Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Khủng hoảng nợ công Châu Âu và bài học cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.5 KB, 32 trang )

Khủng hoảng nợ công châu Âu và bài học cho Việt Nam
Phần I: Khái quát lý thuyết
1. Nợ công theo các quan điểm
WB IMF Việt Nam
Nợ của Chính phủ:
- Nợ của Chính phủ trung
ương và các Bộ, ban, ngành
trung ương
- Nợ của các cấp chính
quyền địa phương
- Nợ của Ngân hàng trung
ương
Nợ của các DN Nhà nước
Nợ của khu vực tài chính
công:
- Tổ chức tiền tệ (NHTW,
các tổ chức tín dụng nhà
Nước)
- Tổ chức phi tiền tệ (hỗ trợ
phát triển)
- Nợ của Chính phủ: Các
khoản nợ được ký kết, phát
hành nhân danh Nhà nước
hoặc Chính phủ, Bộ Tài
chính. Không bao gồm các
khoản nợ do NHTW phát
hành nhằm bảo đảm mục
tiêu chính sách tiền tệ từng
thời kỳ.
- Nợ chính quyền địa
phương: các khoản nợ do


UBND cấp tỉnh – tp trực
thuộc TW ký kết, phát hành.
Nợ của Chính phủ bảo lãnh:
- Nợ trong nước và ngoài
nước của các khu vực tư
nhân do Chính phủ bảo lãnh
Nợ của khu vực phi tài
chính công: Chính phủ,
chính quyền địa phương, các
DN phi tài chính Nhà nước
Nợ của Chính phủ bảo lãnh:
- Nợ trong nước và ngoài
nước của các DN, tổ chức
kinh tế trong và ngoài nước,
do Chính phủ bảo lãnh
Khái niệm về nợ công theo quy định của pháp luật Việt Nam được đánh giá là hẹp
hơn so với thông lệ quốc tế:
- Không tính các khoản nợ của DN nhà nước, mặc dù các DN nhà nước hoạt động
theo mô hình cty TNHH hoặc cty Cổ phần, tuy nhiên trong trường hợp các cty này dừng
hoạt động hoặc không có khả năng trả nợ, Nhà nước có thể vẫn phải chịu trách nhiệm trả
các khoản nợ do áp lực từ uy tín chính trị.
- Không tính các khoản nợ của NHTW.
2. Phân loại nợ công
- Căn cứ theo kỳ hạn nợ: nợ ngắn hạn (kỳ hạn dưới 1 năm) và nợ trung và dài hạn
(kỳ hạn trên 1 năm).
- Căn cứ theo vị trí địa lý: nợ trong nước và nợ nước ngoài.
- Căn cứ theo nghĩa vụ trả nợ: nợ trực tiếp và nợ dự phòng.
- Căn cứ theo lãi suất cho vay: lãi suất cố định và lãi suất thả nổi.
- Căn cứ theo loại tiền vay: nợ bằng đồng nội tệ và nợ bằng đồng ngoại tệ.
3. Vai trò của nợ công:

Thứ nhất, đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư, đảm bảo an sinh xã hội.
Thứ hai, góp phần tài trợ thâm hụt NSNN.
Thứ ba, góp phần tạo ra công cụ để điều hành chính sách tiền tệ và điều tiết thị
trường tài chính.
Thứ tư, góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công:
Thâm hụt ngân sách: nguồn gốc của nợ công
Lãi suất thực tế.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tỷ giá thực tế.
5. Các hình thức nợ công
Vay nợ trong nước của chính phủ: bằng việc phát hành tín phiếu kho bạc, trái phiếu
CP, trái phiếu chính phủ được bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương, công trái.
Vay nợ nước ngoài:
- Viện trợ phát triển chính thức (ODA): viện trợ song phương và đa phương, viện
trợ không hoàn lại.
- Vay thương mại.
- Vay ưu đãi.
6. An toàn nợ công:
Sự cần thiết phải đảm bảo an toàn nợ công:
- Nợ công quá mức có thể tác động tiêu cực đến sự tăng trưởng kinh tế và ổn định
môi trường kinh tế vĩ mô.
- Nợ công quá mức tạo áp lực lên lạm phát.
- Nợ công tác động tiêu cực đến tỷ giá và thâm hụt thương mại.
- Nợ công quá lớn tiềm ẩn gây ra cuộc khủng hoảng nợ.
- Tăng gánh nặng nợ công cho thế hệ tương lai.
Một số chỉ tiêu an toàn nợ công:
Chỉ tiêu Quy định của TTCP Khuyến cáo của WB
1. Nợ công/GDP Chưa có <60%
Nợ chính phủ/GDP <50%

Nợ chính phủ bảo lãnh/GDP
Nợ chính quyền địa phương/GDP
2. Nợ nước ngoài của quốc gia/GDP <50% <50%
3. Dự trữ ngoại hối so với nợ nước ngoài
ngắn hạn
Chưa có >200%
4. Nghĩa vụ trả nợ CP/thu NSNN <30% <35%
5. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài/XK <20% <25%
Phần II: Khủng hoảng nợ công Châu Âu
Liên minh châu Âu hay Liên hiệp châu Âu (European Union), viết tắt là EU, là một
liên minh kinh tế chính trị bao gồm 28 quốc gia thành viên

thuộc Châu Âu. Liên minh
châu Âu được thành lập bởi Hiệp ước Maastricht vào ngày 1 tháng 11 năm 1993 dựa
trên Cộng đồng châu Âu (EC).

