là việc một loạt đồng tiền của các nước thuộc khu vực
Đông như: Thái Lan, Philipines, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc lần lượt
bò mất giá nhanh chưa từng có, điều này đã khiến các nước này buộc phải
thả nổi tỷ giá. Và tất cả được chân ngòi bằng việc Thái Lan tuyên bố thả
nổi đồng Baht vào ngày 2/7/1997 chấm dứt một thời kỳ dài duy trì tỷ giá cố
đònh.
Tỷ giá bình quân năm 1996 và 1997
Nước

Tỷ giá
1996 1997
Thái lan Baht/USD
25,6
1
47,25
Philipine
s
Peso/USD
26,2
9
39,5
Malaysia
Ringgit/US
D
2,52 3,88
Indonesia Rupiah/USD
2.30
8
5.400
Hàn quốc Won/USD
844,
2
695,8
Liền sau đó là sự thua lỗ và phá sản hàng loạt hệ thống ngân hàng, tài
chính quốc gia với quy mô lớn và tốc độ khá nhanh.
Nhóm thực hiện: TCDN12 - 4 -
Khủng Hoảng Kinh Tế Đông - Bài Học Cho Kinh Tế Việt Nam
Tình trạng thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng, tài chính
Nước

Năm tài
chính
(01/04/1
996 -
31/03/19
97) tổng
số ngân
hàng
Năm tài chính 01/04/1997 - 31/03/1998
Số
ngân
hàng
bò đình
chỉ
hoạt
động
Số
ngân
hàng bò
quốc
hữu
hoá(chí
nh phủ
giám
sát)
Số
ngân
hàng
bò sáp
nhập

Số
ngân
hàng bò
bán cho
công ty
nước
ngoài
Tổng
số
ngân
hàng
“có
vấn
đề”
Thái Lan 108 56 - - 4
64
(59%)
Malaysia 60 - - 41 -
41
(68%)
Indonesi
a 228 16 56 11 -
83
(36%)
Hàn
Quốc 56 16 - - -
18
(32%)
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chòu nổi sức ép quá lớn về tình hình
tài chính lần lượt phá sản và thua lỗ cũng giống như hệ thống ngân hàng và

các công ty tài chính.
Tình trạng thua lỗ và phá sản của các doanh nghiệp
Nước Thời gian Số doanh nghiệp phá sản
Thái Lan tháng
01/1998
đến
đ05/1998
3.961 doanh nghiệp ngừng hoạt đđộng, trong đó có
582 phá sản
Malaysia Năm
1996.
489 doanh nghiệp phá sản
Nhóm thực hiện: TCDN12 - 5 -
Khủng Hoảng Kinh Tế Đông - Bài Học Cho Kinh Tế Việt Nam
Năm
1997
6.583 doanh nghiệp phá sản (gấp 13,46 lần so với
năm 1996)
Indonesi
a
Năm
1998 khoảng 80% doanh nghiệp ngưng hoạt đđộng
Hàn
Quốc
Năm
1997 14.000 doanh nghiệp phá sản
Năm
1998 53.000 doanh nghiệp phá sản (gấp 3,8 lần năm 1997 )
Sự phá sản của các ngân hàng, các công ty tài chính và các doanh nghiệp
đã tác động rất lớn đến nền kinh tế và kéo theo hậu quả là that nghiệp gia

tăng nhanh chóng và tốc độ tăng trưởng kinh tế bò giảm sút.
Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp khi khủng hoảng kinh tế tài chính

Tăng trưởng kinh tế (%) Tỷ lệ thất nghiệp (%)
1996 1997 1998 1996 1997 7.1998
Thái Lan 6,7 -0,4 -8,3 - - -
Malaysia 8,2 7,0 2,0 - - -
Indonesia 7,8 4,6
-
13,7 - - -
Philippines 5,8 5,2 -0,5 9,5 10,4 3,3
Hàn Quốc 7,1 5,5 -5,8 2,3 2,5 8,0
Trên đây là những đặc điểm chung nhất của các nước khi phải đối mặt với
tình trạng khủng hoảng. Bên cạnh đó còn có các chỉ số khác như: chỉ số lạm
phát, dòng vốn thuần, nợ nước ngoài, lãi suất cho vay,…
Nhóm thực hiện: TCDN12 - 6 -
Khủng Hoảng Kinh Tế Đông - Bài Học Cho Kinh Tế Việt Nam
 DIỄN BIẾN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG
Thái lan.
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng với tốc độ bình quân
hàng năm là 9%. Cuối năm 1996, báo cáo triển vọng kinh tế thế giới của
IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng
kinh tế có thể không giữ được lâu. Cuối năm 1996, thò trường chứng khoán
Thái Lan bắt đầu có sựu điều chỉnh. Cả mức vốn hoá thò trường lẫn chỉ số
thò trường chứng khoán đều giảm đi.
Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng Baht thái bò tấn công
đầu cơ quy mô lớn. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan Chavalit
Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không phá giá đồng Baht, song lại thả nổi đồng
Baht vào ngày 2 tháng 7. Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1
năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 Baht mới đổi được 1 Dollar Mỹ. Chỉ số