Với hơn 500 triệu dân,Liên minh châu Âu chiếm 30%
(18,4 nghìn tỉ USD năm 2008) GDP danh nghĩa và khoảng 22% (15,2 nghìn tỉ USD năm
2008) GDP sức mua tương đương của thế giới.
Liên minh châu Âu đã phát triển một thị trường chung thông qua hệ thống luật
pháp tiêu chuẩn áp dụng cho tất cả các nước thành viên nhằm đảm bảo sự lưu thông tự do
của con người, hàng hóa, dịch vụ và vốn. EU duy trì các chính sách chung về thương
mại,nông nghiệp, ngư nghiệp và phát triển địa phương. Đồng Euro được phát hành ở 12
quốc gia thành viên từ 1/1/2012, tạo nên khu vực đồng Euro (Eurozone). Đến đầu năm
2010 đã có 16 nước thành viên tham gia và hiện nay có 18 nước thành viên tham gia khu
vực đồng tiền chung này.
Bản đồ LM Châu Âu
Trong phần trình bày về khủng hoảng nợ công châu Âu, các số liệu được lấy trên
cơ sở dữ liệu online của Eurostat.
1. Khủng hoảng nợ công châu Âu:

Sau cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 tạm lắng, tài chính thế giới tiếp tục
nhức nhối với khủng hoảng nợ tại châu Âu và sự mất giá mạnh của đồng Euro. Một vài số
liệu báo cáo đầu năm 2010 của Eurostat về tình hình kinh tế - tài chính của các nước EU:
Ước tính thâm hụt ngân sách của các quốc gia trong liên minh châu Âu năm 2009
Ước tính nợ công trên GDP của các quốc gia trong Liên minh châu Âu năm 2009
Tăng trưởng kinh tế châu Âu quý I/2010
Theo các tiêu chuẩn của EU, tỷ lệ nợ công tối đa đối với một quốc gia thành viên
của khối sử dụng đồng Euro là 60% GDP trong khi thâm hụt ngân sách hàng năm không
được vượt quá 3%. Tuy nhiên, trên thực tế, tại thời điểm đầu năm 2010, chỉ có 3 trong số
16 quốc gia thuộc khu vực đồng tiền chung đáp ứng đầy đủ những tiêu chí này là Phần
Lan, Luxembourg và Slovakia. Chính sự vượt rào “tập thể” này là một nguyên nhân quan
trọng khiến châu Âu tiềm ẩn khả năng rơi vào khủng hoảng nợ công. Trong đó tình hình
tài chính của chính phủ Hy Lạp là nguy hiểm nhất.
Hy Lạp được đặt vào tình trạng khủng hoảng nợ công kể từ cuối năm 2009, khi
Chính phủ mới của nước này thừa nhận rằng Chính phủ tiền nhiệm đã công bố những số
liệu kinh tế không trung thực, đặc biệt là về thâm hụt ngân sách. Thực tế thâm hụt ngân
sách của nước này năm 2009 được dự báo là 13,6% chứ không phải là 6,7% GDP như đã
từng được báo cáo, cao hơn nhiều hạn mức thâm hụt ngân sách 3% GDP cho phép đối với
các nước thành viên EU. Nợ công của nhà nước đã tới ngưỡng gần 300 tỷ Euro, tương
đương 125% GDP, chiếm khoảng 4% tổng nợ của khu vực đồng tiền chung. Với mức vay
nợ như trên, Hy Lạp phải đối mặt với khoản nợ đến hạn thanh toán 8,5 tỷ Euro trái phiếu
chính phủ vào ngày 19/5/2010. Hầu hết các khoản nợ của Hy Lạp là ngắn hạn, trong đó,
số nợ phải trả năm 2010 là 16% tổng nợ.
Tháng 5/2010, các nhà lãnh đạo Eurozone và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) công bố
gói cứu trợ kỳ hạn 3 năm trị giá 110 tỷ EUR dành cho Hy Lạp. Sau đó, vào tháng 10/2010
IMF cho Hy Lạp vay thêm 2,5 tỷ EUR (3,3 tỷ USD), nâng tổng giá trị các khoản vay
khẩn cấp mà IMF dành để ngăn chặn khả năng vỡ nợ của nước này lên 10,58 tỷ EUR
(tương đương 13,98 tỷ USD). Từ tháng 5/2010 và 6/2011, Ngân hàng Trung ương Châu
Âu đã mua khoảng 45 tỷ EUR trái phiếu chính phủ Hy Lạp. Ngoài ra, các khoản hỗ trợ
thanh khoản mà ECB dành cho các ngân hàng Hy Lạp đã tăng từ mức 47 tỷ EUR vào

tháng 1/2010 lên mức 98 tỷ EUR vào tháng 5/2011. Đổi lại, chính phủ Hy Lạp phải đáp
ứng những cam kết cắt giảm nợ trong vòng 3 năm tới và thực hiện các biện pháp thắt lưng
buộc bụng.
Nằm trong kế hoạch thắt lưng buộc bụng nhằm nhận được gói cứu trợ, chính phủ
Hy Lạp đã phê chuẩn một kế hoạch cắt giảm chi tiêu bao gồm: cắt giảm ngân sách giành
cho y tế, quốc phòng, tăng thuế; lãnh đạo Hy Lạp tuyên bố một chính sách lương thưởng
hà khắc đối với khối dịch vụ công: cắt giảm lương của khu vực công và cắt giảm lương
hưu, với mục tiêu cắt giảm quỹ lương khoảng 4%. Những biện pháp thắt lưng buộc bụng
khó khăn này đã gặp phải sự phản ứng giận dữ của người dân khi mà có tới 1/3 lực lượng
lao động thuộc khu vực nhà nước. Các nhà phân tích cho rằng, các cuộc biểu tình có thể là
tín hiệu khởi đầu cho một xã hội bất ổn. Nó có thể làm tê liệt và đẩy nền kinh tế lún sâu
vào suy thoái. Hy Lạp đã tăng thuế VAT từ 21% lên 23%, giữ nguyên tiền lương và bỏ tiền
thưởng của khu vực công. Hy Lạp hy vọng những cải cách kinh tế sẽ giúp thâm hụt ngân
sách giảm xuống còn 8,1% trong năm 2010. Theo quy định của EU, các nước nên giới hạn
thâm hụt ngân sách không quá 3% GDP nếu không muốn bị trừng phạt. Hy Lạp dự kiến sẽ
cắt giảm thâm hụt ngân sách xuống còn 4,9% vào năm 2013 và xuống dưới mức giới hạn
của EU vào năm 2014.
Hy Lạp
Năm
GDP giá
thực tế
Tốc độ
tăng
trưởng
GDP
Nợ công/GDP
Thâm
hụt
NS
200

4
185.265,60 4,4 98,6 -7,4
200
5
193.049,70 2,3 100 -5,6
200
6
208.621,80 5,5 106,1 -6
200
7
223.160,10 3,5 107,4 -6,8
200
8
233.197,70 -0,2 112,9 -9,9
200
9
231.081,20 -3,1 129,7 -15,6
201
0
222.151,50 -4,9 148,3 -10,9
2011 208.531,70 -7,1 170,3 -9,6
201
2
193.347,00 -7 157,2 -8,9
201
3
182.054,20 -3,9 175,1 -12,7
Bảng 1: Số liệu GDP theo giá hiện hành (triệu Euro), tốc độ tăng trưởng (%), tỷ lệ nợ công/GDP
(%), thâm hụt ngân sách (%) từ 2004-2013 của Hy Lạp (theo thống kê của Eurostat – số liệu
2014)

Cuối năm 2010, đến lượt Ireland rơi vào vòng xoáy của khủng hoảng nợ châu Âu.
Ireland vốn là một quốc gia luôn duy trì thặng dư ngân sách và tình hình quản lý nợ công
khá ổn định cho đến trước khủng hoảng tài chính thế giới 2008 xảy ra. Tuy nhiên nguyên
nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công ở Ireland lại nằm ở hệ thống ngân hàng của các quốc
gia này, khi xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu, bong bóng bất động sản vỡ khiến giá
trị bất động sản Ireland sụt giảm 47% trong giai đoạn từ tháng 9-2007 đến tháng 12-2011.
Giá trị tài sản thế chấp giảm, ngân hàng không thu hồi được nợ, dẫn đến hệ quả các ngân
hàng lớn chịu thua lỗ, kéo toàn bộ nền kinh tế rơi vào khủng hoảng từ năm 2008. Để tránh
sụp đổ hệ thống ngân hành, chính phủ Ireland buộc phải cứu trợ ngành ngân hàng dưới
các hình thức quốc hữu hóa ngân hàng hoặc bơm tiền tái cấp vốn cho một số ngân hàng
khác. Nợ xấu từ khu vực ngân hàng tạo thành gánh nặng nợ nần của chính phủ, nợ tư
chuyển hóa thành nợ công: năm 2009 tỷ lệ nợ xấu ngân hàng là 9% GDP; năm 2010 là
8,6% và năm 2011 là 9,2%.
Ireland
Năm
GDP giá
thực tế
Tốc độ
tăng
trưởng
GDP
Nợ công/GDP
Thâm
hụt
NS
200
4 150.024,5 4,2 29,4 1,4
200
5 162.896,8 6,1 27,2 1,6
200

6 177.573,5 5,5 24,6 2,9
200
7 189.654,7 5 24,9 0,2
200
8 180.249,5 -2,2 44,2 -7,4
200
9 162.283,5 -6,4 64,4 -13,7
201
0 158.096,7 -1,1 91,2 -30,6
2011 162.599,7 2,2 104,1 -13,1
201
2 163.938,7 0,2 117,4 -8,2
201
3 164.049,8 0,3 123,7 -7,2
Bảng 2: Số liệu GDP theo giá hiện hành (triệu Euro), tốc độ tăng trưởng (%), tỷ lệ nợ công/GDP
(%), thâm hụt ngân sách (%) từ 2004-2013 của Ireland (theo thống kê của Eurostat – số liệu 2014)
Chính phủ Ireland đã phải cần đến sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế. Sau nhiều
vòng đàm phán, ngày 28-11-2010, Ireland đã nhận được gói hỗ trợ tài chính của “bộ ba”
(gồm Liên hiệp châu Âu – EU, Ngân hàng Trung ương châu Âu - ECB, Quỹ tiền tệ quốc
tế - IMF) lên tới 85 tỷ euro (117 tỷ USD), trong đó 35 tỷ euro được dành cho khu vực
ngân hàng.
Tiếp sau Hy Lạp và Ireland, đến lượt Bồ Đào Nha lâm vào khủng hoảng. Bồ Đào
Nha là nền kinh tế có sức cạnh tranh yếu nhất trong Eurozone. Tăng trưởng của Bồ Đào
Nha chỉ đạt mức trung bình 1,3% trong giai đoạn 2000 - 2008 (so với mức 4 - 5% của Hy
Lạp và Ireland) nhưng lại phải chi trả phúc lợi cho người dân tương đương với mức của
các nước châu Âu giàu có, tăng trưởng cao. Năm 2011, tổng nợ của Bồ Đào Nha tương
đương 170% GDP (bao gồm cả nợ tư nhân), cao hơn cả Hy Lạp, gây áp lực lên hệ thống
ngân hàng. Bên cạnh đó, bất ổn chính trị lại xảy ra khi ngày 24-3-2011, Chính phủ Bồ
Đào Nha sụp đổ khi Thủ tướng Jose Socrates quyết định từ chức ngay sau khi kế hoạch
“thắt lưng buộc bụng” mới của ông bị Quốc hội bác bỏ. Năm ngoái, ông Socrates đã

thuyết phục được Quốc hội thông qua 3 kế hoạch cắt giảm chi tiêu liên tiếp. Tuy nhiên, kế
hoạch cắt giảm chi tiêu thứ 4 của ông đã không giải tỏa được nỗi lo về nguy cơ Bồ Đào
Nha sẽ theo chân Hy Lạp và Ireland xin cứu trợ vỡ nợ từ EU. Các nhà phân tích cho rằng,
Quốc hội Bồ Đào Nha không còn tin vào tính hiệu quả của kế hoạch thắt chặt chi tiêu mới
do Thủ tướng Socrates đề xuất để tự cứu mình khỏi cuộc khủng hoảng nợ công. Các nghị
sĩ buộc phải tính tới việc phải kêu gọi sự cứu trợ từ bên ngoài vì không muốn phải chứng
kiến cơn thịnh nộ của người dân trên đường phố.
Tháng 5/2011, Bồ Đào Nha đạt được thỏa thuận với Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và
Liên minh châu Âu (EU), theo đó IMF-EU cam kết dành cho quốc gia ở bán đảo Iberia
gói cứu trợ khổng lồ 78 tỷ euro để tránh vỡ nợ. Nhưng đổi lại Lisbon phải thực hiện
chương trình cải cách kéo dài 3 năm với những biện pháp ngặt nghèo như giảm lương
của người lao động, cắt giảm các khoản phúc lợi và tăng mạnh thuế.
Bồ Đào Nha
Năm
GDP giá
thực tế
Tốc độ
tăng
trưởng
GDP
Nợ công/GDP
Thâm
hụt
NS
200
4 149.312,5 1,6 61,9 -4
200
5 154.268,7 0,8 67,7 -6,5
200
6 160.855,4 1,4 69,4 -4,6