thò trường chứng khoán Thái Lan đã tụt tư ømức 1280 cuối năm 1995 xuống
còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hoá thò trøng vốn giảm từ
141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ usd. Finance One, công ty tài chính lớn
nhất Thái Lan bò phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một
gói cứu trợ trí giá 16 tỷ Dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngà 20 tháng 8, IMF thông
qua một gói cứu trợ nữa trò giá 3,9 tỷ Dollar.
Philipines
Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung
ương Philipines đã cố gắng can thiệp vào thò trường ngoại hối để bảo vệ
đồng Peso bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ
15% lên 24%. Đồng Peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 Peso ăn 1 Dollar
xuống còn 38 Peso ăn một Dollar vào năm 2000 và còn 40 vào cuối khủng
hoảng.
Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trò liên
quan tới các vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng
chính trò, vào năm 2001, chỉ số tổng hợp PSE của thò trường chứng khoán
Nhóm thực hiện: TCDN12 - 7 -
Khủng Hoảng Kinh Tế Đông - Bài Học Cho Kinh Tế Việt Nam
Philipines giảm xuống còn khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000
điểm hồi năm 1997. nó kéo theo việc đồng Peso thêm mất giá.
Giá trò đồng Peso chỉ đựơc phục hồi từ khi Gloria Macapagal Arroyo lên
làm tổng thống.
Hong Kong
Tháng 10 năm 1997, Dollar Hong Kong bò tấn công đầu cơ. Đồng tiền này
vốn đựơc neo vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm
phát ở Hong Kong lại cao hơn ở Mỹ. Nay là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn
công. Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó
tương đương 700% lượng cung tiền M1 hay 45% lượng cung tiền M3, nên cơ
quan tiền tệ Hong Kong đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của
mình. Các thò trường chứng khoán ngày càng trở nên đổ vỡ. Từ ngày 20

tháng 10 đến 23 tháng 10, chỉ số Hang Seng đã giảm 23%. Ngày 15 tháng 8
năm 1998, Hong Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành 23%
và ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời, cơ quan tiền tệ Hong Kong
các loại cổ phiếu thành phần của chỉ số Hang Seng dể giảm áp lực giảm giá
cổ phiếu. Cơ quan này và ông Donald Tsang, lúc đó là bộ trưởng tài chính
và sau này làm trưởng đặc khu hành chính Hong Kong, đã công khai tuyên
chiến với giới đầu cơ. Chính quyền đã mua vào khoảng120 tỷ Dollar Hong
Kong ( tương đương 15 tỷ Dollar Mỹ) các loại chứng khoán. Và sau đó vào
năm 2001, chính quyền đã bán ra số chứng khoán này và thu lời khoản 30
tỷ Dollar Hong Kong ( khoảng 4 tỷ Dollar Mỹ).
Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hong Kong của nước này đã ngừng
lại vào tháng 9 năm 1998, chủ yếu là do các nhà đầu cơ đã bò thiệt hại bởi
chính sách điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia và bởi sự
sụp đổ của thò trường trái phiếu và tiền tệ ở Nga.
Tỷ giá giữa Dollar Hong Kong và Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức
7,8:1.
Hàn Quốc
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh
nặng nợ nước ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn
ngân hàng trong nước lại nợ ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã
Nhóm thực hiện: TCDN12 - 8 -
Khủng Hoảng Kinh Tế Đông - Bài Học Cho Kinh Tế Việt Nam
xảy ra.khi thò trường Châu bò khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bán
chứng khoán Hàn Quốc ở quy mô lớn. Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức
tín dụng Moody đã hạ hàn quốc từ A1 xuống A3 sau đó vào ngày 11 tháng
12 lại hạ tiếp xuống B2. điều này góp phần làm cho giá chứng khoán Hàn
Quốc thêm giảm giá. Riêng trong ngày 7 tháng 11 thò trường chứng khoán
Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn
Quốc phải áp dụng các chính sách khắc khổ.
Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/ USD từ

mức 1000 KRW/USD.
Malaysia
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht( ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng
Ringgit của Malaysia và thò trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bò
sức ép giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar mỹ
xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là
từ việc buôn bán đồng tiền này trên thò trường tiền này trên thò trường nước
ngoài. Những người tham gia thò trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng
Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sự giảm giá
của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của
Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng
vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý 2 và quý 3 năm 1997.
Indonesia
Tháng 7 khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của
Indonesia đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và
Dollar mỹ từ 8% lên%. Tháng 8, đồng Rupiah bò giới đầu cơ tấn công và
đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý đựơc thay thế
bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu
xếp một gói viện trợ tài chính khan cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar,
nhưng Rupiah liên tục mất giá do đồng rupiah bò bán ra ồ ạt và lượng cầu
Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thò
trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lòch sử.
Ruphiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty
Indonesia, đặc biệt làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty
Nhóm thực hiện: TCDN12 - 9 -

×