200
7 169.319,2 2,4 68,4 -3,1
200
8 171.983,1 0 71,7 -3,6
200
9 168.529,2 -2,9 83,7 -10,2
201
0 172.859,5 1,9 94 -9,8
2011 171.126,2 -1,3 108,2 -4,3
201
2 165.107,4 -3,2 124,1 -6,4
201
3 165.666,3 -1,4 129 -4,9
Bảng 3: Số liệu GDP theo giá hiện hành (triệu Euro), tốc độ tăng trưởng (%), tỷ lệ nợ công/GDP
(%), thâm hụt ngân sách (%) từ 2004-2013 của Bồ Đào Nha (theo thống kê của Eurostat – số liệu
2014)
Quy mô nợ công của các nước châu Âu cuối năm 2011 (Nguồn Eurostat, Moody’s)
Không chỉ có các quốc gia có nền kinh tế nhỏ và vừa rơi vào vòng xoáy của khủng
hoảng nợ, Tây Ban Nhau và Italy, những nền kinh tế lớn của khu vực Eurozone cũng là
những quốc gia tiếp theo có nguy cơ rơi vào khủng hoảng nợ.
Tây Ban Nha – nền kinh tế lớn thứ 4 châu Âu bắt đầu có những dấu hiệu khủng
hoảng khi thâm hụt ngân sách nước ngày liên tục tăng từ năm 2008 đến nay. Cũng như
Ireland, khủng hoảng tài chính 2008 đã tác động mạnh đến hệ thống ngân hàng của nước
này. Ngành ngân hàng Tây Ban Nha chịu thua lỗ nặng do các khoản cho vay mua nhà đất
khi “bong bóng BĐS” bùng vỡ. Theo ước tính của Chính phủ Tây Ban Nha, số tiền dành
đầu tư cho các thành phố “ma” có giá trị lên tới 175 tỷ Euro và tháng 7 đến tháng 9 năm
2012, gần 30% doanh nghiệp phá sản thuộc ngành xây dựng. Nợ xấu của hệ thống ngân
hàng Tây Ban Nha theo đó đến tháng 9 năm 2012 đã lên đến 182,3 tỷ Euro, tương đương
10,7% dư nợ. Để cứu cánh cho giới ngân hàng, Chính phủ đã ra tay giải cứu các ngân
hàng có vấn đề trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.Việc Chính phủ ra tay cứu trợ

đã khiến nợ xấu từ khu vực tư nhân chuyển thành gánh nặng nợ nần của Chính phủ. Và
khi Chính phủ không thể gồng mình được nữa thì lại phải cầu viện EU và IMF. Như vậy,
cuộc khủng hoảng nợ công của Tây Ban Nha cũng bắt nguồn từ việc chính phủ không kịp
thời khống chế hành vi cho vay thiếu trách nhiệm của một số ngân hàng. Ngày
25/6/2012, Tây Ban Nha chính thức đệ đơn xin cứu trợ tài chính trị giá 100 tỷ euro (125
tỷ USD) từ Liên minh châu Âu (EU). Cũng trong thời điểm này lợi suất trái phiếu kỳ hạn
10 năm Tây Ban Nha lại vượt 7% - ngưỡng nguy hiểm từng khiến Hy Lạp, Ireland, Bồ
Đào Nha cần cứu trợ tài chính.
Tây Ban Nha
Năm
GDP giá
thực tế
Tốc độ
tăng
trưởng
GDP
Nợ công/GDP
Thâm
hụt
NS
200
4 841.294,0 3,3 46,3 -0,1
200
5 909.298,0 3,6 43,2 1,3
200
6 985.547,0 4,1 39,7 2,4
200
7 1.053.161,0 3,5 36,3 2
200
8 1.087.788,0 0,9 40,2 -4,5

200
9 1.046.894,0 -3,8 54 -11,1
201
0 1.045.620,0 -0,2 61,7 -9,6
2011 1.046.327,0 0,1 70,5 -9,6
201
2 1.029.002,0 -1,6 86 -10,6
201
3 1.022.988,0 -1,2 93,9 -7,1
Bảng 4: Số liệu GDP theo giá hiện hành (triệu Euro), tốc độ tăng trưởng (%), tỷ lệ nợ công/GDP
(%), thâm hụt ngân sách (%) từ 2004-2013 của Tây Ban Nha (theo thống kê của Eurostat – số
liệu 2014)
Italy – nền kinh tế lớn thứ 3 châu Âu cũng đang đắm chìm trong tình trạng nợ nần
từ nhiều năm nay. Khoản nợ mà nền kinh tế Italy phải gánh chịu là khoảng 1900 nghìn tỷ
(năm 2011). Trung bình hàng năm Italy phải trả 75 tỉ euro tiền lãi cho các chủ nợ, và phải
đi vay tín dụng với mức lãi suất rất cao, với mức vốn vay 10 năm, lãi suất lên tới 6,18%
(năm 2011). Bên cạnh những bất ổn về kinh tế, tình hình chính trị Italy cũng đang rơi vào
khủng hoảng khi chính trường Italy thay đổi đến 3 thủ tướng chỉ trong năm 2011. Chính
phủ Italy cũng buộc phải áp dụng các biện pháp thắt chặt chi tiêu, tăng thuế nhằm giảm
thâm hụt ngân sách.
Italy
Năm
GDP giá
thực tế
Tốc độ
tăng
trưởng
GDP
Nợ công/GDP
Thâm

hụt
NS
200
4 1.397.728,3 1,7 103,7 -3,5
200
5 1.436.379,5 0,9 105,7 -4,4
200
6 1.493.031,3 2,2 106,3 -3,4
200
7 1.554.198,9 1,7 103,3 -1,6
200
8 1.575.143,9 -1,2 106,1 -2,7
200
9 1.519.695,1 -5,5 116,4 -5,5
201
0 1.551.885,6 1,7 119,3 -4,5
2011 1.579.946,4 0,4 120,7 -3,7
201
2 1.566.911,6 -2,4 127 -3
201
3 1.560.023,8 -1,9 132,6 -3
Bảng 5: Số liệu GDP theo giá hiện hành (triệu Euro), tốc độ tăng trưởng (%), tỷ lệ nợ công/GDP
(%), thâm hụt ngân sách (%) từ 2004-2013 của Italy (theo thống kê của Eurostat – số liệu 2014)
2. Tình hình nợ công châu Âu hiện nay:
Hơn 4 năm kể từ khi khủng hoảng nợ công châu Âu xảy ra. Các quốc gia châu Âu
và các tổ chức quốc tế đã có nhiều biện pháp khắc phục tình hình, chủ yếu là các chính
sách thắt lưng buộc bụng khắc khổ để đáp ứng các điều kiện cứu trợ từ EU, ECB và IMF.
Nhưng cho đến nay, chỉ có tình hình của Ireland là tương đối khả quan, ngày 15/12/2013,
Ireland đã trở thành quốc gia đầu tiên trong Khu vực sử dụng đồng euro (Eurozone)
chính thức rời khỏi chương trình cứu trợ quốc tế do EU, ECB và IMF thực hiện. Nền

kinh tế Ireland đang từng bước phục hồi và tăng trưởng dương năm thứ 3 liên tiếp, tuy
chỉ khoảng 0,3% năm 2013 nhưng cũng là tín hiệu tích cực.
Bên cạnh các tín hiệu tích cực từ Ireland, nền kinh tế châu Âu nói chung vẫn đang
phải chịu những thiệt hại do các chính sách cắt giảm chi tiêu công gây ra, tỷ lệ thất
nghiệp vẫn ở mức cao (năm 2013 trong khu vực Eurozone là 12%, riêng Hy Lạp là
27,3% và Tây Ban Nha là 26,1%), chính sách kinh tế khắc khổ cũng chính là thủ phạm
chính tạo ra làn sóng phẫn nộ và làm khuynh đảo chính trường nhiều nước đang vay nợ
trong Eurozone hiện nay. Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Italy, Tây Ban Nha vẫn tiếp tục chìm
trong suy thoái. Nợ công của Hy Lạp đã vượt lên mức 175,1% GDP trong năm 2013 với
thâm hụt ngân sách 12,7% GDP mặc dù trước đó 2 năm, Chính phủ Hy Lạp đã hy vọng
cắt giảm thâm hụt ngân sách xuống còn 4,9% vào năm 2013. Italy mặc dù đã cắt giảm
được thâm hụt ngân sách về mức 3% nhưng mức nợ công đã lên một tầm cao mới với
132,9%. Đứng thứ 3 trong khu vực Eurozone về nợ công là Bồ Đào Nha cũng có những
thành công khi cắt giảm thâm hụt ngân sách, tuy nhiên nợ công vẫn tăng cao đến 129%
và những bất ổn chính trị ở nước này xoay quanh vấn đề tiếp tục các chính sách thắt lưng
buộc bụng để nhận cứu trợ vẫn tiềm ẩn khả năng đẩy Bồ Đào Nha rơi vào vòng xoáy luẩn
quẩn của khủng hoảng tài chính - chính trị - nợ công. Tây Ban Nha cũng có một số thành
công với chính sách thắt lưng buộc bụng khi cắt giảm thâm hụt ngân sách xuống còn
7,1% trong năm 2013, nhưng khiến cho tỷ lệ thất nghiệp ở nước này tăng lên rất cao, đặc
biệt là giới trẻ đã làm cho người dân hết sức bất mãn.
Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng của một số nước châu Âu
Biểu đồ 2: Thâm hụt ngân sách của một số nước châu Âu
Biểu đồ 3: Nợ công của một số nước châu Âu
Điểm sáng hiếm hoi trong bức tranh kinh tế châu Âu, chính là hai quốc gia đầu tàu
là Đức và Pháp, mặc dù mức nợ công cũng vượt ngưỡng tiêu chuẩn châu Âu nhưng nền
kinh tế của Đức và Pháp vẫn duy trì tăng trưởng dương trong 4 năm qua, đồng thời cũng
giảm dần mức thâm hụt ngân sách xuống ngưỡng an toàn. Tuy nhiên nội bộ châu Âu vẫn
đang chia rẽ và tiềm ẩn nhiều bất đồng giữa các quốc gia xoay quanh vấn đề vay nợ và
các biện pháp thắt chặt chi tiêu công.
3. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu:

Theo các chuyên gia thuộc Viện Kinh tế Quốc tế Peterson đã phân chia các quốc
gia có nợ công lớn nhất thuộc khối đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) thành 3 loại:
- Nhóm thứ nhất, có vấn đề về ngân sách trước khi bước vào khủng hoảng tài
chính toàn cầu 2008: Hy Lạp là trường hợp điển hình khi mức độ thâm hụt ngân sách liên
tục tăng trong khi các báo cáo tài chính công của nước này lại giấu diếm số liệu thực sự.
Ngoài ra, ngân sách quốc gia của Hy Lạp còn phải chịu gánh nặng từ những khoản đầu tư
công trước đó như khoản đầu tư khá mạnh cho Olympic Athens 2004.
- Nhóm thứ hai, không có vấn đề về ngân sách nhưng có nợ tư nhân khổng lồ.
Điển hình là Tây Ban Nha và Ireland. Hệ thống ngân hàng của các quốc gia này với cơ
chế cho vay thông thoáng và thiếu trách nhiệm đã gây ra khối lượng nợ xấu khổng lồ. Để
cứu các Ngân hàng, chính phủ các nước này buộc phải biến nợ tư thành nợ công, khiến
cho ngân sách bị thâm hụt nghiêm trọng.
- Nhóm thứ ba, có cả vấn đề về ngân sách và vấn đề về nợ tư nhân: điển hình là
Bồ Đào Nha. Tăng trưởng thấp nhưng thâm hụt ngân sách triền miên, tổng nợ (bao gồm
cả nợ công và nợ tư nhân) của quốc gia này lên đến 170% (năm 2011).
Việc phân nhóm này giúp chúng ta có thể nhìn nhận được nguyên nhân sâu xa
nhất của cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu, đó là khi mà cuộc khủng hoảng này diễn ra
sau một giai đoạn khá dài với cơ chế cho vay thông thoáng, tăng trưởng tín dụng ở mức
cao, phần lãi suất cho trích lập rủi ro thấp, dư thừa thanh khoản, đòn bẩy tài chính ở mức
cao, tăng giá tài sản và bong bóng ở khu vực bất động sản. Cụ thể hơn, nợ ở nhiều quốc
gia phát triển đã tăng mạnh trong thập kỷ 2000 - thời kỳ toàn cầu hóa ngành ngân hàng
và lãi suất (kể cả phần bù đắp cho trích lập rủi ro) thấp một cách bất thường. Một tác
động của khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 đã làm vỡ nhiều bong bóng bất động sản ở
các quốc gia trên thế giới, đẩy hệ thống Ngân hàng ở các quốc gia này vào tình trạng
khốn đốn.
Bên cạnh đó, còn có thể kể đến các nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ
công châu Âu là:
- Do chính sách tài khóa thiếu bền vững và sự mất cân đối trong việc vay nợ của
các quốc gia. Hầu hết các quốc gia trong LM châu Âu đều duy trì thâm hụt ngân sách
trong nhiều năm nhưng lại lơ là các cảnh báo của các tổ chức quốc tế về an toàn thâm hụt

ngân sách và nợ công, sự vượt rào tập thể đối với các tiêu chuẩn châu Âu về thâm hụt
ngân sách và mức trần nợ công. Ngoài ra, một số quốc gia có sự quản lý yếu kém, báo
cáo không trung thực về tình hình tài chính công của nước mình, gây mất lòng tin của các
nhà đầu tư.
- Sự hạn chế trong cơ chế phối hợp điều hành trong khu vực sử dụng đồng tiền
chung (Eurozone), nhất là giữa tiền tệ và tài khóa. Liên minh Châu Âu gồm nhiều quốc
gia có trình độ phát triển kinh tế và quản lý khác nhau, nhưng các quốc gia trong khu vực
lại chủ yếu hợp tác trong các chính sách tiền tệ, nhằm bảo đảm duy trì giá trị đồng Euro,
trong khi các chính sách tài khóa lại chưa có được một sự đồng thuận và hài hòa tương
ứng. Bên cạnh đó, mặc dù đã có những quy định cụ thể về mức thâm hụt ngân sách cũng
như nợ công, nhưng lại không có một cơ chế giám sát và quản lý hiệu quả đối với từng
quốc gia thành viên. Chính vì vậy, sự kiện khủng hoảng nợ tại một quốc gia là Hy Lạp đã
kéo theo khủng hoảng niềm tin lan sang các quốc gia có chính sách tài khóa lỏng lẻo
khác.
- Một nguyên nhân khác khiến cuộc khủng hoảng lan rộng và có nguy cơ trầm
trọng hơn chính là việc thiếu cơ chế phối hợp ứng phó giữa các quốc gia trong khu vực.
Hầu hết các quốc gia đều cố gắng thực hiện những chính sách của riêng mình và khi
không thể giải cứu được nền kinh tế mới nhờ đến sự viện trợ của EU và IMF, mà không
hề có những cảnh báo sớm với một chiến lược xử lý về dài hạn được đưa ra.
Bên cạnh những nguyên nhân xuất phát từ nội tại của khu vực này, còn có sự tác
động từ các tổ chức đánh giá tín dụng, các quỹ đầu cơ… làm trầm trọng hóa tình hình
khủng hoảng nợ công tại châu Âu, tuy nhiên trong nội dung bài tiểu luận, chúng ta không
đi sâu về vấn đề này.
Phần III: Bài học cho Việt Nam từ khủng hoảng nợ công châu Âu
1. Tình hình nợ công Việt Nam hiện nay:
Ở Việt Nam hiện nay, luật Quản lý nợ công được Quốc hội thông qua năm 2009 là
cơ sở pháp lý cho việc quản lý và tính toán nợ công. Cách tính nợ công của Việt Nam đã
được trình bày ở phần I.
Chỉ tiêu 2010 2011 2012
Nợ công so với tổng sản phẩm quốc dân

(GDP) (%)
56,3 54,9 55,7
Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP (%) 42,2 41,5 41,1
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung , dài hạn 3,4 3,5 3,5
của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ (%)
Dư nợ chính phủ so với GDP (%) 44,6 43,2 43,3
Dư nợ chính phủ so với thu ngận sách (%) 157,9 162,0 172,0
Nghĩa vụ trả nợ của chính phủ so với thu
NSNN (%)
17,6 15,6 14,6
Nghĩa vụ nợ dự phòng so với thu ngân sách
(%)
5,5 6,7 9,8
Hạn mức vay thương mại nước ngoài và bảo
lãnh vay nước ngoài của Chính phủ (triệu
USD )
2000,0 3500,0 3500,0
Bảng: Một số các chỉ tiêu nợ công của Việt Nam theo số liệu của Bộ Tài chính (MoF)
Năm 2013, ước tính nợ công của Việt Nam (theo cách tính của Bộ Tài chính) vào
khoảng 48%, số liệu nợ công này chưa bao gồm các khoản nợ của DN Nhà nước. Theo
Báo cáo số 490/BC-CP của Chính phủ gửi Quốc hội ngày 25/11/2013, tính đến
31/12/2012, nợ của các DNNN là 1.681,845 nghìn tỷ đồng, tương đương khoảng 52%
GDP của năm 2012. Nếu tính đúng theo thông lệ quốc tế, sau khi đã trừ đi các khoản nợ
của DNNN do chính phủ bảo lãnh (5,2% GDP trong nợ công nước ngoài và 6,5% GDP
trong nợ công trong nước) thì nợ công ở Việt Nam vào khoảng 96%, mức báo động đối
với một nền kinh tế còn yếu như Việt Nam.
Bên cạnh đó, thâm hụt ngân sách hàng năm của nước ta vẫn duy trì ở mức cao,
theo số liệu dự toán của Bộ Tài chính, thâm hụt ngân sách năm 2012 và 2013 là 4,8%,
năm 2014 là 5,3%.

Số liệu của 2003
200
4 2005
200
6 2007
200
8 2009
201
0
2
0
1
1
MoF (bao gồm chi
trả nợ gốc) -4,9 -4,9 -4,9 -5 -5,7 -4,6 -6,9 -5,5
-
4
,
4
MoF (không bao
gồm chi trả nợ
gốc) -1,8 -1,1 -0,9 -0,9 -1,8 -1,8 -3,7 -2,4
-
2
,
1
IMF -4,8 -1,2 -3,3 -0,2 -2,5 -0,5 -7,2 -5,3
-
2
,

5
ADB -2,2 0,2 -1,1 1,3 -1 0,7 -3,9 -4,5
-
2
,
5
Thâm hụt ngân sách của Việt Nam từ 2003-2011
2. Bài học cho Việt Nam từ khủng hoảng nợ công châu Âu:
Là một quốc gia đang phát triển, đang chuyển mình sang nền kinh tế thị trường,
Việt Nam vẫn phải dựa nhiều vào đầu tư công để thực hiện các mục tiêu phát triển. Thâm
hụt ngân sách liên tục trong một thời gian dài cũng làm gia tăng nợ công của quốc gia.
Đến ngày 31/12/2011, nợ công là 54,9% và ước tính năm 2012 nợ công là khoảng 55,4%
GDP cao hơn nhiều so với mức 36% GDP vào năm 2001 và 44% vào năm 2005. Theo
các số liệu báo cáo của Bộ Tài chính, vấn đề nợ công chưa đạt đến ngưỡng rất nghiêm
trọng như ở một số nước thành viên khu vực đồng Euro. Tuy vậy, cuộc khủng hoảng nợ
công châu Âu cũng phần nào có tác động trực tiếp và gián tiếp đến Việt Nam, do EU là
một đối tác kinh tế, thương mại và đầu tư quan trọng. Từ khủng hoảng nợ công châu Âu,
có thể rút ra cho Việt Nam những bài học sau.
2.1. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng:
Trong những năm vừa qua, mô hình tăng trưởng của Việt Nam còn dựa nhiều vào
đầu tư (đặc biệt là đầu tư công – chiếm khoảng 40% tổng đầu tư toàn xã hội), tỉ lệ đầu tư
luôn ở mức khá cao, khoảng 40-42% GDP, trong đó đầu tư trong nước là khoảng 27-30%,
còn lại là đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, hiệu quả mang lại từ đầu tư lại không cao. Hệ
số ICOR của Việt Nam cao hơn đáng kể so với các nước có cùng trình độ phát triển (luôn
ở mức 5,5 – 7,5 trong những năm gần đây). Chính vì vậy, lợi ích từ tăng trưởng và tăng
thu ngân sách chưa bù đắp được các chi phí liên quan đến gia tăng đầu tư công và nợ
công, ít nhất là trong ngắn hạn. Do đó nước ta cần quan tâm hơn đến việc chuyển đổi mô
hình tăng trưởng của mình từ “chiều rộng” sang “chiều sâu”, tư duy chính sách chuyển
dần sang hướng kiến tạo phát triển, hoàn thiện các thể chế hỗ trợ cho nền kinh tế, dư địa
chính sách cho đầu tư công sẽ không còn nhiều nữa và đầu tư công sẽ phải được thực

hiện hiệu quả hơn, qua đó giảm áp lực đối với nợ công.
2.2. Quản lý chi tiêu công và đầu tư công có hiệu quả để cắt giảm thâm hụt ngân
sách
Hiện nay, hoạt động chi tiêu công và đầu tư công của Việt Nam bị xem dàn trải,
lãng phí, kém hiệu quả. Trong khi chi tiêu công đang chịu gánh nặng bởi hệ thống hành
chính nặng nề thì số các đầu tư công kém hiệu quả, nạn tham nhũng, các dự án chậm tiến
độ làm tăng gánh nặng ngân sách cũng cũng là một vấn đề bức thiết. Siết chặt kỷ luật đầu
tư công và chi tiêu công sẽ làm giảm quy mô chi ngân sách cần thiết để đạt các mục tiêu
phát triển, qua đó giúp thâm hụt ngân sách và nợ công trở nên bền vững hơn. Nếu không
kiểm soát, ngay cả các nước phát triển ở khu vực đồng Euro còn rơi vào khủng hoảng, kể
cả khi được cứu trợ dưới nhiều hình thức. Trong điều kiện của Việt Nam, các biện pháp
cứu trợ như vậy sẽ không có nhiều và định hướng tốt là phải đề ra các biện pháp kiểm
soát chi ngân sách có hiệu quả thay vì tiếp tục duy trì cung cách chi tiêu công và đầu tư
công như hiện nay. Việc quản lý tốt hoạt động tài chính công sẽ làm tăng hiệu quả sử
dụng của đồng vốn ngân sách, từ đó mà vấn đề thâm hụt ngân sách cũng dần được cải
thiện.
2.3. Quản lý nợ công, thâm hụt ngân sách dựa theo theo tiêu chuẩn quốc tế
Như đã trình bày ở phần I, cách tính nợ công của Việt Nam vẫn còn hẹp hơn so
với quốc tế, đặc biệt là các khoản nợ của DNNN. Với một quốc gia có khu vực DNNN
lớn như của Việt Nam, nhưng hoạt động của khối này lại chưa thực sự hiệu quả thì khoản
nợ của khối DNNN cũng là một nguy cơ tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân sách Nhà nước.
Chỉ nói riêng trường hợp Vinashin cuối năm 2009 tổng số nợ đã là 86 ngàn tỉ đồng và khả
năng trả nợ là không có khi liên tiếp làm ăn thua lỗ, buộc Vinashin phải xin gia hạn nợ
trong năm 2010. Điều này khiến cho Việt Nam bị Standard & Poor’s hạ bậc tín nhiệm
xuống còn BB- (ngày 26/12/2010), tín nhiệm quốc gia giảm nghĩa là việc huy động vốn
trái phiếu Chính phủ trên thị trường quốc tế của Việt Nam sẽ tốn kém hơn, các nhà đầu tư
đòi hỏi mức lãi suất cao hơn. Bên cạnh đó, các chủ nợ quốc tế còn gây áp lực buộc chính
phủ Việt Nam phải trả nợ thay Vinashin.
Ngoài ra, Việt Nam hiện có những cách hạch toán chưa theo thông lệ quốc tế.
Nhiều khoản chi ngân sách từ nguồn trái phiếu Chính phủ cho các dự án giáo dục, thủy

lợi, y tế, v.v… được để ngoại bảng và không được tính đầy đủ vào thâm hụt ngân sách và
nợ công như thông lệ quốc tế. Sự thiếu nhất quán trong cách hạch toán tài khóa khiến cho
các con số thống kê không phản ánh chính xác về thực trạng nợ công của Việt Nam, gây
khó khăn cho việc kiểm chứng thông tin cho những người tham gia thị trường. Đồng thời
khiến cho việc so sánh quốc tế, đánh giá và quản lý rủi ro nợ công của Việt Nam gặp khó
khăn.
Số liệu của 2003
200
4 2005
200
6 2007
200
8 2009
201
0
2
0
1
1
MoF (bao gồm chi
trả nợ gốc) -4,9 -4,9 -4,9 -5 -5,7 -4,6 -6,9 -5,5
-
4
,
4
MoF (không bao
gồm chi trả nợ
gốc) -1,8 -1,1 -0,9 -0,9 -1,8 -1,8 -3,7 -2,4
-
2

,
1
IMF -4,8 -1,2 -3,3 -0,2 -2,5 -0,5 -7,2 -5,3
-
2
,
5
ADB -2,2 0,2 -1,1 1,3 -1 0,7 -3,9 -4,5
-
2
,
5
Thâm hụt ngân sách của Việt Nam từ 2003-2011
Việc xây dựng hệ thống tính toán nợ công, thâm hụt ngân sách và cách quản lý nợ
công còn kém hiệu quả, chưa sát với các tiêu chuẩn quốc tế nhưng chúng ta lại đang dựa
vào các tiêu chuẩn quốc tế để so sánh với các số liệu tính toán ở trong nước để tỏ ra lạc
quan là thiếu cơ sở và cần phải dũng cảm nhìn nhận những thực tế này. Do đó Nhà nước
cần có những thay đổi quan trọng trong vấn đề tính toán nợ công, thâm hụt ngân sách,
công khai minh bạch các số liệu về tình hình tài chính công để tạo điều kiện cho nhân dân
tham gia giám sát và góp ý việc sử dụng nguồn tài chính của đất nước.
2.4. Về quản lý kinh tế:
Đối với khu vực kinh tế nhà nước: như số liệu ở phần tình hình nợ công của Việt
Nam cho thấy tổng số nợ của khu vực này đã lên đến trên 50% GDP. Nếu không có biện
pháp quản lý, giám sát chặt chẽ các hoạt động kinh tế của khu vực này, khối nợ kia sẽ có
thể là quả bom hẹn giờ cho nền kinh tế. Các tập đoàn lớn của Việt Nam như Vinashin,
EVN nhiều năm liền thua lỗ và dù cho họ có bao biện như thế nào, việc được hưởng rất
nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi của Chính phủ nhưng vẫn kinh doanh thua lỗ đang thể
hiện sự thiếu trách nhiệm của các cấp quản lý từ Nhà nước cho đến các Doanh nghiệp.
Khả năng đe dọa nợ công của khu vực DNNN còn nằm ở chỗ khu vực này luôn nhận
được ngân sách “mềm” từ Chính phủ. Khi các DNNN lâm vào khó khăn, các khoản nợ

trong nước của các doanh nghiệp này thường được Chính phủ hỗ trợ dưới các hình thức
bổ sung vốn, khoanh nợ, giãn nợ, chuyển nợ, xóa nợ. Tất cả các hình thức ngân sách
mềm này cuối cùng đều sẽ khiến chi tiêu ngân sách tăng và với việc ngân sách nhà nước
liên tục thâm hụt. Để bù đắp phần chi tiêu ngân sách cho khu vực DNNN, Nhà nước sẽ
buộc phải phát hành trái phiếu, và như vậy, nợ công của quốc gia sẽ tăng. Việc tái cơ cấu
lại nền kinh tế, trong đó trọng tâm là tái cơ cấu các DNNN là vấn đề bức thiết nhất hiện
nay, nếu đẩy nhanh được tiến trình này cũng là đẩy nhanh được quá trình tham gia giám
sát, quản lý các DNNN từ khu vực tư nhân, nâng cao được chất lượng, hiệu quả hoạt
động của các DNNN, đồng thời đưa các DNNN trở thành khu vực kinh tế độc lập hơn,
năng động hơn, ít phụ thuộc vào Nhà nước hơn.
Đối với khu vực tài chính – ngân hàng: dựa trên sơ đồ sau đây, chúng ta có thể
ước lượng được tổng số nợ của Việt Nam bao gồm cả Chính phủ, DNNN và tư nhân vào
khoảng 181% GDP (năm 2011), tức là đã vượt hơn hẳn Bồ Đào Nha. Điều này sẽ gây áp
lực rất lớn đối với hệ thống ngân hàng trong nước. Và thực tế là sau một thời gian ngành
ngân hành phát triển rất “nóng”, trong vài năm trở lại đây đã bắt đầu xuất hiện những dấu
hiệu đáng lo ngại: nguồn vốn bị chôn chân ở các dự án Bất động sản, kinh tế suy thoái
khiến nhiều doanh nghiệp trong nước mất dần khả năng trả nợ… khiến nợ xấu tăng cao

×